Hành trình về nẻo giác
15/03/2016 | Lượt xem: 6
Danh mục: Sách phổ thông tổng hợp từ băng giảng
Tác giả: ĐĐ. Thích Khế Định
LỜI PHI LỘ
Đức Thế Tôn vì lòng bi mẫn thị hiện trong cõi Ta Bà cốt chỉ một điều duy nhất: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”. Phật tri kiến này chính là cái thấy của chính mình. Song để đến chỗ ngộ nhập Phật tri kiến đó thì không phải ngay một bước mà nhảy vào đất Như Lai như lời Thiền Sư Huyền Giác nói trong bài Chứng Đạo Ca, mà hành giả phải kinh qua lộ trình lột sạch hết mặt mày của bản ngã, để lồ lộ tánh uyên nguyên của tâm Phật. Người xưa tuy ngay một lời đốn dứt vô minh song các Ngài đều phải trải qua con đường tiệm tiến, như Thiền Sư Trường Khánh dụng công hai mươi năm ngồi rách bảy cái bồ đoàn, Thiền Sư Tuyết Phong tham học ba lần lên Động Sơn, bốn lần lên Đầu Tử mới rõ việc của chính mình.
Do đó khi dụng công tu học, xét thấy lý tuy đốn ngộ, sự cần tiệm tu cho nên trong quá trình giảng dạy tại các Đạo Tràng, chúng tôi đã cố gắng trình bày kết hợp cả sự và lý để người học có thể hiểu và ứng dụng được phần nào những lời chư Phật, chư Tổ chỉ dạy trong đời sống tu tập hàng ngày.
Từ những bài giảng này, một số Phật tử khi nghe xong đã phát tâm ghi chép lại. Sau khi xem qua, chúng tôi thấy từng bài như những nấc thang đưa hành giả tiến thêm trên con đường trở về nẻo giác. Vì muốn đem lại chút ít niềm vui cho những người có chủng duyên Phật đạo, chúng tôi mạo muội cho xuất bản tập sách này và lấy tựa đề là “Hành Trình Về Nẻo Giác”.
Bằng tất cả tâm thành với lòng tôn kính vô biên, chúng con xin dâng lên cúng dường Hòa Thượng Tông Sư, Sư Phụ Thường Chiếu và Chư Tôn Đức trong Tông Môn, đã dày công nuôi dưỡng tái tạo pháp thân huệ mạng này.
Thật là:
Ân giáo dưỡng một đời nên tuệ mạng
Nghĩa ân sư muôn kiếp khó đáp đền.
Tập sách này viết ra từ băng giảng nên chắc chắn không sao tránh khỏi những điều sai sót. Kính mong các bậc cao minh niệm tình tha thứ và chỉ dạy cho chúng con để học hỏi thêm và hoàn thiện mình trên con đường trở về bổn xứ.
Thiền Viện Trúc Lâm Chánh Thiện
Ngày đầu an cư kiết hạ Quý Tỵ (2013)
Kính ghi
Thích Đạt Ma Khế Định
-
1. THIỀN – CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT TRI KIẾN
THIỀN – CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT TRI KIẾN
Giảng tại Đạo tràng Hoa Ưu Đàm – Úc
I. DẪN NHẬP
Thiền, thường gọi là “thiền na”, Trung Hoa dịch là “tĩnh lự”, tức là nói về tâm an định, trong sự an định đó lìa cả hai bên. Trong bản thể thanh tịnh đó không có những tri giải, tri kiến, không có tật đố, ích kỷ, ngã mạn, xan tham. Có nhiều người tu thiền bị dính mắc, ngay cả người xuất gia nếu không khéo tu cũng bị dính mắc. Từ sự dính mắc đó đưa đến sự tranh đấu hay đưa lý thiền ra để tranh cãi.
Một hôm, có Phạm chí bà la môn đến hỏi Phật:
- Thưa Sa môn Cồ Đàm, thế nào là Bà la môn tranh đấu với Bà la môn?
Phật nói:
- Do còn chấp ngã.
Ông hỏi tiếp:
- Thế nào là Sát đế lợi tranh đấu với Sát đế lợi?
Phật nói:
- Do còn chấp ngã.
Bà la môn lại hỏi:
- Thưa Sa môn Cồ Đàm, thế nào là Sa môn tranh đấu với Sa môn?
Phật trả lời:
- Do còn chấp pháp.
Sở dĩ chúng ta chấp pháp là vì còn dính mắc vào tri kiến. Tri kiến có nghĩa là thấy biết. Tôi thấy biết như thế, anh thấy biết như thế, hai cái thấy biết khác nhau gặp nhau đưa đến sự tranh đấu. Trong sử 33 vị Tổ có chuyện vua Kế Tân chém đầu Tổ Sư Tử. Nguyên do là trong đời quá khứ, hai vị là cư sĩ gặp nhau tranh luận về Phật pháp, một người thắng, một người thua. Người thua về tìm cách bỏ độc dược để người thắng chết. Người thua chính là Tổ Sư Tử, còn người thắng chính là vua Kế Tân. Với mối hận thù như thế nên kiếp này Tổ Sư Tử phải trả.
Cho nên, ngày hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị một bài pháp là “Thiền – Con đường giải thoát tri kiến”.
II. THIỀN – HÀNH TRÌNH VỀ CÕI DIỆU GIÁC
Thiền sư Vô Môn nói: “Phật dạy ‘Lấy tâm là gốc, lấy cửa không là cửa pháp’. Đã nói là cửa không, tức không có cửa thì làm sao qua? Há chẳng nghe từ cửa mà vào chẳng phải là đồ gia bảo. Từ duyên mà được, trước sau cũng thành hoại”.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma sau khi sang Trung Hoa thấy tình trạng chấp chặt vào văn tự tri kiến nên tuyên bố:
Bất lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Một hôm, thấy cơ duyên sắp về Tây, Ngài gọi các đệ tử ra trình kiến giải.
Ngài bước ra đầu tiên, bạch:
- Theo chỗ thấy của con, chẳng, cũng chẳng lìa văn tự, đây là dụng của đạo.
Tổ nói:
- Ngươi được phần da của ta.
Đến lượt bà Ni Tổng Trì ra thưa:
- Ngay chỗ hiểu của con giống như Tổ A Nan thấy được cõi Phật A Súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại.
Tổ nói:
- Ngươi được phần thịt của ta.
Ngài Đạo Dục ra thưa:
- Năm ấm vốn không, tứ đại chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể được.
Tổ bảo:
- Ngươi được phần xương của ta.
Cuối cùng, đến Ngài Huệ Khả, Ngài bước ra đảnh lễ Tổ ba lễ rồi lui lại đứng yên lặng.
Tổ nói:
- Ngươi được phần tủy của ta.
Có nhiều người tu tập một thời gian thấy khinh an, ghi nhớ lại kinh nghiệm này để khi gặp Hòa thượng thì trình. Như vậy cũng tốt, nhưng thực ra cái trình ra đó, dù cho đúng cũng là đem chuyện quá khứ ra nói lại, mà ngay trong hiện tại thì quên mất mình.
Thiền sư Vô Môn tiếp: “Nói như vậy chẳng khác gì khi không dậy sóng, thịt da đang lành đem ra mổ xẻ, huống chi chấp vào văn tự để mong tìm lý giải, vơ dùi đập trăng, gãi ngứa ngoài giày, ăn nhằm chi đâu. Nếu có kẻ gan dạ không màng chi đến nguy vong, một đao vô thẳng thì Na Tra tám tay giữ lại không nổi, dù cho đến Tây Thiên hai mươi tám vị, Đông Độ sáu tổ cũng chỉ còn cách nép mình xin tha mạng. Còn chần chừ khác chi đứng trong nhà nhìn ngựa qua song cửa, vừa chớp mắt việc đã vù qua”.
Nếu chúng ta có những đức tính gan dạ của nhà Thiền như Tổ Huệ Khả chặt tay cầu pháp thì mới tu thiền được. Ngài Nam Tuyền nói người bước vào cửa thiền là bậc đại trượng phu, không phải là việc quan văn quan võ có thể tu được. Cổ đức cũng nói người vào cửa thiền phải là bậc long tượng chứ người thường không vào được. Nhưng tại sao chúng ta có nhân duyên, có đức tin tin tưởng vào thiền? Là bởi vì trong thời quá khứ chúng ta đã từng tu về pháp môn này. Những người không có căn duyên thì tu được một thời gian sẽ không tin, có khi lại xoay qua phỉ báng lại pháp môn này. Chúng ta nếu tu một thời gian mà không thấy gì hết thì phải biết là duyên đời này mình còn thiếu, phải chịu khó làm công quả để tích phước đức rồi mới tiếp tục.
Trong Kinh Bảo Tích, Phật dạy: “Không phải ai vào đạo cũng đi thẳng vào pháp này”. Có những người vào không được phải nấu cơm, chẻ củi, làm các việc cho chúng…. Còn bậc thượng căn dù cho không biết chữ cũng đi thẳng vào pháp môn này luôn, ví dụ như Lục Tổ Huệ Năng.
Chúng ta nếu đã đi thẳng vào pháp này phải dũng mãnh, gan dạ, không màng chi đến tính mạng, một đao đi thẳng không có chần chừ thì Na Tra tám tay ngăn mình cũng không được. Nhưng nhiều khi chúng ta không dám vào thẳng pháp môn này, chỉ thích tu cái gì khiến cho mình được khinh an, an ổn mà không hiểu được cái tịnh này đối lập với cái động. Còn cái gì biết được mình đang an ổn? Vẫn còn có ông chủ nhìn ra nhưng mình không chịu sống với ông chủ của mình. Pháp này có sức mạnh lớn nên các Ngài nói phải có hùng lực lớn, có bi nguyện, đại nguyện lớn, có đức tin lớn mới có thể mạnh dạn đi thẳng vào. Có vị Thiền sư nói: “Dù cho kiếp này không ngộ, lỡ có tạo nghiệp ác xuống địa ngục A Tỳ thì sau khi ra khỏi địa ngục, được gặp Bát Nhã, gặp pháp này để tu tiếp”.
Thế nên Ngài Vô Môn nói: “Đạo lớn không có cửa, ngàn sai có đường, cửa kia qua được thì đất trời nghiêng bước”.
Cửa kia là cửa gì? Muốn đi được vào cửa này trước tiên phải giải thoát tri kiến.
Trong Thiền thoại có kể, có một ông giáo sư đến gặp Thiền sư Na In để xin học thiền. Thiền sư rót trà mời ông, rót trà đầy tràn cả chén mà vẫn tiếp tục rót. Ông giáo sư thấy vậy nhắc thì Ngài nói: “Ông cũng giống như chén trà này, tri kiến đã đầy ắp làm sao tham? Ông phải uống cạn chén trà tri giải thì mới thâm nhập vào biển thiền được”. Thâm nhập vào thì không có năng sở, chủ khách, ta người. Tu một thời gian mà thấy còn chút gì thì trong nhà Thiền ví như con trâu đi qua cửa, sừng, đầu, mình đều lọt mà còn chút đuôi không lọt.
Tu một thời gian, quý vị có biết ông thầy cuối cùng của mình là ai không? Chính là mình. Ban đầu thì đến trình các vị thầy, một thời gian sau rồi tự trình với chính mình, tâm mình còn tham, còn sân mình đều biết hết.
Vào thời Tổ Ưu Ba Cúc Đa có một Tỳ kheo tên là Thiện Kiến, chứng tứ thiền nhưng lại nói là chứng A la hán. Tổ Ưu Ba Cúc Đa muốn khai thị cho ông nên làm hạn hán 12 năm, sau đó được lệnh nhà vua ban xuống làm mưa. Tổ Ưu Ba Cúc Đa nói mình làm mưa không được, nhưng đệ tử làm được. Tỳ kheo Thiện Kiến làm mưa xuống rồi khởi niệm “Thầy mình không làm được mà mình làm được”, vừa khởi niệm như vậy thì tức khắc giật mình vì chứng A la hán thì đâu có khởi niệm này, khởi niệm này thì biết mình chưa chứng A la hán, nên đến Tổ xin sám hối. Tổ nói: “Ông mới chứng tứ thiền sao nói chứng A la hán? Nếu không gặp ta chắc ông sa đọa rồi”.
Như vậy, các Ngài có thể đưa mình vào con đường thẳng tắt này nhưng mình phải biết kiểm lại chính mình.
Một hôm Tướng quốc Đỗ Hồng Tiệm đến hỏi Thiền sư Vô Trụ:
- Đệ tử tánh thức cạn cợt, trước đây nhân công việc rảnh rỗi, có soạn bộ sớ giải Luận Đại thừa khởi tín gồm hai quyển, có thể gọi là Phật pháp chăng?
Thiền sư Vô Trụ đáp:
- Xét về việc sớ giải đều là dùng thức tâm nghĩ xét phân biệt, có tạo tác, khởi tâm động niệm mới có thể làm thành theo lời văn bản luận đó nói. Phải biết tất cả pháp từ xưa đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng văn tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng, không có đổi khác. Vì chỉ có một tâm nên gọi là chân như. Nay tướng công lại kẹt tướng ngôn thuyết, kẹt tướng văn tự, kẹt tướng tâm duyên. Đã kẹt các thứ tướng thì làm sao gọi là Phật pháp được?.
Có lúc rảnh rỗi, chúng ta cũng soạn sách này sách kia, giống như con linh Quy xuống hồ để lại những dấu vết. Có người viết sách nhiều, tự cho mình là hơn nên sanh tâm ngã mạn với những bậc đi trước mà không biết, đấy là dính mắc trong tướng văn tự. Tuy nhiên ban đầu, chúng sanh phải nương tướng văn tự để biết, nhưng nếu cho đó là chỗ cứu kính rốt ráo thì bị kẹt.
Tướng quốc liền thưa:
- Đệ tử đã hỏi các bậc Đại đức trong triều, các Ngài từng tán thán đệ tử, cho là việc này chẳng thể nghĩ bàn. Phải biết những vị ấy chỉ thuận theo nhân tình. Nay Thầy từ bi lý giải, nói phù hợp với pháp tâm địa, thật là chân lý không thể nghĩ bàn.
Đến với các thiền sư, các Ngài chặt thẳng luôn. Chỉ có trong nhà thiền, các thiền sư có chỗ sống rồi mới mạnh miệng nói thẳng như vậy, còn ngoài ra ít ai dám nói vì sợ mất lòng. Thiền sư nói mạnh để cứu đương nhân nhưng trong tâm không có vị kỷ, không có nhân ngã, hơn thua mà chỉ muốn giúp cho hành giả đi lên, đưa thuốc đắng cho hành giả uống, vì dính mắc tri kiến cũng là bệnh.
Có người đến hỏi về việc tại sao Hòa thượng xiển dương pháp của Nhị Tổ Huệ Khả, Lục Tổ Huệ Năng, Sơ Tổ Trúc Lâm mà còn kẹt trên hình tướng ngồi thiền một ngày ba thời? Người này đã học thiền rất nhiều, mà học nhiều thì ngã tăng trưởng. Câu trả lời không có gì khó. Giả sử nếu như người này ra đường, gặp cảnh gì đó hay người nào đó thật đẹp mà không sanh tâm ưa thích, ham muốn, hay nói cách khác là nếu tiếp xúc với trần cảnh mà không sanh tâm khởi niệm thì ngay đó Phật cũng không mà thiền cũng không. Còn nếu vẫn dấy khởi niệm thì một ngày ngồi 24 tiếng đồng hồ vẫn chưa đủ.
Cho nên ông thầy cuối cùng của mình chính là mình. Thầy đưa thuốc đắng cho uống, nếu thức tỉnh thì chuyển. Thuốc đắng thì hết bệnh nhưng cũng tùy trường hợp mà cho thuốc đắng. Có một người khác cũng hỏi tại sao ngày xưa Lục Tổ thấy ông Tăng ngồi thiền Ngài thổi phù mà giờ trong thiền viện bắt ngồi 3 thời, mỗi thời hai tiếng. Lục Tổ sở dĩ thổi phù vì ông tăng đó ngồi thiền từ 1 ngày đến 7 ngày, còn mình ngồi nửa tiếng muốn xả thì ai thổi? Nếu Lục Tổ còn, có khi Ngài khuyến khích mình ngồi thêm nữa. Sở dĩ bị như vậy là chúng ta còn bị kẹt vào tướng, chấp vào văn tự, dính mắc tri kiến. Cho nên đó cũng là bệnh của người tu thiền.
III. TRI KIẾN LÀ GÌ?
Tri kiến là cái thấy biết của mình. Ví dụ có một bông hoa, người nhìn đẹp thì thích, người nhìn thấy xấu thì không ưa. Hai cái đó đều là bệnh. Tu là để giải thoát khỏi hai cái tri kiến đó, cái thấy và cái bị thấy đồng thời có mặt, không có gì xen kẽ. Việc này không phải làm một ngày một giờ mà được.
Trong Ngũ đăng hội nguyên có ghi: Một hôm Thiền sư Quế Sâm, Trường Khánh và Bảo Phước cùng đi vào Châu Thành, thấy một đóa hoa mẫu đơn:
Bảo Phước nói: “Một đóa hoa mẫu đơn rất là đẹp”.
Trường Khánh bảo: “Chớ để con mắt sanh hoa”.
Quế Sâm nói: “Đáng tiếc một đóa hoa”.
Nhà thiền gọi đây là đất bằng dậy sóng, thịt da đang lành mà đem ra mổ xẻ.
Đây là nói cho người sau chứ các Ngài đã đi đến chỗ thực tại viên mãn thì thấy cảnh đẹp vẫn thấy cảnh đẹp, dừng tại đó chứ không thêm niệm thứ hai. Ban đầu, nếu chúng ta để con mắt sanh hoa thì sẽ có niệm thứ hai, niệm thứ ba sanh khởi.
Ngài Tô Đông Pha có làm bài kệ nhân chuyến viếng thăm Lô Sơn như sau:
Lô Sơn chưng diện mục
Nhìn ngang thành dãy, xéo thành non
Cao thấp xa gần thảy chẳng đồng
Chẳng biết Lô Sơn mày mặt thật
Bởi tại núi này thân ở trong.
Do cái thấy không đồng thuận sanh ra những kiến chấp sai lầm, tranh cãi nhau từ đó mà sanh ra. Các pháp cao, thấp không giống nhau là do cái thấy không đồng thuận. Các pháp vốn bình đẳng, nó không tự nói cao hay thấp mà pháp là như thị. Thấy được như thế rồi thì hết sanh chấp ngã. Người tu thiền cần phải đi tới chỗ đó, dần dần có được sức an định, tự tại. Phật tử tu một ngày chính là một ngày công đức. Lục Tổ dạy: “Bên ngoài hành lễ phép tức là công, bên trong khiêm hạ tức là đức”. Dù cho mình có nói như thiền sư nhưng đức tính khiêm hạ không có thì cũng không đi vào được con đường này. Bởi vì mình còn thấy cái này, cái kia nhưng các pháp là như thị, mà đã như thị đâu cần bàn cãi nhiều. Lục Tổ nói: “Người nào không đồng tri kiến với mình thì chắp tay xá rồi lui”.
Trong Thiền thoại có ghi, một hôm Ngài Đại Huệ Tông Cảo đang xem Kinh Kim Cang thì Thiền sư Chuẩn, tức Ngài Thạch Đường thấy, nói: “Pháp ấy là bình đẳng, không có cao, thấp. Vì sao trái núi ở Vân Cư cao mà trái núi ở Bảo Phong thấp? Vì sao nói nó là bình đẳng?”. Ngài Đại Huệ đáp: “Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp”. Đến chỗ đó rồi, niệm thứ nhất, thứ hai cũng không có, làm gì có cao thấp. Cao thấp là do mình phân biệt, chia chẻ, phân tích. Chỉ cần gạn rửa lớp bụi vô minh của mình thôi, ngoài ra không có chứng đắc gì, pháp ấy bình đẳng. Biết được như thế thì chính là pháp đốn ngộ, đi thẳng vào tâm.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến, tư tức Niết Bàn”. Cái thấy biết lập thêm cái thấy biết, đó là gốc của vô minh. Thấy biết mà không lập thêm thì đó là Niết Bàn. Chẳng hạn thấy bình hoa là xong, ngay đó cắt đứt liền thì đó là Niết Bàn, là chỗ cứu kính rốt ráo. Nhưng mình không như thế, thấy rồi thêm, rồi lại thêm nữa, cứ thế một dọc như vậy. Quý vị nghiệm lại xem một ngày không biết bao nhiêu chuyện xảy ra, một ngày mình thêm biết bao nhiêu niệm, mà ngày cuối cùng mình ra đi, chính niệm khởi là cái dẫn mình đi, chính niệm khởi là đầu mối của sanh tử chứ không có gì lạ. Cho nên thiền là an trú trong giờ phút thực tại, dừng bớt niệm chính là dừng được đầu mối sanh tử. Chúng ta phải tu tập thiền định một thời gian mới nghiệm ra được, mới thấy được điều đó. Mà thấy được điều đó rồi thì nhà thiền gọi là chân chánh tu hành. Còn tu mà không thấy được điều này thì các Ngài nói là luống uổng công phu tu hành một đời. Cho nên Ngài Minh Chánh khẳng định:
Hay lắm Thuần Đà, hay lắm Thuần Đà
Chẳng nói ngắn, chẳng nói dài
Ngắn dài, tốt xấu thảy đều sai
Tìm hay khéo bị người chê vụng
Bắn sẻ ai dè sói chực ngay.
Công danh cái thế màn sương sớm
Phú quý kinh nhân giấc mộng dài
Chẳng biết bản lai vô nhất vật
Công phu luống uổng một đời ai.
Không có một lần bùng vỡ, cắt đứt hai đầu thì công phu cách mấy vẫn kẹt. Nếu có điều kiện, quý vị cố gắng sắp xếp khoảng 4-5 ngày để có thời gian một mình đối diện với chính mình thì mới thấy mình rất có nhiều niệm. Còn nhiều khi đi ra ngoài, chúng ta tưởng như không có niệm mà thực ra rất nhiều niệm, chỉ có lúc ở một mình mới nhận thấy được. Khi ác niệm sanh khởi, tăng trưởng, chúng ta hóa giải nó. Cho nên chỉ có nhờ đi trên con đường thiền này, chúng ta mới giải quyết được những nợ nần chất chứa trong nhiều kiếp. Chính bản thân chúng tôi cũng đã từng kinh qua chứ không phải nói suông. Điều này trong Kinh Phật cũng nói nhưng nếu chúng ta chưa một lần dấn thân vào thì không dám tin. Như Ngài Ương Quật Ma La đã từng giết rất nhiều người, nếu trả trên sự tướng thì biết bao giờ trả cho hết. Nghiệp do đâu mà có? Từ nơi tâm, do tâm bất giác của mình dấy khởi mà thành nghiệp. Cho nên chỉ có đi thẳng về con đường tâm này thì chúng ta mới chuyển nghiệp được, đó chính là chuyển nghiệp bằng tâm, chuyển nghiệp bằng niệm. Khi chúng ta dừng niệm, không theo, không tạo tác nữa thì chính đó là con đường đốn ngộ và con đường đó chính là Hành Trình Về Cõi Diệu Giác
IV. GIẢI THOÁT TRI KIẾN
Các Thiền sư nói chúng ta đi con đường thiền này phải mạnh dạn giải thoát những cái thấy biết của mình, giải thoát chừng nào rơi rụng luôn, không còn một chỗ nào để bám được nữa.
Ngài Dược Sơn ở chỗ Thiền sư Mã Tổ ba năm. Một hôm Thiền sư Mã Tổ hỏi Ngài Dược Sơn: “Ngày gần đây chỗ thấy của ông thế nào?”
Ngài đáp: “Da mỏng, da dày đồng thời rớt sạch, chỉ có một chân thật”.
Các Ngài nói người tu thiền giống như rớt xuống vực thẳm, rớt xuống hầm, hầm toàn bằng sắt trơn, muốn leo lên không có chỗ mà bám. Hoặc tìm mọi cách để bám thì khi lên gần tới nơi lại bị rớt xuống một lần nữa. Lúc đó là ngộ, gọi là “tuyệt hậu tái tô”, nghĩa là một lần chết đi để ngàn năm sống lại, tức là sống lại trong thế giới tự tại của người đó. Lúc đó đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng…, làm gì cũng thiền hết. Có thể chúng ta tuy chưa được như vậy nhưng nếu có một lúc nào đó bất ngờ rớt vào cảnh giới này, dù chỉ là một chút xíu nhưng đủ cho mình tin chắc rằng có pháp đốn ngộ. Cho nên các Ngài khẳng định đời này chưa xong, đời sau tiếp tục đi con đường này, ngoài ra không có con đường thứ hai.
Thiền sư Huyền Giác nói: “Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân”, tức đến chỗ tuyệt học vô vi mới là đạo nhân nhàn, thảnh thơi, dù ai nói gì cũng cười.
Trong Kinh Pháp Cú, câu 19, Phật dạy:
Nếu người nói nhiều kinh
Không hành trì, phóng dật
Như kẻ chăn bò người
Không phần Sa môn hạnh.
Dù nói ít kinh điển
Nhưng hành pháp tùy pháp
Từ bỏ tham, sân, si
Tỉnh giác tâm giải thoát
Không chấp thủ hai đời
Dự phần Sa môn hạnh.
Đức Phật đã dạy, dù cho chúng ta học hỏi nhiều nhưng phóng dật về niệm liên tục thì cũng giống như là kẻ chăn bò cho người, bò thì rất là nhiều nhưng không phải của mình, hay giống như người làm ở ngân hàng, hằng ngày đếm tiền rất nhiều nhưng lại không phải tiền của mình mà đếm cho người khác. Công phu tu tập của chúng ta cũng như thế. Dù nói ít kinh điển nhưng nếu chúng ta hành pháp, theo pháp, chuyển hóa tham sân si, không chấp thủ hai đời thì dự phần Sa môn hạnh.
Cũng trong Kinh Pháp Cú, Tôn giả Pothila là giáo thọ dạy cho 500 chúng Tỳ kheo đều đắc quả A la hán nhưng Ngài lại chưa chứng được thánh quả. Đức Phật thường gọi ông là “Pothila rỗng”. Mỗi lần Tôn giả đến, Đức Phật bảo Ngài A Nan: “Này A Nan, ông hãy mời ông sư rỗng vào đây”. Ngài biết Đức Phật nói vậy là để khuyến khích mình dự vào phần Sa môn hạnh chứ không phải nói móc hay chỉ trích. Cho nên sau đó Ngài rời đồ chúng đi vào rừng sâu tu tập. Ngài đến gặp các vị Tỳ kheo từng là học trò của mình để xin chỉ dạy pháp yếu, nhưng đến ai cũng nói “Ngài là một vị giảng sư, chúng tôi còn phải học với Ngài, làm sao có đủ tư cách dạy lại Ngài”. Cứ thế, không ai dám nhận lời dạy Ngài. Đến vị cuối cùng là một Sa di mới bảy tuổi, nhỏ nhất trong chúng thì kiêu khí của Pothila cũng tụt dần cho đến mức thấp nhấp. Ngài đến bên vị Sa di chắp tay cung kính xin được chỉ dạy. Vị Sa di này hỏi Ngài có đủ kiên nhẫn làm theo lời hướng dẫn không. Tôn giả Pothila đồng ý, nói thậm chí cả việc nhảy vào lửa cũng không ngại. Nghe thế, vị Sa di này nói ông hãy nhảy xuống nước. Để nguyên y phục, Tôn giả Pothila nhảy xuống nước, Sa di bảo leo lên, Ngài lại leo lên. Cứ thế nhảy xuống, leo lên bảy lần như vậy. Lúc này, sự chấp trước về những hiểu biết ngày xưa, sự chấp ngã vì làm giáo thọ cho 500 chúng rớt sạch không còn gì, Ngài ngồi xuống lắng nghe vị Sa di nhỏ tuổi chỉ dạy.
Quý vị thấy tại sao khi ở riêng mình không thấy gì mà khi vào chúng cái ngã hiện ra rất rõ, có những cái nhiều khi khiến chúng ta cảm thấy chới với, hụt hẫng luôn chứ không phải thường. Chẳng hạn như nếu đang là một vị giáo thọ trong tùng lâm thường xuyên dạy học cho chúng, đùng một cái bị cắt cử xuống nấu cơm cho chúng ăn, hoặc làm công việc đãi cát, đãi đá chứ không được dạy nữa. Lúc đó có dám ở lại không hay cái ngã đẩy mình đi liền? Nhưng trong giờ phút đó, nếu mình dấn thân vào con đường thiền này, quán chiếu thật sâu mà ở lại được thì ngay giờ phút đó chúng ta sẽ nghiệm được thiền, lúc này nghiệp báo oan gia nhiều đời nhiều kiếp của mình rơi rụng hết. Có những người ở ngoài đời là người tài giỏi, có chức vị cao, khi vào thiền viện phải làm những việc như hành đường, trị nhật, chẻ củi, nấu cơm, gặp nhiều chuyện phiền não nên không chịu được, sau một hai năm là ra ngoài, hoặc là cất cốc tu. Tuy ở một mình có an hơn nhưng cái ngã ngủ ngầm ở bên trong thì không thấy được. Quý vị để ý thấy ở bờ biển có những hòn đá rất đẹp, nhẵn, đó là nhờ những đợt sóng đánh vỗ hàng ngày. Nếu muốn khám phá được cái ngã sâu xa bên trong mình thì phải ở trong chúng một thời gian dài sẽ thấy, những người như vậy mà chịu tu thì có khi sau này trở thành bậc long tượng chứ không phải thường.
Lúc này, vị Sa di nói: “Nếu Ngài tin tôi rồi thì tôi chỉ cho một cách, ngày xưa ở nhà tôi thường chơi trò chơi: bắt một con dế vào một cái hộp có sáu cửa. Vì con dế hay chui ra các cửa nên tôi bít lại năm cửa, chỉ để lại một cửa quan sát”. Sau khi nghe xong, với trình độ của Tôn giả thì hiểu ngay là phải quán sát sáu căn, năm căn đóng lại và tập trung trọng tâm vào ý căn. Tôn giả Pothila ngồi lắng lại, quán sát bao nhiêu ý niệm vận hành để chuyển hóa. Lúc này Đức Thế Tôn mới xuất hiện trước mặt ông để đọc bài kệ:
Tu thiền trí huệ sanh
Bỏ thiền trí huệ diệt
Biết con đường hai ngả
Đưa đến hữu, phi hữu.
Nghe xong bài kệ này, Ngài Pothila liền chứng quả A la hán.
Qua câu chuyện này, Đức Phật đã cho chúng ta thấy rằng, có những lúc mình phải cho những văn tự, những cái học hiểu của mình rơi rụng hết, không còn chỗ bám. Đó gọi là “tuyệt hậu tái tô”.
Thật là:
Anh hãy chết đi!
Để ngàn năm sống lại
Dẫu một lần thôi!
Cũng là hạnh phúc thiên thu.
Cho nên thiền sư Triệu Châu nói: “Ông già tám mươi tuổi chưa biết thì tôi dạy, mà đứa con nít ba tuổi biết thì tôi học”.
Có một câu chuyện như sau: Có một học giả đi nhờ trên một con tàu qua biển. Vì đi lâu nên học giả tranh thủ nói chuyện với người thủy thủ trên tàu:
- Ông đi thuyền đã bao lâu rồi?.
- Ba chục năm.
- Ông đã từng học về chiêm tinh học chưa?
- Chưa từng.
- Đi biển mà không học chiêm tinh học, như vậy là ông chết mất một phần ba đời người rồi.
Học giả hỏi tiếp: - Anh học thiên văn học chưa?
- Cũng chưa.
- Ông chết một phần tư đời người.
Học giả hỏi thêm:- Ông đã học địa lý học chưa?
- Cũng chưa.
- Học hải dương học chưa?
- Chưa.
- Vậy là ông chết nửa đời người.
Một lúc sau, sóng gió bất ngờ nổi lên làm thuyền nghiêng ngả. Người thủy thủ quay lại hỏi học giả:
- Ngài đã học môn bơi lội học chưa?
- Chưa.
- Vậy là Ngài chết cả đời người rồi.
Qua câu chuyện này cho thấy, không phải các Ngài phế bỏ văn tự mà văn tự chỉ giống như ngón tay chỉ mặt trăng thôi, nếu chúng ta chấp vào đó mà không tu tập, không chuyển hóa thì cũng giống như vị học giả này, học rất giỏi, cái gì cũng biết nhưng cái quan trọng nhất cho mình vào lúc cần thiết nhất thì không biết. Ở đây, các Ngài nhắm cho mình cái đích là phải buông xả hết những chấp trước, những tri kiến thì mới đi thẳng vào con đường này. Cho nên Thiền sư Quy Sơn dạy: “Nếu hướng ra ngoài được một tri, một giải cho đó là thiền, là đạo thì không dính dáng chút nào, đó gọi là mang phẩn vào tâm. Nó làm nhơ uế đất tâm của ông, vì thế nó chẳng phải là đạo”.
Thiền là học tất cả các pháp nhưng không chấp, không trụ. Người hành giả phải gạn lọc hết những tâm tham, chấp trước của mình, lời của Phật dù hay cũng phải buông luôn.
Do đó Thiền sư Vô Môn Quan dạy tiếp: “Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, diệu ngộ phải dứt tuyệt đường tâm. Cửa Tổ không lọt, đường tâm không dứt thì cũng như bóng ma nương nhờ vào cây cỏ”.
Điểm này là chỗ chúng ta phải suy nghĩ, con đường thiền là con đường có cái gì đó làm cho người hành giả phải khắc khoải, sống chết tìm cho ra. Đó chính là người có căn duyên với thiền, còn nếu tu mà lớt phớt, sao cũng được thì không phải. Muốn bước vào con đường thiền này phải dấn thân vào để đi chứ nó không nằm trong văn tự, chữ nghĩa.
Thiền sư nói tiếp: “Thử hỏi cửa Tổ là gì? Chỉ một chữ Không chính là cửa ấy. Bàn gọi là Vô Môn Quan của thiền tông vậy. Qua được cửa ấy chẳng những thấy được Triệu Châu mà còn cùng các Tổ xưa nay nắm tay chung bước, thâm sâu giao kết, cùng một mắt mà thấy, một tai mà nghe, há chẳng thú sao? Há chẳng ai muốn qua cửa ấy?”
Chẳng lẽ tu mà mình không muốn lọt qua cửa ấy sao? Ai cũng mong muốn lọt qua cửa ấy hết. Nhưng cửa ấy là cửa gì? Quý vị thử nghiệm xem. Chính cửa này không biết bao nhiêu người tán thân mất mạng để mong tìm được.
“Muốn được như thế thì phải tận dụng ba trăm sáu mươi xương cốt, tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông, vận dụng cả thân tâm khởi thành một khối nghi, tham thẳng chữ Không, ngày đêm nghiền ngẫm. Chớ nên cho Không là Không theo nghĩa trống rỗng, chớ nên cho Không là Không theo nghĩa có. Không này giống như nuốt một hòn sắt nóng, muốn nhả ra mà nhả không ra, bỏ hết cái biết tệ hại trước kia, lâu ngày thành thuần thục, tự nhiên trong ngoài thành một khối, như kẻ câm nằm mộng chỉ một mình mình biết”.
Cảnh giới của người tu thiền cũng như thế, đồng kiến đồng hành mới trình ra, còn ngoài ra không ai biết.
“Bỗng nhiên bộc phát trời kinh đất chuyển, như đoạt được vào tay thanh đại đao của Quan Công, gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, dửng dưng với bờ sanh tử, rong chơi chốn lục đạo”.
Chúng ta tu có một lúc nào đó, có một điểm bộc phát trời kinh đất chuyển. Đó mới là chỗ cần phải đến. Có người đến nói ngồi thiền được khinh an, an ổn, đó chỉ là bờ mé sanh tử, không dính dáng gì hết để mà sanh tâm tự đắc. Dù cho chúng ta có nhìn thấy được ba kiếp, mười kiếp, một trăm hay một tiểu kiếp về trước cũng không dính dáng gì đến chỗ này. Đó là tướng sanh diệt, tướng vô thường thì nằm trong khổ, không, vô ngã. Nếu chấp vào tướng đó cho là hay rồi tự đắc, coi thường những bậc tôn túc thì quý vị lầm. Kể cả người xuất gia nếu không chịu đi sâu vào chỗ này cũng lầm rất nhiều, thành ra nhầm cả về pháp tu luôn.
“Như đoạt được vào tay thanh đại đao của Quan Công, gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ”, tức là có những lúc ngồi thiền yên định chúng ta cũng phải vượt luôn. Mà có những lúc náo động cũng không sợ, bao nhiêu niệm cũng không sợ, chỉ nhớ cái thấy biết chân chính của mình. Niệm khởi lên tự tiêu, tự chuyển hóa nên trong giờ phút thực tại, các Ngài không sợ niệm khởi mà chỉ sợ giác chậm. Chính niệm đó tạo nên năng lực hùng hậu của người hành Bồ Tát đạo, cho nên các Ngài không phá hành niệm mà lấy hành niệm làm chủng trí Bát Nhã. Vượt qua hai cửa ải này rồi thì cái gì cũng đi qua hết, dửng dưng với bờ sanh tử, rong chơi trong chốn lục đạo.
Thiền sư Lâm Tế dạy: “Thực hành công phu bên ngoài thảy đều là kẻ ngu si, các ông hãy tùy thời làm chủ, ngay đó đều là chơn, cảnh đến lôi kéo chẳng được, dầu có tập khí địa ngục vô gián cũng tự chuyển thành biển lớn giải thoát”.
Thực hành công phu bên ngoài là có gì đắp vào, giống như có một người đem đến tặng quý vị một hòn đá thì giỏi lắm về mình đặt trên bàn chơi hoặc để giữ cửa, nhưng với con mắt của một nhà điêu khắc tài ba thì nhìn thấy trong hòn đá đó có hình ông Phật ngồi, muốn ông Phật này hiển lộ thì phải đẽo, gọt hòn đá. Còn nếu chúng ta mua xi măng, bột đá đắp vào hòn đá để ông Phật hiển lộ thì Tổ nói đây là người ngu si, giống như người chấp trước vào những văn tự, hiểu biết, đắp thêm những cái đó vào thì ông Phật của mình không bao giờ hiển lộ. Chính điểm này quý vị ngồi thiền nghiệm lại sẽ thấy, lúc mình đang ngồi thiền chính là lúc mình đang là một nhà điêu khắc tài ba, gọt giũa những tâm niệm xấu ác. Niệm tham, niệm sân, niệm si, niệm tật đố, bao nhiêu niệm khởi lên đều rớt hết thì ông Phật trong tự tánh mình hiển lộ ra. Đức Phật thấy trong thân ngũ uẩn của chúng sanh có ông Phật nên chỉ cho mình. Nhưng nếu một tuần chúng ta đến đây hai ngày, gọt giũa được 10 ký mà về nhà không chịu dụng công, lại đắp thêm vào 20 ký nữa vào nữa thì mình lỗ bao nhiêu ký? Cho nên chúng sanh vẫn hoàn chúng sanh, lại quay ra nói pháp này không có kết quả, tu lâu năm mà cũng như thế, là bởi vì mình đến chùa thì gọt giũa nhưng về nhà lại đắp thêm vào. Cho nên pháp này rất là vi diệu nhưng đòi hỏi chúng ta phải “tùy thời làm chủ, ngay đó đều là chơn”, tức là luôn luôn có ông chủ. Đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, luôn luôn có chánh niệm tỉnh giác thì đó gọi là chơn. Cảnh đến lôi kéo chẳng được thì dù tập khí địa ngục vô gián cũng chuyển thành biển lớn giải thoát. Ngày xưa quý vị đã tạo những nghiệp xấu ác rất lớn, ngày này, giờ này đáng lẽ phải trả như đi ra ngoài đường bị tai nạn chết, nhưng nếu lúc đó đang tụng kinh thì làm sao chết? Tuy không chết nhưng ngay lúc tụng kinh đó, những niệm xấu ác hiện khởi, tụng kinh mà không chú tâm vào tụng kinh, nó day dứt, khó chịu, bồn chồn, như mình đang ở cảnh giới địa ngục chứ không phải là biển giải thoát. Nếu ngay trong giờ phút thực tại đó, cái gì thấy được những niệm này thì tức khắc chuyển thành biển lớn giải thoát. Niệm này không lôi kéo quý vị và ngay giờ phút thực tại này giữa mình và niệm không còn, đó là chuyển từ nghiệp xấu thành nghiệp tốt, chuyển nghiệp địa ngục thành biển lớn giải thoát. Ai có công phu tu thiền mới kinh nghiệm điều này. Chẳng hạn như khi cùng ngồi thiền, người bạn của mình ngồi rất an ổn, khinh an, còn mình ngồi thì giống như ngồi trên đống lửa, nhưng nếu mình xả bỏ ra mà đi thì giống như là nợ đến mà mình không chịu trả. Cho nên chỉ có con đường thiền này mới trả nhanh được. Giống như ngày xưa quý vị nợ nhiều thì bây giờ có cách gì trả nhanh? Chỉ có làm giám đốc, bác sĩ kiếm nhiều tiền hơn mới trả nhanh được, còn nếu làm nhân viên bình thường thì trả chậm hơn. Phương pháp tu thiền cũng như thế. Bố thí, cúng dường chỉ là phương tiện trợ duyên thôi chứ không chuyển được nghiệp, chỉ có tu chúng ta mới chuyển được nghiệp.
Trong chuyện Tây Tạng có ghi: Có một ông Tăng nghe nói có một tu viện rất linh thiêng, cho nên ông đến đó, buổi sáng nhiễu vòng quanh tu viện 108 lần. Một hôm, Hòa thượng viện trưởng gặp ông, nói: “Thực ra con đi nhiễu quanh một thánh địa linh thiêng như vậy cũng tốt, nhưng nếu muốn tốt hơn nữa thì con nên tu học về yếu tính của Phật pháp”. Sau khi nghe như vậy, ông không đi nhiễu nữa mà chuyên đọc tụng kinh điển để thâm nhập vào biển lớn trí tuệ của Phật. Một thời gian, gặp Hòa thượng viện trưởng, Ngài lại nói: “Đọc tụng kinh điển cũng rất tốt, nhưng nếu hay hơn nữa thì tu học về Phật pháp bao trùm rộng lớn, chứng nghiệm về Pháp thân của Phật”. Nghe nói vậy, ông ngưng việc đọc tụng và chuyển qua con đường thiền định, ngồi ngày, ngồi đêm. Một hôm, gặp Hòa thượng nói tiếp: “Con đang thiền định đó ư? Cũng tốt, cũng hay đó nhưng tu tập cho đúng Phật pháp đích thực thì còn tốt hơn nữa”.
Tức là từ lúc đi nhiễu là chúng ta bước vào con đường Phật pháp, có đức tin vào Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng. Cái đó là tốt nhưng chúng ta phải đi thêm một bước nữa là học hỏi Phật pháp, để xem Đức Phật nói gì. Tốt đó, nhưng nếu không tu tập về con đường thiền định thì không chứng nghiệm được lời Phật dạy. Ngồi thiền cũng rất tốt, nhưng tu tập cho đúng con đường Phật pháp đích thực thì tốt hơn.
Vị Tăng nghe xong, hỏi: “Thưa Thầy, giờ con phải làm gì?”
Hòa thượng viện trưởng đáp: “À, con hãy buông bỏ hết những gì mà con đang bám giữ, lúc đó con chính là con và cái đơn giản này chính là chỗ khởi đầu mà cũng chính là mục đích rốt ráo cuối cùng của nhà thiền”.
Ngồi mà không dính mắc, không chấp trước, không trụ thì chính chỗ đó là chúng ta tu tập về con đường thiền.
Có người hỏi: “Ngồi thiền là gì?”. Ngồi thiền chỉ là ngồi thiền thôi, không thêm không bớt gì cả.
Trong Thiền thoại có ghi một câu chuyện: Một hôm có một người đang đứng trên núi. Có một tốp người đi ngang qua.
Người thứ nhất hỏi: Có phải anh đứng để ngắm núi không?
- Không phải.
Người thứ hai hỏi: Có phải anh đang đứng tìm cái gì phải không?
- Không phải.
Người thứ ba hỏi: Có phải anh đứng trên núi đợi ai phải không?
- Cũng không phải.
Tất cả bọn họ thấy lạ bèn hỏi:
- Anh không ngắm núi, không tìm cái gì, không đợi ai, vậy đứng trên núi làm gì?
Anh này trả lời:
- Tôi đứng đây chỉ là đứng thôi.
Nhiều khi mình nghĩ người ta làm bất cứ cái gì phải có mục đích, đứng phải ngắm trăng, ngắm núi chứ đứng không thì đứng làm gì? Nhưng đối với tinh thần nhà thiền, đứng chỉ là đứng, ngồi thiền chỉ là ngồi thiền. Còn ngồi thiền để ngộ, để chứng cái gì đó là có tâm để ngộ, mà có tâm để ngộ chính là bệnh. Cho nên cuối cùng, để đi vào được con đường thiền này, chúng ta phải giải thoát tất cả mọi tri kiến.
Cuối cùng, kính chúc quý vị luôn giữ được tâm kiên trì, trường viễn, dấn thân vào con đường này cho đến ngày thành Phật, tròn bản nguyện, tin chắc vào pháp đốn ngộ, tin chắc vào tự tâm để chuyển hóa những nghiệp xấu ác của mình. Tin chắc được điều đó bảo đảm quý vị sẽ thành công.
-
2. VÔ THƯỜNG CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN TUỆ GIÁC
VÔ THƯỜNG CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN TUỆ GIÁC
Giảng tại chùa Huệ Quang, Melbourne, Úc
I. DẪN NHẬP
Hôm nay hội đủ duyên lành, chúng ta cùng có mặt ở tại chùa Huệ Quang để trao đổi giáo lý. Quý vị ở xứ này, tuy rằng bận rộn nhưng với tâm quý pháp nên vẫn bỏ thời giờ đến để nghe pháp, đó là một điều đáng khích lệ. Hiện nay, trên thế giới chung quanh chúng ta xảy ra nhiều hiện tượng như sóng thần, động đất, lũ lụt ..., những hiện tượng này, với cặp mắt giác ngộ của Đức Phật hơn hai mươi lăm thế kỷ về trước, Ngài đã thấy và chỉ dạy cho chúng ta các pháp là vô thường. Đức Phật nói như vậy không phải để chúng ta sầu, ưu, bi, khổ não, chán nản mà nói để giúp chúng ta thấy rõ được bản chất các pháp là vô thường, từ đó lo tu tập để chuyển hóa tâm thức, phát sanh tuệ giác. Cho nên ngày hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị đề tài “Vô thường, con đường đưa đến tuệ giác”.
II. VÔ THƯỜNG CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN TUỆ GIÁC
Vậy vô thường là gì? Trong cuộc sống này, nhờ có vô thường mà có sáng, có trưa, có chiều, có tối, rồi có một ngày cho đến một tháng, một năm, mười, hai mươi năm. Nhờ vô thường, đứa bé sanh ra đời rồi lớn lên, trưởng thành chứ không đứng yên một chỗ. Nhờ vô thường mà chúng ta gieo hạt lúa, hạt bắp xuống thửa ruộng thì có lúc mình gặt hái được để có cái ăn. Rồi quý vị thử nghiệm lại, trong cuộc đời này quý vị khóc nhiều hay cười nhiều? Khóc nhiều. Nhưng nhờ vô thường mà có lúc chúng ta buồn, khóc nhưng khi hết buồn, hết khóc rồi thì có những lúc chúng ta lại vui. Nếu không nhờ vô thường chắc quý vị khóc suốt luôn, tức là nhờ có vô thường mà những vết thương sẽ lành trở lại, những nỗi đau trong cuộc đời này được xoa dịu. Như vậy, chúng ta thấy vô thường chính là sự biến đổi. Cho nên cuối cùng chúng ta phải cảm ơn sự vô thường. Thấy rõ được bản chất vô thường thì cuộc đời mình sẽ vui, không còn thấy đau khổ như ngày xưa.
Bây giờ quý vị thử trả lời câu hỏi: “Pháp vô thường này là có sẵn hay do Đức Phật tìm ra, phát minh ra?”. Tôi lấy ví dụ, chẳng hạn như cái ly này, trước khi Đức Phật ra đời, nếu tôi liệng cái ly này xuống đất thì nó có bể không? Bể. Mà đến khi Đức Phật ra đời, lấy cái ly này liệng xuống cũng bể. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, cái ly này liệng xuống cũng bể. Như vậy, cả ba thời bản chất của nó đều là vô thường, nhưng vì chúng sanh vô minh nên không thấy, vì không thấy nên sanh chấp ngã về thân, chấp ngã về tâm, từ đó chịu khổ. Nhờ Đức Phật ra đời, giác ngộ, thấy được các pháp là duyên sinh, duyên khởi nên chỉ dạy cho chúng ta để chúng ta thoát khổ. Quý vị nghe nói nhiều về vô thường, nói đến vô thường thì ai cũng biết nhưng thực sự chưa thâm nhập lý vô thường, không hiểu hết được bản chất của vô thường nên khi cảnh đến vẫn khổ.
Một lần sau khi nghe về tính Duyên Khởi, thầy A Nan thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, con thấy pháp duyên sinh, duyên khởi mà Thế Tôn nói thật hay mà cũng thật đơn giản và dễ hiểu”. Phật bảo: “Đừng nói như thế, đừng nói như thế, A Nan. Pháp duyên sinh duyên khởi đó rất sâu sắc và nhiệm mầu, ông chưa hiểu hết đâu. Người nào thấy được tính duyên khởi tức là thấy được Như Lai”. Chúng sanh sở dĩ chìm đắm trong biển khổ, trong tranh đấu hơn thua là vì không biết, không thâm nhập và chứng nghiệm được tính duyên sinh duyên khởi của các pháp nên bị ác ma dẫn vào con đường ác, giống như con thú bị vòng xích quấn vào cổ, ông chủ muốn dắt đi đâu cũng được.
Do đó, Thiền sư Huyền Giác dạy:
Buông bốn đại đừng nắm bắt
Trong tánh vắng lặng tùy ăn uống
Muôn vật vô thường thảy thảy không
Đó tức Như Lai đại viên giác.
Có nghĩa là nếu chúng ta thâm nhập được vô thường thì tuệ giác phát sinh, cuộc đời này chuyện đến chuyện đi, chuyện còn chuyện mất nhưng không ảnh hưởng gì đến tâm của mình hết.
Trong Kinh A Hàm kể lại câu chuyện như thế này: Một thời Thế Tôn ở thành Xá Vệ, vườn ông Cấp Cô Độc, buổi sáng Thế Tôn đang trên đường đi khất thực thì có một Tỳ kheo tên là Ba bi ca, đến trước Thế Tôn nói:
- Bạch Đức Thế Tôn, Thế Tôn hiện hữu trong cuộc đời này rất là khó gặp, sẵn đây Thế Tôn chỉ dạy cho con một pháp yếu để con tu tập.
Phật bảo:
- Này Tỳ kheo, ông phải nói chuyện cho đúng thời. Ta đang đi khất thực làm sao chỉ dạy. Sau khi ta khất thực, thọ trai xong, ta sẽ chỉ dạy pháp yếu cho ông.
Thầy Tỳ kheo hỏi ba lần như thế, Thế Tôn cũng đều đáp lại ba lần như thế. Cuối cùng, Thầy Tỳ kheo nói:
- Bạch Đức Thế Tôn, Thế Tôn có từng dạy các vị Tỳ kheo cuộc đời này là vô thường phải không?
Đức Phật xác nhận:
- Đúng, ta có dạy như vậy.
- Nếu như đợi Thế Tôn thọ trai xong mới về chỉ dạy cho con, biết đâu giữa đường con bị bò húc chết thì làm sao con học.
Đức Phật nghe ông nói có lý, không đi khất thực nữa mà ra chỗ gốc cây ngồi an tọa. Thầy Tỳ kheo Ba bi ca quỳ xuống nghe pháp yếu. Thế Tôn nói một bài pháp thế này: “Trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe”.
Ngay lúc đó ông chứng quả A la hán.
Tức là trong cái thấy chỉ là cái thấy thôi, nhưng chúng ta đâu có chịu như vậy đâu. Mình thấy cái ly này rồi nhưng phải thêm, mà quý vị thêm nhiều hay ít? Nào là cái ly này đẹp thật, mua ở đâu, giá bao nhiêu… , rồi thấy người ta nói chuyện riêng với nhau mình cũng để ý xem người ta có nói gì mình không? Thêm rất nhiều cho nên mất đi cái thực tại trong giờ phút đó
Sau khi Ngài chứng A la hán rồi thì quả nhiên trên đường đi, Ngài bị một con bò húc chết tại chỗ. Sau khi chết, thần thức Ngài thể nhập vào cảnh giới Niết Bàn. Đức Phật sai Tôn giả A Nan thiêu và sau đó dựng tháp thờ xá lợi của Ngài. Tôn giả A Nan thắc mắc vị này chưa chứng quả vô sanh sao lại xây tháp, Phật mới kể lại câu chuyện vị Tỳ kheo chứng quả A la hán nhờ thấy được bản chất các pháp là vô thường. Qua đó để thấy nếu như chúng ta thấy được bản chất các pháp là vô thường rồi thì tự nhiên thấu thoát, buông rất dễ.
Tổ Quy Sơn dạy: “Vô thường già và bệnh không hẹn với người, sớm còn tối mất, chỉ một sát na có thể từ đời này chuyển qua đời khác”.
Có khi nào vô thường hẹn với quý vị không? Không. Nhìn quý vị tôi thấy lá thư thứ hai Diêm Vương đã gửi tới rồi đó (tức là tóc bạc).
Trong Kinh Pháp cú có kể câu chuyện: Vua trời Đế Thích khi năm tướng lìa thân, biết mạng mình sắp chết, sau khi chết sẽ đầu thai làm con lừa tại nhà ông thợ đồ gốm vì đã hưởng hết phước nên rất buồn. Một vị Thiên tử khuyên Đế Thích đến gặp Phật Thích Ca Mâu Ni xin quy y. Đế Thích bèn hướng về Phật Thích Ca quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Sau khi quy y xong, ông chết, thần thức vào bụng con lừa nhưng nhờ năng lực quy y Tam Bảo nên sáng hôm sau, ông thợ gốm nổi sân lấy cây gậy đập con lừa làm cho nó bị sẩy thai. Do vậy, thần thức thoát ra trở lại thân cũ. Sau khi trở lại thân cũ, Trời Đế Thích mừng quá xuống đảnh lễ Phật, Phật nói: “Nhờ ông hướng đến Tam Bảo cho nên ông mới thoát nghiệp súc sanh”, và nói bài kệ:
Các hành vô thường
Gọi pháp thịnh suy
Vừa sanh liền chết
Diệt ấy là vui
Thí như nhà gốm
Vừa nặn thành đồ
Tất cả đều bể
Mạng người cũng thế.
Do đó, trong Kinh Niết Bàn, Đức Phật dạy:
Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt quy lạc.
Có nghĩa là các hành vô thường là pháp sanh diệt, mà cái sanh diệt này diệt rồi thì cái tịch diệt là vui. Đây là nói về chỗ công phu, có nghĩa là thấy các pháp vô thường, chẳng hạn ngồi thiền thấy từng niệm, từng niệm là vô thường, mà từng niệm lặng rồi thì tịch diệt là vui. Tức là cái biết thì không có sanh không có diệt, nó viên mãn, tròn đầy nhưng chúng ta luôn luôn đồng hóa nó với cái pháp vô thường này. Chẳng hạn như cái ly bằng ngọc, nếu lỡ rớt xuống thì chúng ta buồn, khổ bởi vì chúng ta đồng hóa cái ly này của mình mà không nhận diện được còn một ông chủ bên trong là cái tánh biết. Sống với cái tánh biết thì hết khổ. Đây gọi là tịch diệt là vui.
Vua Trần Thái Tông có một bài kệ, trong đó có hai câu:
Vạn sự nước trôi nước
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Tức là muôn sự ở thế gian này đều trôi đi như dòng nước, và chúng ta sống trên cõi đời này mấy chục năm phải luôn nhắn nhủ với lòng mình là mình làm được gì cho mình và cho người khác, mình có làm gì cho người khác phải đau khổ hay không?
Cho nên một hôm Khổng Tử đứng trước dòng sông Dịch Thủy nói: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ”, có nghĩa là “Chảy mãi, chảy mãi ư. Ngày đêm không ngừng nghỉ”. Quý vị nghiệm lại có thấy tâm mình chảy suốt, không ngừng nghỉ không? Ngay cả ngồi đây mà tâm mình có khi chạy đâu đâu.
Tuệ Trung Thượng Sĩ có làm một bài thơ “Khuyên đời vào đạo” như sau:
Thời tiết xoay vần xuân lại thu
Xanh xanh tuổi trẻ đã bạc đầu
Giàu sang nhìn lại một trường mộng
Năm tháng ôm suông muôn hộc sầu
Nẻo khổ luân hồi xe chuyển bánh
Sông yêu chìm nổi tợ bọt chìm.
Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi
Muôn kiếp duyên lành chỉ thế thôi.
Được làm người là rất quý, lại được gặp Tam Bảo, có cơ hội thoát khổ sanh tử luân hồi đã chịu từ bao kiếp thì tại sao chúng ta không chịu chuyển hóa tâm thức của mình? Trăm ngàn kiếp chúng ta mới gặp được Phật pháp, nếu như quý vị tưởng dễ là lầm, một khi mất thân người thì muôn kiếp khó mà gặp được. Cổ đức nói: “Ngàn năm cây sắt trổ hoa còn dễ, một phen mất thân người muôn kiếp khó được lại”.
Sơ Tổ Trúc Lâm nói:
Thân như hơi thở ra vào mũi
Đời tợ mây trôi đỉnh núi xa
Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng
Nào phải tầm thường qua một xuân.
Vầng trăng sáng tức là tâm thanh tịnh chân thật, tĩnh lặng, rỗng suốt, ngay chỗ động tịnh mà chúng ta thấu thoát được thì không uổng một kiếp người. Nhờ biết được các pháp vô thường, chúng ta mới có sức định tĩnh, tự tại trong cuộc đời. Cho nên cổ đức có nói: “Một kiếp không tu muôn kiếp khổ, một đời không ngộ vạn đời sầu”.
Tế Công đời nhà Tống có làm bài thơ về sự vô thường:
Tiếc thay người đời chẳng biết không
Mê hoa đắm rượu tỏ anh hùng
Nhọc nhằn rốt cuộc về chầu Tổ
Số hết đến kỳ rũ tay không
Khéo léo nào hơn mèo bắt chuột
Thời gian thấm thoắt tựa tên bay
Thảng như lực kiệt tinh thần hết
Thây chết đành vùi chốn huyệt sâu
Suy đi nghĩ lại tỏ tường
Nam kha giấc mộng cũng dường ấy thôi
Trăm năm cuộc thế xoay vần
Lên voi xuống ngựa cũng nhọc nhằn thôi
Tỉnh ra nào có ai đâu
Vui buồn cảnh mộng chỉ là rỗng không.
III. Bản Chất Vô Thường Của Vạn Pháp
Nói đến sự vô thường này, chúng ta đi vào ba cấp độ. Thứ nhất là thân vô thường, thứ hai là tâm vô thường, thứ ba là hoàn cảnh vô thường.
- 1. Thân vô thường
Trong Kinh Tăng chi bộ, có một vị Tăng đến trình kiến giải, nói thế này: “Bạch Đức Thế Tôn, sắc là vô thường, cái gì vô thường là khổ, những gì là vô thường ắt phải chịu sự biến hoại”
Quý vị có tin sắc này là vô thường, là hoại diệt không? Nếu mà thường còn là phải đủ ba yếu tố: một là chủ tể, hai là đồng nhất, ba là bất biến. Chủ tể tức là làm chủ được thân mình. Ví dụ như buổi sáng quý vị có công việc phải đi xa, trước khi đi vô tình ăn phải món đồ không hợp với mình nên bị đau bụng, lúc ấy, quý vị bảo nó đừng có đau bụng, nó có không đau không? Răng mình bị đau nhức, mình bảo nó không được đau nhức có được không? Hay như quý vị bảo cái thân này phải trẻ mãi không già liệu nó có nghe mình không hay nó vẫn cứ già? Như vậy thì đâu có làm chủ được. Còn nếu mà bất biến thì phải không thay đổi, nhưng cơ thể mình mỗi giây, mỗi phút nó sanh ra không biết bao nhiêu tế bào, chết rồi sống, sống rồi chết liên tục, mình không làm chủ được. Rồi cái gì là đồng nhất? Thân mình bao gồm đất, nước, gió, lửa, đất là xương thịt, móng tay, móng chân, tóc…, nước là máu, là các chất lỏng trong cơ thể, hơi ấm là lửa, gió là khí lưu thông trong cơ thể, bốn thứ này khác nhau, trong nhà Phật gọi là bốn con rắn tranh giành lẫn nhau trong thân ngũ uẩn này. Cho nên chúng ta thấy được nó khác nhau, không đồng nhất. Như vậy cái nào là vô thường chính là khổ, là sự biến hoại.
Ngài nói: “Do đó, con không có lòng tham, không có lòng dục, không có lòng sân, không còn lưu luyến đối với sắc thân nữa. Bạch Thế Tôn, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, cái gì vô thường là khổ, những gì vô thường là khổ, ắt phải chịu sự biến hoại, con không còn nghi ngờ gì về vấn đề này nữa. Do đó, con không có lòng tham, không có lòng ham muốn, không ưa thích, không lưu luyến đối với năm ngũ uẩn”.
Ngay trong giờ phút đó, Ngài chứng A la hán.
Nếu quý vị cũng quán chiếu sâu sắc được như thế thì lòng dục, lòng ham muốn sẽ giảm. Chẳng hạn ngày xưa mình có một chiếc xe vừa đủ để đi, nếu mình thấy người ta đi chiếc xe mới hơn mình thì tâm mình rộn rạo, muốn một ngày nào đó sắm chiếc xe đẹp hơn, mới hơn nhưng bây giờ, nhờ thấy được các pháp là tạm bợ, mỏng manh, vô thường, chỉ cần dùng đủ để sống thôi thì tự nhiên lòng ham muốn của mình dừng bớt. Những người sở dĩ không dừng được ham muốn là vì họ không thấy được bản chất các pháp là vô thường, nên sẵn sàng làm tất cả mọi việc, dù cho việc đó có làm người khác đau khổ. Thấy được tính duyên sinh duyên khởi của các pháp thì buông bỏ dễ dàng, nếu không thấy được thì lòng tham chấp, lòng dục tăng trưởng, giống như uống nước biển, càng uống càng khát mà không thỏa mãn được.
Đức Phật lấy ví dụ, có một ngôi làng trong đó một số người bị phong cùi, ngứa quá chịu không nổi nên nghĩ ra cách đào một cái hầm, nhóm lửa lên rồi hơ lửa gãi, càng gãi càng đã, nhưng qua cơn đã rồi thì lại thấy rát (ai mà chiêm nghiệm rồi mới thấy dục cũng như thế). Sau đó, có một người được vị lương y đến chữa lành bệnh cùi, một hôm người đó đi qua chỗ những người bị cùi đang hơ lửa gãi, những người này rủ ông vào hơ lửa cùng, ông từ chối và nói hết bệnh rồi. Đức Phật ví như một người xưa giờ lặn hụp trong biển ái, trong sự ham muốn, nhưng giờ nhờ học Phật pháp, biết cái này là dục, trước vui nhưng sau khổ, vui thì ít mà khổ thì nhiều, sau khi biết được như thế tức khắc lìa tham dục.
Trong Thiền thoại có kể: Có một vị Thiền sư tu hành rất tinh tấn, có một ông bạn làm ăn rất giàu có tên là Trương Tổ Lưu. Một hôm, ông xuống thăm người bạn của mình, nói: “Tôi thấy anh cũng lớn tuổi rồi, giờ anh buông xả bớt đi, hàng ngày đến tu tập với tôi”. Ông Trương Tổ Lưu nói: “Tôi cũng muốn lắm, nhưng mà tôi còn ba việc chưa làm. Thứ nhất con trai lớn chưa gả vợ, thứ hai con gái út chưa gả chồng và thứ ba là căn nhà này tôi chuẩn bị xây lại. Làm xong ba việc này tôi mới đến chỗ ông tu tập được”. Một tháng sau, ông Trương Tổ Lưu bị bệnh chết. Sau khi ông chết, vị Thiền sư đến viếng, không có tụng kinh hay khai thị gì, chỉ lấy một tờ giấy và viết như thế này:
Bạn tôi tên là Trương Tổ Lưu
Khuyên ông tu Phật, hẹn ba điều
Ba điều chưa vẹn, vô thường đến
Đáng trách Diêm Vương chẳng nể nhau.
Đúng duyên là đến chứ không có nể nang, hẹn trước gì cả, không chỉ có người già mà người trẻ cũng chết, dù cho giàu có hay nhiều uy quyền như tổng thống, thủ tướng, vô thường cũng đến. Diêm Vương không nể bất cứ ai cả.
Đời vua Anh Tông có vị Trạng Nguyên là Mạc Đĩnh Chi, ông đi sứ qua triều Nguyên nhằm lúc Nguyên Thế Tổ có một người con gái rất đẹp mất. Trong ngày đó, người đi sứ của các nước lân bang đến rất nhiều. Ông vua muốn thử những người đi sứ xem ai là người thông minh nhất nên đến lúc điếu tang, ông ghi lên chỉ một chữ “Nhất” rồi đưa cho các vị sứ giả các nước nhưng không ai đọc được hết. Chỉ có Mạc Đĩnh Chi liền ứng khẩu thành thơ, nên sau này được phong là Lưỡng quốc Trạng Nguyên (Trạng Nguyên hai nước):
Thiên thanh nhất đóa vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Diêu trì nhất phiến nguyệt.
Ô hô!
Vân tán, tuyết tan, hoa tàn, nguyệt khuyết
Tức là trên bầu trời xanh chỉ có một đám mây rất đẹp, tiêu biểu cho một người công chúa tài sắc vẹn toàn, nhưng dù cho đám mây đẹp cách mấy cũng bị gió thổi tan mất. Một lò lửa hồng điểm một hạt tuyết, hạt tuyết dù rất đẹp nhưng gặp lò lửa thì cũng tiêu mất. Vườn thượng uyển rất rộng nhưng chỉ có một đóa hoa duy nhất, nhưng hoa thì sớm nở tối tàn. Rồi cái ao ẩn hiện một vầng trăng rất đẹp, nhưng than ôi, mây thì tán, tuyết thì tan, hoa thì tàn, trăng thì khuyết, đều cho chúng ta thấy sự vô thường dù có đẹp đến mấy. Bây giờ biết được như vậy, chúng ta phải tỉnh cơn mộng đi, quý vị đừng ngủ mê, đừng tiếp tục vùi sâu trong lớp màn vô minh nữa. Nhiều khi mình nói mình thức chứ thực ra mình vẫn đang ngủ. Do đó, ông Ôn Như Hầu nói:
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Trắng răng đến thuở bạc đầu
Tử sinh kinh cựu làm nao mấy lần.
Ai bày ra cái trò bãi bể nương dâu? Chính là nghiệp của chúng ta. Chính chúng ta đã bày ra các cảnh thế gian này, do nghiệp mê nên chúng ta gá vào đó, gá vào thì sanh cảnh, cảnh từ đó sanh tình, từ đó chịu không biết bao nhiêu nỗi khổ trong vòng luân hồi, sinh đi tử lại biết bao lần.
Trong Kinh Tạp A Hàm quyển 8, Đức Phật dạy: “Bậc trượng phu qua bờ giải thoát có bốn pháp vi diệu. Thứ nhất, nghe ở trong xóm có kẻ nam người nữ nào bị bệnh khổ đau đến sắp chết. Nghe như vậy rồi đối với các pháp thế tục vô cùng nhàm chán, do vì nhàm chán nên hết lòng tu thiện, chuyển hóa nội tâm. Đây là bậc thượng”.
Tức là nghe trong xóm có người nam, người nữ bệnh sắp chết thì giật mình, thấy một lúc nào đó mình cũng chết, về gắng tu thiện, gắng bố thí, cúng dường, tu tập, tụng kinh, sám hối, niệm Phật, ngồi thiền…,
“Thứ hai, trong xóm chính mắt mình thấy có kẻ nam người nữ lâm bệnh nặng khốn khổ sắp chết, thấy đó rồi sanh tâm nhàm chán, do vì nhàm chán nên hết lòng tu thiện. Đây là bậc trượng phu điều thuận mà được độ”.
Tức là chính mắt mình thấy trong xóm người này người kia đang lâm bệnh nặng khốn khổ thì sợ, nghĩ rằng một lúc nào đó mình cũng như vậy, do đó tỉnh lại mà tu tập, làm thiện.
Ngài Hàm Sơn nói:
Một mai vô thường đến
Mới hay mộng huyễn thân
Muôn việc đem chẳng được
Chỉ nghiệp theo thức thần.
Tức là một mai vô thường già bệnh đến thì mới hay cuộc đời này là mộng, là huyễn. Có nhiều người khi sắp chết khóc, nói bây giờ mới thức tỉnh vô thường, nhưng lúc còn khỏe thì họ không chịu nghĩ tới điều đó. Quý vị thấy trong những pháp hội ít có người trẻ là vì họ thấy họ còn sung sức, còn nhiều năng lực, thấy chuyện vô thường, tu tập này mơ hồ nên cứ để từ từ. Còn những người lớn tuổi sở dĩ đến đông hơn là bởi vì họ đã đi qua phần lớn chặng đường đời, thấy rõ được những khổ vui, vinh nhục trong cuộc đời nên thức tỉnh tìm đến nương tựa nơi Tam Bảo. Chỉ có sự tỉnh thức của Đức Phật mới cho mình chỗ để nương tựa chứ không phải vì già, chán ngán cuộc đời mà đến. Đến lúc chết, muôn việc đem theo chẳng được, chỉ có nghiệp đi theo. Nói đến đây, quý vị phải nghiệm cho kỹ, không phải nghe nói vô thường rồi về mình không chịu làm gì thì không ổn. Đức Phật dạy rất rõ là từ khước sự tham chấp, tật đố, ngã mạn, ích kỷ chứ không từ khước cuộc đời. Chúng ta vẫn làm ăn, vẫn sinh hoạt nhưng làm đến đâu thì bớt chấp đến đó, để cho tâm mình nó rỗng, an ổn.
Trong Kinh Tạp A Hàm có kể câu chuyện như thế này: Ngày xưa ở thành Xá Vệ có anh chàng rất nghèo, nghèo đến mức độ không có quần áo để mặc, quanh năm chỉ thui thủi ở trong nhà chứ không dám đi ra ngoài đường, tối đến mới đi bắt cua, bắt cá kiếm ăn. Một hôm anh nghe nói ở thành Xá Vệ tổ chức một buổi hội rất lớn nên anh quyết định đến từng nhà hàng xóm mượn áo mới, quần mới, mượn xe, mượn ngựa rồi thắng yên đến dự buổi hội. Đến thành Xá Vệ, mọi người đều trầm trồ khen ngợi anh là người giàu sang, sang trọng. Nghe vậy xong, khi về anh không còn muốn trả đồ đã mượn cho hàng xóm nữa.Vì đòi mà không trả nên hàng xóm kiện anh, quan xử án xong bắt anh phải trả đồ cho hàng xóm nên anh không còn gì cả. Đức Phật ví chúng ta như anh chàng này, khi sanh ra đời không mang theo bất cứ cái gì, sống trong cuộc đời chỉ là mượn tạm tứ đại bên ngoài, sau khi chết cũng phải bỏ tất cả lại, không đem theo được gì hết. Nghiệm ra được như thế rồi thì cuộc đời này không có gì làm cho mình phải đau khổ nữa.
- 2. Tâm vô thường
Tâm vô thường là tâm vọng tưởng lăng xăng, lúc nghĩ thế này, lúc nghĩ thế khác, niệm niệm không ngừng nghỉ. Mình tuy thân ngồi ở đây, nhưng có khi tâm lén lút chạy đầu này đầu kia, nhớ nghĩ đến người này người nọ, nghĩ những điều không phải. Trong ca dao Việt Nam thường nói từ “đồng sàng dị mộng”, đó cũng là một dạng tâm vô thường, nhiều khi mình có chồng, có vợ rồi nhưng sống mà lại nghĩ đến người khác, đó là tâm tà dâm, rồi tâm lén lút đi đầu này đầu kia cũng là tâm ăn trộm. Nhiều khi mình nói thân mình ở đây, đâu có phạm gì, nhưng thực ra tâm duyên theo nghĩ đến người khác là phạm rồi. Chỉ có tu, mình mới thấy được những niệm đó để chuyển hóa.
Trong Kinh Pháp cú có kể: Có một ông Thầy Tỳ kheo tên là Tăng Hộ, đi tu với người cậu ruột là Tỳ kheo đã chứng A la hán. Một hôm đi khất thực, ông được thí chủ cúng dường một sấp vải. Ông suy nghĩ, muốn đem sấp vải quý cúng dường cho Thầy, đồng thời là cậu mình. Nhưng khi mang đến thì người cậu nhất định không nhận. Thầy Tỳ kheo buồn, suy nghĩ: “Cha mẹ mình đã chết, giờ chỉ còn cậu mà giờ cậu vô tình không chịu nhận đồ cúng dường, chắc không còn thương mình. Giờ phải làm sao, hay là về đem sấp vải này bán đi, mua một bầy gà nuôi, sau khi lớn bán đi mua tiếp một bầy dê, sau bán đi mua tiếp một bầy bò. Có nhiều tiền mình sẽ cưới một người vợ rồi sanh con. Sau khi sanh con thì nhân ngày nghỉ dẫn vợ và con đến thăm cậu. Đi giữa đường hai người giành đứa con để bế, giành qua giành lại đứa nhỏ rớt xuống đất, bực mình quá sẵn cây gậy gõ lên đầu mụ vợ”. Vừa gõ xong, nghe thấy tiếng ông Thầy: “Con không gõ vào đầu mụ vợ của con mà gõ lên đầu của ta rồi”. Mới thấy có một chút, chỉ vì Thầy không nhận cúng dường sấp vải mà tâm của người cháu đã vọng tưởng xa như vậy mà ngay trong giờ phút thực tại đó không thấy lại được chính mình. Ông Thầy đã chứng A la hán, thấy rõ tâm của đệ tử nên nói vậy, đệ tử nghe xong hoảng sợ co giò chạy, các vị sa di khác liền đuổi theo. Đức Phật nghe thấy tiếng ồn ào liền gọi Ngài A Nan đến tìm hiểu. Sau khi nghe trình bày xong, Đức Phật nói bài kệ:
Tâm đi xa một mình
Ẩn hang sâu vô hình
Ai bình tâm khéo giữ
Thoát vòng ma kiết sử.
Ngay cả chúng ta cũng vậy, nhiều khi quý vị thân ngồi đây nghe pháp mà tâm cũng vọng tưởng đi tận đâu đâu, dạo chỗ này chỗ kia, làm việc này việc nọ.
Có người làm bài kệ như thế này:
Loay hoay đã nửa kiếp người
Thu bay trên nửa nụ cười xanh xao
Rõ ràng mở mắt chiêm bao
Biết như mộng huyễn vẫn đau xé lòng.
Chúng ta dù biết rằng cuộc đời này là mộng huyễn, là vô thường nhưng có khi vẫn phải chịu những nỗi đau đến xé lòng, bởi vì chúng ta chưa có một lần nào mở mắt hết. Khi mở mắt, thấy rõ thực cuộc đời là mỏng manh, là vô thường, tạm bợ thì chúng ta mới tỉnh giấc.
Bây giờ qua phần công phu, có một vị Tăng đến hỏi Sơ Tổ Trúc Lâm:
- Đại đức khổ nhọc tu hành đã trải qua nhiều năm, đối với sáu thông của Phật, Ngài đã được mấy thông?”
Tổ đáp:
- Cũng được sáu thông.
Vị Tăng nói:
- Năm thông kia gác qua, thế nào là tha tâm thông?
Tổ nói:
- Đầy cả quốc độ, có bao nhiêu thứ tâm, Như Lại đều biết, Như Lai đều thấy.
Nhiều khi mình thấy ai đó biết được sự vận hành ý niệm của mình thì mình khen người đó tu giỏi. Nhưng đối với nhà Phật thì không dính dáng gì cả. “Đầy cả quốc độ” chính là tâm thức mình, trong tâm thức đó có bao nhiêu thứ tâm, tâm ganh ghét, tâm tật đố, tâm ích kỷ, …., tất cả mọi thứ tâm vọng niệm khởi lên, ai thấy? Chính cái biết của mình thấy. Đó là “Như Lai đều biết, Như Lai đều thấy”. Đó chính là pháp tu thiền của chúng ta, nhìn lại tâm thức của mình, thấy để chuyển hóa, thấy mà không theo duyên, không đồng hóa mình với nó thì mình không có khổ. Có như vậy thôi mà chúng ta không chịu tu, cứ thấy cái gì lạ là chạy theo.
Có ai ở đây khi ngồi thiền thấy chuyện này chuyện kia mà cho đó là chỗ cứu kính không? Dù cho quý vị có thấy được những kiếp xa xưa của mình hay nhìn thấy được bất kỳ cái gì bên ngoài thì đối với nhà Thiền cũng chưa dính dáng gì. Bởi vì đó là tướng sanh diệt, vô thường, tướng ảo, tướng phù du. Chỉ có nhìn lại tâm mình, thấy rõ tâm vô thường để chuyển hóa thì mới không uổng một kiếp người.
Trong Thiền thoại có kể câu chuyện: Có một anh chàng bán đậu hũ, một hôm đi ngang qua Thiền viện của Thiền sư Bạch Ẩn, thắc mắc tại sao các Thầy lại ngồi im nhắm mắt vậy. Sau khi biết được là các vị Tăng đang ngồi thiền, anh cũng thích và muốn được ngồi giống như vậy. Sáng hôm sau, anh đến ngồi thiền cùng các vị Tăng, ngồi một lúc, bỗng anh la lên mừng rỡ: Thấy rồi, thấy rồi. Mọi người nghe ngạc nhiên, tưởng anh ngộ đạo hỏi anh thấy cái gì. Anh trả lời: Pháp thiền này hay quá, nhờ ngồi thiền con nhớ được có người thiếu con mấy chục ngàn tiền đậu hũ mà từ trước tới giờ con quên. Chúng ta tu thiền không phải giống như vậy, không phải để nhớ chuyện này chuyện kia trong quá khứ. Đó đều là tướng sanh diệt, đối với nhà Thiền không dính dáng gì cả.
Trong Kinh Người biết sống một mình, Đức Phật nói bài kệ:
Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút thực tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Hãy tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Thì Mâu Ni gọi là
Người biết sống một mình.
Thường những người lớn tuổi hay duyên về quá khứ, ta đã từng hạnh phúc như thế này, từng có địa vị như thế kia…, còn người trẻ thì hay nghĩ đến tương lai, sau này mình làm gì... mà không hay rằng chính những cái đó đang giết mình, làm cho mình không sống được trong giờ phút thực tại.
Chúng ta tưởng về quá khứ cũng làm cho mình đau khổ, tưởng tới tương lai cũng làm cho mình đau khổ. Ngay trong hiện tại, quý vị cứ làm hết tất cả các điều thiện, cố gắng tu tập thì không cần phải đi coi bói ở đâu cả, cứ làm hết sức mình trong giờ phút thực tại thì tương lai có mặt, làm tốt thì tương lai tốt, làm xấu thì tương lai xấu.
- 3. Cảnh vô thường
Ở bên ngoài có rất nhiều cảnh vô thường hàng ngày diễn bày một cách rõ ràng trước mắt chúng ta. Trong sự vô thường biến đổi đó, nếu chúng ta không thức tỉnh, không chịu tu tập thì dễ bị những ngũ dục đời thường quyến rũ, dẫn dắt mình đi.
Trong Thiền thoại có kể câu chuyện: Ngày xưa có vị vua tên là Sa-lô-mông, có một vị quan cận thần rất là thân tín, một hôm vua đến tìm vị quan nói: “Khanh hãy tìm cho trẫm một cái vòng đeo tay mà ai đang hạnh phúc nhìn cái vòng này thì khổ đau, ai đang khổ đau nhìn cái vòng này thì được hạnh phúc”. Ông quan đi tìm suốt một thời gian mà không tìm được nên rất buồn. Một hôm ông đi vào một thành rất cổ xưa thì gặp một ông cụ già. Sau khi nghe ông kể hết sự tình thì cụ già đưa ra một cái vòng, hỏi: “Có phải là cái vòng này hay không?” Đang buồn vì không tìm được chiếc vòng nên nhìn thấy chiếc vòng, ông vui liền. Trên cái vòng này ghi một dòng chữ: “Tất cả rồi cũng sẽ trôi qua thôi”. Có nghĩa là có những niềm đau nỗi khổ trong cuộc đời này rồi cũng sẽ trôi qua. Sau khi đem chiếc vòng trở về cung thì bá quan văn võ đều đến xem. Vua rất đắc ý vì tin rằng không có chiếc vòng nào như vậy cả, vừa cười vừa hỏi ông quan: “Đã tìm thấy chiếc vòng chưa?” Vị quan đại thần đưa chiếc vòng ra, nhìn thấy dòng chữ trên chiếc vòng, ngay lập tức sắc mặt vua sa sầm xuống, thấy tất cả những gì mình đang có, cung điện, phi tần… tất cả rồi cũng sẽ qua, không còn gì, tự nhiên hết tâm kiêu mạn,
Qua câu chuyện này để quý vị thấy rằng Đức Phật nói về vô thường không phải để cho chúng ta buồn, bi lụy, khổ đau mà nhờ vô thường chúng ta có một sức sống mới, xưa giờ có làm cho mọi người đau khổ, giờ tu học, hiểu Phật pháp rồi thì không còn muốn làm ai buồn khổ nữa vì biết rằng sẽ có lúc tất cả đều chết, giờ cố gắng làm tất cả các thiện pháp, tu tập để chuyển hóa tâm thức.
Qua bài pháp ngày hôm nay, chúng tôi mong rằng sau khi nghe được bài pháp vô thường này thì quý vị “vạn sự nước trôi nước, trăm năm lòng nhủ lòng”, đời đời phát tâm bồ đề, tu hành cho đến ngày thành Phật theo đúng con đường chánh pháp mà quý vị đã từng thấy, từng nghe, từng tu tập.
-
3. HÃY LUÔN QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT TRONG CUỘC SỐNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
HÃY LUÔN QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT TRONG CUỘC SỐNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Giảng tại Chùa Phật Đạo, CHLB Đức
I. DẪN NHẬP
Trong Thiền sư Trung Hoa tập 1, có một vị tăng đến hỏi Thiền sư Triệu Châu: “Bạch Hòa thượng, con chó có Phật tánh hay không?”. Thiền sư Triệu Châu trả lời: “Có”. Vị Tăng hỏi: “Tại sao con chó có Phật tánh mà lại chui vào đãy da như thế?”. Thiền sư Triệu Châu nói: “Vì biết mà cố phạm”.
Cũng vậy, chúng ta là người tu đều biết sân hận là khổ, biết phiền não là khổ, biết nói lời nặng đến người khác là làm người ta đau khổ, mà chính ngay trong giờ phút đó ta cũng không vui sướng gì, nhưng tại sao biết là dở mà vẫn làm? Trong Chỉ Nguyệt Lục có ghi, một hôm bà Yêm Ma La Nữ đến hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: “Chúng sanh biết sân là khổ, biết phiền não là khổ, biết con đường luân hồi sinh tử là khổ, mà sao vẫn đi vào?” Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: “Biết, nhưng cái biết đó còn rất yếu”.
Tức là khi dòng tư tưởng khởi lên, mình không dừng được mà bị nó kéo lôi đi. Sở dĩ không dừng được là bởi vì hằng ngày chúng ta không có sự quán chiếu, quán niệm một cách liên tục về cái chết. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta hay tật đố, ghanh ghét, không chịu được khi thấy người khác hạnh phúc là bởi vì lúc nào mình cũng tưởng cuộc đời này còn dài, mình còn sống dai lắm. Nhưng nếu lúc nào cũng quán niệm là trong cuộc đời này chúng ta chỉ ở tạm thôi, mai kia sẽ phải ra đi thì sẽ buông bỏ rất nhanh. Ví dụ như có hai người giận nhau, luôn ôm ấp trong lòng những phiền não, oán hận nhưng nếu bữa nào nghe được tin người kia bị bệnh sắp chết hoặc mai mình không còn sống trên đời nữa thì có còn giận nhau nữa không, hay là buông? Do đó, ngày hôm nay chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị một đề tài: “Hãy luôn quán niệm về cái chết trong cuộc sống giữa đời thường”.
II. HÃY LUÔN QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT TRONG CUỘC SỐNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Trong Kinh Trung Bộ có ghi: Một thời Đức Phật ở tại xứ Koliya, một hôm Ngài nhập đại định, biết cô gái con người thợ dệt có nhân duyên với mình trong thời quá khứ. Trong pháp hội tại đây ba năm về trước, cô gái này đã được nghe Đức Phật dạy quán niệm về cái chết, về nhà cô thường xuyên quán niệm về những lời dạy đó. Bây giờ, khi Đức Phật quay trở lại, Ngài biết chắc chắn rằng tối nay cô gái sẽ chết, và tuy rằng cô quán niệm sâu sắc về cái chết nhưng vẫn chưa chứng quả nên sẽ tiếp tục rơi vào con đường sanh tử. Do vậy, Đức Phật mở lòng từ bi thương xót đến đó để độ cho cô gái.
Khi hội chúng đang đông đủ, cô gái bước vào cửa, thành tâm bước đến đảnh lễ Phật.
Đức Phật hỏi cô:
- Con từ đâu đến?
- Bạch Thế Tôn, con không biết.
- Rồi con sẽ đi về đâu?
- Bạch Thế Tôn, con không biết.
- Con không biết sao?
- Dạ con biết.
- Con biết thật không?
- Dạ con không biết.
Ðại chúng ngồi nghe bốn câu vấn đáp giữa Đức Phật và cô gái, ai cũng ngơ ngác chẳng hiểu gì, cho rằng cô gái trả lời ngớ ngẩn. Ðức Phật thương xót muốn khai thị cho đại chúng nên hỏi tiếp:
- Này con, khi Như Lai hỏi con: “Con từ đâu đến?”, tại sao con nói “Con không biết”?
- Bạch Thế Tôn, ngài hẳn đã biết con từ nhà đến đây. Nhưng ý Ngài muốn hỏi con từ cảnh giới nào tái sanh đến đây, điều đó con không biết.
Bồ Tát vì nguyện lực mà tái sanh vào cõi Ta bà này dìu dắt chúng sanh, còn chúng ta thì vì nghiệp lực mà đến. Do vậy quý vị có biết mình từ cảnh giới nào mà đến không?
- Này con, khi Như Lai hỏi: “Rồi con sẽ đi về đâu?”, tại sao con nói “Con không biết”?
- Bạch Thế Tôn, Ngài hẳn đã biết con đi đến xưởng dệt vì con đang cầm giỏ suốt chỉ trên tay. Nhưng ý Ngài muốn hỏi con sẽ tái sanh về đâu, điều đó con không biết.
- Này con, khi Như Lai hỏi: “Con không biết sao?”, tại sao con đáp “Con biết”?
- Bạch Thế Tôn, vì con biết chắc chắn rằng con sẽ chết.
- Khi Như Lai hỏi “Con biết thật không?”, tại sao con đáp “Con không biết”?
- Bạch Thế Tôn, vì con không biết rõ chừng nào con sẽ chết và sẽ tái sanh về đâu.
Ðức Phật khen ngợi cô gái sáng trí, nhờ thường quán niệm về cái chết nên đã hiểu ý Phật, rồi Ngài nói bài kệ:
Thế gian này mù quáng
Chẳng mấy người thấy rõ
Như chim thoát khỏi lưới
Rất ít đi thiên giới.
Tức là ai là người thấy rõ được từng tâm niệm của mình sanh diệt liên tục, và ai sẽ thấy rõ được mình sẽ chết rồi tái sanh về đâu?
Sau khi nghe xong bài kệ của đức Phật, cô gái chứng quả Tu-đà-hoàn, tức là đã kiến đạo. Chiều hôm đó, tại xưởng dệt, cô bị tai nạn qua đời. Cha cô vô cùng đau khổ, đến thưa với Phật. Đức Phật giảng Tứ-diệu-đế để khuyên giải ông và cho ông biết con gái ông đã tái sinh về cung trời Ðâu-suất. Nghe vậy người cha xin xuất gia tu tập, sau bốn tháng ông quán chiếu sâu sắc về lý vô thường và cái chết, ông chứng quả vị A la hán.
Như vậy có nghĩa là nhờ quán chiếu sâu sắc về vô thường và cái chết, có những người đã được giải thoát ngay trong cuộc đời này.
Khi chúng ta bước lên giường ngủ, chúng ta không thể bảo đảm ngày mai mình còn sống hay không. Cho nên Ngày Zopha Rinpoche trước khi đi ngủ, thường sắp xếp tất cả đồ đạc ngăn nắp, gọn gàng để cho người sau sử dụng. Bởi vì Ngài thường quán chiếu rất sâu về cái chết đến, cho rằng khi mình lên giường nằm ngủ rồi, biết đâu cơn vô thường xảy đến thì không còn sống và sử dụng những thứ này được nữa. Do quán chiếu sâu sắc về cái chết như vậy nên khi cái chết đến, các Ngài không sợ hãi.
Trước khi nhập Niết bàn, Đức Phật thọ ký rằng sau khi Như Lai nhập Niết bàn, ở xứ Trung Ấn, có một vị thánh đệ tử ra đời tên là Ưu Ba Cúc Đa, nghĩa là Vô tướng hảo Phật, độ người chứng quả rất nhiều.
Tại nước Kế Tân, có một người thanh niên giàu có sống với một người vợ rất trẻ đẹp, nhưng người thanh niên này nhận thấy cuộc đời có nhiều nỗi thống khổ nên quyết chí xuất gia. Được một thời gian anh thấy cuộc sống xuất gia cũng có những khó khăn riêng, không phải lúc nào cũng an ổn giống như mình tưởng tượng nên xin hoàn tục, trở về đời sống cư sĩ tại gia. Tổ Ưu Ba Cúc Đa có thần thông, biết được nên đã bảo ông ở lại với Ngài một đêm trước khi hoàn tục. Tối hôm đó, Tổ dùng thần lực làm cho vị Tỳ kheo này nằm mộng thấy mình về nhà, vợ đã chết được ba ngày, thây sình thối lên. Vị này sợ quá giật mình tỉnh dậy, biết chỉ là giấc mộng. Sáng hôm sau, vị Tỳ kheo này đảnh lễ Tổ, xin về nhà một ngày rồi mới quay trở lại để hoàn tục. Ông đi bộ ba ngày mới về đến nhà, hay tin vợ mình đã chết được ba ngày, thây sình thối. Chứng kiến cảnh trước kia bà vợ rất đẹp giờ chỉ còn lại một thây sình thối, vị Tỳ kheo này quán chiếu sâu sắc về cái chết và ngay trong giờ phút thực tại đó chứng quả vị A la hán. Sau đó vị Tỳ kheo này trở về đảnh lễ Tổ Ưu Ba Cúc Đa xin sám hối.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy, một người thấy cuộc sống xuất gia khổ đau, không có an ổn, hạnh phúc, nhưng sau khi quán niệm sâu sắc về cái chết thì tức khắc lìa bỏ hết tất cả. Khi chúng ta còn thèm, còn muốn là chúng ta chưa quán niệm thật sâu sắc về cái chết, nếu quán niệm liên tục thì tự nhiên buông bỏ rất nhẹ.
Những lượn sóng nghịch duyên khổ đau đó, nếu quý vị chiếu kiến vào mới thấy tuy nghịch duyên khốn khổ thật, nhưng bản chất nó vô thường, không tự tánh. Cái gì thấy được bản chất vô thường, không tự tánh đó? Hiểu được và sống được với nó tự dưng mình vượt thoát ra được nghịch duyên đó.
Ngài Lạt ma Zopha Rinphoche nói rằng: “Phương thuốc chính yếu để chữa trị các pháp thế gian là thiền định về sự vô thường và cái chết. Nếu ta không nhớ tưởng về cái chết, ta không nhớ tới pháp.” Đang nghe pháp như vậy, nhưng khi ra đến ngoài cửa là quý vị không còn nhớ pháp, mà không nhớ pháp thì không hành pháp, dần dần sẽ bị thối Bồ đề tâm. Cổ đức có nói: “Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên, tam niên bất kiến Phật”. Có những người thời gian đầu mới biết pháp, tu tập rất tinh tấn, nhưng một thời gian sau bị lờn thuốc, cũng là do không quán niệm sâu sắc về cái chết. Một khi đã quán niệm sâu sắc rồi thì lúc ngồi thiền, vọng tưởng không còn xô đẩy đến nhiều nữa. Chính bản thân chúng tôi cũng có kinh nghiệm điều này khi nhập thất, rằng khi lên bồ đoàn, quán niệm chưa chắc mình sẽ còn đứng dậy để sống trong cuộc đời này nữa thì tự dưng niệm lăng xăng bặt đi. Rất hay!
“Và cho dù ta nhớ tưởng tới pháp, nhưng nếu ta không nhớ tưởng về sự vô thường về cái chết thì ta cũng không thực hành pháp được”.
Có nhiều quý vị nhớ tới pháp, lý luận rất hay, nhưng do không nhớ đến cái chết nên không chịu tu. Mình tưởng mình sống đời, sống mãi mãi mà không biết cái chết đến bất chợt, không báo trước. Hiểu được điều đó rồi chúng ta mới thực hành được pháp.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật hỏi các chúng đệ tử:
- Mạng người sống trong bao lâu?
Vị thứ nhất trả lời: Mạng người sống trong một ngày.
Phật nói: Ông chưa thấy đạo.
Vị thứ hai nói: Mạng người sống trong bữa ăn.
- Ông cũng chưa thấy đạo.
Vị thứ ba trả lời: Mạng người sống trong hơi thở.
Phật xác chứng: Ông đã thấy đạo.
Hơi thở mình hít vào, không thở ra là chết. Chính ngay trong khoảng khắc đó, Phật tử quán sâu sắc là quý vị đã thấy đạo, là giải thoát.
Bên Thiền Nguyên thủy dạy rất kỹ về vấn đề này. Chẳng hạn ly nước này rất thơm ngọt, quý vị có cảm nhận được không? Đương nhiên là cảm nhận được, mình đâu phải là gỗ đá. Nhưng cảm nhận đây là vị ngọt và thấy được sự nguy hiểm của vị ngọt thì tức khắc xuất ly, mà xuất ly là giải thoát. Ví dụ biết đây là thuốc độc, mình có uống hay không? Mình không uống nữa là giải thoát rồi. Rất đơn giản. Nhiều khi chúng ta cho rằng Thiền Nguyên thủy có thứ lớp, nhưng thực ra pháp không có thứ lớp, thứ lớp hay không là do mình. Các phương pháp Đức Phật dạy đều chỉ thẳng vào tâm yếu của mình. .
Nhiều người nói tu theo phương pháp sổ tức là hạng sơ cơ, nhưng hoàn toàn không phải. Khi quý vị hít sâu vào, thấy được từng niệm, từng niệm, đó là tuệ. Mà cái gì thấy được là tuệ, cái gì dừng được những niệm này là định. Định tuệ đồng đẳng. Phương pháp niệm Phật cũng vậy, Mật tông cũng vậy. Muốn đi vào chỗ Đại Phật Như Lai hay Đại Thủ Ấn thì thân khẩu ý phải tương ưng. Cho nên các phương pháp Phật đưa ra đều chính xác hết, chỉ sợ mình có chịu thực tập hay không.
Trong Thiền thoại có kể lại rằng, vào đời nhà Tống, có một vị Hòa thượng tu hành đắc đạo có một người bạn tên là Trương Tổ Lưu. Một hôm Hòa thượng khuyên bạn đã lớn tuổi rồi, cái chết vô thường không biết đến lúc nào, cố gắng tu hành, bố thí và làm các thiện pháp. Ông bạn cho rằng mình hãy còn khỏe, còn sống được lâu nên hẹn sẽ tu tập sau khi hoàn thành ba điều ước nguyện. Điều thứ nhất là con trai lớn chưa lấy vợ, đứa con gái kế lại chưa gả chồng, điều cuối cùng là nhà chưa xây cất xong. Quả tình đúng một tháng sau, ông Trương chết. Hòa thượng đến đưa đám, không tụng kinh gì mà chỉ đọc một bài kệ:
Bạn tôi tên là Trương Tổ Lưu
Khuyên ông tu học, hẹn ba điều
Ba điều chưa vẹn, vô thường đến
Đáng trách Diêm Vương chẳng nể nhau.
Một khi vô thường đến thì Diêm Vương không nể một ai cả, có chăng là trường hợp của ông tri sự trong câu chuyện sau. Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có kể rằng, trong hội của Thiền sư Tuệ An, có ông thầy tri sự tuổi cũng khá lớn, đạo hạnh cao minh, giữ gìn giới luật, nhưng hiềm nỗi việc Phật sự bề bộn nên không có thời gian tu nhiều. Một hôm ông đang ngồi thiền, lính của Diêm vương hiện lên nói rằng: “Bạch Hòa thượng, thời hạn của Hòa thượng hết rồi, xin Ngài đi theo tôi”. Hòa thượng nói rằng: “Ông về tâu với Diêm Vương, việc Phật sự của tôi bề bộn quá, tôi phải lo cho đại chúng nhiều, nên xin gia hạn cho tôi bảy ngày”. Diêm Vương nể tình ông Thầy tri sự nên đồng ý lùi lại bảy ngày. Trong suốt bảy ngày này, ông thầy tri sự tu miên mật, không xen hở một niệm. Hết bảy ngày, quỷ sứ đến tìm ông nhưng không thấy. Ngài ngồi ngay đấy, mà nó tìm không thấy. Thấy chỗ nào? Ngồi đây là thấy cái bóng thôi, chỗ chánh nhân Phật tánh làm sao mà thấy? Ngay chỗ vô niệm ai thấy được? Quỷ sứ tìm suốt bảy ngày không thấy bèn bỏ đi. Ngài ngồi xong cũng tịch luôn. Như vậy là dù cho Diêm Vương có nể, cũng chỉ cho hạn bảy ngày. Nếu có người nào biết mình chỉ sống được một tháng nữa, bảo đảm người đó tu rất tinh tấn để giải thoát.
Một trường hợp có thật, tại nước Bỉ có một cô gái tuy cả đời không làm điều ác, nhưng không hề biết đến việc tu tập mà chỉ cảm thấy đó là chuyện mơ hồ. Bỗng một hôm khám bệnh, cô phát hiện mình bị ung thư ở giai đoạn cuối không thể cứu chữa, bác sĩ khẳng định cô sẽ chết trong một, hai tháng tới. Gia đình mời hai vị thầy đến hướng dẫn, khuyến khích và trợ duyên cho cô ngồi thiền. Biết chắc chắn là mình chỉ còn sống được một tháng thôi, nên cô buông bỏ hết tất cả, chỉ tập trung ngồi thiền, không nhớ nghĩ gì khác, thậm chí có ngày ngồi suốt cả buổi không ăn uống gì. Cho đến ngày cuối cùng trước khi cô ra đi, cô nắm tay người chị gái, cười rồi nhẹ nhàng ra đi, không hề cảm thấy đau đớn gì.
Một trường hợp khác, tại Canada có một người Phật tử trước đây cũng tu thiền. Một hôm anh cũng phát hiện mình bị ung thư giai đoạn cuối và được bác sĩ trả về nhà. Biết mình chắc chắn sẽ chết, anh quyết định bỏ hết tất cả, vào phòng riêng đóng cửa ngồi thiền cho đến chết. Trước đây anh chỉ ngồi một tiếng thì bây giờ anh ngồi liên tục cả ngày cho đến hai, ba ngày. Ngồi suốt như thế đến một hôm khi đang ngồi, anh thấy bụng mình sôi lên, khi xả chân ra đi cầu thấy phân đen như hắc ín. Sau khi đi khám lại thì hết bệnh luôn.
Hai trường hợp trên là tùy theo phước duyên của mỗi người. Nhưng qua đó chúng ta thấy khi quán niệm sâu sắc về cái chết rồi, mình tu hành sẽ rất tinh tấn. Còn giờ chúng ta ngồi nhức nhức chân là xả ra, nói thôi mai tu tiếp, hoặc mình niệm Phật được một lúc, thôi xả ra đi chơi, mai tu tiếp. Nhưng ngày mai chúng ta có tu tiếp không? Cũng chưa chắc, đúng không?
Quán chiếu được sự vô thường đó, Sơ tổ Trúc Lâm có làm bài kệ:
Thân như hơi thở ra vào mũi
Đời giống mây trôi đỉnh núi xa
Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng
Đâu phải tầm thường qua một xuân.
Quý vị có thấy cuộc đời mình giống những đám mây không? Có lúc chúng ta làm được những thiện pháp trong đời quá khứ thì đám mây tụ lại thành hình ảnh giàu sang, sung sướng. Qua giai đoạn đó rồi, trong thời quá khứ ta cũng đã từng làm ác pháp, đám mây lại tan ra, tụ lại thành hình ảnh khác. Chúng ta thấy cuộc đời rất ảo ảnh, vô thường. Nhưng đạo Phật chỉ ra điều đó không phải để quý vị bi quan, mà là để quý vị phấn phát đi sâu vào thiền định, thấy rõ được tính vô thường của các pháp và mình phải sống cuộc đời như thế nào cho có giá trị.
Tinh thần của nhà Phật là “từ khước”, có nghĩa là từ khước mọi tham ái, chấp thủ, tật đố, ích kỷ… nhưng không từ khước cuộc sống. Biết cuộc đời là vô thường, nhưng phải nương sự vô thường này để đi đến chỗ chân thường. Đạo Phật không hề bi quan, yếm thế, mà đạo Phật là “tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc với chánh pháp.”
“Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng”: Chim quyên cất tiếng kêu là động hay tịnh? Động. Vầng trăng sáng là tịnh hay động? Tịnh. Muốn thấy được mùa xuân miên viễn trong tự tánh của chính mình thì quý vị phải vượt thoát chỗ động tịnh, thương ghét, chủ khách.
Như vậy, sau khi quán chiếu sâu sắc sự vô thường và cái chết, tự nhiên quý vị sẽ có một nguyện lực mạnh mẽ hơn ngày xưa nhiều. Sẵn sàng xả thân để làm lợi ích cho tất cả, nhưng với một điều kiện là không chấp thủ. Đó chính là hạnh nguyện của Bồ Tát.
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên ghi, có một bà già đến hỏi Thiền sư Triệu Châu:
- Bạch Hòa thượng, con thấy thân người nữ khổ quá, bị chướng ngại khó tu, xin Hòa thượng chỉ cho con cách tu làm sao để kiếp sau con thành thân nam.
Hòa thượng nói:
- Không cần phải đợi đến kiếp sau, đến trước Chánh điện tôi sẽ chuyển cho bà.
Khi bà già đã đứng trước Chánh điện, Thiền sư Triệu Châu đánh ba tiếng chuông, nói:
- Nếu bà muốn chuyển thành thân nam, bà phải nghe lời tôi, phát nguyện lực như thế này: “Con phát nguyện cho tất cả mọi người đều sanh lên cõi trời, còn con thì trầm luân dưới hỏa ngục”.
Bà già sợ hãi, cho rằng lời phát nguyện này không liên quan gì đến việc bà muốn chuyển sang thân nam để dễ tu hành. Hòa thượng lúc này mới khai thị:
- Đó mới chính là chuyển thân nam.
Câu chuyện này tưởng như rất đơn giản, nhưng quý vị thử ngẫm nghĩ lại, đại trượng phu là gì? Nói người nam là trật. Đại trượng phu là người có một tâm hồn bao dung, có cái thấy xa, có nguyện lực lớn, muốn cho tất cả mọi người đều được sung sướng, an ổn còn mình sẵn sàng chịu những nỗi đau khổ của con người trong cuộc đời. Đó chính là đại trượng phu, là Phật, là Bồ tát rồi. Mà đã là Phật, là Bồ Tát thì đâu còn phân biệt nam nữ nữa. Trong thiền viện có những vị thầy tri khố trong nhà bếp, ăn uống cho bản thân rất đơn giản, nhưng lại mong muốn cho tất cả chư Tăng, chư Ni, quý vị ăn cho đầy đủ, sung túc. Tu là từ nơi tâm. Thấy được như thế rồi, các Ngài sẵn sàng phát nguyện lực lớn là chịu thống khổ cho chúng sanh là tức khắc giải thoát.
III. NĂM PHƯƠNG PHÁP QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT
Đại sư Liên Hoa Sanh đưa ra năm phương pháp quán niệm về cái chết để đưa hành giả đến con đường giác ngộ và giải thoát.
1. Quán niệm càng lúc càng tới gần cái chết.
“Khi ta bước đi, mỗi bước đi là gần kề cái chết”. Chẳng hạn như bước một bước mà biết bước thứ hai mình sẽ chết, nếu quán niệm sâu sắc như thế thì còn có vọng tưởng không? Bảo đảm là hết luôn.
“Khi ta về đến nhà, phần lớn cuộc đời đã kết thúc.”
Chúng tôi kinh nghiệm là khi đi máy bay hay xe đò…hãy liên tục quán chiếu là không có gì bảo đảm mình sẽ còn sống cho đến khi về đến nhà. Liên tục quán chiếu như vậy thì sẽ không khởi niệm về pháp thế gian nữa mà luôn luôn an trú trong pháp xuất thế gian. Khi an trú như vậy thì những niệm sợ hãi không còn nữa nên mình rất an ổn và không sợ chết.
“Khi ta đang uống một tách trà, khi ta đang ăn cơm, khi ta nói chuyện, khi ta đang thiền tập, mỗi việc ta đều quán niệm thì tự dưng việc buông xả rất nhẹ”.
Ngài Đạt Lai Đạt Ma nói: “Hãy cẩn thận, hãy thành tâm, một ngày nữa đã trôi qua”.
Trong Thiền quan sách tấn có kể một câu chuyện về Thiền sư Y Am tu hành rất tinh tấn. Khi trời chiều ngả bóng, Ngài khóc, than rằng: “Ngày nay vẫn chưa được gì, ngày mai chưa biết công phu tu tập ra sao”.
Còn Thiền sư Nham Khâm nói: “Thời giờ không đợi người, một chớp mắt đã qua đời khác, lúc thân thể còn tráng kiện, sao không dốc chí học hỏi cho thấu nguồn tột đáy, chúng ta có diễm phúc gì mà ngày nay gặp được chánh pháp?”
Quý vị nghiệm lại mình có diễm phúc không? Nhiều khi chúng ta thấy việc nghe pháp sao đơn giản quá, nhưng theo lời của Đức Phật, chúng ta có diễm phúc, có duyên may lớn mới được nghe lời thánh pháp của Đức Phật. Mà khi nghe như vậy thì những lời dạy của Đức Phật đã rớt trong tàng thức của mình, không bao giờ mất đi.
Có nhiều người lớn tuổi đến thiền viện than thở là biết đến Phật pháp quá trễ nên đã sống một cuộc đời có nhiều lầm lỗi. Nhưng có gì là muộn?
Kinh Pháp cú nói:
Ai sống một trăm năm.
Ác giới, không thiền định
Tốt hơn sống một ngày
Trì giới tu thiền định.
Chỉ sống một ngày có giữ giới, tu tập thiền định mà tốt hơn cả trăm năm không giữ giới, không chịu tu thiền định. Vậy hiện nay quý vị có túc duyên sống được bao nhiêu ngày trì giới, tu thiền định? Quá nhiều.
Ngài Lam Lim nói: “Một đời người, một trăm năm, có thể được chia làm hai phần, một nửa tiêu phí vào giấc ngủ, đây là chưa tính việc ngủ ngày, và phần lớn năm mươi năm thức giấc kia trôi đi trong việc tranh cãi, bệnh tật và nhiều hoạt động vô ích khác. Nếu chúng ta gộp lại tất cả thời gian sử dụng trong việc tu tập thì rất là ít. Và sau đó chúng ta phải chết, mặc dù bạn có một thân người toàn hảo”.
Trong Kinh Pháp cú thí dụ có ghi, bốn anh em Phạm chí chứng ngũ thông, biết còn bảy ngày nữa là chết, nên đến chào tạm biệt đức vua. Người thứ nhất nói: “Tôi lặn xuống biển, ở giữa chừng thì vua Diêm Vương sẽ không làm gì được”. Người thứ hai nói: “Tôi chui vào kẹt núi Tudi”. Người thứ ba nói: “Tôi bay trốn trong hư không”. Người thứ tư nói: “Tôi lẩn vào trong chợ”. Quả tình bảy ngày sau, quỷ vô thường đến. Người coi chợ thấy có một người Phạm chí chết ngoài chợ, đến tâu với vua. Vua đến bạch Phật, Phật khai thị rằng: “Người đời có bốn việc không thể trốn khỏi. Một là ở trong thân trung ấm không thể sanh, sanh đều phải già, già đều phải bệnh, bệnh đều phải chết”. Tức là bốn việc đó, không ai trốn được hết. Nếu chúng ta làm việc cực thiện, khi chết sẽ được tái sanh lên cõi trời; nếu chúng ta làm việc cực ác, sẽ bị đọa xuống hỏa ngục; còn những người nào lưng chừng thì thọ vào thân trung ấm, đúng 49 ngày sau là phải tái sanh, nên mới nói “ở trong thân trung ấm không thể sanh…”
Thế Tôn nói kệ:
Không trên trời giữa biển
Không lánh vào động núi
Không chỗ nào trên đời
Trốn khỏi tay thần chết
Mãi lo nghĩ trước mắt
Cùng những việc sẽ tới
Người làm lòng chẳng yên
Lo già chết theo liền
Biết thế nên tự tĩnh
Như thế sanh đã hết
Tỳ kheo thắng binh ma
Được thoát vòng sanh tử.
Nghĩa là Đức Phật nói biết chắc chắn mình sẽ chết, nên mình dừng lại và tỉnh, tức là “sanh đã hết”, thắng được binh ma phiền não thì được “thoát vòng sanh tử”.
2. Quán niệm giờ chết thì bất định
Tức là chúng ta có thể đón cái chết bất cứ lúc nào, ví như bị rắn độc cắn, bị tai nạn xe cộ, sóng thần, động đất… Trong Kinh Xuất Diệu có kể một câu chuyện: Tôn giả A Nan đi khất thực cùng Đức Phật vào thành Xá Vệ thấy một đám đông bao quanh một vị nghệ sĩ tài ba, ai ai cũng tán thán. Nhưng sau khi khất thực xong đi về, Tôn giả thấy chàng trai này đã chết, rất đỗi ngạc nhiên, Ngài đến bạch Phật: “Điều hôm nay con trông thấy thật quá lạ lùng, chưa bao giờ thấy”. Đức Phật mới nói rằng: “Mạng sống con người qua nhanh như gió, khó kiềm giữ lại được. Thế thì lời ông vừa nói, có gì đâu mà lạ”. Rồi Thế Tôn nói kệ:
Sáng vừa mới thấy
Tối đã mất rồi
Hôm qua mới đó
Giờ đã không còn
Ta đang tuổi trẻ
Không cậy vào đâu
Tuổi trẻ cũng chết
Trai gái vô số.
Trong Kinh Pháp cú, Đức Phật có bài kệ:
Nhìn đời như ảo ảnh
Nhìn đời như bọt nước
Ai nhìn đời như thế
Thần chết chẳng làm gì.
Tức là muốn thoát khỏi sanh tử, bớt đi niệm lăng xăng và những chấp thủ giữa cuộc đời thì chúng ta phải nhìn cuộc đời này như ảo ảnh, như bọt nước.
Thiền sư Khuê Phong nói rằng có ba hạng tu đạo. Hạng thứ nhất là gặp cảnh mà không dính mắc, đó là bậc thánh. Hạng thứ hai, gặp cảnh mà dính mắc, đó là những người không biết tu đạo. Hạng thứ ba, gặp cảnh thì dính mắc, nhưng ngay đó biết buông xả, đó là những người như mình, là người biết tu đạo. Như vậy thì chúng ta cũng có phần trong đó chứ không phải bi quan. Nhiều khi mình cũng sân hận, nhưng cố gắng đừng có giận lâu mà phải biết cách buông xả, còn người xuất gia thì “tăng hận bất cách túc, sanh tử nhất mộng trường”, tức là không giận quá một đêm, thấy được sanh tử chỉ như cơn ảo mộng, thì ngay đó các niệm lắng xuống, không còn giận nữa.
3. Quán niệm ai rồi cũng phải chết
Trong Cổ học tinh hoa kể lại rằng, vua Hán Vũ Đế rất giỏi coi nhân tướng học. Một hôm ông nói trước quần thần là người nào nhân trung dài thì sống rất thọ. Vừa nói xong thì ông quan Đông Phương Sóc cười to. Vua đang nói mà cười to trước mặt vua như vậy là phạm tội khi quân, phải bị chém đầu. Trước khi bị lôi ra ngoài xử trảm, vua hỏi ông: “Khi trẫm nói, tại sao khanh lại cười?”. Ông trả lời: “Thần nghe nói ông Bành Tổ sống 800 tuổi, vậy chắc mặt ông phải dài cả thước.” Vua nghe nói có lý, bèn tha tội cho ông.
Quán chiếu điều này để thấy được ai rồi cũng phải chết, có ai thoát được vô thường?
4. Ngày mai có thể đã quá trễ
Có một cửa hàng bán bánh treo tấm bảng: “Ngày mai ăn bánh khỏi trả tiền”. Nhưng thực sự có ngày mai không, hôm nay thấy có ngày mai, nhưng sang ngày hôm sau thì ngày mai của hôm qua lại trở thành ngày hôm nay, cứ tiếp tục như vậy, chúng ta mua bánh vẫn phải trả tiền bình thường.
Thấy được điều đó rồi, chúng ta phải ráng công phu, chứ không còn cách nào khác trong cuộc đời tạm bợ này.
Thiền sư Mãn Giác nói:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Việc đời cứ trôi mãi
Trên đầu già đến rồi…
Trong các pháp hội thì phần nhiều là người lớn tuổi, người trẻ rất ít, nếu có đến đông thì có khi chỉ đến cho vui, chỉ một số ít người trẻ có duyên sâu trong đời quá khứ mới đến nghe và phát tâm xuất gia. Vậy tại sao khi lớn tuổi, đầu bạc rồi thì tự nhiên chúng ta thức tỉnh mạnh hơn? Bởi vì khi phía trước cuộc đời không còn dài nữa, quý vị nghiệm lại trong thời gian mình đã sống, cái vui và cái buồn, cái nào nhiều hơn? Một trăm lần vui mà một vạn lần buồn. Chúng ta khóc cho cha, mẹ, con, cháu… đủ thứ chuyện hết. Rồi chúng ta nghiệm lại cuộc đời mình không có chỗ nương tựa, và cuối cùng phát hiện ra con thuyền duy nhất, đó là con thuyền Tam Bảo, tức là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Chỉ có con thuyền này mới cứu chúng ta thoát ra khỏi biển khổ sanh tử, cho nên chúng ta mới mạnh dạn đến chùa học pháp, chứng nghiệm pháp và chuyển hóa nội tâm. Cho dù giàu có cách mấy mà không tu thì cũng “một kiếp không tu muôn kiếp khổ, một đời không ngộ vạn đời sầu”. Ngộ là ngộ cái gì? Biết mình đang đi trên một chiếc máy bay, có thể một lúc nào đó nó sẽ rớt xuống, chỉ cần ngộ thế thôi cũng đã là thức tỉnh mạnh rồi, chứ chưa nói đến những cái cao siêu khác. Tức là chúng ta ngộ từ cái nhân để đi đến cái quả. “Liễu ngộ Phật tánh” là nhận ra được chỗ chánh nhân. Muốn nhận được chánh nhân Phật tánh thì quý vị phải tu từ nơi nhân. Tu nhân mới được quả.
Trong Kinh Pháp cú thí dụ có kể lại câu chuyện, Phật ở tại thành Xá Vệ, trong thành có một vị Bà la môn đã 80 tuổi rất giàu có. Sau khi nhập đại định, Phật biết ngày hôm nay ông sẽ bị chết. Phật thương xót muốn độ ông nên đến gặp ông và nói một bài kệ để khai thị:
Lắm con nhiều của
Người ngu mãi rộn ràng
Ta còn không thật có
Lo gì của và con.
Nghe xong vị Bà la môn nói: “Bạch Đức Thế Tôn, bài kệ này hay lắm, nhưng nói thật con còn đang xây nhà, từ từ con nghe sau”. Quý vị thử nghĩ Phật có cứu được không? Nếu mình không tự cứu mình trước thì Phật nào cứu được? Sau khi Phật đi rồi, vị Bà la môn này bị một cây đòn tay ở xà nhà rơi xuống đầu mà chết.
Đức Phật đi tiếp một đoạn thì gặp 500 vị Phạm chí, những vị này hỏi nguyên nhân chuyện xảy ra và được Đức Phật kể lại. Sau khi nghe Đức Thế Tôn nói lại bài kệ thì 500 vị này liền chứng quả A la hán. Như vậy tại sao vị Bà la môn kia nghe bài kệ không ngộ mà 500 vị Phạm chí này lại ngộ? Tại vì trong giờ phút hiện tại, tâm niệm khao khát về pháp và buông xả các pháp thế gian để đón nhận pháp xuất thế gian tương ưng thì tức khắc ngộ chứ không có gì khác. Cho nên chúng ta muốn ngộ, muốn giải thoát thì phải tập buông xả, càng buông xả nhiều chừng nào càng giải thoát nhiều chứng đó. Quý vị phải tin chắc vào điều này.
Tôi hay kể câu chuyện có vị thầy ở Tây Tạng công phu rất giỏi, có thần thông có thể khiến một người tịch tại chỗ, thần thức bay lên Tây Phương cực lạc. Trong pháp hội của Ngài, ai ai cũng muốn được lên Tây phương, nhưng khi hỏi kỹ lại từng người thì ai cũng còn ràng buộc nhiều điều trần tục tại cõi thế gian, nào là của cải, nào là gia đình, chồng vợ, con cái… Chỉ duy nhất một cậu bé 17 tuổi là không có ràng buộc gì, vì cha mẹ đều chết, còn nhà thì bị cháy, liền được Ngài giúp đưa về Tây phương cực lạc.
Câu chuyện trên nghe qua rất đơn giản nhưng ngầm ý rất sâu. Có nghĩa là chúng ta muốn lên cõi Phật, muốn giác ngộ, muốn giải thoát thì chúng ta phải buông lần lần. Ông Bàng Long Uẩn sau khi ngộ liền đem của cải đổ xuống sông xuống biển, còn chúng ta chưa ngộ sâu như ông nên phải từ từ bớt chấp thủ. Người đời luôn trân quý những gì bàn tay mình làm ra, rất khó buông bỏ, giống như ông Bàng Long Uẩn nói:
Người đời quý trân bảo,
Ta quý sát na tịnh,
Báu nhiều loạn lòng người,
Tịnh nhiều thấy Phật tánh.
Có câu chuyện có một ông này nhà rất nghèo nhưng sống rất hạnh phúc, ngày ngày chiều đi làm về, ăn cơm, đi dạo quanh khu vườn nhỏ của mình rồi về ngủ một giấc ngon lành, không hề vướng bận suy nghĩ gì. Một hôm ông làm ruộng, đào được một bức tượng La Hán rất lớn bằng vàng ròng. Từ đó ông rất khó ngủ, lúc nào cũng như có chuyện gì đó canh cánh trong lòng. Bà vợ thấy vậy tưởng ông lo bị trộm mất khuyên ông nên bán tượng đi lấy tiền tiêu. Ông trả lời: “Tôi nghe trong chùa nói có 18 tượng La Hán, nên tôi đang suy nghĩ còn 17 tượng nữa nằm ở đâu?”. Chúng sanh quả là lòng tham không đáy.
Lại có câu chuyện về ông Lữ Động Tân thi làm quan, nhưng thi đi thi lại, lần nào cũng trượt, cuối cùng được ông Trung Hướng Ly đưa lên núi tu học đạo tiên. Sau ba năm thành tài, ông Lữ Động Tân xin phép thầy xuống núi để giáo hóa chúng sanh, để họ tu con đường thập thiện. Thầy ông nói rằng, chúng sanh cõi này tham lam, khó giáo hóa lắm, được một lại đòi hai, được hai lại đòi ba. Ông Lữ Động Tân vẫn cương quyết xuống núi. Ông gặp một chàng trai 16 tuổi. Thấy cậu này nghèo khổ, áo quần rách rưới, ông rủ lòng thương, bèn dùng thần thông biến cục đá thành cục vàng. Thấy cậu chần chừ chưa nhận, ông nói: “Con hãy lấy cục vàng này bán đi lấy tiền nuôi gia đình, cả đời tiêu cũng chưa hết tiền”. Cậu này chần chừ một lúc rồi nói: “Ngón tay Ngài điểm đâu cũng ra vàng, nên con muốn xin ngón tay Ngài. Xài cục vàng này rồi cũng hết”. Lắc đầu, ông Lữ nhủ thầm, thầy mình nói rất đúng, chúng sanh quả là tham lam.
Sở dĩ chúng ta tham lam vậy là do chúng ta không quán niệm về cái chết đang rất gần, rất gần chúng ta. Quán niệm được như vậy thì chúng ta mới buông lần lần được.
5. Bạn sắp làm gì với đời bạn?
Ngài Đạt Lai Đạt Ma thứ 14 nói: “Muốn chết tốt đẹp, chúng ta phải sống tốt đẹp”, có nghĩa là muốn chết trong thực tại, chúng ta phải sống trong thực tại chứ không có gì khác.
Một vị Thiền sư Nhật Bản nói: “Người nào muốn biết người đó giải thoát hay không, thì phải sống giải thoát. Giải thoát năm mươi phần trăm thì khi chết chúng ta giải thoát được năm mươi phần trăm”, tức là sống thế nào thì chết như thế.
Cho nên trong Thiền thoại có ghi lại câu chuyện về Thiền sư Bảo Phước thời Hậu Đường. Trước khi Ngài tịch, các đệ tử than khóc. Một vị nói rằng:
- Nếu như tuổi trời đã tận thì sư phụ nên ra đi hay là nên ở lại?
Thiền sư cười bảo:
- Thế theo con trong ngay trong giờ phút hiện tại này, ta nên làm gì?
Đệ tử trả lời rằng:
- Sống mà sư phụ sống tốt thì chết cũng vậy thôi, tất cả đều tùy duyên.
Thiền sư:
- Lời nói trong lòng ta không biết đã bị con nghe trộm từ bao giờ.
Nói xong, Ngày cười rồi đi.
Để kết thúc bài pháp này, tôi chỉ trích dẫn một câu để chúc quý vị, đó là “Khi chúng ta sanh ra đời, ai cũng cười mà ta khóc, và chúng ta phải làm thế nào đó để khi khi rời bỏ cuộc đời này, ai cũng khóc mà ta cười”.
Như vậy thời đã đến, chúc quý vị luôn luôn sống hạnh phúc lâu dài trong chánh pháp của Như Lai.
-
4. LÀM THẾ NÀO PHÁT KHỞI BỒ ĐỀ TÂM
LÀM THẾ NÀO PHÁT KHỞI BỒ ĐỀ TÂM
Giảng tại chùa Linh Sơn, Queenland, Úc
I. DẪN NHẬP
Hôm nay hội đủ duyên lành, chúng tôi sẽ chia sẻ với quý vị về những điều mà Đức Phật đã chỉ dạy, nhằm giảm bớt những nỗi khổ niềm đau trong cuộc đời và tiến đến con đường hạnh phúc, giác ngộ giải thoát.
Trước khi đi vào đề tài chính, tôi xin hỏi quý vị một điều: Một số quý vị đi chùa, gặp người bạn cũng đi chùa rủ cùng phát bồ đề tâm làm việc bố thí, cúng dường. Vậy Phát Bồ đề tâm là gì? Có phải là bố thí, cúng dường hay làm các việc thiện pháp không? Cái đó chỉ đúng một phần thôi. Phát Bồ đề tâm ở đây là thấy những nỗi khổ của chúng sanh (khổ về tâm chứ không phải khổ về thân), chúng ta muốn cứu giúp cho họ hết khổ. Nhưng nếu chúng ta còn là phàm phu, là chúng sanh như họ thì không cứu được, mà muốn chữa được tâm bệnh của chúng sanh, chúng ta phải có năng lực lớn. Muốn có năng lực này, chúng ta phải phát bồ đề tâm tu thành Phật để độ cho họ.
Cho nên ngày hôm nay, tôi muốn chia sẻ với quý vị đề tài: “Làm thế nào phát khởi Bồ đề tâm?”.
II. LÀM THẾ NÀO PHÁT KHỞI BỒ ĐỀ TÂM
Chúng ta biết con đường dẫn đến giác ngộ giải thoát là đi từ mê đến giác. Muốn phát khởi được Bồ đề tâm, quý vị phải luôn quán chiếu thứ nhất là mình có phúc duyên may mắn được làm thân người, sáu căn đầy đủ, duyên may thứ hai là chúng ta biết được chánh pháp mà Đức Phật chỉ dạy. Quán chiếu sâu sắc như thế thì tâm bồ đề của chúng ta phát khởi.
Vua Trần Thái Tông dạy: “Trong lục đạo, chỉ có người là quý, đến khi nhắm mắt đi rồi mờ mờ mịt mịt chẳng biết chỗ đến, hoặc vào đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, chẳng được làm người. Đây là cái khó thứ nhất”.
Cho nên chúng ta phải thấy rằng mình có phúc duyên may mắn được làm thân người để tu, còn nếu sanh vào ba đường ác, khổ quá cũng không tu được.
Trong Thiền môn cảnh tỉnh truyện có ghi: Có một vị thánh tăng ở núi Kế Tân, dù có thể tọa thiền nhập định rất lâu nhưng Ngài thường phát tâm xuống bếp nấu cơm cho đại chúng. Một hôm, có hai vị Tăng từ xa nghe tiếng tăm của Ngài nên muốn đến gặp, thấy một vị Tăng đang chụm lửa đốt lò ở hang dưới. Hai vị khách tăng hỏi thăm về vị thánh tăng, Ngài chỉ lên hang thứ ba ở phía trên. Họ liền đi lên tìm. Ngài dùng thần thông bay trở về chỗ phòng mình. Hai vị tăng vừa vào gặp thấy đúng là người vừa nãy ở dưới bếp chụm lò nấu cơm, ngạc nhiên liền hỏi tại sao Ngài đã nổi tiếng mà vẫn còn phải tự mình làm bếp nấu cơm như vậy? Ngài nói nếu chặt cả tay chân làm củi nấu cơm cho đại chúng ăn Ngài cũng làm, vì Ngài nhớ lại 500 kiếp về trước đều làm thân chó thường bị đói khát, khổ sở, chỉ có hai lần được no đủ nhưng đều bị mất thân mạng. Lần thứ nhất là có người uống rượu say, ói mửa ra, con chó ăn xong bị bệnh chết. Lần thứ hai làm chó trong một gia đình hai vợ chồng nghèo, một hôm hai vợ chồng nấu cháo để trong nồi rồi đi ra ngoài, con chó vì đói quá nên chui đầu vào trong nồi, ăn no nhưng sau đó không rút đầu ra được. Ông chồng về tức giận lấy dao chém đứt đầu. Cho nên Ngài quán chiếu lại các kiếp trước của mình đã từng phải làm súc sanh, chịu khổ vô cùng nên giờ được làm người, được tu tập chứng quả nên xả bỏ thân này ngàn vạn lần cho chúng sanh Ngài cũng không tiếc.
Bây giờ chúng ta chưa được như Ngài, nhưng chúng ta nương câu chuyện này để biết rằng biết đâu trong thời quá khứ, chúng ta đã từng làm bò, làm heo, làm chó. Do một túc duyên may mắn nào đó mà hiện nay được làm thân người, cho nên chúng ta phải tranh thủ phát khởi tâm bồ đề, làm các thiện pháp, tu tập chuyển hóa nội tâm để thành Phật độ chúng sanh.
Vua Trần Thái Tông dạy tiếp: “Đã được thân người lại sanh nơi mọi rợ, tắm thì đồng sông, ngủ thì chung giường, trật tự tôn ti không có, nam nữ lẫn lộn, chẳng được phong tục nhân thuần, chẳng nghe chư Thánh giáo hóa, đây là cái khó được thứ hai”.
“Đã được sanh nơi phồn thịnh mà sáu căn không đủ, thân thể tật nguyền, mù, điếc, câm ngọng, què, thọt, còng gù, miệng mũi hôi tanh, thân hình nhơ nhớp, Thầy chẳng được gần, chúng chẳng được thân, tuy ở nơi phồn thịnh, dường thể ở ngoài quê vắng. Đây là cái khó thứ ba”.
Quý vị thử kiểm lại nơi mình, có bị mù không, có bị điếc không, có bị câm ngọng, què, gù không… nếu không thì đó là duyên may của quý vị.
Trong Nghệ thuật sống có kể một người thanh niên làm ăn thua lỗ, tuyệt vọng muốn tự tử chết. Trên đường đi ngang một khúc sông, anh gặp một ông cụ già thấy anh bộ dạng thất thểu nên hỏi thăm. Ông cụ sau khi nghe xong câu chuyện của anh, nói: “Nếu anh có can đảm thì bán cho tôi cặp mắt của anh ra, tôi sẽ trả anh 1 triệu đô la”. Anh này suy nghĩ một triệu đô la thì rất nhiều, có thể giúp anh lúc đang khó khăn này nhưng nếu không có cặp mắt thì làm được gì, cho nên không bán. Ông già lại tiếp tục đề nghị anh bán hai cánh tay với giá 2 triệu đô la, anh này nghĩ có hai triệu đô la mà không có tay cũng chẳng làm được gì nên không bán. Ông già tiếp tục đề nghị mua hai chân của anh với giá 4 triệu đô la, anh nghĩ số tiền đó rất nhiều nhưng nếu không có chân để đi lại thì cũng khó khăn nên cũng không đồng ý bán. Lúc này, ông già hỏi anh thanh niên trong con người mình có bao nhiêu tiền và anh kêu nghèo là nghèo chỗ nào? Nghe xong, anh thanh niên sực tỉnh, không tìm tới cái chết nữa.
Chúng ta có cặp mắt thấy hết tất cả thiện, ác, thiện chúng ta làm, ác chúng ta tránh, rồi mình còn có may mắn được nhìn thấy hình ảnh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, đã chỉ ra con đường hạnh phúc và an lạc cho chúng sanh. Rồi chúng ta có hai bàn tay để làm các việc thiện pháp. Cho nên đôi khi chúng ta thấy những đau khổ dồn dập đến với mình, nhưng thực ra trên cuộc đời này còn có rất nhiều chúng sanh phải chịu đau khổ gấp trăm, gấp ngàn lần mình. Quán tưởng sâu sắc như vậy thì mình không còn khổ nữa, mà còn thấy mình may mắn vì đã được làm người, biết đến Chánh pháp và lợi ích của việc phát bồ đề tâm, để mình sống một ngày có giá trị của một ngày, sống một tháng có giá trị của một tháng.
Khi làm các thiện pháp như bố thí, cúng dường…, chúng ta không mong cầu phước báo trời, người mà phải phát nguyện lực lớn là nhờ việc bố thí, cúng dường… ngày hôm nay làm trợ duyên để thành tựu quả vị tối thượng, quả vị Phật. Đó là phát bồ đề tâm chân chính.
“Nay đã làm thân người, được sanh nơi phồn thịnh, lại đầy đủ sáu căn đâu chẳng là quý sao? Người đời luôn đuổi theo con đường danh lợi, luống nhọc xác tổn thần, đem thân mạng quý báu này làm tôi tớ cho tiền của đáng khinh”.
Có những người làm ăn bất chính, kiếm tiền một cách phi pháp rồi sau đó mang tiền đi bố thí, cúng dường, quý vị nghĩ họ có phước không, có chuộc lại tội họ đã làm không? Cũng có phước, nhưng mai này tái sanh vào loài thú, và vì có phước nên cũng được ăn sung mặc sướng, hưởng mọi thứ đầy đủ nhưng mang thân thú, không có cơ hội tu tập.
Chúng ta không có nhiều tiền cũng được, nhưng biết ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, sám hối rồi hồi hướng cho chúng sanh cũng đủ, đâu cần mình phải làm việc này, việc nọ làm nhọc xác tổn thần, rồi tạo bao nghiệp xấu để tự mình gánh chịu.
“Sánh với người ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên môi nào có khác gì. Tuy thân mạng thật là quí trọng, vẫn chưa quí trọng bằng đạo tối cao. Cho nên Khổng Tử nói: “Sớm nghe đạo chiều chết cũng vui. Lão Tử nói: “Tôi sở dĩ có hoạn lớn, vì tôi có thân.” Thế Tôn thuở xưa cầu đạo xả thân cứu cọp đói. Đâu chẳng phải ba bậc Thánh nhân đều khinh thân mà trọng Đạo đó sao? Than ôi! Thân mạng thật là quí trọng còn phải xả để cầu Vô thượng Bồ-đề, huống là vàng ngọc, tiền của đáng khinh mà lại tiếc sao?”
“Đã nghe lời này, cần phải gắng học, chớ nên nghi ngờ chậm trễ. Kinh nói: “một phen mất thân người, muôn kiếp chẳng được lại”, thật là thống thiết. Cho nên Khổng Tử nói: “Người không chịu làm, tôi chẳng làm gì, cam đành thôi vậy.”
Một khi mất thân người rất khó được trở lại, giống như rùa mù gặp bọng cây. Quán chiếu như vậy để chúng ta phát bồ đề tâm, làm các thiện pháp và cố gắng tu tập để chuyển hóa nội tâm.
Trong Thiền môn cảnh tỉnh truyện có ghi, có một vị thánh tăng ở Tây quốc tên là Xà dạ đa, một hôm Ngài dắt đồ chúng vào trong thành. Khi đến cửa thành, ngài bỗng buồn, không được vui. Giây lát đi tới trước, trên đường gặp một con quạ, bỗng dưng ngài mỉm cười. Đệ tử lấy làm lạ thưa hỏi, nhân đó Ngài thuật lại chuyện để nói nguyên do:
Ban đầu ở dưới cửa thành ngài thấy một con ngạ quỷ con đói quá mệt lả, nó đợi mẹ vào thành kiếm thức ăn đến nay đã 500 năm rồi, bụng đói trống trơn rất khốn khổ, mạng chẳng còn bao lâu. Đến khi vào thành Ngài gặp quỷ mẹ. Quỷ mẹ nói: “Tôi từ biệt vào thành đã lâu để tìm thức ăn mà chẳng được, khi được chút ít đồ khạc nhổ thì bị các con quỷ mạnh cướp đi. Mới ngày hôm nay gặp một người ói mửa mà không có con quỷ nào khác, tôi định muốn đem về cho con, nhưng ở dưới cửa thành lại có nhiều quỷ thần, sợ bị giành đoạt mất nên chẳng dám mang ra. Nguyện Tôn giả từ bi ngầm đem tôi ra khỏi thành để mang những đồ người ói ra cho con cùng ăn”. Ngài lại hỏi rằng: “Từ khi sanh đến nay được bao lâu rồi?”. Quỷ mẹ đáp: “Tôi thấy thành này bảy lần thành rồi lại hoại”. Ngài nghe nó nói rất đau buồn cho việc sanh tử không có bờ mé do đó lộ vẻ buồn bã chẳng vui.Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: “Làm tất cả các thiện pháp mà quên mất tâm bồ đề đều là hành động của ma”. Chẳng hạn như bố thí, cúng dường, làm các thiện pháp mà quên mất bồ đề tâm thì đó là ma sự chứ không phải Phật sự, vì trong các việc đó có ngã, có nhân, có chủ có khách, có hơn có thua, làm đến đâu chấp đến đó. Trên tinh thần nhân quả, làm các việc thiện đó cũng có phước, nhưng là phước hữu lậu, phước sanh diệt. Còn làm với tâm bồ đề là làm tất cả các thiện pháp mà tâm không có trụ, không chấp trước.
III. TÍNH CHẤT CỦA BỒ ĐỀ TÂM
Bồ đề tâm có ba đặc tính:
- 1. Trực tâm: tâm chánh niệm chân như, tâm hướng thẳng về Phật tánh sáng suốt của chính mình. Chẳng hạn quý vị đến chùa lạy Phật, nghe pháp thì chỉ biết lạy Phật, nghe pháp chứ không thêm bớt gì, thân ở đâu thì tâm ở đấy, không vọng tưởng lăng xăng. Lái xe cũng chỉ biết lái xe, làm bất cứ việc gì chỉ biết việc đó, từ tánh biết này lưu xuất ra các pháp mà không trụ các pháp. Tánh biết vọng thì vọng lên tự tiêu, tự mất.
Trực tâm một khi phát khởi sẽ khiến trí tuệ Bát Nhã hiển lộ và đạt đến cảnh giới vô ngã. Ban đầu nhiều vọng tưởng, chấp trước, chúng ta phải nương vào văn tự Bát Nhã. Một thời gian quán chiếu về tính chất duyên khởi của các pháp, đó là quán chiếu Bát Nhã, cuối cùng thâm nhập vào thật tướng Bát Nhã. Như thiền sư Duy Tín nói: “Trước khi gặp thiện hữu tri thức, ta thấy núi sông là núi sông. Sau khi gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy, ta thấy núi sông không phải là núi sông. Ngày nay, sau ba mươi năm, ta lại thấy núi sông là núi sông.”
Cho nên một hôm vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Thế nào là đệ nhất thánh nghĩa đế?”. Ngài đáp: “Rỗng rang không có thánh”.
Trong cảnh giới “vô nhất vật” không có thánh, không có phàm, không có nhân, không có ngã, sở dĩ nói thánh vì có phàm, nói phàm vì có thánh, nói bồ đề vì có phiền não.
Trực tâm tức là tâm chân thật. Tâm chân thật tinh tấn đoạn các điều ác, làm các điều lành. Chúng ta phải phát nguyện “Một đời làm thiện cũng chưa đủ, một ngày làm ác thì quá dư”. Ngài Duy Ma Cật nói: “Trực tâm là đạo tràng, trực tâm là Tịnh Độ”.
- 2. Thâm tâm: Tâm thường thích làm các việc lành để gieo trồng các công đức, phát huy bồ đề, tâm không để tạp niệm xấu tham, sân, si chen vào.
Trong Kinh diễn tả Tôn giả A Na Luật bị mù mắt, một lần muốn may lại cái y bị rách nhưng không biết nhờ ai xỏ kim hộ, Đức Phật bèn đến xỏ kim hộ Tôn giả. Ngài nói: “Thế Tôn đã đầy đủ vô lượng công đức rồi, sao còn làm việc này?”. Đức Phật nói: “Ta nhờ bòn mót từng chút ít công đức nên mới thành tựu được pháp tối thượng”.
Tổ Quy Sơn dạy: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp”, nghĩa là: về chỗ lý tánh chơn thật thì không nhận, không dính mắc dù chỉ là một mảy bụi, nhưng về cửa muôn hạnh thì việc gì cũng phải làm, không bỏ một việc nhỏ.
Ví như quý vị có một mảnh vườn, nếu không trồng cây, trồng hoa thì chắc chắn cỏ dại sẽ mọc, cũng vậy, nếu quý vị không gieo trồng tạo các thiện pháp trên mảnh vườn tâm thì cỏ dại tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến sẽ mọc.
Chúng ta thường phát nguyện “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, tất cả các chúng sanh tâm tham, tâm sân, tâm tật đố, ích kỷ…, mình phải phát nguyện độ hết chứ không để nó độ lại mình.
“Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” tức là phiền não nhiều vô tận vẫn thệ nguyện đoạn hết, không bỏ dang dở rồi thôi.
“Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, quý vị hiểu như thế nào? Có phải là tám vạn bốn ngàn pháp môn mình đều học hết không? Học là học làm sao?
Thiền sư Thạch Củng lúc chưa xuất gia làm nghề thợ săn, một hôm đi ngang qua chỗ Ngài Mã Tổ. Mã Tổ hỏi:
- Ông làm nghề gì?
- Con làm nghề thợ săn.
- Một mũi tên ông bắn được mấy con?.
- Một mũi tên con bắn được một con. Còn Hòa thượng một mũi tên bắn được mấy con?
- Một mũi tên ta bắn được cả bầy.
Có bao nhiêu phiền não thì có bấy nhiêu pháp môn để đối trị, một niệm san tham khởi, quý vị dùng một mũi tên bố thí để bắn, một niệm tật đố khởi, dùng một mũi tên tùy hỷ để bắn. Nhưng dùng mũi tên như Ngài Thạch Củng thì biết bao giờ mới thành đạo tối thượng, mà mình phải dùng mũi tên của Thiền sư Mã Tổ, biết vọng tưởng không có thật, biết vọng tưởng không có tự tánh. Biết được như thế thì bao nhiêu niệm khởi lên mặc kệ, nó không lừa mình được nữa, các pháp lìa hết tức là một mũi tên bắn được một bầy. Lục Tổ nói: “Phật nói tất cả pháp để trị tất cả tâm, ta không tâm nên không cần tất cả pháp”.
“Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”: con đường Phật đạo phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp, nhưng giờ này quý vị không còn sợ sanh tử, cũng không ưa thích Niết Bàn, trong cảnh giới “vô nhất vật” không còn khái niệm không gian và thời gian, mà chỉ còn một niệm duy nhất là chánh giác. Trong Kinh Pháp Hoa, Ngài Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất sau khi được Phật thọ ký, các Ngài rất vui vì biết chắc sẽ thành Phật. Tin chắc được như thế, chúng ta không còn sợ.
Có một cư sĩ đến hỏi Thiền sư Triệu Châu:
- Sau khi chết, Ngài sanh về đâu?
- Ta sanh vào địa ngục.
- Hòa thượng là thiện tri thức, sao còn sanh vào địa ngục?
- Ta không vào địa ngục thì ai cứu ông?
Mình thì sợ địa ngục nhưng các Ngài không sợ, vì thấy địa ngục và Niết bàn là một, giống như người cai tù thì ra vào tù như vào công viên, khách sạn, không có khổ.
- 3. Đại bi tâm: lòng từ bi vô hạn, “từ nhãn thị chúng sanh”, thương và làm tất cả để giúp tất cả chúng sanh mà không có sự phân biệt đây là những người thân của mình, những người theo đạo giống mình, còn kia là những người mình không ưa.
Cuối cùng, chúc quý vị luôn giữ vững bồ đề tâm trên bước đường tu học cho đến ngày giác ngộ viên mãn thành Phật.
-
5. NHẪN LÀ CHÁNH HẠNH THÀNH PHẬT
NHẪN LÀ CHÁNH HẠNH THÀNH PHẬT
Giảng tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt
I. DẪN NHẬP
Trong cuộc sống, ai cũng muốn được bình an và hạnh phúc. Nhưng đó là quả. Muốn có quả đó, chúng ta phải tạo nhân. Vậy nhân đó là nhân gì? Quý vị thấy trong cuộc sống này, cái gì đem đến khổ đau cho mình, gia đình và xã hội? Chính là sân hận. Sở dĩ chúng ta không được bình ổn, hạnh phúc mà gặp phải tai nạn, hoàn cảnh khốn khổ là bởi vì mình nhẫn không được. Trong nhà Phật, muốn được bình an, muốn được hạnh phúc, chúng ta không cầu xin bất kỳ một vị Thượng đế, thần linh nào, kể cả Đức Phật mà chính bản thân mình phải thực tập hàng ngày. Muốn được thành Phật, thành Tổ, muốn được an ổn, hạnh phúc thì nhân tố ban đầu là tất cả chúng ta phải NHẪN, kể cả người tu cũng vậy. Vì vậy ngày hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị đề tài: “Nhẫn là chánh hạnh thành Phật”.
II. NHẪN LÀ CHÁNH HẠNH THÀNH PHẬT
Tại sao trong cuộc sống giữa đời thường này chúng ta rất khó nhẫn nhịn được? Là vì mình muốn ai cũng phải làm theo ý mình, nếu khác đi là mình chịu không được. Trong Thiền thoại có kể rằng: Ở một vùng nọ có một người làm tướng cướp. Ông đóng một chiếc giường dài 1,5m. Ông bắt được ai đều cho nằm lên giường, nếu người nào dài hơn cái giường thì ông chặt hai chân cho bằng đúng 1,5m, còn nếu người nào ngắn hơn thì ông kéo cho dài ra đủ 1,5m. Như vậy người này sống hay chết? Rõ ràng là chết rồi. Tên tướng cướp này nhất quyết muốn ai cũng phải vừa với chiếc giường theo ý của mình, không được ngắn hơn, cũng không được dài hơn. Nhiều khi, trong cuộc sống chúng ta cũng giống như tên cướp này, muốn ai cũng phải như ý mình.
Nhưng có những lúc mọi việc không theo ý mình mà bắt buộc phải nhẫn thì chúng ta lại nhẫn theo kiểu bị đè nén, ức chế. Ông Nguyễn Công Trứ có làm một bài thơ như sau:
Ăn ở sao cho trải sự đời
Vừa lòng cũng khó há rằng chơi
Nghe như chọc ruột, tai làm điếc
Giận dẫu căm gan, miệng mỉm cười.
Cái nhẫn như vậy không phải là cái nhẫn đúng pháp. Trong nhà Phật, nhẫn là bao dung, tha thứ, mở lòng từ bi thương cho đối tượng do không hiểu về các pháp, về con người và cuộc sống nên mới nổi sân chửi mình. Đó mới là nhẫn đúng pháp.
Ngày xưa quý vị chưa biết đến Phật pháp, chưa tu tập để chuyển hóa thì ai nói gì đụng chạm đến mình là mình nổi giận liền. Còn giờ biết tu, hiểu Phật pháp rồi thì khi có ai chửi mắng mình, nói mình là con chó thì mình có thành con chó thật không? Người ta nói mình là chó mà mình không thành chó thì thôi, cho nên mình không chấp, không giận.
Trong Kinh, Đức Phật ví dụ một nắm muối cho vào một ly nước thì không uống được vì cái ly quá nhỏ, không chứa nhiều nước nên thả nắm muối vào thì rất mặn. Còn nếu lấy nắm muối bỏ xuống dòng sông thì lại uống được bởi dòng sông thì quá lớn, nắm muối trở nên nhỏ, không đủ mặn. Cũng vậy, khi mình chưa biết tu hay mới tu, tâm mình còn nhỏ giống như cái ly nước, nắm muối giống như một người đem lời ác đến chửi mình nên mình không dung chứa được. Tu một thời gian, tâm mình mở rộng ra giống như dòng sông, có thể dung chứa được nắm muối này. Cho nên muốn được an ổn, hạnh phúc, chúng ta phải mở rộng tâm ra đón nhận hết tất cả.
Quý vị thấy, một lời nói sân hận, nếu chúng ta không biết cách kiểm soát để chuyển hóa thì sẽ gây ra những tác hại khó lường đến những người xung quanh. Có một câu chuyện về một chú bé rất hay nổi sân, ai nói gì cũng dễ giận. Một hôm, người cha mới gọi con lại và dạy rằng: “Khi nào con nổi giận, nói nặng đến người khác thì con hãy lấy một cây đinh đóng vào gốc cây” Một thời gian sau, chú bé ý thức được và tâm dần dần được bình ổn. Người cha lại dạy tiếp: “Khi nào con không còn nổi sân nữa, nói những lời dễ thương với người khác thì con hãy nhổ một cây đinh con đã đóng ra khỏi gốc cây”. Cuối cùng chú bé cũng nhổ hết được tất cả các cây đinh trên cây. Nhưng ngày xưa gốc cây bằng phẳng, giờ dù đã nhổ hết đinh ra nhưng vẫn còn lại những vết sẹo sần sùi rất khó coi. Lúc này người cha mới nói rằng: “Tuy con nổi nóng, chửi người ta, sau đó con nhận lỗi, xin sám hối, nhưng nó vẫn còn những vết thẹo, những vết đau thương trong lòng người khác”
III. SỰ TÁC HẠI CỦA LÒNG SÂN HẬN
Nhiều khi chúng ta cứ tưởng lòng sân hận đơn giản, không có gì nhưng qua câu chuyện trên cũng đủ thấy lòng sân hận có rất nhiều tác hại.
Vào thời vua Lương Võ Đế, có Hòa thượng Chí Công tu hành rất đắc lực, đã chứng thần thông. Một hôm Ngài cùng vua Lương Võ Đế đi trên một đoạn trường thành, thấy tuyết rơi dày đặc. Nhưng ở phía xa có một ngọn núi mặc dù trời rất lạnh nhưng lại không hề có tuyết phủ. Vua rất tò mò bèn hỏi Hòa thượng Chí Công. Hòa thượng trả lời: “Với cặp mắt của bệ hạ thì không thấy được, còn theo tôi thấy thì trong ngọn núi này có một người tu thiền định. Khi ông ngồi thiền, năng lượng thiền định của ông tỏa ra sức nóng nên tuyết không phủ xuống được”. Vua Lương Võ Đế nói: “Vậy người này chắc chắn đã chứng quả rồi”. Hòa thượng trả lời: “Tuy có năng lực vậy, nhưng lòng sân ông vẫn còn”. Vua bèn cho vời vị tăng này về triều để thử. Ngày thứ nhất, vua đãi những vị hòa thượng khác mâm cao cỗ đầy, còn riêng ông chỉ bày ra một chén nước tương và một quả cà thối. Vị Tăng Suy Hải vẫn ráng nuốt giận. Ngày thứ hai, vua mời tất cả các vị cao tăng trong nước đến dự buổi trai tăng và tặng mỗi người một xấp vải quý. Riêng vị Tăng Suy Hải nhận được một xấp vải mục nát. Vua nói rằng: “Những người khác được xấp vải quý là vì họ tu hành thanh tịnh, còn Thầy tu hành không ra gì hết nên chỉ được xấp vải mục nát này thôi”. Vừa nghe xong, Thiền sư Suy Hải giận quá không chịu nổi, phun ra máu mà chết. Vua Lương Võ Đế thấy vậy rất đỗi sợ hãi vì làm cho một người tu chết, nhưng Hòa thượng Chí Công trấn an vua, nói rằng vị tăng này nhờ năng lực tu thiền, còn một chút công đức nên thần thức đã tái sinh vào một con chim non, trên mình có hai chữ Suy Hải, giờ vua có thể sai người lên ổ chim bắt về. Quả tình sau đó bắt được chim non trên mình có hai chữ Suy Hải. Hòa thượng Chí Công sau khi chú nguyện, đập con chim xuống đất chết. Sau khi chết, thần thức con chim nhập lại vào xác vị Tăng Suy Hải. Sau đó Hòa thượng Trí Công mới khai thị: “Trong các pháp môn, pháp môn thiền định là tối thượng, vi diệu, nhưng nếu không chuyển hóa lòng sân hận này thì khi chết sẽ bị đi bậy”.
Trong Kinh Bách Duyên, vua A Kỳ Đạt lúc sống bố thí, cúng dường rất nhiều. Sau khi ông chết, một hôm có một thầy Tỳ kheo vào rừng gặp một con rắn ngóc đầu dậy. Do đã chứng được lục thông, có thể nghe được tiếng tất cả các loài thú, nên Thầy Tỳ kheo nghe được tiếng con rắn hỏi: “Thầy có biết tôi là ai không? Tôi chính là vua A Kỳ Đạt”. Vị Tỳ kheo này rất đỗi ngạc nhiên vì biết vua A Kỳ Đạt lúc sống bố thí, cúng dường rất nhiều, tại sao lại đầu thai vào làm con rắn. Vua A Kỳ Đạt kể khi vua bệnh nặng sắp mất, người hầu đang đứng quạt bên giường đã lỡ tay làm rớt cây quạt lên mặt vua. Vua nổi sân mà chết nên đầu thai thành con rắn.
Quý vị thấy lòng sân hận rất dễ sợ. Giận lên mình chết là đọa thành rắn, thành quỷ liền. Cho nên tất cả chúng ta, dù người mới biết tu hay đã biết tu cũng đều phải cố gắng làm sao để giữ tâm mình cho bình ổn.
Quý vị để ý, khi mình nổi sân lên, nếu có cái gương lấy ra soi thì sẽ thấy mặt mình xấu xí giống như ác quỷ vậy, nhìn mặt mình lúc đó quý vị sẽ không dám sân nữa. Có người muốn kiếp sau sinh ra đẹp đẽ nên mua hoa cúng dường Phật, nhưng như thế cũng chưa đủ. Muốn kiếp sau đẹp đẽ, ai cũng dễ nhìn dễ mến thì đừng có sân hận.
Trong Thiền thoại có ghi lại rằng, có một cư sĩ đến gặp Thiền sư Bàng Khuê thưa rằng:
- Bạch Thầy, con rất hay sân hận, ai nói động một tiếng con chịu không được. Xin nhờ Thầy chỉ dùm.
Thiền sư nói rằng:
- Ông nói hay sân, vậy hãy đem cái sân ra đây ta giải quyết dùm cho.
Vị cư sĩ nói:
- Thưa Thầy, ngay lúc này con không sân, chỉ khi nào gặp chuyện thì mới có.
Ngay lúc gặp Hòa thượng thì không có, sau gặp chuyện mới có, vậy cái sân này có thật hay không? Không thật. Nếu cái sân là mình thì sáng sân, trưa sân, chiều sân, tối sân… lúc nào cũng nổi sân hết. Còn đây, mình lúc có lúc không, ai nói gì làm mình xúc não, mình chịu không nổi liền sân, còn ai nói chuyện gì vui vui, mình hết sân. Như vậy cái sân này không thật, vô thường đắp đổi sanh diệt, là cái bên ngoài đưa vào, không phải là mình nên chúng ta tu sẽ chuyển hóa được. Nếu nó thực là mình thì ngàn đời ngàn kiếp tu cũng không chuyển hóa được.
Lúc này Thiền sư mới nói rằng: “Cha mẹ ông sanh ra thì chỉ có tâm Phật thôi.”
Có nghĩa là cha mẹ ta sinh ra ta chỉ có tâm Phật, tức là tâm từ bi, thương người, bao dung, tha thứ; còn tâm sân hận là do hoàn cảnh, do môi trường và do con người chứ không phải chính bản thân mình.
Nghe xong vị cư sĩ này liền ngộ.
Đức Phật cũng từng nói “Tất cả chúng sanh đều là Phật”. Chúng ta có dám tin mình là Phật không? Nhưng khi có người nói mình là chó, là bò thì mình đỏ mặt lên, vậy mình tin người phàm hơn hay tin Phật hơn?
Ngày nay, khoa học đã chứng minh khi chúng ta nổi sân thì trong người tiết ra độc tố. Có một người phụ nữ cãi nhau rất kịch liệt với chồng, cãi xong bèn cho đứa con một tuổi bú. Vừa bú xong thì đứa bé tím ngắt và chết khi trên đường đưa đến bệnh viện. Bác sĩ nghi rằng người mẹ ăn uống gì độc hại, nhưng khi tìm hiểu thì thức ăn hoàn toàn bình thường, sau phát hiện ra rằng bà mẹ vừa cãi nhau với ông chồng nên còn rất tức giận. Khi cho con bú thì chất độc tiết ra từ sự sân hận khiến đứa trẻ bị chết.
Một thí dụ khác, theo một thí nghiệm tiến hành tại Mỹ, khi một người khi nổi sân lên, họ dùng kim tiêm rút ra một ít máu, chỉ sau vài sát na, ống tiêm chuyển sang màu tím sẫm. Sau đó họ tiêm chỗ máu bầm này vào chuột thí nghiệm thì con chuột bị chết.
Bên Tây Tạng có người có thần nhãn thấy được một người đang sân hận giống như một cây lửa bị đốt cháy ngùn ngụt.
Qua đây quý vị có thể thấy được những tác hại khôn lường của lòng sân hận.
IV. CÔNG ĐỨC CỦA TÂM NHẪN
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, có ba loại sức mạnh có mặt ở trên đời. Thế nào là ba? Một, sức mạnh của phụ nữ là sắc đẹp. Hai, sức mạnh của trẻ con là tiếng khóc. Ba, sức mạnh của người tu đạo là đức nhẫn”. Nhẫn được chính là sức mạnh, chứ không có gì khác. Nhu thắng cương, nhược thắng cường.
Thiền sư Khuê Phong khai thị: “Thứ nhất, nếu ai nói gì mà chịu không được, nổi sân lên thì đó là phàm phu. Thứ hai, tham sân mà bất động thì là bậc thánh. Còn bậc thứ ba, cũng còn nổi sân nhưng biết dừng và chuyển hóa được, đó là người tu”.
Trong Kinh Tăng Chi Bộ có ghi: “Có ba hạng nhẫn. Bậc hạ là nhẫn người trên mình. Bậc trung là nhẫn người ngang mình. Bậc thượng là nhẫn người dưới mình”.
Chẳng hạn ở trong công sở, nếu bị cấp trên nói nặng lời, chúng ta có dám nổi sân không? Không dám, vì nếu nổi sân thì có thể bị đuổi việc nên cố nhẫn. Nhẫn như vậy cũng được nhưng là bậc hạ. Bậc trung là nhẫn với người ngang mình như bạn bè, chồng vợ. Còn khi ở vị trí cao như giám đốc hay chủ tịch, bị người dưới nói mà mình biết Phật pháp, có tu, buông xả không giận, còn khởi lòng thương thì đó là nhẫn của bậc thượng.
Trong Kinh A Hàm: Tại thành Xá Vệ, có một bà chủ Ka Si nổi tiếng là hiền lành, dễ thương, không bao giờ nổi sân, dù ai chửi ai mắng cũng cười. Có một cô tớ gái tên là A Su không tin, muốn thử bà. Theo luật thời bấy giờ, cô tớ gái phải dạy lúc 4 giờ sáng, nhưng cô 5 giờ mới dậy, bà chủ không nói gì, chỉ hơi nhăn mặt. Ngày hôm sau, cô ngủ đến 6 giờ, bà chủ nhướn mày. Ngày thứ ba, 7 giờ cô mới dậy, bà chủ nói lần sau con phải dậy cho sớm. Ngày thứ tư, cô ngủ đến 8 giờ, bà chủ Ka Si, vốn nổi tiếng hiền lành, dễ thương, không nói gì, đi ra phía sau nhà lấy thanh củi, đập vào đầu cô tớ gái khiến chảy máu đầu.
Có nghĩa là bình thường, người ta làm gì mình cũng nhẫn nhục được, nhưng có những trường hợp, sự việc đến với mình liên tục khiến mình không thể nhẫn được. Cho nên việc nhẫn nhục không phải là chuyện đơn thuần, kể cả đối với người tu như chúng tôi cũng như quý vị. Chính vì khó như thế nên trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy “Nhẫn là cái đức mà trì giới, khổ hạnh không thể bì kịp. Người hay thực hành đức nhẫn mới có thể là người có sức mạnh to lớn”. Có nghĩa là trì giới, bố thí, cúng dường, khổ hạnh cũng không bằng. Cho dù đời này quý vị bố thí, cúng dường rất nhiều mà hay sân thì kiếp sau cũng thành mãng xà, thành các loài cầm thú. Cho dù quý vị trì giới, tu khổ hạnh mà không nhẫn thì thành thần Atula. Cho nên công đức của nhẫn rất lớn.
Tôn giả Tịch Thiên dạy: “Công đức làm các điều lành như cung kính Như Lai cùng hạnh bố thí suốt trăm ngàn kiếp sẽ bị thiêu đốt chỉ do một niệm sân. Khi sân hận phát khởi, nó có khả năng hủy hoại công đức và tâm an lạc của mình”. Ví như một khu rừng quý vị trồng, tỉa nâng niu, chăm sóc cả tám, chín chục năm nhưng chỉ cần một đốm lửa là cháy sạch hết.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy:
Nhất niệm tâm sanh khởi
Bá vạn chướng môn khai.
Nghĩa là chỉ cần một niệm sân khởi lên thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng mở ra đón mình. Thử nghiệm lại trong xã hội, có người đang sống an ổn nhưng bị người khác nói lời ác khiến cho tâm sân nổi lên, không còn tỉnh táo nữa nên giết người, do đó bị ở tù hoặc bị đày đọa. Đến khi vào tù rồi, ngẫm nghĩ lại mới thấy phải chi mình nhẫn một chút thì tốt biết mấy. Tất cả là do tâm sân hận nổi lên mà không chuyển hóa được.
Trong Kinh A Hàm, có một vị Phạm Chí biết Phật không bao giờ giết hại chúng sanh, mới hỏi Phật:
Thưa Sa môn Gotama,
Giết gì được an ổn?
Giết gì được an vui?
Giết gì tâm không hối?
Gì là gốc các độc?
Gì là gốc khổ đau?.
Đức Phật dạy rằng:
Giết sân được an ổn
Giết sân được an vui
Giết sân tâm không hối
Sân là gốc độc hại
Sân là gốc khổ đau.
Khi một niệm sân hận nổi lên, quý vị nhìn thẳng vào bản chất của nó, nhìn một hồi nó hết, đó là chúng ta được an ổn. Đó gọi là giết sân.
Nếu không biết Phật pháp, không chuyển hóa được lòng sân hận thì có thể làm những chuyện nguy hiểm đến tính mạng người khác. Còn khi đã biết tu rồi, chúng ta phải ráng chuyển hóa nội tâm. Vậy chuyển hóa như thế nào? Theo tục lệ ở Ấn Độ, khi người chồng nổi sân lên, người vợ múc một thau nước ấm rửa chân cho chồng để hạ hỏa. Còn đối với nhà Thiền thì chúng ta hít thật sâu, thở thật nhẹ, hoặc nếu không thì tránh duyên, tránh gặp đối tượng khiến mình sân.
Phật pháp rất vi diệu, biết được Phật pháp, chuyển hóa được nội tâm rồi thì thấy cuộc sống không có gì là khó khăn. Bởi cuộc sống là vô thường, ảo mộng. Biết rõ vậy rồi thì mình sống sao cho hạnh phúc, an vui, để kiếp sau còn gặp lại chứ đâu phải cuộc đời này là hết.
Trong Kinh A Hàm, có một ni cô nước Kosala gặp một vị Bà la môn tu khổ hạnh. Ông dùng năm loại lửa nướng thân mình, đầu tóc khô dòn, môi miệng nứt nẻ, người đời gọi ông là La Hạt chích, tức cây vải bông nướng. Cô nói:
- Cái đáng thiêu ông không thiêu nó, lại lầm lẫn đi thiêu cái không đáng thiêu. Sao mà ông si mê quá vậy?
Giận quá, vị Bà la môn nói:
- Đồ con lừa! Ngươi nói cái gì là cái đáng thiêu?
Vị ni cô nói:
- Cái đáng thiêu ông chính là tâm nóng giận của ông. Nếu ông thiêu cháy được cái tâm đó thì mới là thiêu thực sự, giống như xe không đi thì đánh trâu, ai lại đánh xe? Cũng vậy, phải đánh thức cái tâm kia, thiêu cháy tan cái tâm đó thì thân hết bị dày vò đau khổ.
Kinh La Vân Nhẫn Nhục, Phật dạy: “Nhẫn là ánh sáng vượt hơn cả mặt trời, mặt trăng. Sức của rồng voi có thể nói là rất mạnh song đem so với sức nhẫn thì muôn vạn phần chẳng bằng một. Bảy báu chói ngời, người đời cho là quý nhưng nó đem lại sự lo lắng, bất an và có thể đưa tới tai họa. Còn nhẫn là của báu trước sau đều được an ổn. Bố thí cho khắp cả mười phương tuy có phước to song phước không bằng nhẫn. Thực hành từ nhẫn đời đời không gây oán, trong lòng điềm nhiên, không bao giờ có độc hại”
Một người có đức nhẫn, tâm nhẫn thì sống rất an ổn, hạnh phúc, khuôn mặt vui tươi hơn cả mặt trời, mặt trăng. Còn dù có giàu có đến đâu mà nhiều sân hận thì cũng không được an ổn, hạnh phúc.
Nói vậy nhưng nhẫn hoàn toàn không phải là chuyện đơn thuần, nên Tổ Tuyên Luật Sư dạy: “Nhẫn phải là người có đại lực lượng mới có thể hàng phục tâm này. Nếu lực lượng yếu kém liền bị trôi vào nước La Sát. Nếu lấy việc nhỏ mà lại chấp chặt tranh luận, thì việc nhỏ cũng biến thành to. Nếu việc lớn có thể nhẫn được, thì việc lớn cũng thành nhỏ”.
Có câu chuyện rằng, hai vợ chồng kia vốn rất yêu thương nhau. Một hôm đang ăn cơm, bỗng có con chuột chạy ngang qua. Người chồng nói, con chuột chạy trên bàn thờ. Nhưng người vợ lại khẳng định con chuột dưới gầm giường. Từ chuyện nhỏ xíu này, hai người cãi qua cãi lại, rồi giận nhau không nói câu gì trong suốt bảy ngày. Cuối cùng ông chồng chủ động làm lành trước: “Thôi thì con chuột chạy trên bàn thờ hay con chuột chạy dưới gầm giường không thành vấn đề. Bỏ qua đi.” Đáng lẽ có thể dừng tại đó, nhưng bà vợ lại nói: “Ông thật là đui mù. Rõ ràng là con chuột chạy dưới gầm giường”. Hai vợ chồng lại tiếp tục giận nhau. Quý vị thấy ngay đó buông được rồi, nhưng bà vợ vẫn không chịu, thì rõ ràng là chuyện nhỏ biến thành to. Chuyện này cũng thường xảy ra trong cuộc sống gia đình. Muốn an ổn, hạnh phúc, không phải làm gì nhiều, chỉ cần nhẫn một chút là được. Phật pháp rất vi diệu, nhưng cũng rất thiết thực, không nằm đâu xa.
Hòa thượng Tinh Vân có kể lại rằng, ở Đài Loan, có hai gia đình sống kề bên nhau. Một nhà không bao giờ nghe thấy to tiếng, một nhà ngược lại cãi lộn nhau suốt ngày từ sáng đến tối. Một hôm, anh hàng xóm sang hỏi rằng: “Sao nhà anh sống đông người mà không bao giờ nghe tiếng cãi lộn? Anh hãy chỉ cho tôi phương pháp”. Người này đáp rằng: “Không có gì lạ hết. Chúng tôi luôn áp dụng câu “Anh đúng, tôi sai”. Chẳng hạn khi vỡ bình thủy, thay vì nói đấy là lỗi của anh thì chúng tôi nói đó là lỗi của tôi. Nói vậy thì không còn ai nỡ giận mình nữa.”
Tổ Tuyên Luật Sư dạy tiếp: “Nói việc lớn chẳng qua là bị người ta vu khống, chê bai. Song một chữ nhẫn nói thì rất dễ nhưng hành lại rất khó.”
Trong Thiền thoại kể lại có một vị tướng quốc ra trận đánh trăm trận trăm thắng. Khi đến tuổi về hưu ông đến xin Thiền sư Đại Huệ xuất gia, nói đã buông xả vợ con, tiền tài, của cải, địa vị, buông hết các thứ rồi. Thiền sư nói ông còn lửa sân nhiều, để từ từ mới cho xuất gia. Nhiều lần năn nỉ không được, một hôm ông dậy rất sớm, thắp hương lễ. Thiền sư Đại Huệ hỏi thì ông trả lời:
Vì trừ lửa trong tâm
Dậy sớm lễ sư trưởng.
Thiền sư Đại Huệ đáp:
Dậy sớm như thế ấy
Chẳng sợ vợ ngủ người?
Ông tướng quốc nghe vậy liền nổi sân: “Cái lão thối tha này! Ăn nói như thế sao?”
Lúc này Thiền sư mới nói:
Nhè nhẹ phẩy chiếc quạt
Tánh lửa đã cháy phừng
Tâm sân hận như thế
Làm sao buông xuống xong?
Một câu chuyện khác. Ông Tô Đông Pha rất giỏi về thiền. Một hôm ông làm một bài kệ tặng Thiền sư Phật Ấn:
Đảnh lễ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Tám gió thổi không động
Ngồi tòa sen vàng rực.
Thiền sư Phật Ấn đọc xong, điểm sau bài kệ: “Cục cứt khô”
Ông Tô Đông Pha nhận lại bài thơ có chữ của Thiền sư Phật Ấn liền nổi sân, quyết định chèo thuyền sang chỗ Thiền sư để hỏi cho ra nhẽ. Tới nơi, vừa cất lời hỏi thì Thiền sư Phật Ấn nói:
Tám gió thổi không động,
Cục cứt thổi qua sông.
Tóm kết lại, tôi xin kể một câu chuyện để cho quý vị thấy được rằng việc nhẫn nhục này là phải chuyển hóa chứ không phải đè nén.
Trong Thiền thoại ghi: có một vị pháp sư một ngày nọ được một người tín thí mời xuống nhà an vị Phật. Sau khi xong xuôi, người tín thí cúng dường pháp sư một ít tiền và ba cái bánh ít. Chú thị giả hiểu lầm tưởng chủ nhà cho mình, nên ăn hết luôn cả ba cái bánh. Vị pháp sư nổi giận nhưng trước mặt chủ nhà không nói gì. Trên đường trở về, chú thị giả đi đằng sau thầy, liền bị mắng: “Ta là tù binh sao mà ngươi đi sau ta vậy?”. Chú bèn đi ngang thầy, lại bị mắng: “Ta là bạn ngươi sao mà ngươi đi ngang hàng với ta?”. Chú thị giả đi lên phía trước thầy, được một đoạn lại bị mắng: "Ngươi là thầy ta hay sao mà lại đi trước ta?” Chú ta sợ quá, bạch thầy: “Con đi sau thầy cũng nói, đi ngang thầy cũng nói, đi trước thầy cũng nói, vậy con có điều gì không phải thầy cứ nói con.” Lúc này ông thầy mới nói: “Sau ta không thèm nói, ngang ta không thèm nói, trước ta cũng không thèm nói, ta chỉ hỏi ba cái bánh ít giờ đang ở đâu?”
Qua trên ta thấy lòng sân hận, nếu không chuyển hóa được thì nó sẽ nằm im lại mà không chết, không hết. Chỉ cần chúng ta thấy được bản chất của nhẫn hay bản chất của sân là vô thường, là không tự tánh thì chúng ta được an ổn, được an vui, hạnh phúc.
Trong Kinh Đại Tập Phật dạy:
Nhẫn được dung nhan đẹp.
Nhẫn hay đủ quyến thuộc.
Nhẫn chiêu quả báo tốt.
Nhẫn hay vào đường lành.
Nhẫn được người thích nhìn.
Nhẫn hay được tốt đẹp.
Nhẫn hay dứt các khổ.
Nhẫn được thọ lâu dài.
Tức là nếu chúng ta muốn được gương mặt đẹp, được đầy đủ quyến thuộc, được mọi người gần gũi, được các điều tốt đẹp, được an ổn, hạnh phúc, đi vào đường lành và tiến lên con đường Phật đạo thì chúng ta cần phải NHẪN. Và chính quý vị phải tự làm chứ không một ai, dù cho là Thượng đế, thần linh, hay ngay cả Đức Phật có thể ban cho quý vị điều đó.
-
6. GIỚI LÀ CON ĐƯỜNG DUYÊN THÀNH PHẬT ĐẠO
GIỚI LÀ CON ĐƯỜNG DUYÊN THÀNH PHẬT ĐẠO
Giảng tại Thiền tự Hỷ Xả, Adlaide – Úc
I. DẪN NHẬP
Lần này, chúng tôi có duyên đi Úc Châu thăm các thiền tự, đạo tràng và chia sẻ giáo lý cùng quý vị. Trước khi đi vào đề tài chính ngày hôm nay, tôi xin hỏi quý vị: Nếu một lúc nào đó có người đến hỏi quý vị theo đạo nào, quý vị trả lời sao? Đạo Phật phải không? Vậy quý vị hiểu Đạo Phật như thế nào? Đạo Phật nguyên là chữ tiếng Hán, chữ “Đạo” dịch ra tiếng Việt là “con đường”, “Phật” tiếng Phạn gọi là Buddha, qua Trung Quốc dịch là “giác giả”, còn dịch ra tiếng Việt là “người tỉnh thức”. Ở đây, chúng ta có phúc duyên may mắn được đi trên con đường mà Đức Phật đã chỉ dạy, là con đường không có vô minh, không có chấp ngã. Như vậy, Đức Phật là người tỉnh thức, là bậc Thầy sáng suốt chỉ cho chúng ta con đường để đi, chứ không phải là một thần linh ban phước giáng họa cho chúng ta. Dù cho chúng ta là đại gia giàu có mà chưa tỉnh thức thì cũng vẫn là một người nô lệ cho dục vọng và chấp ngã của chính mình. Cho nên ngày hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị một bài pháp để nhằm cho ngày mà quý vị thọ tám giới, đó là “Giới là con đường duyên thành Phật đạo”.
Quý vị đã từng nghe về công đức giữ giới, nhưng nhiều khi chúng ta nghe thì nghe mà chưa hiểu suốt được những gì Đức Phật đã dạy.
Đức Phật dạy hàng Tỳ kheo xuất gia và Phật tử tại gia nếu còn muốn thấy Phật hiện diện trong cuộc đời này thì phải giữ giới. Có người nói thời này là thời mạt pháp, chỉ cần làm phước thôi chứ không tu tập được nữa, nhưng quý vị nhớ lại trong bốn bộ A Hàm đều khẳng định rằng nếu vào thời mạt pháp, nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nào mà giữ giới thanh tịnh trang nghiêm thì chánh pháp cửu trụ nơi đời. Cho nên nếu một ngày một đêm mà chúng ta giữ giới được thanh tịnh thì Đức Phật còn hiện diện. Giới luật Đức Phật đưa ra nhằm mục đích đem lại niềm vui hạnh phúc đến cho người khác. Thường chúng ta nghe năm giới là không sát sanh, tức không giết người, nhưng có lúc chúng ta bằng lời nói của mình làm cho người đau khổ, tức giận, bị nội kết, một lúc nào đó chịu không nổi họ tự tử chết, thì mình cũng phạm vào giới sát. Hay thấy những người bị đau khổ, chết chóc mà mình vui thì cũng phạm vào giới sát. Quý vị thấy giới luật đưa ra thì ai được hạnh phúc trước? Chính bản thân mình được hạnh phúc trước. Một ngày một đêm mà quý vị chiêm nghiệm và giữ tám giới Đức Phật chế ra thì mới thấy cuộc đời mình thật là may mắn.
Trong Kinh Tạp Bảo Tạng có ghi lại câu chuyện một ông vua thích thọ tám giới pháp mà vào thời đó là thời mạt pháp, không ai thuộc được tám giới. Mà ngày hôm nay chúng ta còn có phúc duyên còn có các Thầy Tỳ kheo, còn có Chánh pháp, còn ngôi Tam Bảo nên chúng ta thọ nhận được tám pháp.
Trong Kinh Niết Bàn có ghi lại câu chuyện một con quỷ la sát khóc lóc xin người cho quá giang qua biển, thì người này nói: Thà cho thân mạng, chớ trái nổ này chẳng cho. Đức Phật ví dụ cho một người trong một ngày một đêm giữ gìn giới pháp, dầu cho tan thân mất mạng cũng giữ cho đủ trong suốt một ngày thì giới mới thành tựu được.
Nhưng nếu có người nói: “Giữ giới làm gì, nếu phạm sẽ bị đọa vào địa ngục” thì quý vị trả lời sao? Ở đây quý vị phải hiểu là chúng ta giữ giới để thành Phật chứ không phải giữ giới để đọa địa ngục. Đức Phật là người tỉnh thức, Ngài biết rằng nếu chúng sanh nào phạm giới sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu thì những chúng sanh này sẽ đi vào cõi luân hồi xấu ác, cho nên chế ra giới để chúng ta dừng, không tạo nghiệp xấu thêm nữa. Như khi đi trên đường phố, quý vị thấy đèn đỏ thì dừng là tại sao? Nếu vì sợ phạt hay sợ bị thu bằng lái thì người đó chưa phải là người học Phật, mà phải hiểu rằng nếu vượt đèn đỏ thì sẽ xảy ra tai nạn cho mình và người thì đó mới là người học Phật. Đức Phật thấy rằng đã là con người mà không giữ những giới này thì không khác gì loài cầm thú. Sở dĩ chúng ta là một con người có ý thức, từ bậc phàm lên bậc thánh là nhờ giữ giới.
Trong Kinh A Hàm có một Bà la môn đến hỏi Phật: “Một người giữ giới mà phạm và một người không giữ giới mà phạm thì ai nặng hơn?”. Phật nói “Người giữ giới mà phạm thì nhẹ hơn, còn người không giữ giới mà phạm thì nặng hơn”. Tại sao lại như vậy? Sở dĩ người ta sát sanh nhiều là vì không biết mình phạm giới sát, vì người đó chưa từng giữ giới. Còn chúng ta giữ giới rồi, một ngày nào đó lỡ phạm, chúng ta ăn năn, hối hận, cố gắng phát nguyện chừa bỏ thì đó là nhẹ, vì mình biết cách dừng, không tạo tác nữa. Nhẹ là nhẹ ở chỗ đó. Còn không giữ giới nên không sợ phạm thì tiếp tục tạo tác nghiệp xấu ác, càng ngày càng nặng.
Có người lại nói: “Tôi không giữ giới nên phạm thì đâu có tội”. Nặng là ở chỗ người này không gặp được minh sư, thiện tri thức chỉ dạy, nên ngày càng lún sâu trong màn vô minh, càng đi càng xuống.
Như vua Trần Thái Tông đã từng viết:
Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày cách quê hương muôn dặm trình.
Còn chúng ta nhờ có phúc duyên được chư Phật, chư Tổ, bậc thiện tri thức chỉ dạy cho chúng ta giới pháp để dừng, không tạo thêm nghiệp xấu.
Trong Kinh Bách Dụ có kể một người chăn bò dắt 100 con bò đi qua một vực thẳm, vô tình có một con bò bị rớt xuống vực. Ông ta nghĩ: một con đã bị rớt xuống, còn lại 99 con cũng không để làm gì, nghĩ vậy nên lùa tất cả những con còn lại xuống vực. Giống như người lỡ phạm một giới, bèn bỏ không giữ những giới còn lại nữa vì đằng nào cũng phạm. Đức Phật nói người này là người ngu, không có trí tuệ. Còn người giữ giới nhưng lỡ phạm, biết ăn năn sám hối thì Phật gọi đó là người có trí tuệ. Nhưng quý vị phải nhớ sám hối rồi, nếu lỡ phạm lại cũng chỉ một, hai lần chứ không được phạm lại liên tục, điều đó không đúng với tinh thần sám hối.
Tôi lấy một ví dụ khác: một hòn than lửa, người không biết đấy là cục lửa cầm vào cũng bị bỏng tay mà người biết đấy là cục lửa cầm vào cũng bị bỏng tay, bởi vì bản chất của nó là lửa. Giữ giới hay không giữ giới mà phạm vào những điều trái đạo lý thì đều là phạm, nhưng chúng ta may mắn được chỉ dạy giữ giới để tránh không làm đau khổ cho mình và người.
Chẳng hạn có một người cầm cây cung muốn bắn trúng đích thì người đó phải đứng trên hư không hay trên đất bằng? Đứng trên hư không lơ lửng thì không thể bắn được mà phải đứng trên đất bằng, đó gọi là giữ giới. Khi kéo dây cung cho thật thẳng thì đó gọi là định, bung mũi tên ra bắn trúng đích thì đó gọi là tuệ. Trong công phu của chúng ta, dù tu theo bất cứ pháp môn nào, Tịnh, Mật, Thiền, đều phải đi trên lộ trình của giới, định, tuệ. Nhưng muốn giữ giới thanh tịnh, giới định tuệ đầy đủ cần phải dứt các trợ duyên, không ăn các thứ hành, tỏi, hẹ, các chất kích thích cho tâm tham, sân, khiến chúng ta không định được, mà không định được thì tuệ không phát sinh.
Trong Kinh Tăng chi bộ, phẩm Bệnh: Một thời Thế Tôn trú tại Vesali, tại Đại lâm, dạy các Tỳ kheo: “Này các Tỳ kheo, có năm điều tổn thất này, tổn thất bà con, tổn thất tài sản, tổn thất về bệnh tật, tổn thất về giới, tổn thất về tri kiến. Này các Tỳ kheo, không do nhân tổn thất bà con, tổn thất tài sản, tổn thất về bệnh tật mà các loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xuống địa ngục. Nhưng này các Tỳ kheo, chính do nhân tổn thất về giới, tổn thất về tri kiến mà các loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xuống địa ngục, này các Tỳ kheo”.
Tức là mất bà con, mất tài sản, bị bệnh tật cũng không đưa mình vào cõi dữ, ác thú, đọa xuống địa ngục sau khi chết, mà chính việc không giữ gìn giới, tri kiến không thanh tịnh khiến cho chúng ta sau khi chết bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xuống địa ngục.
Giới Thanh văn và giới Bồ Tát đều có hai phần, đó là Nhiếp luật nghi giới (bỏ các điều ác) và Nhiếp thiện pháp giới (làm các việc thiện). Nhưng giới của Bồ tát còn có thêm Nhiêu ích hữu tình giới, tức là làm lợi ích cho chúng sanh.
II. CÔNG ĐỨC GIỮ GÌN GIỚI PHÁP
Kinh A Nan vấn Phật sự kiết hung, Phật dạy: “Đức của giới hạnh khiến cho phước tự nhiên đến, thiên thần ủng hộ, cảm động đến mười phương, so với đức của chư thiên thì công đức của giới cao vòi vọi, các thánh ngợi khen, khó có thể cân lường, bất khả tư nghì”.
Người nào giữ giới thanh tịnh, dừng các điều ác, làm các điều lành thì phước tự nhiên đến, như Trần Châm là anh ruột của đại sư Trí Khải, một hôm gặp vị tiên Trương lão quả nhìn tướng nói ông chỉ còn sống được một tháng, ông buồn bã về gặp Đại sư Trí Khải, được đại sư chỉ dạy Lục diệu pháp môn, trong đó có một pháp ngồi thiền, theo dõi hơi thở, do vậy dừng các điều ác lại. Quả tình một tháng sau không bị chết, mà sau này còn thọ đến 94 tuổi, sau khi chết sanh về cõi trời. Hay như chuyện sa di cứu bầy kiến mà không bị chết yểu, thọ thêm nhiều năm nữa. Đó là đức của giới hạnh khiến phước tự nhiên đến.
Trong Kinh Công đức xuất gia có kể một vị Thái tử là bạn của Ngài A Nan chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, không chịu làm các thiện pháp, Phật biết sau bảy ngày nữa sẽ chết và đọa xuống địa ngục nên bảo Ngài A Nan đến khuyên Thái tử xuất gia. Thái tử đồng ý với điều kiện cho ăn chơi thêm sáu ngày, ngày cuối cùng mới xuất gia. Ngày cuối cùng, Thái tử đến Phật xin xuất gia, sống một ngày một đêm giữ giới pháp thanh tịnh, hôm sau thì chết. Ngài A Nan hỏi Phật do nhân này, duyên này thì vị Thầy này sau khi chết tái sanh về đâu. Phật trả lời, do công đức giữ giới một ngày thanh tịnh nên sau khi chết ông sanh về cung trời hưởng năm thứ thù diệu.
Trong Kinh Pháp cú, Phật dạy:
Ai sống một trăm năm
Ác giới, không thiền định
Tốt hơn sống một ngày
Trì giới, tu thiền định.
Nếu một ngày quý vị nghe pháp, ngồi thiền rồi tối đi luôn, quý vị có sợ không? Nhờ những công đức tu tập giữ giới trong ngày sẽ đẩy quý vị đến cảnh giới an ổn, giống như một chiếc phi thuyền muốn bay ra khỏi trái đất phải có lực đẩy. Khổng Tử nói: “Sáng nghe đạo, chiều chết cũng cam lòng”. Chúng ta giữ giới thanh tịnh, bố thí, cúng dường, tạo các thiện pháp thì không bao giờ sợ bị nghiệp chơi xấu cả. Nghiệp tuy vô tướng, không có hình nhưng đâu vào đó, rất sòng phẳng. Cho nên giữ gìn giới pháp và tu tập thì chúng ta sẽ có niềm tin.
Trong Kinh A Hàm Phật dạy, người giữ gìn giới pháp có năm công đức:
- Ở trước hội chúng không có sợ hãi.
- Nếu chưa giải thoát, chết sanh về cõi trời.
- Bậc mô phạm cho trời người.
- Quỷ thần cung kính.
- Tâm thần bình ổn, lúc sống cũng như lúc chết.
Kinh Phạm Võng, Phật dạy:
Giữ giới lòng chẳng hối
Bổn nguyện đều thành tựu
Giới là hào pháp thành
Ngăn được giặc phiền não
Giới là tướng dũng mãnh
Đánh dẹp kẻ ma quân
Giới là châu như ý
Thường cho báu khách buôn
Giới là lầu quán tốt
Dạo chơi pháp tam muội
Giữ giới là đất bằng
Thiền định là nhà cửa
Hay sanh trí huệ sáng
Thứ lớp được tỏ chiếu
Sức định huệ trang nghiêm
Muôn hạnh đều đầy đủ
Cho đến khi thành Phật
Do giới làm cội gốc
Vậy nên người có trí
Bền lòng quyết giữ giới
Thà tán thân mất mạng
Dè dặt chớ tái phạm.
Trong Khế Kinh Phật dạy: “Người nào giữ tròn tám pháp trong một ngày một đêm thì được 12 điều lợi ích lớn”.
- 1. Thoát ly bệnh khổ
Trong Kinh Tương Ưng Bộ, vua Ba Tư Nặc ở nước Kosala ăn nhiều, thân thể nhiều bệnh tật, Phật thương nên nói bài kệ cho vua:
Con người thường chánh niệm
Được ăn biết phải chăng
Chừng mực cảm thọ mạnh
Già chậm, tuổi thọ dài.
- 2. Tiêu diệt tội chướng từ đời quá khứ
Một ngày một đêm mà giữ giới thanh tịnh thì tiêu diệt được nghiệp chướng, phiền não chướng, sở tri chướng.
- 3. Miễn trừ tai họa
Trong Kinh Tứ Thiên Vương, Phật dạy: “Chỗ nào mà có người trì giới này, quỷ dữ phải lánh xa, trụ xứ nhờ vậy mà được an ổn”.
- 4. Viễn ly ác thú: không đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, atula, bốn đường ác đều đóng cửa.
- 5. Phúc báo ưu hậu
Trong Luận Tát bà đa ghi: Vua cõi Diêm phù đề được làm chủ hết thảy báu vật không bằng một phần mười sáu công đức của một người giữ gìn tám giới pháp trong một ngày một đêm.
Trong Kinh, Phật dạy vua Ba Tư Nặc: “Phước của trai giới tỏa rộng, thí như các món trân bảo đầy cả mười sáu nước đem bố thí không bằng một ngày một đêm thọ trì Phật trai pháp. Nếu so sánh phước hai việc này khác nào núi Tu di so với hạt đậu”.
Cho nên ngày hôm nay, chúng ta có may mắn rất lớn được thọ trì tám giới này là của báu xuất thế gian pháp.
- 6. Mau chóng thành tựu
- 7. Đời sau tôn quý
- 8. Được sanh thiên thượng
- 9. Trợ duyên vãng sanh
- 10. Lâm chung được hoan hỷ.
- 11. Được thân tướng hảo
- 12. Duyên thành Phật đạo.
Do đó, trong Kinh Pháp cú Phật dạy:
Hoa chiên đàn, già la
Hoa sen, hoa vũ quý
Giữa những hương hoa ấy
Giới hương là vô thượng.
Dù là hương thơm của bất cứ loại hoa quý hiếm nào, hoa chiên đàn, hoa già la, hoa sen, hoa vũ quý, cũng không thể ví được với hương thơm của đạo đức, giữ giới.
Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Nhiếp tâm làm giới, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ. Ấy gọi là ba pháp vô lậu học”.
Ngồi thiền, tâm vừa dấy niệm ác, dừng lại liền hoặc quán chiếu thật sâu về tính duyên khởi vọng từ đâu đến, biết rằng vọng không thật thì giữ giới được thanh tịnh. Người tu thiền thấy được từng niệm khởi, sự vận hành của ý thức, từ đó dừng niệm, không tạo tác, cho nên gọi là nhiếp tâm làm giới.
Pháp sư An nói: “Giới luật, thiền định, trí huệ, cả ba là cửa nẻo vào đạo thánh và cũng là chỗ quan yếu để vào Niết Bàn”.
Ngài La Thập Pháp sư nói: "Trì giới mới hay chiết phục được phiền não làm cho phiền não yếu thế. Thiền định như bốn cái núi để ngăn giòng nước phiền não. Trí huệ diệt được hết phiền não".
Nhờ trì giới nên khi phiền não đến, mình kham nhẫn, hóa giải được. Thân mình còn sống là do thức ăn. Cũng vậy, trong tàng thức của mình có những hạt giống ác pháp, hạt giống bất thiện, nếu chúng ta không tưới tẩm, nuôi dưỡng chúng thì một thời gian sau những hạt giống này chết.
Do đó, cổ đức nói: “Thiền là tâm Phật, kinh là lời Phật, giới là hạnh Phật”. Ngồi thiền là để thể nhập bản tâm của Phật, ngồi thiền một giờ là làm Phật một giờ. Hàng ngày nếu quý vị huân tập tâm Phật, lời Phật, hạnh Phật thì sau khi chết sanh về cõi Phật.
Trong Kinh Tăng Chi bộ, Phật dạy: “Người tu tập Bát quan trai giới thanh tịnh chỉ trong một ngày một đêm hơn một đời vua cai trị toàn xứ Ấn Độ”.
Cũng trong Kinh Pháp Cú, Phật nói bài kệ:
Dầu làm vua cõi đất
Dầu làm vua cõi trời
Cũng không sao sánh được
Người tột được chân lý.
Lục Tổ dạy:
Tâm địa không quấy tự tánh giới
Tâm địa không si tự tánh huệ
Tâm địa không loạn tự tánh định
Không thêm không bớt tự Kim Cang
Thân tới thân lui vốn tam muội.
Đi, đứng, nằm, ngồi, làm tất cả các việc đều ở trong tam muội vì luôn chăn tâm của mình, đó là giới định tuệ, là con đường mà cả người xuất gia và tại gia đều phải đi qua.
-
7. LỜI THIỀN TRONG CUỘC SỐNG
LỜI THIỀN TRONG CUỘC SỐNG
I. DẪN NHẬP
Trong nhà Phật thường nói đến ba nghiệp chính là thân, khẩu, ý. Nếu ý dấy khởi vọng niệm mà chúng ta không làm chủ được dẫn đến thân hành động hoặc miệng nói lời ác. Còn nếu chúng ta làm chủ được và chuyển hóa được vọng niệm, ngay đó nói lời nhu nhuyến thì người khác sẽ dễ nghe hơn. Có những trường hợp chúng ta không trực tiếp giết người nhưng lại gián tiếp giết người. Giết bằng cách gì? Đó là nói một lời nào đó khiến người ta bị xúc não, đau khổ không chịu đựng được dẫn đến tự tử. Trong nhà thiền, sở dĩ chúng ta phải ngồi thiền là để kiểm soát lại những tâm niệm của mình, nếu trong lúc ngồi thiền chúng ta làm chủ được những vọng niệm này thì khi đi, đứng, nói năng hay hành động, chúng ta cũng làm chủ được, không gây những nhân đau khổ trong hiện tại và mai sau. Vì vậy mà hôm nay chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị bài pháp “Lời thiền trong cuộc sống”.
Trong cuộc sống, ai cũng mong muốn làm cho người thân được hạnh phúc, không phải đau khổ vì mình, nhưng có nhiều lúc chúng ta vẫn làm cho mọi người chung quanh phải đau khổ, đó là vì chúng ta thiếu thiền. Nếu trong cuộc sống lúc nào chúng ta cũng có thiền thì lời nói, hành động của chúng ta sẽ khác. Lời nói làm cho người khác đau khổ, trong nhà Phật gọi là khẩu nghiệp. Thấy cái gì cũng nói mà nói không đúng lúc, đúng chỗ, tạo thành khẩu nghiệp gây tác hại cho chính chúng ta trong hiện tại và mai sau.
Trong Kinh Tạp thí dụ có kể câu chuyện: Một hôm có một cô gái đến một Tinh xá, gặp một vị Tỳ kheo lớn tuổi (vị này đã chứng A la hán), cặp mắt bị chảy gỉ liên tục. Nhìn thấy vậy, cô gái khởi niệm khinh thường và nói:
- Thầy Tỳ kheo này không khác gì con quạ mù ở nghĩa địa.
Đức Phật biết chuyện, liền nói:
- Sau khi cô gái này chết đi, sẽ đọa vào các cõi xấu ác, sau đó đọa tiếp làm con quạ cái 500 kiếp, đời nào cũng bị mù mắt.
Lúc này Tôn giả A Nan thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn, Thế Tôn rất từ bi, thương tất cả chúng sanh như con ruột của mình. Tại sao Thế Tôn không thọ ký cho người này thành Phật mà lại thọ ký cho người này đọa vào ba đường ác, sau làm quạ mù 500 kiếp?
Đức Phật trả lời:
- Dù ta không nói thì chúng sinh này cũng đọa vào ba đường ác, do ta thấy được xa bao nhiêu kiếp nên nói chứ không phải ta nói rồi nó mới bị.
Tinh thần nhà Phật gọi là “pháp nhĩ như thị”, tức là các pháp vốn là như thế.
Sở dĩ cô gái này bị như vậy là do không làm chủ được mà thốt ra lời nói xúc phạm đến một vị Thánh tăng nên tác hại rất lớn. Do đó, nếu chúng ta không có lời thiền trong cuộc sống thì cũng dễ mắc phải lỗi này, do đó phải tu tập để chuyển hóa những vọng niệm ngay khi còn trong trứng nước.
Trong Kinh Tạp Bảo tạng, có một ni cô xuất gia nhưng ác khẩu, hay nguyền rủa chư Tăng giống chó, do nhân duyên đó sau khi chết bà bị đọa vào loài chó 500 kiếp.
Trong Kinh Nhân quả, Phật dạy: “Người khởi niệm ác chưa làm ác thì đã có quỷ thần kế bên. Người khởi niệm thiện chưa làm thiện thì đã có hộ pháp kế bên”. Do đó, người tu chúng ta phải rất cẩn ngôn, tức là cẩn trọng lời nói. Nhiều khi mình cho rằng miệng nói vậy thôi chứ có gì đâu nhưng thực ra trong dòng tâm thức đã dấy những niệm đó mà chúng ta làm chủ không được. Khi ngồi thiền yên lại, chúng ta thấy mình có rất nhiều hạt giống xấu ác ngủ ngầm, đủ nhân đủ duyên nó phát tác, mình không làm chủ được nên giờ phút đó gieo nghiệp xấu ác.
Trong Kinh Tăng Chi bộ, Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, thế nào là hạng người với tâm ví dụ như vết thương? Ở đây này các Tỳ kheo, có người phẫn nộ nhiều hiềm hận, dầu có bị nói chút ít cũng tức tối, phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, biểu lộ sự phẫn nộ, sân hận và bực tức”. Phật ví dụ người này tâm như vết thương, động một chút là đau nhức, tức là ai nói chút gì cũng sân hận, không làm chủ được niệm mà nói lại bằng những lời sân hận, bực tức với người khác.
Phật dạy tiếp: “Ví như một vết thương đang làm mủ, bị cây, gậy đánh vào liền chảy mủ nhiều hơn, cũng vậy này các Tỳ kheo, ở đây có người phẫn nộ, sân hận và bực tức, này các Tỳ kheo, đây là hạng người được ví dụ với vết thương đang làm mủ”.
Quý vị thấy, không phải tự nhiên mà mình sân hận liền, mà do hàng ngày chúng ta tưới tẩm những hạt giống đó, chẳng hạn như mình đi bị tắc đường cũng bực mình, quên cái gì đó cũng bực tức, sân hận với chính mình. Thân mình sở dĩ nuôi lớn được là nhờ ăn uống, tâm thức mình cũng thế, trưởng thành và lớn mạnh là do chúng ta tưới tẩm hàng ngày, đủ nhân đủ duyên thì nó phát tác ra.
Do đó, trong Kinh Pháp cú, Phật dạy:
Nói lên lời ôn hòa
Lợi ích và chân thật
Không mất lòng một ai
Ta gọi Bà la môn.
Phật dạy: “Có ba pháp này, này các Tỳ kheo, đưa đến hại mình, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai. Thế nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Ba pháp này, này các Tỳ kheo, đưa đến hại mình, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai.
Có ba pháp này, này các Tỳ kheo, không đưa đến hại mình, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai. Thế nào là ba? Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Ba pháp này, này các Tỳ kheo, không đưa đến hại mình, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai”.
Quý vị để ý, hôm nào mình nói nặng với vợ, chồng hay người thân của mình, bảo đảm hôm đó quý vị ngồi thiền không được. Thân trạo cử, miệng trạo cử thì ý trạo cử, ngồi thiền làm sao yên được. Cho nên phải làm chủ được khẩu nghiệp, mà ý niệm là chủ yếu. Vừa dấy niệm lên, mình biết thì dừng liền.
Thiền sư Khuê Phong dạy: “Bậc thượng thì không còn dấy những niệm sân hận, bực tức, phẫn nộ, bậc trung vẫn còn những tâm niệm đó nhưng biết dừng, còn bậc hạ thì sân hận, bực tức, phẫn nộ nói ra hết”. Bậc trung là những người đang trên bước đường tu tập để chuyển hóa nội tâm, vì có rất nhiều những hạt giống xấu ác mà chúng ta đã gieo từ vô lượng kiếp.
Chính Hòa thượng Trúc Lâm thời gian về sau này cũng chỉ hay dạy bốn câu kệ cho cả Tăng Ni và Phật tử, đó là:
Chư ác mạc tác Các điều ác chớ làm
Chúng thiện phụng hành Các điều thiện nên làm
Tự tịnh kỳ ý Luôn thanh tịnh ý mình
Thị chư Phật giáo. Là lời chư Phật dạy.
Trong Nghệ thuật sống có ghi lại ba điều dễ và khó. Thứ nhất, thật dễ làm tổn thương một người chúng ta hết mực yêu thương, nhưng sẽ rất khó hàn gắn lại vết thương đó. Thứ hai, thật dễ có tên mình trong sổ địa chỉ của một người nhưng sẽ rất khó làm cho hình ảnh của mình hiện diện trong trái tim người đó. Thứ ba, thật dễ phát ra những ngôn từ thiếu suy nghĩ nhưng sẽ rất khó kiểm soát được những lời nói của mình. Làm được điều này rất khó, đòi hỏi phải có công phu tu tập một thời gian mới làm được, những hạt giống xấu ác nếu không tiếp tục tưới tẩm thì mới bớt được.
Trong Thiền thoại có kể câu chuyện: Có một nữ thí chủ rất giàu có nhưng lại rất kiêu mạn, do đó chẳng ai dám gần. Một hôm bà đến thỉnh giáo với Thiền sư Vô Đức, hỏi:
- Làm thế nào để có sức hấp dẫn, ai cũng thích gần gũi và chia sẻ?
Thiền sư khai thị:
- Cô phải tùy lúc tùy nơi hợp tác với mọi người, đồng thời trong lòng luôn có đủ tâm từ bi giống như Phật, tập nói một ít lời thiền, nghe một chút tiếng thiền, làm một chút việc thiền, dùng một chút tâm thiền. Như thế cô sẽ trở thành người có sức hấp dẫn.
Bà hỏi tiếp:
- Lời thiền thì làm sao nói?
Thiền sư nói:
- Lời thiền chính là lời nói hoan hỷ, là lời nói chân thật từ đáy lòng của bà
(Tức là lời nói phải xuất phát từ tâm)
Trong quyển Tâm bất sinh, có một ông bị mù mắt nhưng có tài phân biệt người qua tiếng. Ông nói: “Có một số người thấy người khác được lợi, được thành công, họ đến chúc mừng nhưng trong sự chúc mừng đó ẩn chứa sự tật đố, sự ích kỷ, có sự hơn thua, hận thù trong lời nói của họ chứ không phải từ đáy lòng chân thật. Chỉ có lời nói của Thiền sư Bankei là lời nói chân thật, là lời nói hoan hỷ từ đáy lòng của ông”.
Vậy muốn nói lời hoan hỷ, chân thật từ đáy lòng mình thì chúng ta phải tu cho đến khi nào giác ngộ, còn không vẫn còn những cù cặn trong tâm thức của mình, người nào tinh ý nói chuyện sẽ biết liền. Các Ngài nhiều khi mình chỉ cần đến cửa các Ngài đã biết, dầu cho mình có nói hay cách mấy thì những hành xử trong cuộc đời mình cũng lộ ra hết.
Thiền sư Vô Đức dạy tiếp:
- Lời thiền chính là lời nói khiêm cung, lời nói lợi mình, lợi người, cả hai đều lợi ích.
Tinh thần nhà Phật là lùi một bước là tiến mười bước, lùi thì mới có đà để tiến xa.
Trong thiền thoại có ghi ở thiền viện Long Hổ, chư Tăng vẽ một con hổ và một con rồng đấu với nhau, hổ thì chồm lên, rồng thì lao xuống nhưng vẫn không đạt. Thiền sư Vô Đức thấy vậy nói: muốn vẽ được rồng, hổ với thế dũng mãnh thì hổ phải lùi lại và rồng phải thu móng vuốt về. Chư Tăng sửa lại theo lời thiền sư Vô Đức thì bức tranh trở nên rất sống động. Thiền sư Vô Đức khai thị: “Làm người xử sự với nhau và đạo lý tham thiền tu đạo cũng giống như vậy, chuẩn bị lùi một bước về sau thì khả năng tấn công về trước càng xa. Sau khi phản tỉnh, khiêm nhường thì năng lực vươn lên càng cao”. Quý vị thấy một người mà luôn bị nghịch cảnh, nghịch duyên khốn cùng trong cuộc đời thì chính người đó lại tu được, còn chúng ta thuận duyên nhiều quá, làm cái gì cũng thành công thì dễ sanh tâm kiêu mạn. Những người bị nghịch duyên nhiều thường có đức tính khiêm nhường, biết rằng nghiệp xấu của mình còn nhiều, phải ráng tu tập thêm nữa thì họ tu được. Còn những người được thầy thương, bạn mến, cái gì cũng đủ thì coi chừng khó tu.
Lúc này học tăng không hiểu, hỏi: “Lão sư phụ, người lùi về thì làm sao tiến về phía trước được?”
Lúc này Thiền sư nói bài kệ:
Tay cầm mạ non cấy xuống ruộng
Cúi đầu nhìn thấy trời trong nước
Thân tâm thanh tịnh mới là đạo
Lùi bước chính là đang tiến lên.
Lúc cấy mạ là tiến lên hay lùi xuống? Lùi một thời gian thì có cả đám ruộng.
Lục Tổ dạy: “Trong tâm khiêm hạ gọi là công, bên ngoài hành lễ phép gọi là đức…. Nếu người tu công đức, tâm tức không có khinh, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là không công. Tự tánh hư vọng không thực tức là tự không đức, vì ngô ngã tự đại thường khinh tất cả”.
Có những người đủ điều kiện ăn học tốt, bằng cấp cao, giàu có thì thường sanh tâm ngã mạn nhiều. Đó cũng là một trong bát nạn, là thế trí biện thông. Một khi bước vào đạo thì phải gác bỏ lại hết bên ngoài, nếu không thì chỉ có phước hữu lậu chứ không có công đức. Thấy mình làm được việc này, việc nọ nên khởi tâm cống cao, ngã mạn, uổng một kiếp người hành đạo. Cho nên chúng ta phải cẩn thận điều này.
“Nếu người tu công đức, tâm tức không có khinh, thường hành khắp kỉnh”: chúng ta phải trên kính dưới nhường. Nếu trên kính nhưng dưới lại coi thường thì đức của mình bị giảm, vì người nào cũng có đức tính của Phật.
Nữ thí chủ hỏi tiếp:
- Tiếng thiền làm sao nghe?
Thiền sư Vô Đức nói:
- Tiếng thiền là chuyển hóa tất cả âm thanh thành âm thanh vi diệu, chuyển âm thanh nhục mạ thành âm thanh từ bi, chuyển âm thanh phỉ báng thành âm thanh giúp đỡ. Tiếng khóc, tiếng ồn, tiếng thô, tiếng xấu, cô đều không để ý đến. Đó là tiếng thiền.
Một người nào có nhân duyên gì đó với mình trong đời quá khứ, nên đời hiện tại họ nói những lời nhục mạ, lời xấu ác, nếu mình chuyển thành âm thanh từ bi thì tức là tăng trưởng công đức.
Như Thiền sư Huyền Giác nói:
Xét lời ác, ấy công đức,
Đó mới chính là thầy ta thật.
Chớ vì báng bổ nổi oán thân,
Sao tỏ vô sanh nêu nhẫn lực.
Nhờ họ nói những lời mắng nhiếc nặng nề, phỉ báng, nếu mình chịu được tất cả những lời đó thì chuyển hóa được nghiệp. Như trong Kinh Kim Cang, Phật dạy: “Người này đáng lý đọa địa ngục nhưng do trì bốn câu kệ chỉ bị người ta mắng chửi thôi”.
Rồi chẳng hạn khi ngồi thiền, nghe thấy tiếng khóc, tiếng ồn, tiếng thô, tiếng xấu, cùng một lúc các pháp đến mà mình biết hết, nghe thấy hết nhưng không lưu ý đến, không trụ, giống như nước đổ trên lá sen. Tâm không trụ thì “nhi sanh kỳ tâm”. Cứ như vậy, một thời gian sau sẽ có diệu lực, gọi là vô tác diệu lực. Đừng có lo không trụ thì sẽ không biết gì hết, không trụ tất cả tiếng thì sẽ có diệu dụng từ bản thể lưu xuất, chính tâm đó giúp cho mình làm tất cả cho mọi người mà không dính mắc, làm trong tinh thần vô tác diệu lực. Nhưng mà phải tu tập thì mới có, còn nếu quý vị chỉ nghe pháp mà không hạ thủ công phu tu tập thì không có diệu dụng này, làm mà trụ thì sanh tâm nhân ngã ta người, tâm ích kỷ, san tham, tật đố. Cho nên có nhiều người nói không hiểu sao càng tu càng phiền não, đó là bởi mình còn trụ nhiều quá. Mua căn nhà, trụ vào căn nhà, cúng dường cái gì đó cũng trụ, cũng chấp trước, ai mà làm ngược ý mình thì sanh phiền não, sân hận.
Có một ông Tỳ kheo tu trong rừng ba tháng, sau đó đến Đức Phật trình kiến giải như sau:
Luôn luôn chế ngự ý
Trong tất cả mọi thời
Chỗ nào chế ngự ý
Chỗ ấy được an vui.
Đức Phật nói: “Nếu ông theo bài kệ này mà tu thì chỉ thêm trói buộc chứ không lợi ích gì”. Rồi Đức Phật nói bài kệ:
Luôn luôn chuyển hóa ý
Trong tất cả mọi thời
Chỗ nào chuyển hóa ý
Chỗ ấy được an vui.
Chế ngự giống như là lấy đá đè cỏ, đè xuống một thời gian, lật hòn đá ra thì cỏ lại bung lên. Tâm mình sanh khởi vận hành liên tục mà mình cố đè, cố chịu đựng thì một lúc nào đó nó cũng bùng lên, còn ở đây là mình phải nhìn các niệm để chuyển hóa. Ban đầu, mình có thể dùng pháp đối trị, như có tâm tật đố thì phải dùng pháp tùy hỷ, thấy người khác được an ổn, hạnh phúc hơn mình thì chúng ta cần phải vui với hạnh phúc của họ. Rồi tiếp theo, trong sự vận hành của ý thức đó, bao nhiêu niệm khởi lên quý vị đều biết, đều thấy, nhưng thấy rồi chúng ta không theo nó, không tưới tẩm thêm cho những hạt giống xấu nữa thì một thời gian sẽ hết. Đó gọi là chuyển hóa ý niệm của mình. Chuyển được như thế, chúng ta sống rất tự tại, an vui.
Sở dĩ trong cuộc đời này, chúng ta hay bị đau khổ là do mình chấp trước, chỉ cần buông xả chấp trước là hết đau khổ. Trong Thiền thoại có kể câu chuyện: Có một bà lão hay khóc, trời mưa cũng khóc mà trời nắng cũng khóc. Một hôm có vị Tăng hỏi bà lý do tại sao bà khóc như vậy. Bà nói bà có hai đứa con, một đứa bán dù, một đứa bán giày vải. Khi trời nắng, bà nghĩ đến đứa con bán dù, bán không được nên bà khóc, còn trời mưa thì bà nghĩ đến đứa con bán giày vải cũng không bán được nên bà khóc. Vị Tăng nghe xong khuyên bà thay đổi thái độ, tức là khi trời nắng, bà nghĩ đến đứa con bán giày vải sẽ bán được nhiều hàng, còn lúc trời mưa, bà nghĩ đến đứa con bán dù của bà cũng sẽ đắt hàng. Bà lão được vị Tăng chỉ dạy, liền cảm thấy sung sướng, mặt mày vui tươi. Từ đó, bà không còn buồn rầu khóc lóc nữa. Ngày trời nắng, bà lão cũng cười, lúc trời mưa bà lão cũng cười. Từ đó bà lão có biệt hiệu là “bà lão hay cười”.
Như vậy, cùng một sự việc, chỉ cần chúng ta chuyển một cái thấy là xong. Nhưng thường chúng ta rất khó chuyển cái thấy của mình, ai mà làm khác mình thì chịu không được. Chính điều đó làm mình khổ trước, ai ở với mình cũng khổ theo luôn.
Một câu chuyện nữa về tiếng thiền, trong Thiền thoại có một vị tăng đến thỉnh pháp một vị Thiền sư về tiếng vỗ của một bàn tay. Đây là công án nổi tiếng của Thiền sư Bạch Ẩn. Vị Tăng này về và quán chiếu công án, một hôm nghe thấy tiếng nhạc khí, cho rằng đã nghĩ ra nên đến Thiền sư đàn bài nhạc. Thiền sư nói không phải. Lần thứ hai, vị Tăng đến bắt chước tiếng suối chảy, thiền sư cũng nói không phải. Những lần sau đó, vị Tăng đến mang theo tiếng khóc, tiếng cười, tiếng chó sủa, tiếng mèo kêu, tất cả đều bị thiền sư gạt đi. Một hôm, trong cơn thiền định sâu lắng, vị Tăng ngộ ra được và đến trình Thiền sư: “Âm thanh của thế gian đều là vô thường, chỉ có tiếng vô thanh, tiếng mà không tiếng mới là tiếng vỗ của một bàn tay”. Lúc này Thiền sư gật đầu.
Chỗ này quý vị lưu ý, nếu chúng ta cho tất cả các thứ tiếng là tiếng vỗ của một bàn tay thì chỉ là nhận ông chủ thứ hai, hay mặt trăng thứ hai. Dù cho chúng ta có nói nghe hết tất cả các thứ tiếng mà không chạy theo tiếng cũng không phải, nó là cái bóng tương tợ. Trong Luận Đại thừa khởi tín, Bồ Tát Mã Minh nói là “tương tợ giác”, tức là giống cái giác mà không phải.
“Chỉ có tiếng mà không tiếng”: Một hôm Thiền sư Ngưỡng Sơn đến hỏi Thiền sư Quy Sơn: “Trăm ngàn muôn pháp đến cùng một lúc thì như thế nào?” Thiền sư Quy Sơn: “Xanh ra xanh, vàng ra vàng, trắng ra trắng, dài ra dài, ngắn ra ngắn, không can hệ gì đến ông”. Nếu có thời gian nào đó, quý vị ngồi yên lại, nghe thấy tiếng chim kêu, tiếng chó sủa, tiếng xe chạy…, tất cả các thứ tiếng cùng đến một lúc. Rõ ràng là âm thanh của tướng vô thường, bởi vì tiếng chim kêu xong cũng mất, tiếng xe chạy qua rồi cũng mất, trăm ngàn thứ tiếng cùng một lúc nhưng tánh biết chỉ có một, thường tại. Bao nhiêu niệm có không, phải quấy, cũng chỉ có một cái biết duy nhất, phá hết tất cả các niệm, cho nên chỉ có tiếng mà không tiếng mới là tiếng vỗ của một bàn tay. Cái biết này không có hình tướng, nhưng chỉ một cái biết vô tướng này phá hết tất cả các thứ tướng vô thường của thế gian.
Quý vị nếu biết dụng công thì tu một ngày bằng người không biết dụng công tu một, hai năm. Xưa Thiền sư Thạch Củng chưa xuất gia, ngài làm nghề thợ săn. Một hôm, đi ngang qua thất Mã Tổ, Mã Tổ hỏi:
- Ông làm nghề gì?
- Con làm nghề thợ săn.
- Một mũi tên ông bắn được mấy con?
- Một mũi tên con bắn được một con.
- Vậy ông thua ta.
- Một mũi tên Hòa thượng bắn được mấy con?
- Một mũi tên ta bắn được một bầy.
- Hòa thượng đi tu rồi mà sao còn một mũi tên bắn được một bầy?
- Ông biết như thế, tại sao không dụng công đi?”
Chúng ta nếu không biết pháp tu thì một mũi tên bắn được một con. Có người ngồi thiền, tìm cách diệt niệm, một niệm khởi lên bèn lấy mũi tên bắn, bao nhiêu niệm là bấy nhiêu mũi tên, ngồi một thời gian thấy căng thẳng, nhức đầu, đó là do thấy pháp là có thật và dụng công của mình cũng thật. Hai cái kháng cự nhau nên ngồi thấy mệt. Còn chúng ta tu theo cách của Thiền sư Mã Tổ, dùng một chữ BIẾT, biết tất cả các pháp tự tánh không có thật, vô thường, có sanh có diệt, có đến có đi. Đó mới đích thực là pháp tu đốn ngộ, là pháp mười phương chư Phật truyền thừa. Sở dĩ thời mạt pháp mà còn pháp này là duyên của chúng sanh rất lớn. Ai có đức tin lớn mới tu được pháp này, tức là dùng một chữ BIẾT. Pháp này đâu có khác so với trong Kinh Tương Ưng bộ, Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, khi tâm ông có tham, biết tâm ông có tham, ….” Biết là cái gì biết, do tuệ tri biết, không bị tham sân si đồng hóa. Thường chúng ta khi khởi niệm tham sân si đều cho nó là của mình, nhưng nếu là của mình thì sáng tham, trưa tham, chiều tham, sân, si cũng như thế. Còn đây, chúng ta sáng sân nhưng chiều thì hết, như vậy đâu phải của mình mà chúng ta đồng hóa nên đi trong luân hồi sanh tử. Bây giờ tôi nhéo tay, đau, thả tay ra, không đau, nhưng cái gì biết đau hay không đau? Đau và không đau là hai bên sanh diệt, có người ngồi thiền được an định, nhưng cái định đó là đối với cái động, nhưng cái gì đi xuyên qua, vượt lên cả động và tịnh? Pháp này chính là con đường trở về tri kiến Phật.
Một hôm, tướng quốc Bùi Hưu đến hỏi Thiền sư Lâm Tế: “Tại sao ở đây không có học kinh? Vậy ở đây làm gì”. “Ở đây làm Phật, làm Tổ”. Con đường làm Phật, làm Tổ chính là con đường thiền tập. Thiền sư Đạo Nguyên nói: “Một ngày ngồi thiền là một ngày làm Phật, một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật”.
Trở lại câu chuyện của nữ thí chủ với Thiền sư Vô Đức, nữ thí chủ hỏi tiếp:
- Việc thiền làm sao làm?
Thiền sư Vô Đức nói:
- Việc thiền là việc từ thiện, việc phục vụ chúng sinh, việc hợp với Phật pháp.
Chúng ta bố thí, cúng dường, làm các việc thiện pháp nhưng nếu không có thiền trong đó thì cũng bố thí, cũng cúng dường mà trụ vào tướng bố thí, cúng dường. Làm từ thiện mà có chấp ngã, không có thiền trong đó thì dù làm Phật sự nhưng cũng bị chấp trước, ai làm mình vừa lòng thì mình vui, ai mà làm nghịch ý thì mình ghét, thì cũng trở thành ma sự.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy rõ: “Làm tất cả các thiện pháp mà quên mất tâm bồ đề đều là hành động của ma”. Làm các việc mà không có thiền thì hay bị chấp trước, thấy mình bố thí, thấy có người nhận, từ đó chỉ có phước hữu lậu, phước sanh diệt. Vua Lương Võ Đế cất 72 ngôi chùa, đúc chuông, nhưng do sự chấp trước nên khi đến hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Tổ nói vua không có công đức.
Cổ đức nói: “Phật sự không hoa, đạo tràng thủy nguyệt”. Làm Phật sự giống như hoa đốm giữa hư không, có nghĩa là hoa đốm có đó nhưng lại mất đó, các Ngài làm Phật sự trong tinh thần buông xả, còn đã chấp trước thì sẽ sanh rất nhiều tâm kèm theo. Còn đạo tràng lập ra giống như bóng trăng dưới nước, không có thật. Có duyên thì làm, hết duyên thì thôi.
Ngài Phó Đại sĩ tụng:
Nếu luận thí vô tướng
Công đức thật khó lường
Xót thương cứu nghèo thiếu
Quả báo chẳng mong cầu
Phàm phu thí còn chấp
Ban đầu tạm đề cao
Muốn biết tướng bố thí
Như hư không mười phương.
Làm từ thiện, bố thí trong tinh thần Thiền, hay nói cách khác là với con mắt Bát Nhã, không trụ vào tướng bố thí thì phước đức chuyển thành công đức. Kinh Kim Cang nói: “Bố thí lìa bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả”. Muốn được như thế không phải dễ mà đòi hỏi phải có sự dụng công. Cho nên nếu luận thí vô tướng thì bố thí được như thế công đức thật khó lường. Ví như nếu chúng ta nhìn lên bầu trời, nếu không có đám mây nào hết thì hư không rộng bao nhiêu? Nhưng chỉ cần một đám mây nhỏ thì mình chú ý đám mây mà không thấy hư không. Nếu bố thí, cúng dường, làm các thiện pháp mà trụ thì phước chỉ nhỏ như đám mây, nếu không trụ thì công đức thênh thang như hư không. Thường thường chúng ta khi làm hay mong người được bố thí phải cảm ơn, hay ông Thầy được cúng dường phải chú ý đến mình. Nếu như đợi ông Thầy cảm ơn hay tán thán thì phước mình cũng chỉ bấy nhiêu đó thôi, còn bố thí vô tướng thì công đức thênh thang không ngằn mé.
“Xót thương cứu nghèo thiếu, quả báo chẳng mong cầu”: Nếu thấy người nghèo khổ mình cứu giúp, không mong cầu quả báo. Vì sao? Vì cho tức là nhận. Theo tinh thần Bồ tát đạo, khi làm các thiện pháp, bố thí, cúng dường, đúng ra mình phải cảm ơn những người đến nhận quà của mình thay vì để người ta cảm ơn. Nhờ những người này, quý vị mới có cơ hội làm các việc thiện pháp. Ở các cảnh giới tốt như cõi trời, dù mình có muốn cũng không làm các việc thiện pháp này được. Quả báo của việc không mong cầu rất thênh thang, rộng lớn. còn phàm phu thí còn chấp, ai làm vừa lòng thì thích. Tinh thần từ bi của nhà Phật khác rất nhiều so với những từ ngữ mà chúng ta hay nghe, tinh thần từ bi của nhà Phật là vô duyên từ, bình đẳng với tất cả, thương tất cả, thấy người đói khổ là giúp, kể cả người có oán thù với mình,còn tình thương ở thế gian là chỉ đối với những người nào thương mình, mến mình thì mình mới thương, mới cho.
Kinh Văn Thù Bát Nhã ghi: Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi: “Thế nào là trụ Bát Nhã ba la mật?” Ngài Văn Thù đáp: “Vì chẳng trụ pháp, tức là trụ Bát Nhã ba la mật”.
Đến chùa, quý vị cúng dường cái ly, cái chén, chiếc xe nhưng không trụ vào pháp đó tức là trụ Bát Nhã ba la mật, thấy pháp bố thí mang tính chất duyên khởi, rỗng, không có gì hết, ngay đó thâm nhập được Bát Nhã.
Phật lại hỏi: “Thế nào là chẳng trụ pháp, tức là trụ Bát Nhã ba la mật?”. Ngài Văn Thù đáp: “Vì không trụ tướng, tức là trụ Bát Nhã ba la mật”. Trong lúc chúng ta làm các việc thiện pháp mà không trụ, không chấp thì tức là có Bát Nhã trong đó, không phải mình không trụ tất cả tướng rồi như ngu như ngơ, không biết gì như gỗ đá. Tuy không trụ tướng nhưng có một năng lực gọi là vô tác diệu lực từ trong bản thể lưu xuất. Các Ngài làm không trụ, không chấp trước nhưng đều trong ánh sáng Bát Nhã nên làm đâu vào đó, sáng suốt.
Có một vị Tăng đến, Thiền sư Động Sơn hỏi: Từ đâu đến?.
Tăng nói: Dạo núi đến.
Thiền sư Động Sơn hỏi: Có đến đỉnh chăng?
Tăng đáp: Đến.
Thiền sư Động Sơn hỏi: Trên đỉnh có người không?
Tăng: Không có người.
Thiền sư Động Sơn: Như thế thì không đến đỉnh.
Tăng nói: Nếu không đến đỉnh làm sao biết không có người.
Thiền sư Động Sơn: Sao không trụ ở đó?
Tăng: Chẳng phải con không trụ, nhưng ở Tây Thiên có người không chịu.
Thiền sư Động Sơn: Từ trước tới nay ta đã nghi người này.
Trên bước đường công phu, đi qua các cảnh giới của niệm, hỏi có đến đỉnh tức là đến chỗ rốt ráo, hỏi trên đỉnh có người không tức là hỏi còn có người, có ta, có pháp không, tức là vô ngã, vô nhân. Thường chúng ta ngồi đến chỗ khinh an lặng lẽ thì lại chết chìm trong đó.Thiền sư gài thêm cái bẫy nữa, hỏi: sao ông không trụ ở đó? Tức là trụ ở chỗ khinh an, yên ổn. Tăng trả lời là biết hết nhưng không chấp trước.
Thiền sư Triệu Châu nói: “Chỗ có Phật chẳng được trụ mà chỗ không có Phật phải mau chạy đi”. Động và tịnh là hai, cái gì thấy được động và tịnh thì ngay đó là chỗ chúng ta an thân lập mệnh.
Nữ thí chủ lại hỏi:
- Dùng tâm thiền là dùng tâm gì?
Thiền sư Vô Đức nói:
- Tâm thiền là tâm ta và người nhất như, tâm thánh phàm một mối, tâm bao dung tất cả, tâm lợi ích khắp tất cả.
Thường chúng ta nghĩ vô niệm là không còn gì, giống như gỗ, như đá, nhưng vô niệm ở đây tức là niệm chân như, vô niệm mà rõ biết, không còn một niệm nào nhưng việc thiện thì chúng ta làm, việc ác chúng ta tránh, giới luật chúng ta giữ, mà làm hết tất cả trong tinh thần không chấp trước. Sở dĩ chúng ta không dung nhiếp được những người khác là do tâm quá nhỏ bé, giống như một nắm muối bỏ vào trong một cái ly thì uống không được, còn cũng nắm muối đó mà bỏ xuống dòng sông mà chúng ta uống được là do dòng sông quá lớn. Lúc mới tu, có những câu làm xúc phạm mình, mình chịu không được, mình ôm ấp mà không hóa giải được, nhưng tu một thời gian thì lời nói của người khác tác động đến mình giống như một nắm muối bỏ xuống dòng sông. Muốn được vậy, trong cuộc sống hàng ngày chúng ta phải khắc kỷ với chính mình mà bao dung với người khác, còn thường chúng ta hay bao dung với chính mình mà khắc kỷ với người khác.
Nữ thí chủ nghe xong, dốc lòng sửa đổi tập khí kiêu ngạo từ trước, đối với người không còn khoe khoang sự giàu có của mình, không còn cậy sự đẹp đẽ của mình mà luôn khiêm tốn, lễ độ. Đối với quyến thuộc thì hết lòng bảo vệ, thương xót, không bao lâu nổi tiếng là thí chủ có sức hấp dẫn nhất, ai cũng muốn gần gũi.
Qua bài này, chúng ta thấy nếu biết dụng công tu tập để chuyển hóa nội tâm thì không những làm lợi mình mà còn làm lợi ích cho nhiều người khác. Nếu không chịu chuyển hóa mà còn tưới tẩm những hạt giống xấu ác trong tâm thức, một lúc nào đó nó phát tác ra miệng, thân thì càng tu càng phiền não, không chỉ mình phiền não mà còn làm cho mọi người chung quanh phiền não theo.
Trong cuộc sống ai cũng muốn hạnh phúc, an ổn, muốn vậy không phải là việc nói suông mà phải lắng lại, nhìn thật sâu vào tâm thức của mình để chuyển hóa, biết nói lời thiền, nghe tiếng thiền, làm việc thiền và dùng tâm thiền thì cuộc sống của mình và mọi người đều được an vui, hạnh phúc.
-
8. NĂM PHÁP CHE LẤP TỰ TÁNH BÁT NHÃ
NĂM PHÁP CHE LẤP TỰ TÁNH BÁT NHÃ
Giảng tại Chùa Thiên Ấn và Đạo tràng Phúc Đức – Sydney - Úc
I. DẪN NHẬP
Hôm nay chúng tôi có duyên chia sẻ một chút giáo lý cùng quý vị. Quý vị phần đông đều tu thiền theo pháp môn của Hòa thượng tôn sư, đã nghe pháp rất nhiều. Ở đây, tôi chỉ nêu thêm một số điểm để y cứ vào đó quý vị tiến thêm trên con đường thiền. Nếu y cứ trên nhân vô sanh để tu thì quý vị sẽ được quả vô sanh, còn tu trên nhân sanh diệt thì được quả sanh diệt. Quý vị thấy Bồ Tát Sĩ Đạt Đa sau khi ngồi thiền dưới cội bồ đề 49 ngày đêm thấy được trong mỗi chúng sanh đều có đức tướng Như Lai cùng với Phật không khác, nhưng tại sao Đức Phật đã thành tựu quả rốt ráo cuối cùng, còn mình cũng có tánh Phật nhưng lại bị khổ đau, phiền não bức bách? Tại sao Đức Phật tu nhanh hơn chúng ta? Đó là Ngài biết cái gì sai, không đúng thì bỏ. Ở chốn hoàng cung, biết rằng nếu đắm chìm trong ngũ dục thì khó mà thành tựu đạo giác ngộ nên Ngài bỏ. Rồi 5 năm tầm đạo, 6 năm khổ hạnh, biết sai nên Ngài cũng bỏ. Còn chúng ta biết sai mà không chịu bỏ. Một hôm có một ông Tăng đến hỏi Thiền sư Triệu Châu:
- Con chó có Phật tánh không?
- Có.
- Đã có, tại sao lại chui vào đãy da làm gì?
- Vì biết mà cố phạm.
Quý vị thấy, tâm Phật tròn sáng như gương. Tâm chúng ta cũng vậy, nhưng nếu phủ một lớp bụi rồi trát thêm một lớp bùn thì có soi thấy được không? Tâm của mình sở dĩ không sáng soi chiếu trời chiếu đất là bị năm thứ ngăn che:
1. Tham dục
2. Giận hờn
3. Mê ngủ
4. Trạo cử (dao động), hối hận
5. Nghi ngờ.
Quý vị thấy bỏ được năm thứ này dễ hay khó? Tu đâu phải một ngày một tháng mà hết được năm thứ này. Không chỉ người tu thiền, mà ngay cả người tu Tịnh hay Mật mà chưa bỏ được năm thứ này thì dù Đức Phật A Di Đà có đến rước cũng không đi được. Cho nên, ngày hôm nay, chúng tôi sẽ chia sẻ với quý vị đề tài: “Năm pháp che lấp tự tánh Bát Nhã”.
II. XẢ NĂM PHÁP CHE LẤP TỰ TÁNH BÁT NHÃ
- 1. XẢ THAM DỤC
Đại sư Trí Khải dạy: “Khi hành giả ngồi ngay thẳng tu thiền định, tâm vừa khởi tham muốn, niệm niệm tiếp nối, che đậy thiện tâm không được tăng trưởng, biết rồi liền bỏ”.
Chẳng hạn thấy người khác có cái nhà lớn hơn nhà mình, xe đẹp hơn xe mình, mình cũng mong muốn được như vậy nên tối ngày nghĩ hết cách này đến cách nọ để kiếm thật nhiều tiền mua nhà, mua xe cho đẹp.
Trong Thiền thoại có kể một vị Tăng tu hành đã lâu mà chưa ngộ đạo. Một hôm trên đường đi khất thực ngang qua một căn nhà, ông nghe thấy tiếng một cô gái hát: “Trương đậu hũ, Lý đậu hũ, sáng mai cũng tiếp tục bán đậu hũ”, liền ngộ đạo. Tại sao ông Tăng nghe lời hát đó lại ngộ đạo? Ông Trương bán đậu hũ, ông Lý bán đậu hũ, dù cho suốt đêm nghĩ cách làm giàu thì ngày mai cũng vẫn phải tiếp tục bán đậu hũ. Khi nghe được câu đó, ông buông hết các niệm liền được ngộ đạo.
“Vì cớ sao? Vì như nàng Thuật-bà-già trong tâm khởi tham dục, còn bị đốt cháy cả thân thể, huống chi trong tâm sanh lửa tham dục mà chẳng thiêu hết các pháp lành sao?”
Không những khởi niệm tham dục về vật chất xe, nhà cửa, mà còn khởi niệm về ái dục qua xúc chạm, tiếng nói, hình ảnh, nam cũng như thế mà nữ cũng như thế.
Trong Kinh A Hàm, Phật dạy rõ:
Không thấy rõ ái dục
Mới vướng vào ái dục
Ảo tưởng về ái dục
Đưa người về nẻo chết.
Trong Thiền thoại có kể, Ngài Tô Đông Pha và Thiền sư Phật Ấn là hai người bạn thân. Tô Đông Pha làm quan, có sáu bà vợ và chuẩn bị lấy thêm bà vợ thứ bảy trẻ, đẹp. Thiền sư Phật Ấn liền hỏi mượn cô vợ thứ bảy một đêm, mặc dù rất ngạc nhiên nhưng Tô Đông Pha cũng đồng ý. Nửa đêm, Ngài đánh thức cô gái dạy, bắc 7 cái lò lửa, đi qua đi lại, đi tới đi lui suốt đêm. Sau khi nghe cô vợ về kể lại, Tô Đông Pha giật mình, biết Thiền sư Phật Ấn cảnh tỉnh mình, ví một cái lò lửa tiêu biểu cho một người vợ.
Ngài Liên Trì trước khi xuất gia cũng có một người vợ. Sau khi xuất gia, cứ một năm Ngài về nhà một lần. Một lần Ngài về nhà, vừa bước vào liền ngã xuống hầm có than lửa ở dưới. Ngài kêu la, trách bà vợ sao ác vậy. Bà vợ nói: “Lửa này chỉ đốt ông một đời, còn lửa tham dục đốt ông nhiều đời nhiều kiếp. Ông không lo tu tập còn về nhà làm gì nữa”. Ngài nghe xong hổ thẹn, phát nguyện tu chừng nào sáng đạo mới về nhà.
Cho nên, mình vừa khởi niệm tham dục, dù cho là nhà, xe hay con người, phải buông xả luôn để dấn thân vào con đường giác ngộ. Nếu suốt ngày khởi niệm tham dục thì không bao giờ phát minh được tâm địa.
Phật dạy tiếp:
Thấy chân tướng ái dục
Tâm ái dục không sanh
Tâm ái dục không sanh
Ai cám dỗ được mình.
Trong Luận Ma ha diễn: “Ngũ dục như nước biển, càng uống càng khát. Ngũ dục không vui, như chó gặm xương khô. Ngũ dục gây tranh đấu, như bầy quạ giành thịt thúi. Ngũ dục thiêu người, như cầm đuốc đưa ngược gió. Ngũ dục hại người, như đạp nhầm rắn độc. Ngũ dục không thật, như mộng được của báu. Ngũ dục tạm bợ không lâu bền, như chọi đá nhóm lửa. Người trí suy xét coi nó như giặc thù; người đời mê lầm, tham đắm ngũ dục đến chết không bỏ, đời sau phải chịu vô lượng khổ não.”
Trong Kinh A Hàm, có câu chuyện trong một ngôi làng có một số người bị bệnh cùi, đốt một đống lửa thật lớn để hơ gãi, ban đầu thấy dễ chịu nhưng gãi nhiều bị rát, rất là đau khổ. Một hôm có một vị lương y đến trị bệnh cho một người trong nhóm đó khỏi bệnh. Anh này một hôm đi ngang khu đó được mọi người mời vào hơ lửa, nhưng vì đã biết nên không vào nữa. Đức Phật ví chúng sanh chìm đắm trong ngũ dục, bị ngũ dục làm mờ tối, che mờ tánh giác, gặp Phật chỉ dạy con đường thiền tập, quán chiếu được ngũ dục là khổ nên không quay lại nữa.
Trong bài kệ “Trừ Cái”, Phật nói:
… Cầu các dục thì khổ,
Khi được nhiều lo sợ,
Khi mất lại buồn rầu,
Tất cả thời không vui.
Họa các dục như thế…
Có những người rất giàu có, nhiều tài sản nhưng gặp lúc khó khăn, tài sản gần như mất hết, tuyệt vọng muốn tự tử, nhưng thử nhớ lại khi mình sanh ra đời, đến một cái tã cũng không có, khi bớt lòng tham muốn thì đỡ khổ.
Phật dạy một người ngu bị mũi tên đâm vào người cũng đau, một người trí bị mũi tên đâm vào người cũng đau. Nhưng người ngu sau khi bị đâm, về nhà tự tiếp tục đâm thêm mũi tên thứ hai, thứ ba… vào người, còn người trí sau đó về nhà rút mũi tên ra và băng bó vết thương. Cũng vậy, người không biết Phật pháp, không biết tu tập thì khi gặp phải điều bất như ý khiến cho bị phiền não thì sau đó về tiếp tục kể cho người này, người kia nghe, mỗi lần kể là một lần tự đâm một mũi tên vào người. Còn người biết tu tập, biết chuyển hóa thì dừng lại, không tự đâm thêm nữa.
…. Do đâu được xả nó
Được vui sâu thiền định
Liền không bị nó lừa.
Đi sâu vào thiền định, thấy những niệm đó là vọng tưởng, không có tự tánh, phiền não cũng không có tự tánh. Quý vị thử nghĩ xem phiền não này có thật là của mình không ? Nếu thật phiền não là của mình thì sáng phiền não, trưa phiền não, chiều phiền não. Còn sáng phiền não, chiều hết thì không phải là của mình. Như giờ quý vị đang cãi lộn với ai đó, tự nhiên có người gọi điện đến thông báo một tin rất vui, quý vị còn phiền não nữa không? Như vậy, phiền não chỉ là bóng dáng, do duyên mà có, hết nhân, hết duyên thì phiền não cũng hết.
- 2. XẢ GIẬN HỜN
Cái này người tu cũng hay bị dính mắc. Phật dạy: “Sân giận là cội gốc sanh ra các pháp bất thiện, là nguyên nhân đọa vào 3 đường ác, là oan gia của pháp an lạc, là bọn giặc dữ của tâm thiện, là kho chứa bao nhiêu ngôn ngữ thô ác, cũng đều do sân hận”.
Một khi nổi giận, chúng ta thường khó kiềm chế được lời nói của mình mà hay nói những lời dữ dằn, thô ác. Ngài An Thế Cao có vị sư huynh cũng thường hay bố thí, cúng dường, làm các việc phước thiện nhưng do hay bị sân hận nên khi chết bị đọa làm mãng xà.
Trong Kinh Phật dạy: “Bậc thượng thì nhẫn người dưới mình, bậc trung nhẫn người ngang mình, bậc hạ nhẫn người trên mình”. Nhẫn người trên mình thì dễ hiểu rồi, người trên mình nhiều khi mình không nhẫn cũng phải nhẫn, còn nếu người dưới mình mà mình tự hạ xuống để nhẫn được thì đó mới là điều khó làm.
Phật ví dụ một người cầm nắm muối bỏ vào ly nước, uống không được vì nắm muối lớn còn ly nước thì quá nhỏ. Chỉ cần đem nắm muối bỏ xuống dòng sông thì uống được vì dòng sông quá lớn, còn nắm muối quá nhỏ. Tu tập một thời gian, tâm mình rộng mở ra, hiểu và thương người hơn nên có khả năng chịu được và hóa giải những lời nói châm chích, độc hại của người khác.
Trong Kinh Nghiệp báo sai biệt, Đức Phật dạy:
Lời nói xúc não người
Bới móc chuyện riêng tư
Ngang bướng khó điều phục
Làm quỷ đói ngậm lửa.
Trong Kinh A Hàm cũng kể, một hôm Ngài Xá Lợi Phất ngồi trong tịnh thất, có một con quỷ mồm miệng chảy đầy máu, thân bình bốc lửa chạy đến khóc. Vị thị giả nhìn thấy, nói: “Bà khó vào gặp được Ngài Xá Lợi Phất lắm, vì Ngài có năng lực lớn nên bà không đến gần được”. Quỷ nói: “Ngài cứ vào nói tôi là mẹ của Ngài Xá Lợi Phất 500 kiếp về trước”. Ngài Xá Lợi Phất ra, dùng thần thông biết được đây chính là mẹ của mình 500 kiếp về trước, sở dĩ làm quỷ là bởi suốt ngày bà hay chửi mắng người, nói những lời độc hại làm cho người khác đau khổ.
Qua câu chuyện này, chúng ta chiêm nghiệm lại trong cuộc sống của mình, phải “thủ khẩu như bình, phòng ý như thành”, tức là giữ miệng của mình giống như bình nước, không nói những lời thô ác hại mình hại người, làm hao tổn nước công đức, mà phải dùng lời ái ngữ để nói với người. Nhiều khi mình nói: “Tôi nói vậy thôi chứ trong tâm tôi không có gì hết”, nhưng thực ra, lúc đó trong tâm mình có dấy niệm tác ý mà mình không thấy được niệm nên mới nói ra những lời nói làm cho người khác phải đau khổ.
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Phật dạy: “Thà dùng kiếm bén cắt đứt lưỡi mình, chứ không bao giờ nóng giận nói lời thô lỗ để phải bị đọa vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh”. Cắt đứt lưỡi mình chỉ khổ một đời này thôi, nhưng nói những lời thô lỗ nóng giận khiến mình bị đọa, khổ trong nhiều kiếp.
Trong Kinh Bách Duyên, có vợ một ông trưởng giả rất giàu có. Khi bà mang thai, ai cũng xa lánh vì thân thể bà rất hôi thối như có xác chết trong đó. Khi bà sanh đứa bé ra, nó chỉ chuyên ăn phân người, ăn xong lấy phân trát lên người. Hai vợ chồng ông trưởng giả mang đứa con ra ngoài nghĩa địa, nó cũng tìm được một thùng phân công cộng để ăn. Mọi người đều gọi nó là Đạm bà la, tức là chuyên ăn phân người. Một hôm, được gặp Thế Tôn độ cho xuất gia, sau chứng quả A la hán. Tôn giả A Nan rất ngạc nhiên hỏi Phật, vì nghiệp gì mà người này sanh ra trong một gia đình rất giàu có mà tại sao lại ăn phân, sau lại được xuất gia tu hành. Phật nói: Trong đời quá khứ thời Đức Phật Câu Lưu Tôn, vị này xuất gia làm trụ trì một chùa lớn. Một hôm có bà tín thí đến cúng dường một số dầu thơm cho Tăng chúng. Trong chúng không ai xức, chỉ có một vị xức dầu thơm (vị này đã chứng quả A la hán). Ông Trụ trì giận, nói: “Ông là người xuất gia mà dùng dầu thơm xoa mình, không khác gì lấy phân bôi vào mình”. Do lời nói như vậy mà ông bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, rồi sinh ra làm người trong 500 kiếp thân đều hôi thối. Sở dĩ ông bị quả khổ như vậy là do đã chửi mắng một vị đã chứng quả A la hán.
Cho nên, là Phật tử chúng ta phải nên cẩn thận vì mình hay có tật chê bai, chỉ trích, nhất là đối với những bậc cao đức, thiện tri thức chỉ pháp tu thù thắng, nhiều khi mình không biết người đó tu chứng đến đâu nên cần phải cẩn thận lời nói. Như bữa nào ra đường, nếu quý vị gặp người ăn xin, có bực mình đánh họ thì họ cũng không làm gì được mình, nhưng nếu lỡ đụng vào vua hay quan đại thần mà mình đánh chửi thì chịu hậu quả lớn. Những người tu hành có năng lực lớn cũng như thế.
Rồi trong cuộc sống gia đình, nếu mình chửi mắng con cái thì cũng không khác gì chửi mắng người khác. Nhiều vị làm cha mẹ, tự cho mình có quyền chửi mắng con cái, nhưng thực ra khi mình chửi mắng con cái là mình đã gieo những hạt giống bất thiện cho nó và cho mình, nó buồn khổ thì lúc đó mình cũng không có hạnh phúc.
Trong Kinh Chánh báo, Phật dạy:
Người ác như tên độc
Người trúng bị tổn thương
Cửa ngục mở đang chờ
Rơi vào chảo dầu sôi
Cắt lưỡi buộc phải ăn
Đau khổ không kể xiết
Nếu không có lợi ích
Sao chẳng phòng lời nói?.
“Thế nên, hành giả khi tọa thiền, khởi nghĩ: ‘Người này phá hại ta, người thân ta khen ngợi kẻ thù của ta’. Suy nghĩ quá khứ, vị lai cũng như thế. Đó là chín thứ phiền não do sân hận nên sanh oán thù. Do tâm oán thù nên khởi tâm sát hại kẻ khác. Cho nên, những phiền não sân hận, oán thù che đậy, gọi là triền cái”.
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, một hôm có một vị Thích Đề Bà Na đến hỏi Phật:
Giết gì được an ổn?
Giết gì hết sầu khổ?
Vật gì gốc của độc
Nuốt mất tất cả thiện?
Phật trả lời:
Giết sân được an ổn
Giết sân hết sầu khổ
Sân là gốc của độc
Nuốt mất tất cả thiện.
Thường chúng ta hay mong cầu hạnh phúc ở tận đâu đâu mà thật ra, hạnh phúc chính là ngay nơi tự thân của quý vị, dù quý vị có mang hàng ngàn đô la Mỹ ra siêu thị hay bất cứ đâu mua cũng không có
Một hôm có vị Thiên tử đến hỏi Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, làm như thế nào để trong cuộc đời còn gặt hái được những hạnh phúc vĩnh cửu lâu dài?”. Phật trả lời: “Buổi sáng thân làm điều lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành. Đó là một buổi sáng an ổn, hạnh phúc. Buổi trưa, buổi chiều cũng lại như thế”.
Thân làm điều lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành thì suốt một ngày được an ổn, hạnh phúc, không cần phải đi coi bói xem tướng số gì cả, cũng không cần phải xem ngày tốt ngày xấu vì ngày nào cũng là ngày tốt. Muốn tốt hay không là do mình.
Trong Kinh A Hàm, có một ni cô nước Sakola gặp một vị bà la môn tu khổ hạnh, dùng lửa để nướng thân nên đầu tóc khô, môi miệng nứt nẻ, người đời gọi ông là La hạt chích, tức là cây vải bông nướng. Ni cô thấy thế nói:
- Cái đáng thiêu thì ông không thiêu, lại lầm lẫn đi thiêu cái không đáng thiêu, sao mà ông ngu si quá vậy?
Vị bà la môn nghe vậy, giận đỏ mặt quát:
- Đồ con lừa, ngươi nói cái gì là cái đáng thiêu?”
Cô nói:
- Cái đáng thiêu chính là tâm nóng giận của ông đó. Thiêu được cái đó mới thực sự là an ổn, mới thiêu được cái đáng thiêu, giống như xe mà không đi thì đánh trâu, ai lại đánh xe. Cũng vậy, phải đánh thức cái tâm kia thiêu cháy tan cái tâm đó thì thân hết bị dày vò đau khổ.
Nghe vậy, vị bà la môn liền thức tỉnh.
Chúng ta suốt đời suốt kiếp luôn chịu đau khổ là chỉ biết dùng thân mà không biết dụng tâm. Ngày xưa, có hai cao đồ của Vương Trùng Dương đến gặp Thầy xin xuống núi để làm thiện. Ông Thầy nói: “Sát sanh thì lên thiên đường, mà phóng sanh thì xuống địa ngục”. Như vậy tức là sao? Có bị ngược đời không? Sát ở đây chính là sát cái tâm nóng giận, sát những lời nói làm cho người khác phải buồn khổ, phiền não, được vậy thì sẽ lên thiên đường. Còn phóng những lời nói thô ác, làm xúc não người thì phải chịu hậu quả xuống địa ngục. Cho nên, giờ biết tu rồi, chúng ta phải cố gắng chuyển hóa tâm so với ngày trước khi chưa tu.
Tổ Tuyên Luật sư nói: “Nếu lấy việc nhỏ mà chấp chặt tranh luận thì việc nhỏ cũng thành to. Nếu việc lớn mà có thể nhẫn thì việc lớn cũng thành nhỏ”.
Việc nhỏ mà chấp, không chuyển hóa được thì cũng thành lớn chuyện, cái này trong quan hệ gia đình mọi người hay vấp phải giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái. Có hai người hàng xóm, nhà anh A đông người nhưng không thấy cãi lộn, còn nhà anh B ít người nhưng cãi nhau suốt ngày. Anh B sang nhà anh A để hỏi kinh nghiệm. Anh A nói: “Sở dĩ nhà tôi không cãi lộn là vì trong nhà ai cũng là người xấu, còn nhà anh hay cãi lộn là vì ai cũng là người tốt”. Anh B ngạc nhiên hỏi lại: “Sao kỳ vậy?” Anh A nói: “Chẳng hạn như một buổi nào đó tôi để bình hoa ngay cái bàn này, vợ tôi đi ngang làm rớt. Tôi chạy đến nói xin lỗi tại mình vô ý, vợ tôi cũng nói không phải, do lỗi của cô ấy không để ý nên làm rớt bình hoa, như vậy, ai cũng xấu nên không cãi lộn. Còn nhà anh, ai cũng tốt nên nếu có việc gì thì đổ tại cho người khác, vì vậy mà hay cãi nhau”.
“Nếu việc lớn chẳng qua bị người ta vu khống, chê bai, song một chữ nhẫn nói thì rất dễ, hành lại rất khó”.
Có một vị tướng một hôm cảm thấy chán, buông bỏ tất cả vợ con, nhà cửa, tài sản vứt xuống sông, đến xin Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo cho xuất gia. Thiền sư cho ông ở lại công quả tập tu. Một buổi sáng Thiền sư đi kinh hành thấy ông này thắp hương bèn hỏi: “Giờ này ông thắp hương làm gì?”.
Ông này đáp: “Vì trừ lửa trong tâm, dậy sớm lễ sư trưởng”. Mình nghe ông nói vậy thấy hay không, thấy ông có vẻ rất chịu khó tu tập để trừ lửa sân, phải không?
Lúc này, Thiền sư nói: “Dậy sớm như thế ấy, chẳng sợ vợ ngủ người?”.
Nghe thế, ông giận quá, nói: “Lão đầu trọc thối, ông dám nói như vậy hả?”.
Thiền sư bèn nói bài kệ:
Nhè nhẹ phẩy chiếc quạt
Tánh lửa đã nóng bừng
Tánh ông nóng như thế
Làm sao buông xuống xong?
Nghe vậy, ông liền tỉnh ngộ.
Như vậy, để thấy rằng nói thì đơn giản, nhưng hành rất là khó.
Có một vị cư sĩ đến hỏi Thiền sư Bàn Khuê:
- Thưa Thầy, con rất hay nóng giận với vợ con của con. Xin Thầy trị giùm con”.
- Ông đem cái nóng giận ra đây ta trị cho.
- Thưa Thầy, bây giờ nó không có.
- Chừng nào mới có?
- Khi nào con gặp vợ, con của con thì mới có.
- Giờ ông về nhà, nếu gặp vợ mà nổi sân thì chạy đến ta trị cho.
Vị cư sĩ thực hiện theo, nhưng đến cửa thiền viện thì hết sân, liền thưa với Thiền sư. Thiền sư khai thị:
- Cái sân đó không phải của ông, cha mẹ ông sanh ra ông chỉ có tâm Phật mà thôi. Sân này do duyên, không có tự tánh, chỉ cần quán chiếu thật sâu sân từ đâu mà có thì lần lần sẽ hết.
Trong Kinh A Hàm, Phật dạy mình khi sân biết mình sân thì tự nhiên sân hết. Chúng ta luôn đồng hóa mình với cái sân: tôi sân, tôi bực, tôi hận, nhưng cái gì biết được bản chất của sân thì mình không chịu sống với nó mà chỉ sống với cái sân của mình.
Thiền sư Khuê Phong dạy: “Tham sân khởi mà chạy theo thì chính là phàm phu, tham sân khởi mà bất động chính là A la hán, tham sân khởi mà biết dừng, đó là người chân chánh tu đạo”.
Do đó, Tôn giả Tịch Thiên dạy: “Công đức làm các điều lành như cung kính Như Lai, cùng hành hạnh bố thí suốt trăm ngàn kiếp sẽ bị thiêu đốt chỉ do một niệm sân hận. Khi sân hận phát khởi, nó có khả năng hủy hoại công đức và tâm an ổn của chúng ta”.
Cho nên, thấy được tai hại lớn của sân hận như vậy, làm che đậy mất tự tánh Bát Nhã của mình, quý vị càng phải nên cố gắng để xả bỏ.
- 3. XẢ THÙY MIÊN (ngủ nghỉ)
Phóng túng buông thả tứ chi, nằm lăn ngủ vùi gọi là miên. Ý thức mê mờ gọi là thùy, tức là năm căn bị che tối. Do nhân duyên đó gọi là thùy miên.
Trong Kinh A Hàm, Phật dạy: “Ngủ nhiều là một pháp bất tịnh khiến cho tâm thức mờ tối, khiến cho không thể tiến tới pháp lành, trầm luân trong ba cõi không có kỳ hạn xuất ly. Do đó, người hành giả tham thiền phải luôn luôn khắc kỹ, chớ nên ngủ nhiều”.
Nếu sáng mình dậy sớm ngồi thiền thì tăng trưởng công đức, còn ngủ vùi thì sanh ra mộng mị đủ thứ chuyện. Là người tu, chúng ta phải chịu khó xả bỏ bớt giờ ngủ nghỉ để có thời giờ tạo thêm công đức.
Kinh Pháp Cú thí dụ có kể tại thành Xá Vệ, tinh xá Kỳ Thọ, có một vị Tỳ kheo chuyên ăn no rồi ngủ, không chịu lo tu. Phật biết ông này sau bảy ngày nữa sẽ chết nên thương xót, đến đọc bài kệ:
Ôi chao sao ngủ được,
Quên kiếp mối mọt ư?
Sống tối tăm chẳng sạch
Mê hoặc chấp lầm thân
Khác nào bị ung thư
Mà tâm như trẻ bệnh
Gặp biết bao nguy nan
Thay vì ngủ ngon giấc
Suy ngẫm không buông lung
Vì nhân học người xưa
Từ đây không còn khổ
Thường nhớ diệt ý xằng
Chánh kiến sức học thêm
Ở đời sáng được thế
Phước đức tăng ngàn lần
Chết không sa nẻo ác.
Bồ Tát cũng quở trách các đệ tử:
Ông dạy chớ ôm thây thối nằm
Những thứ nhơ nhớp gọi là người
Như bệnh nặng tên cắm vào thân
Đầy rẫy đau đớn đâu yên ngủ
Như người bị trói sắp đem giết
Tai hại kề bên đâu thể ngủ.
Trong Kinh Di giáo, Phật dạy: “Các Thầy Tỳ kheo ban ngày siêng năng tu tập thiện pháp không để thời giờ qua suông, đầu đêm cuối đêm cũng chớ phí bỏ, nửa đêm tụng kinh để tự tiêu diệt và đình chỉ các nghiệp chướng”.
Quý vị nhớ, phải nhờ tu tập (sám hối, tụng kinh, ngồi thiền…) quý vị mới chuyển hóa được nghiệp xấu của mình, còn bố thí cúng dường chỉ là thiện pháp để trợ duyên cho mình tu tập được tốt hơn.
“Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để một đời luống qua không một chút lợi ích”.
Quý vị thử nghiệm lại, chúng ta sanh ra làm một con người đầy đủ sáu căn mà không có một chút tư lương cho ngày ra đi thì Phật nói uổng một kiếp người.
Trong Kinh Pháp Cú, Phật dạy:
Ai sống một trăm năm
Ác giới không thiền định
Tốt hơn sống một ngày
Trì giới tu thiền định.
Ai sống một trăm năm
Ác tuệ không thiền định
Tốt hơn sống một ngày
Có tuệ tu thiền định.
Hiểu pháp rồi thì mỗi sáng, mỗi tối chịu khó một chút thôi. Quý vị thích làm việc mà có tiền không? Đương nhiên ai mà không thích? Nhưng tiền đó là tiền vô thường, ảo vọng, sanh diệt. Còn tư lương là công đức từ nơi tự thân của mình, sao mình không ham tạo? Phật nói người nào ham pháp thù thắng của Như Lai như tham tài tham sắc thì chỉ một đêm là chứng đạo. Nếu hiểu được ích lợi và giá trị của sự tu tập rồi thì bảo đảm dù hoàn cảnh có khó khổ đến mấy quý vị cũng sẽ cố gắng để tu tập, ngồi thiền. Công đức ngồi thiền này không thể tính được vì từ nơi bất động, vô nhiễm, thanh tịnh, từ đó chúng ta đi trên con đường giác ngộ giải thoát. Cho nên chúng ta nghiệm kỹ, bớt tạo tiền sanh diệt mà dành thời gian tạo thêm tư lương cho mình, loại tiền này không có mất.
“Nên nhớ ngọn lửa vô thường thiêu đốt thế gian mà phải tự độ”.
Quý vị thấy bây giờ đầy những thiên tai, tai nạn xảy ra ở bất kỳ nơi nào, với bất kỳ ai. Không ai có thể độ mình hết, chỉ có chính mình tự độ mình. Cho nên, hiểu pháp rồi thì phải hành.
“Đừng ham ngủ nghỉ, giặc phiền não thường hay rình giết người, dữ hơn kẻ thù, sao có thể ngủ nghỉ mà không tự giác. Rắn độc phiền não ngủ trong tâm ví như rắn hổ mang màu đen ngủ trong nhà. Các Thầy nên dùng móc sắt giữ giới mà sớm kéo móc nó ra. Rắn ra rồi mới yên ngủ, không ra mà ngủ là không biết hổ thẹn”.
Do đó, Đại sư Trí Khải dạy: “Còn lắm việc như thế để quở trách mê ngủ. Lấy vô thường cảnh giác sự ngủ nghỉ khiến giảm bớt, không che mờ tâm tánh. Nếu tâm mê ngủ quá nặng phải dùng thiền trượng đuổi nó”.
Cho nên, chúng ta phải tranh thủ trong lúc còn đang bình thường, khỏe mạnh, sáng suốt, ý thức được thì cố gắng tu tập, tạo các thiện pháp và chuyển hóa tâm của mình.
- 4. XẢ TRẠO CỬ, HỐI HẬN
XẢ TRẠO CỬ
Đại sư Trí Khải dạy: Trạo cử có ba: thân trạo cử, khẩu trạo cử, ý trạo cử.
- a. Thân trạo cử: Thân ưa thích chạy rong, đùa giỡn lăng xăng, ít khi ngồi yên.
Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nếu luôn luôn chánh niệm, thu thúc lục căn của mình thì trong lúc ngồi thiền rất là yên định. Còn ngồi chỗ này lại muốn ngồi chỗ kia, lăng xăng, lộn xộn, thân trạo cử trong lúc đi đứng thì khi ngồi thiền rất khó ngồi yên, muốn buông chân ra cựa quậy. Có khi nào quý vị ngồi thiền thấy như có kiến bò trên mặt không? Lúc đó phải làm gì? Gãi hay chịu trận? Nếu gãi thì thân trạo cử. Trong Thiền căn bản gọi đó là ma chướng nhiều đời, nếu mình chịu đựng và vượt qua thì nó hết.
Như quý vị đang ngồi thiền mà bị muỗi đốt, nếu mình chịu đựng và vượt qua được thì lúc đó quý vị đang đi trên con đường Bồ Tát đạo, hành lục độ. Đáng lẽ đập con muỗi nhưng chúng ta khởi lòng từ không giết hại nó, tức là mình đang bố thí thân, cũng là trì giới. Rồi cố gắng ngồi chịu đựng là có cả nhẫn nhục và tinh tấn, thiền định và trí tuệ cũng theo sau đó luôn.
- b. Khẩu trạo cử: miệng ưa ca hát, tranh cãi phải quấy, luận bàn những việc vô ích, nói các việc thế tục trong lúc hạ thủ công phu.
Quý vị bỏ ra một tháng hay nửa tháng một lần đến đây tu tập, có khi nào chịu đi hay ngồi một mình không?
Thiền sư Huyền Giác dạy:
“Thường độc hành, thường độc bộ.
Đạt giả hành du Niết Bàn lộ”.
Chúng ta thấy trong cuộc sống, kể cả những người có chồng, có vợ, tuy rằng sống với nhau nhưng suy nghĩ không đồng, thì cũng “thường độc hành, thường độc bộ”, rồi ngày cuối cùng ra đi, dù người thân nhất cũng không thể theo mình được mà mình cũng phải “thường độc hành, thường độc bộ”. Vậy thì tại sao ngay bây giờ, chúng ta không chịu tập “thường độc hành, thường độc bộ”? Đi chùa gặp nhau, mới đầu thì còn nói Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa, … rồi hết kinh thì nói chuyện này, chuyện nọ. Đó là khẩu trạo cử.
Trong Thiền thoại có kể lại: Thiền sư Vô Tướng ngồi nhập định thấy hai ông Tăng đang ngồi nói chuyện, có hai con quỷ chắp tay lắng nghe rất thành kính. Một lúc sau, lại thấy hai con quỷ nhổ nước miếng vào mặt hai ông Thầy, chà dấu chân, giận dữ bỏ đi. Thiền sư Vô Tướng sau khi xả thiền, gọi hai ông Tăng đến hỏi: “Hai ông nói chuyện gì mà lúc đầu ta thấy hai con quỷ chắp tay rất là thành kính, sau đó lại thấy hai con quỷ đó nhổ nước miếng, chà dấu chân bỏ đi?”. Hai ông Tăng thú nhận lúc đầu nói chuyện với nhau về pháp, sau đó nói chuyện thế tục, chuyện thị phi.
Trong Kinh Hoa Thủ, Phật nói bài kệ:
Ác khẩu và lưỡng thiệt
Thích nói lỗi người khác
Đó là người không tốt
Việc ác nào cũng làm.
Lỗi người ta dù chỉ bằng hạt mè, hạt thóc cũng thấy, còn lỗi mình nhiều mà không thấy. Nếu mình thấy lỗi mình giống như thấy lỗi người, thấy lỗi người giống như thấy lỗi mình thì thành Phật không lâu.
Trong Luận Đại Trí độ:
Đọa vào loài ngạ quỷ
Miệng thường phun lửa dữ
Kêu gào vang khắp nơi
Là nghiệp báo của miệng.
Tuy học rộng hiểu nhiều
Ở trong chúng nói pháp
Do gieo nghiệp bất tín
Nên mọi người không tin.
Muốn học rộng nghe nhiều
Được mọi người tin tưởng
Thì phải nên thành thật
Không nói lời thêu dệt.
Trong Kinh Chánh niệm, Đức Phật cũng dạy:
Cam lồ hay độc dược
Đều từ lưỡi mà ra
Cam lồ là lời thật
Độc dược là lời gian
Nếu người cầu cam lồ
Thì nên nói lời thật
Nếu ai muốn độc dược
Thì cứ nói chua ngoa.
Thuốc độc không giết người
Lời ác ắt sẽ chết
Nhưng người luôn nói dối
Thì giống như người chết
Nói dối không lợi mình
Lại càng không lợi người
Mình và người không vui
Cớ sao phải gian dối?
- c. Tâm trạo cử: Tâm tính phóng túng, ý nghĩ lăng xăng, suy nghĩ văn chương kỹ nghệ thế gian, xét nghĩ những điều xấu ác gọi là tâm trạo cử. Tâm trạo cử này hay phá hoại tâm của người xuất gia và người tại gia. Người cố nhiếp tâm vẫn không được định, huống chi kẻ tán loạn. Người tâm tán loạn như con voi say mà không có móc sắt, con lạc đà không dây mũi không thể kềm giữ được.
Quý vị có khi thân ngồi đây nghe pháp mà tâm nghĩ tận đâu đâu, chạy rong ruổi. Mình mà không dừng được tâm trạo cử, để tâm luôn tán loạn thì lúc chết dễ đi bậy (khi chết thần thức rất nhanh, khởi nghĩ đến đâu là đi đến đấy). Vì vậy trong lúc sống chúng ta phải tập chánh niệm, dừng tâm tán loạn, bớt rong ruổi.
Thiền sư Khuê Phong dạy: “Làm việc nghĩa là tâm tỉnh ngộ, làm việc vô nghĩa là tâm cuồng loạn”. Làm việc có nghĩa là chánh niệm, làm việc gì biết việc đó, dừng bớt tâm vọng tưởng, điên đảo của mình. Làm việc vô nghĩa là ngồi đây suy nghĩ đủ chuyện, mà “cuồng loạn theo tình niệm thì lâm chung bị nghiệp lôi, tỉnh ngộ không theo tình thì lâm chung chuyển được nghiệp”.
Trong Kinh Di giáo, Phật dạy: “Tỳ kheo các ông đã có thể an trụ trong giới rồi phải kiềm chế ngũ căn chớ để buông lung vào ngũ dục, thí như người chăn trâu cầm roi nhìn nó chẳng cho nó buông tuồng phạm nhầm lúa mạ của người”.
Quý vị chăn trâu làm sao? Xưa các Ngài chăn trâu, khi trâu chuẩn bị vào lúa mạ, các Ngài kéo ra liền, còn mình thì cho ăn thoải mái.
Trong Ngũ đăng hội nguyên có ghi: Thiền sư Thạch Củng đang nấu cơm, Mã Tổ hỏi:
- Làm gì?
- Đang chăn trâu.
- Chăn thế nào?
- Một phen vào lúa mạ liền nắm mũi kéo lại.
- Con thực là một người chăn trâu giỏi.
Thiền sư Thạch Sương ẩn trong xóm lò gốm vùng Lưu Dương, một hôm có một vị tăng từ Động Sơn đến.
Sư hỏi:
- Hòa thượng có ngôn cú gì dạy chúng?
Vị tăng thưa:
- Ngày giải hạ, Hòa thượng thượng đường bảo ‘Đầu thu cuối hạ, huynh đệ hoặc đi Đông hoặc đi Tây, nên nhắm thẳng chỗ muôn dặm không một tấc cỏ mà đi. Im lặng giây lâu, Ngài nói:“ Chỉ như chỗ muôn dặm không một tấc cỏ thì làm sao đi.
Sư hỏi:
- Có người nói được chăng?
Tăng đáp:
- Không.
Sư nói:
- Sao chẳng nói ra khỏi cửa liền là cỏ?
Tăng về thuật lại cho Thiền sư Động Sơn, Thiền sư nói:
- Đây là lời của bậc thiện tri thức 1500 chúng. Không ngờ ở Lưu Dương mà có cổ Phật ra đời.
Chăn trâu đến mức “ra khỏi cửa liền là cỏ” thì quả là chăn trâu kỹ. Vừa chuẩn bị ra khỏi cửa mắt, nhích một cái là phạm. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu cửa chỉ cần nhích một niệm nhỏ là biết trâu ăn lúa mạ. Hàng ngày nếu chúng ta chịu khó chăn trâu kỹ thì được giải thoát, còn buông tuồng để trâu ăn lúa mạ thì tự trói mình. Thấy sắc bị nhiễm, tức là đã bị trói buộc, cũng thấy sắc mà không đắm nhiễm thì được giải thoát. Phật, Tổ, thiện tri thức đã dạy hết cho mình rồi.
Thiền sư Đại An Ban Sơ đến Ngài Bá Trượng hỏi:
- Con muốn cầu biết Phật thế nào là phải?
Bá Trượng bảo:
- Thật là người cưỡi trâu tìm trâu.
- Sau khi biết thì như thế nào?
- Như người cưỡi trâu về nhà.
- Sau giữ gìn thế nào?
- Như người chăn trâu cầm roi dòm chừng không cho nó ăn lúa mạ của người.
Sư nhân đây lãnh hội ý chỉ, chẳng đi tìm đâu nữa.
Cho nên, pháp của Phật rất nhiều nhưng chính yếu chỉ bấy nhiêu đó thôi. Nếu mình nhận được yếu chỉ rồi thì không phải tìm cầu đâu hết, cứ y đó mà tu, thẳng đó mà phát nguyện đời này không xong thì đời sau tiếp tục. Thiền sư Lâm Tế nói: “Chưa khởi vọng tưởng đừng cho nó khởi, đã khởi vọng tưởng thì đừng có theo, còn hơn ông đi hành cước 10 năm”. Phương pháp thiền đốn ngộ rất đơn giản, ý niệm vừa dấy khởi liền dừng. Vì đơn giản quá nên có khi mình coi thường, mà chỉ thích những cái gì cầu kỳ, bóng bẩy, có văn tự, có triết lý.
Sau này nhận chúng, Sư khai thị: “Các ngươi muốn làm Phật chỉ cần không có những tâm điên đảo, vọng tưởng, nghĩ ác, cấu dục chẳng sạch của chúng sanh, tức các ngươi là Phật. Chánh giác mới phát tâm, lại đến chỗ riêng nào luận bàn? Sở dĩ Đại An này ở núi Qui ba mươi năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện núi Qui mà không học thiền ở núi Qui, chỉ coi chừng con trâu, nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ liền nắm mũi kéo nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người liền đánh đập, điều phục nó. Đáng thương đã lâu, chịu người rầy mắng. Hiện giờ nó đổi thành con trâu trắng, đứng trước mặt sờ sờ, trọn ngày hiện rõ, đuổi cũng chẳng đi”.
Trong Kinh Di giáo Phật dạy: “Năm căn này tâm là chủ thể, thế nên các ông phải khéo chế phục tâm mình. Tâm rất đáng sợ, còn hơn cả độc xà, ác thú, giặc cướp, lửa dữ. Ngoài những thí dụ trên chưa đủ, lấy gì để so sánh, như voi điên không móc sắt, khỉ vượn gặp được cây nhảy chuyền, khó mà cấm cản. Phải mau kiềm nó không cho nó rong ruổi, nếu buông thả tâm này sẽ làm mất việc lành của người. Kiềm nó một chỗ thì không việc nào không làm được”.
Cổ đức nói:
Việc đời không gì khó
Chỉ do tâm không chuyên
Đục núi xuyên biển cả
Vén mây thấu trời xanh.
Chúng ta bị luân hồi trong ba nẻo sáu đường cũng là do tâm dắt đi. Vừa khởi niệm ác, nó dắt mình xuống địa ngục. Một ngày quý vị dạo trong sáu đường mấy lần? Nếu không lo tu, không dừng được tâm thì nó dẫn dắt mình đi vào trong sanh tử luân hồi. Chẳng hạn như có người đưa ra điều kiện bảo quý vị dời một hòn núi thật lớn hay lấp biển thì mới dừng được tâm thì chắc là khó mà làm được. Còn đằng này là ngay nơi chính mình, dừng hay rong ruổi là do mình có toàn quyền chủ động, không phải là không làm được. Cho nên quý vị phải ráng cố gắng.
XẢ HỐI HẬN
Nếu trạo cử mà không có hối hận thì chưa thành che đậy. Vì cớ sao? Vì khi trạo cử còn ở bên ngoài, trong khi nhập định mới hối hận việc làm trước, khiến lo buồn che đậy tâm tánh của mình.
Hối hận có hai thứ: (1) Không nên làm mà làm; (2) Nên làm mà chẳng làm.
Trong thiền thoại có kể, một học tăng đến hỏi Thiền sư Vân Cư: “Đệ tử mỗi khi làm việc gì xong đều rất hối hận. Xin hỏi Thầy vì sao con có nhiều hối hận như vậy?”
Thiền sư Vân Cư nói: “Trước hết ông hãy nghe ta nói mười điều hối hận của ông:
- 1. Gặp Thầy không học
- 2. Gặp người hiền không kết giao
- 3. Thờ cha mẹ không có hiếu
- 4. Đối với chủ không trung thành
- 5. Thấy việc nghĩa không làm
- 6. Có của cải không bố thí
- 7. Thấy nguy hiểm không cứu
- 8. Ái quốc không trong sạch
- 9. Nhân quả không tin
- 10. Phật đạo không tu.
Ông Tăng nghe xong nói: “Đây đúng là mười thứ hối hận của con. Như vậy con phải làm sao?”
Thiền sư Vân Cư: “Trong mười điều trên, ông chỉ cần đổi chữ Không thành chữ Phải. Một chữ Phải này là thuốc, ông hãy khéo uống thì hết bệnh.
- 1. Gặp Thầy phải học
- 2. Gặp người hiền phải kết giao
- 3. Thờ cha mẹ phải có hiếu
- 4. Đối với chủ phải trung thành
- 5. Thấy việc nghĩa phải làm
- 6. Có của cải phải bố thí
- 7. Thấy nguy hiểm phải cứu
- 8. Ái quốc phải trong sạch
- 9. Nhân quả phải tin
- 10. Phật đạo phải tu.
Mình chính là kiến trúc sư tạo ra thân ngũ uẩn, tạo ra quốc độ của mình. Quốc độ thanh tịnh hay không là do nghiệp hàng ngày chúng ta tạo. Quý vị cứ yên tâm là nghiệp không bao giờ chơi xấu mình cả. Tạo thiện pháp là cho mình chứ không phải cho ai hết, có điều kiện thì quý vị cứ làm, sau này khỏi hối hận.
Đại sư Trí Khải dạy: “Do trạo cử rồi mới sanh hối hận, như người gây tội nặng thường ôm lòng lo sợ, mũi tên hối hận cắm sâu vào tim, khó mà nhổ ra được”.
Do đó, có bài kệ:
Không nên làm mà làm,
Nên làm mà không làm,
Lửa hối hận thiêu cháy,
Đời sau đọa ác đạo.
Nếu phạm tội nên hối,
Hối rồi chớ lo phiền,
Như thế tâm an vui,
Không nên thường nhớ mãi.Đời này ai cũng có lỗi hết, nếu mình đã sám hối rồi thì không nhớ lại nữa, nếu nhớ lại thì tự làm che lấp tự tánh Bát Nhã của chính mình.
Lục Tổ dạy: “Sám là sám những lỗi về trước, từ trước có những nghiệp ác ngu mê, kiêu cuốn, tật đố, các tội thảy đều sám hết, hằng không khởi lại, gọi đó là sám. Hối là hối những lỗi về sau, từ đây về sau, có những nghiệp ác ngu mê, kiêu cuốn, tật đố, các tội nay đã giác ngộ thảy đều hằng đoạn, lại không có tạo nữa. Đã sám hối rồi không nghĩ trở lại nữa”.
Trong Chỉ nghiệp lục có ghi: Trên hội Linh Sơn có 500 Tỳ kheo đắc định tứ thiền, đủ năm thần thông mà chưa đắc con mắt pháp. Mỗi vị dùng thần thông túc mạng đều tự thấy trong đời quá khứ đã từng giết cha, giết mẹ, phạm những tội nặng cho nên chưa đắc được pháp nhãn. Do đó, mỗi người trong tâm tự trạo hối thành ra đối với pháp môn thâm sâu chẳng có thể chứng nhập được. Lúc bấy giờ Bồ Tát Văn Thù nương oai thần lực của Phật, tay cầm kiếm bén đến bức bách Như Lai. Phật nói: “Ngưng, ngưng, chớ nên hại ta mà tạo tội ngũ nghịch, nhưng nhất quyết muốn hại ta thì phải khéo hại cái ngã chấp của ta. Văn Thù Sư Lợi, người từ xưa nay chẳng có ngã, nhân, chỉ vì nội tâm thấy có ngã, nhân. Khi nội tâm chẳng khởi thì ngã, nhân ắt phải diệt, tức gọi là hại ngã chấp của ta”. Do đó 500 Tỳ kheo tự ngộ bản tâm như mộng, như huyễn. Ở trong mộng, huyễn chẳng có ngã, chẳng có nhân, cho đến năng sanh sở sanh, cha mẹ đều như mộng huyễn, chẳng có ngã, chẳng có nhân, chứng được pháp nhãn. 500 vị Tỳ kheo liền dùng kệ tán thán:
Văn Thù bậc đại trí
Thấu đạt nguồn đáy pháp
Tự tay cầm kiếm bén
Bức bách thân Như Lai
Kiếm vậy, Phật cũng vậy
Một tướng chẳng có hai
Vô tướng, vô sở sanh
Đâu thể nói giết hại
Ngã nhân đã không có
Thì còn ai tạo tội?
Sở dĩ có ta có người, có chủ có khách, có năng có sở là do mình khởi niệm, nhưng cái gì thấy được ngã nhân, cái gì thấy được thế giới này, cái gì thấy được từng niệm này? Sống với cái biết đó thì ngã nhân hết, chủ khách tan, các pháp như mộng huyễn không có thật.
- 5. XẢ NGHI NGỜ
Do nghi ngờ che đậy tâm, đối với trong chánh pháp chẳng có lòng tin, vì lòng tin không có nên ở trong Phật pháp chẳng được lợi ích gì cả, ví như người vào núi đầy của báu, vì không có tay nên chẳng lấy được. Tâm nghi ngăn chướng thiền định gồm có ba:
- a. Nghi mình: Như có người nghĩ rằng ta là kẻ ngu, tội chướng nặng nề không như các bậc thánh. Tự khởi nghi như thế thì thiền định không thể phát sinh. Hành giả muốn tu thiền định chớ có khinh mình, vì căn lành đời trước đâu có thể lường được.
Mình cứ nghĩ chỉ có Hòa thượng Trúc Lâm, Hòa thượng Thường Chiếu hay Thầy Trụ trì Trúc Lâm tu mới được, còn mình chắc tu không được, thôi bố thí cúng dường gieo duyên đời sau tu tiếp. Còn một số người nữ thì chỉ muốn tu để kiếp sau làm thân nam là đủ. Như vậy là còn nghi mình, mà nghi mình thì chánh định không phát khởi.
Tổ Quy Sơn dạy: “Kia trượng phu, ta cũng trượng phu, chẳng tự khinh mình mà thối chuyển. Nếu không như thế thì ở cửa thiền lê lết một đời không có điều lợi ích”.
Nhiều khi mình tự khinh mình, nói mình tội chướng nặng, tu không được. Chuyện kể có một ông Thầy tu trong núi, tụng một bài kinh chú trong gần 30 năm mà vẫn không có kết quả. Một hôm, chú thị giả sa di đọc câu chú trong đó thì có 4 vị hộ pháp hiện ra. Sở dĩ như vậy là do chú sa di này đã tu 500 kiếp rồi trở lại. Sao mình biết được ngày xưa mình không có căn duyên? Nếu quý vị chịu khó tu tập một thời gian, chứng nghiệm được mới hay ra mình có căn duyên tu theo con đường thiền đốn ngộ này. Nếu không có lòng tin thì không bao giờ mình nghe được pháp này.
Trong Ngũ đăng hội nguyên có ghi, một hôm Thiền sư Tử Hồ ở trong phòng kêu to: “Bắt được trộm, bắt được trộm”. Trong lúc đêm tối mù mịt, có một ông tăng chạy tới. Sư chụp vào ngực kêu to: “Bắt được rồi, bắt được rồi”. Ông Tăng thưa: “Bạch Hòa thượng, chẳng phải. Là con chứ chẳng phải trộm”. Thiền sư bảo: “Phải thì phải, chỉ chẳng chịu thừa nhận”. Ngay giờ phút đó, nếu nhận mình là đúng, là đủ rồi. Còn đây không dám nhận, không dám tin.
Hòa thượng Trúc Lâm dạy: “Thiền dạy người tu một cách thực tế tìm lại bản lai diện mục của chính mình. Bởi quá thực tế nên người ta không hiểu nổi. Con người là hướng ngoại, con người là cầu xin, con người là ỷ lại. Thiền đập tan ba tánh ươn hèn ấy, ba tánh đã chôn vùi chúng ta từ vô lượng kiếp, là chủ nhân của chúng ta từ vô lượng kiếp. Chúng ta phải khôi phục lại quyền năng của ông chủ bản hữu nơi chính mình, đó là chúng ta tu thiền”.
Chúng ta tu phải có đại tín căn, phát nguyện lực lớn để tu, dù cho đời này chưa xong, đời sau tu tiếp, đời sau chưa xong, tiếp tục nữa. Vì trong ý niệm không chứa đựng không gian, thời gian 1 kiếp, 2 kiếp hay 3 kiếp, nói kiếp này kiếp kia là trên bình diện vọng tưởng, vô niệm không có cái đó. Trong Kinh Pháp Hoa, Ngài Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất sau khi được Phật thọ ký, các Ngài rất vui vì biết chắc sẽ thành Phật. Tin chắc được như thế, chúng ta không còn sợ.
Trong Thiền sư Trung Hoa tập 1 có ghi, Sa di Cao đến chỗ Thiền sư Dược Sơn.
Thiền sư hỏi:
- Ta nghe Trường An rất là náo loạn, ông có biết chăng?
Sa di Cao nói:
- Nước con an ổn.
Thiền sư hỏi:
- Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?
Sa di Cao:
- Chẳng do xem kinh, cũng chẳng do thưa hỏi.
Thiền sư lại hỏi:
- Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi, sao chẳng được?
Sư đáp:
- Chẳng nói họ không được, chỉ vì không dám nhận.
Cho nên cần phải tin chắc tâm mình có Phật, đó là đại tín căn. Trong tâm có Phật nên không sợ cát đá trùng trùng, không sợ sương mù giăng lối, bởi vì tâm của ta và người dung thông, tánh của ta và tánh của người hợp nhất.
- b. Nghi Thầy: Nghi Thầy tướng mạo và oai nghi như thế, bản thân ông Thầy không có đạo đức làm sao dạy mình được. Khởi nghi mạn như thế tức là chướng ngại thiền định. Muốn trừ được bệnh này, như trong các luận Ma-ha-diễn dạy: “Ví như trong đãy da thúi mà có đựng vàng, vì ham vàng ta không thể bỏ cái đãy thúi. Người tu cũng như thế, thầy tuy chưa hoàn toàn thanh tịnh, vẫn tưởng như Phật”.
Trong Kinh Đại Tập, Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đời này và đời vị lai phải nên tin sâu Phật, Pháp, Tăng. Những chúng sanh đó thường được hưởng quả tốt đẹp trong cõi trời, người, sẽ sớm được vào thành vô ý, chứng nhập được Niết Bàn”.
“Nếu có chúng sanh nào vì ta xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa mà không giữ giới cấm, những người đó đều đã được ấn chứng bằng con ấn Niết Bàn. Nếu có người quấy rối, mắng chửi, chê bai hoặc dùng tay, dao đánh đập, trói chặt các người xuất gia không giữ giới thì đó là kẻ hủy hoại pháp thân và báo thân của chư Phật ba đời, là kẻ chọc vào mắt của tất cả trời người, muốn phá hoại chánh pháp của chư Phật và làm hủy diệt hạt giống Tam Bảo, khiến trời và người không còn hưởng lợi ích, giúp ba đường ác lớn mạnh khắp nơi. Do đó kẻ ấy đọa địa ngục”.
Chỗ này, quý vị phải cẩn thận. Nếu như phát hiện một ông thầy nào đó không giữ giới, tu hành không thanh tịnh, mình im lặng, không đến gặp vị đó nữa là được, còn nếu mình rao nói lỗi của ông thầy đó thì vô tình làm cho nhiều người bị mất niềm tin với Tam Bảo, làm phá kiến người, khiến cho họ không tu nữa mà đọa vào ba đường ác đạo.
Bấy giờ vua Đại Phạm Vương hỏi Phật: “Nếu có người theo Phật cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa mà không thọ giới cấm, hoặc thọ giới vi phạm, bị vua dòng Sát đế lợi quấy rối mắng chửi, đánh đập bắt trói thì vị vua ấy bị tội thế nào?”.
Phật bảo: “Này Đại Phạm Vương, nay ta sẽ nói sơ qua cho ông nghe. Nếu có người làm cho thân vạn ức Phật chảy máu, người ấy bị tội có nhiều không?”
Đại Phạm Vương nói: “Nếu chỉ làm một thân Phật chảy máu thì cũng mắc vô lượng tội vô gián, không thể tính được, sẽ đọa đại địa ngục A Tỳ, huống gì kẻ làm thân vạn ức Đức Phật chảy máu. Trừ Đức Thế Tôn ra, không ai nói hết được quả báo của nghiệp tội này”.
Phật dạy: “Này Đại Phạm Vương, nếu có người quấy rối, mắng chửi, đánh đập người đã vì ta mà cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa không thọ giới cấm hoặc thọ giới rồi vi phạm, kẻ ấy bị mắc tội còn nhiều hơn kẻ kia. Vì cớ sao? Vì người xuất gia ấy còn có thể chỉ dạy con đường Niết Bàn cho trời và người. Người ấy đã ở trong lòng Tam Bảo, trong hàng Tam tôn nên lòng kính tin sâu chắc hơn tất cả 95 phái ngoại đạo. Người ấy chắc hẳn vào Niết Bàn hơn tất cả mọi người tại gia, trừ người tại gia chứng được pháp nhẫn nhục. Vì thế, trời và người phải nên cúng dường người ấy, huống gì người thường giữ giới cấm, ba nghiệp phù hợp với chánh pháp. Tất cả các quốc vương, các quan đại thần và thần dân, nếu thấy người xuất gia theo giáo pháp của ta mà phạm tội nặng như sát sanh, trộm cướp, dâm dục, nói dối thì trục xuất ra khỏi nước, chớ nên đánh đập”.
Bấy giờ Đức Phật nói bài kệ:
Hoa kim bặt tuy héo
Vẫn quý hơn hoa khác
Các Tỳ kheo phá giới
Còn tốt hơn ngoại đạo.
Cạo đầu mặc cà sa
Giữ giới và phá giới
Trời người nên cúng dường
Thường giúp không thiếu thốn
Cúng dường người như vậy
Chính là cúng dường ta.
Nếu vì cung kính pháp
Nên cạo đầu quy y
Thân đắp y cà sa
Ấy chính là con ta
Giả sử phá giới cấm
Vẫn trụ địa bất thối
Nếu ai đánh đập người
Tức là đánh đập ta
Nếu ai chửi mắng người
Tức là chửi mắng ta.
Tâm người kia muốn hủy
Ngọn đèn lớn chánh pháp
Đánh nhau giành của cải
Vua chúa cùng nổi giận.
- c. Nghi Pháp: Người đời phần nhiều hay chấp tâm mình suy nghĩ đúng nên sau khi thọ nhận giáo pháp không thể tức thời tin tưởng, khởi tâm cung kính lãnh thọ thực hành. Nếu tâm do dự thì diệu pháp không thể lãnh hội. Vì cớ sao? Vì nghi làm chướng ngại, như trong bài kệ nói:
Như người trước ngã ba,
Nghi ngờ không biết lối,
Trong các pháp thật tướng,
Nghi cũng lại như vậy.Tin chắc, thọ nhận pháp rồi tu, đi thẳng con đường này thì thành tựu.
Trong Kinh Tương Ưng bộ có con quỷ Dạ xoa tên là La pha thi kha đến hỏi Phật: “Cái gì đối với người là tài sản tối thượng? Cái gì khéo hành trì đem lại chơn an ổn? cái gì giữa các vị là vị ngọt tối thượng? phải sống như thế nào được gọi là sống tối thượng?”
Phật đáp: “Lòng tin đối với người là tài sản tối thượng. Chánh pháp khéo hành trì đem lại chơn an ổn. Chân lý giữa các vị là vị ngọt tối thượng. Phải sống với trí tuệ được gọi là sống tối thượng”.
Tin mình, tin Thầy, tin pháp chính là tài sản tối thượng. Chánh pháp khéo hành trì đem lại sự an ổn, sự hạnh phúc lâu dài. Chân lý từ ngàn xưa ba thời đều đúng, không phải do Đức Phật phát minh ra, dù Phật chưa ra đời thì các chân lý vẫn vậy, sau khi Phật nhập Niết bàn chân lý cũng là như vậy. Đạo Phật rất trí tuệ, trả lại sự tự do cho mỗi chúng ta, tùy chúng ta tự quyết định trên con đường cầu đạo giác ngộ giải thoát. Muốn trở về với chủ nhân ông của chính mình, chúng ta phải tu thiền để thấy được bản chất thật sự của các pháp.
-
9. THIỀN – CON ĐƯỜNG CỦA SỰ CHỨNG NGHIỆM
THIỀN – CON ĐƯỜNG CỦA SỰ CHỨNG NGHIỆM
Giảng tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt
I. DẪN NHẬP
Hôm nay hội đủ duyên lành, quý vị trong mùa an cư kiết hạ của chư Tăng đã về Thiền viện Trúc Lâm đảnh lễ Hòa thượng Ân sư, Thầy Trụ trì và chư Tăng. Trước khi đi vào đề tài chính, tôi xin kể một câu chuyện ngắn: Thuở xưa có một anh chàng đi chơi, tình cờ đi lạc vào cung vua, vua sai người dọn ra cho anh đủ các loại cao lương mỹ vị mà từ xưa tới giờ anh chưa được ăn. Nhưng khi dọn đồ ăn ra rồi, anh chỉ ngồi nhìn, ngó rồi phân tích từng món mà không chịu ăn. Theo quý vị, anh chàng này có no không? Chưa ăn làm sao no được. Cũng vậy, theo tinh thần của nhà thiền, nếu chúng ta tu học thiền mà không khéo thì cũng giống như anh chàng ở câu chuyện trên. Vào thời nhà Tống bên Trung Hoa, sở dĩ có Thiền công án là vì vào thời đó, người học hiểu thiền thì rất nhiều nhưng người chứng nghiệm thì không có bao nhiêu, do đó mà khổ vẫn hoàn khổ. Có một Phật tử người Đài Loan, người này lấy bằng tiến sĩ Phật học, trình độ rất cao, hướng dẫn cho rất nhiều Phật tử tu học nhưng khi nghe được tin người thân yêu ở nhà mất thì cũng đau lòng khóc lóc. Có người đến hỏi Hòa Thượng Tinh Vân về sự việc đó, Hòa Thượng nói: “Người này chưa chứng nghiệm được tự tánh thanh tịnh của chính mình. Đó là học Phật pháp mà chưa chứng nghiệm được Phật pháp”. Không chỉ trong đời này mà vào thời Đức Phật, bà Tỳ Xá Khư là một nữ cư sĩ rất kính tin Tam Bảo, thường bố thí và cúng dường rất nhiều nhưng khi người cháu bị chết thì bà vô cùng đau khổ và đến chỗ Đức Phật than khóc. Đức Phật hỏi bà: “Nếu trong thành Xá Vệ này tất cả mọi người đều là cháu bà thì bà có vui không?”. Bà nói: “Bạch Đức Thế Tôn, con rất vui”. Đức Phật khai thị: “Nếu như vậy thì ngày nào bà cũng sẽ khóc vì ngày nào cũng có người mất”. Nghe Phật nói như thế, bà Tỳ Xá Khư bèn tỉnh ngộ.
Như vậy, quý vị thấy trong cuộc đời này, cái chết là điều không thể tránh khỏi, nó luôn luôn rình rập chúng ta và có thể đến với bất kỳ ai vào bất cứ lúc nào. Cho nên ngay khi đang còn sống đây, chúng ta phải tranh thủ thời gian cố gắng tu tập và chứng nghiệm về Phật pháp thì mới có thể giúp cho mình thoát khỏi cảnh khổ sanh tử được. Vì vậy mà ngày hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị đề tài “Thiền – con đường của sự chứng nghiệm”.
II. THIỀN - CON ĐƯỜNG CỦA SỰ CHỨNG NGHIỆM
Nói đến Thiền là nói đến sự chứng nghiệm, một khi chứng nghiệm rồi thì chúng ta mới tin chắc vào lời dạy của chư Phật, chư Tổ là “ngay tâm tức là Phật” chứ không tìm Phật ở một nơi nào khác. Quý vị nhớ lại, vua Trần Thái Tông sau khi lên ngôi, vì buồn cảnh gia đình nên vào núi Yên Tử, gặp quốc sư Phù Vân, Ngài hỏi: “Bệ hạ đang là vua mà bỏ chốn cung đình vào trong núi này, hẳn là tìm cầu gì chăng?”. Vua trả lời: “Trẫm không muốn tìm cầu gì, chỉ muốn cầu thành Phật”.
Quý vị thấy người xưa nói một tiếng thôi là cầu làm Phật chứ không phải như mình bây giờ, có khi mình cầu kiếp sau được giàu sang hay cầu sanh về cõi trời. Mục đích của người tu chúng ta là thành Phật, phải xác định rõ ràng như vậy mới được.
Lúc này Quốc sư Phù Vân mới trả lời: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm. Nếu tâm lặng mà rõ biết, đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần tìm cầu cực khổ ở bên ngoài vô ích”.
Như vậy, chỉ cần tâm lặng mà rõ biết thì đó chính là Phật. Có những lúc quý vị ngồi thiền hay đi kinh hành, tâm bỗng dừng lặng lại dù chỉ trong một sát na, một tích tắc thôi nhưng cũng có thể cảm nhận được, tuy nhiên do nghiệp lực sâu dày nên quý vị chỉ vừa yên được một chút là vọng tưởng lại liên tục đến. Lại có những người ngồi yên, sợ mất mình nên lại tìm lại, mà tìm thì thành vọng.
Bồ Tát Long Thọ nói: “Giới hạnh là da, thiền định là thịt, trí tuệ là xương mà chứng ngộ diệu tâm tức là tủy”. Quý vị đang sống ở đây là nhờ máu huyết luân lưu, nhưng nếu lột da hết thì còn sống được không? Cũng không được. Cho nên giới hạnh là da, nhưng nhờ có da bọc chúng ta mới đi vào được những cảnh giới thiền định, vào những miền sâu thẳm của tâm thức. Ví dụ như ban ngày quý vị chửi mắng nặng lời với ai đó thì tối ngồi thiền có yên không hay là trạo cử? Như vậy cũng phải nhờ giới. Hay như tối nay quý vị uống rượu thật say thì có ngồi thiền được không hay lắc lư như con tàu rồi chìm luôn? Nêu ra điều này để thấy rằng, tất cả chúng ta trước sau gì rồi cuối cùng cũng đều phải đi qua con đường này, bởi vì pháp bố thí, cúng dường chỉ là trợ duyên thôi, chưa phải là chỗ cứu kính rốt ráo. Chỗ cứu kính rốt ráo chính là chúng ta phải chứng nghiệm về thiền thì mới hết khổ đau.
Trong Sử 33 vị Tổ, một hôm Tổ Bồ Đề Đạt Ma thấy cơ duyên sắp về Tây, Ngài gọi các đệ tử ra trình kiến giải.
Ngài Đạo Phó bước ra đầu tiên, bạch:
- Theo chỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự cũng chẳng lìa văn tự, đây là dụng của đạo.
Tổ nói:
- Ngươi được phần da của ta.
Đến bà Ni Tổng Trì bước ra thưa:
- Ngay chỗ hiểu của con giống như Tổ A Nan thấy được cõi Phật A Súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại.
Tổ nói:
- Ngươi được phần thịt của ta.
Tổ A Nan lúc đó mới chỉ kiến đạo, chứng quả dự lưu, bước vào dòng thánh, làm sao thấy được cõi Phật bất động mà phải nương nhờ thần lực của Phật mới thấy được cõi Phật A Súc là cõi Phật bất động hiện ra, sau khi Phật thu thần lực lại thì Ngài A Nan không thấy được nữa.
Ở đây nêu ra là chỉ cho chỗ công phu của mình. Có những lúc chúng ta cũng nương thần lực của Phật thấy được cõi Phật bất động. Đó là như thế nào? Tức là có một lúc nào đó, quý vị trở lại cái tri kiến thanh tịnh của mình thì cũng thấy được rõ ràng cõi Phật bất động (tâm bất động), dù chỉ một sát na thôi là mất nhưng đủ để cho mình tin chắc vào lời dạy của chư Phật, chư Tổ và Hòa thượng. Tin đúng như vậy là quý vị cũng được phần thịt của Tổ.
Ông Bàng Long Uẩn coi đến chỗ này bèn nói bài kệ:
Thường nghe cõi A Súc
Nghĩ đến phương Đông cầu
Hôm nay xét nét kỹ
Bất động tự nhiên đến.
Tức là trước đây nghe nói đến cõi Phật A Súc thì ông mong muốn được tới đó, nhưng hôm nay xét nét kỹ, chỉ cần tâm bất động thì đang sống ở cõi đó, đang ở cõi Phật bất động đó.
Ngài Đạo Dục bước ra thưa:
- Năm ấm vốn không, tứ đại chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể được.
Tổ bảo:
- Ngươi được phần xương của ta.
Cuối cùng, đến Ngài Huệ Khả, Ngài bước ra đảnh lễ Tổ ba lễ rồi lui lại đứng yên lặng.
Tổ nói:
- Ngươi được phần tủy của ta.
Theo tinh thần của Lão Tử thì “Người nói thì chẳng biết mà người biết thì chẳng nói”. Có một số người mới học thiền thấy rất thích, đi đâu cũng nói về thiền nhưng tu một thời gian mới thấy thật ra mình nói chỉ là hiểu trên cái lý. Một lúc nào đó nếu đủ duyên nhập thất, chỉ cần chứng nghiệm dù chỉ một sát na chút ít thôi thì mới thấy đường tu của mình còn rất dài, đòi hỏi mình phải công phu rất nhiều. Trên đường tu, dù tu bất cứ pháp môn gì, mới tu thì có thể không thấy gì, nhưng tu càng lâu thì nghiệp quả càng trổ ra, đó là nợ ngày xưa mình thiếu người ta, giờ mình có chút tiền người ta đến đòi. Nếu chúng ta không có sự chứng nghiệm sâu sắc về lời dạy của chư Phật, chư Tổ thì khi gặp những cảnh thử thách chúng ta rất dễ nản và không vượt qua được. Chúng ta đọc sách của Hòa thượng thì hiểu rất nhanh, giống như Tôn Ngộ Không chỉ cần bay vèo cái là tới đất Phật, ý thức của mình cũng vậy, nhắm mắt là chân không, là Phật tánh, là Niết bàn, nhưng để đến được đó thì người hành giả phải bước đi từng bước chứ không phải chuyện đơn thuần. Ngài La Hầu La có lần trên đường đi khất thực gặp mấy đứa nhỏ lấy đá ném. Ngài bực mình, khởi niệm không tu nữa mà về làm vua, kéo quân qua nước này để trừng phạt. Vừa dấy niệm như vậy thì Phật biết được, gọi Ngài lại và nói: “Trên bước đường xuất gia tìm chân lý, con đừng tưởng đi đến đâu ai cũng trải thảm ra cho con hết. Con hãy nhớ kỹ con đường này rất chông gai, con phải mang đôi dép là tâm nhẫn nhục và lòng từ bi vô hạn thì mới đi đến đích được”.
Người tu đi trên con đường xuất thế gian cũng vậy, con đường này chông gai hơn thế gian tưởng tượng nhiều chứ không phải là chuyện đơn thuần. Phải tự hỏi những đồ mà mình thọ dụng từ đâu mà có? Nếu như lá mùa thu rụng rớt xuống mà thành tiền, Phật tử mang tiền đó đến cúng dường thì không có gì đáng nói. Đằng này tiền là từ mồ hôi, nước mắt của quý vị làm ra, mang lên đây cúng dường Hòa thượng, cúng dường chư Tăng, cúng dường xong còn lạy nữa, vì một người có công phu tu hành, chứng nghiệm, giới hạnh thanh tịnh không phải là chuyện dễ được, cho nên người tu hành nếu không có năng lực thì của đàn na tín thí tiêu không nổi, giống như hòn đá mài bị dao mài lên, dao ngày càng sắc mà đá thì ngày càng mòn. Nên trong kinh Pháp Cú Phật dạy:
Hạt cơm của tín thí
Nặng như núi Tu di
Nếu người không liễu hội
Mang lông đội sừng trả.
Vào thời Đức Phật, Tôn giả A Nan xuống sông giặt y mà tấm y nổi, khó giặt được nên đến hỏi Phật. Phật nói chỉ cần lấy bốn hạt cơm để bốn góc thì tự nhiên y sẽ chìm.
Cho nên tu ở đây không nói bằng lời nữa mà phải chứng nghiệm sâu, kể cả quý vị, chứ không có cách gì khác.
Trong Thiền thoại có ghi câu chuyện: Thượng tọa Định là đệ tử đắc pháp nơi Thiền sư Lâm Tế. Một hôm, Thượng tọa Định đến thành Trấn Châu thọ trai, trên đường đi ngang một cái cầu gặp ba vị tọa chủ. Có một vị tọa chủ trẻ nhất đến nói với Sư: “Thế nào là tột đáy sông thiền?” Sư bèn dùng thế bốc định ném xuống sông, hai vị còn lại hoảng hồn, đến năn nỉ xin tha mạng. Lúc này Sư nói: “Nếu không có hai vị đến tha thiết xin tha mạng thì tôi sẽ quẳng y xuống sông để cho y rõ thế nào là tột đáy sông thiền”. Qua câu chuyện này để thấy chúng ta nếu muốn biết tột được đáy sâu của thiền thì tự quý vị phải chứng nghiệm chứ không hỏi ai được hết. Nó không nằm trên sách vở ngôn từ mà quý vị phải tự lặn xuống. Muốn bước qua lộ trình tâm linh này quý vị phải sám hối, phải tu tập, phải chuyển hóa nội tâm thì một lúc nào đó mới tột đáy sông thiền được.
Thiền sư Động Sơn nói: “Vào thời mạt pháp, phần đông bị ba chướng nạn. Một là kiến sấm lậu, có nghĩa là căn cơ không lìa địa vị, đọa lạc tại biển độc”, có nghĩa là tu hay dính mắc ở chỗ yên tịnh, cho đó là chỗ cứu kính. Có những người ngồi do nghiệp thấy ánh sáng hay cái gì đó lạ rồi chấp chặt vào đó luôn. Đó là rơi vào trong biển độc.
“Hai là tình sấm lậu, tức là bị kẹt nơi thủ xả, chỗ thấy thiên khô”, có nghĩa là kẹt nơi có, không.
“Thứ ba là ngữ sấm lậu, chuyên nghiên cứu ngữ cú của tổ sư mà đánh mất tông chỉ, trước sau mờ mịt”, có nghĩa là chuyên nghiên cứu trên sách vở mà không chứng nghiệm được nên đánh mất tông chỉ của Tổ, mà mục đích chư Phật, chư Tổ ra đời thì giáo pháp như ngón tay chỉ mặt trăng, nương ngón tay để thấy mặt trăng, còn chỉ thấy ngón tay mà quên mất mặt trăng là quên mất tông chỉ.
Một câu chuyện khác, có lần Tô Đông Pha chuẩn bị đến gặp Thiền sư Phật Ấn nên viết thư cho Thiền sư, nói Thiền sư hãy như Triệu Châu tiếp Triệu Vương, không cần ra cửa đón. (Thiền sư Triệu Châu có ba lối tiếp khách, bậc vua chúa thì Ngài ngồi tại đơn mà tiếp, bậc đại quan thì Ngài bước xuống giường tiếp, còn hạng dân dã thì Ngài ra cổng chùa tiếp). Nhưng khi Tô Đông Pha đến thì không ngờ gặp Thiền sư Phật Ấn ra tận cổng để đón, ông nói: “Đạo hạnh của Thầy không chững chạc như Thiền sư Triệu Châu, tôi bảo Thầy không cần ra đón tôi mà Thầy không thoát khỏi phàm tình, chạy quá xa mà đón”. Lúc này Thiền sư Phật Ấn mới nói bài kệ:
Triệu Châu ngày ấy thiếu khiêm nhường
Chẳng ra ngoài cổng đón Triệu Vương
Đâu giống Kim Sơn vô lượng tướng
Đại thiên thế giới thảy là giường.
Qua câu chuyện này, quý vị thấy một người như chúng ta học trên sách vở, còn một người chứng nghiệm về thiền, thấy đại thiên tam thiên thế giới đều là giường thiền. Như vậy trong lúc chúng ta ngồi ăn cơm mà thấm được chỗ này thì trong lúc ngồi ăn cơm cũng là lúc ngồi trên giường thiền của Phật Ấn. Rồi những lúc chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng động tĩnh đều là trong cảnh giới thiền. Muốn được vậy, quý vị phải chứng nghiệm ngay tại đây và bây giờ.
II. THIỀN – SỰ CHỨNG NGHIỆM NGAY TẠI ĐÂY VÀ BÂY GIỜ
Đến với các Thiền sư hỏi “Thế nào là Phật?”, có khi các Ngài trả lời, có khi đánh, hét nhưng chỉ cốt là đặt cho quý vị vào ngay giờ phút này, chỉ cần nhích ra một cái là trật, bị các Ngài đuổi ra cửa liền. Quý vị ở đây tu lâu rồi phải tiến thêm một nấc nữa. Ví dụ khi quý vị đến đây cúng dường, nếu hiểu Phật pháp rồi thì tin chắc đó không phải là phước đức nữa mà là công đức, bởi vì cúng dường mà vô trụ thì tức là công đức. Còn cúng dường mà thấy có ta cúng, thấy có người nhận cúng, thấy có vật cúng thì là có tướng. Chẳng hạn như quý vị có một cái ly bằng ngọc rất quý, mang đến cung kính cúng dường cho một vị Thầy mà quý vị rất kính trọng. Nếu ngay sau đó, vị Thầy ấy lại mang cái ly được cúng dường để cho một người khác, lại là người mà mình không thích thì quý vị có buồn không? Hay cúng dường vị Thầy cái áo mà không thấy vị đó mặc, cúng dường Thầy chiếc xe mà không thấy Thầy đi, mình cũng thắc mắc. Cúng dường như vậy phước rất ít bởi vì mình đã trụ vào tướng, tâm không mở ra được. Giống như nhìn lên bầu trời thênh thang thấy có đám mây, dù cho đám mây có lớn mấy mà trụ vào đám mây thì hư không cũng chỉ bằng đám mây, còn nếu không nhìn đám mây thì bầu trời thênh thang rộng không có bờ mé. Công đức bố thí cúng dường mà không trụ tướng cũng như thế, bố thí cúng dường xong là xong, còn việc sau đó người ta sử dụng như thế nào mình không cần phải quá quan tâm. Lúc Phật còn trong thời kỳ tu hành nhân địa bồ tát từng bố thí thân mình cho cọp đói. Chúng ta hay nghĩ nếu bố thí cho con cọp đó ăn để sống thì nó sẽ giết hại, sẽ ăn những loài khác thì bố thí làm gì, đó là tâm phàm. Còn Bồ Tát lúc đó chỉ thấy con cọp đói thì bố thí cho nó ăn thôi, còn sau đó làm gì là việc của nó. Nếu mình làm mà tính toán quá thì có khi lại làm cản trở phước thiện của mình.
Trong Kinh Tăng chi bộ có đoạn: “Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Thế Tôn cư trú tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, có một vị thiên giả hào quang và vẻ đẹp sáng tốt bội phần trong đêm hiện đến chỗ Đức Phật. Sau khi làm lễ dưới chân Phật, vị thiên giả ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ hào quang của vị Thiên giả bừng sáng lên một cách rực rỡ, soi chiếu khiến cho Tinh xá Kỳ hoàn trở nên sáng rực. Vị thiên giả trong khi ngồi bên cạnh Phật nói lên một bài kệ:
Ở chốn A lan nhã
Tu phạm hạnh vắng lặng
Mỗi ngày ăn một bữa
Sao nhan sắc vui tươi?
Phật đáp:
Không sầu luyến quá khứ
Không mong cầu tương lai
Hiện tại nuôi chánh trí
Đoạn dục để giữ mình
Sáu tình đều nhẹ nhõm
Nên nét mặt vui tươi.
Người đời không sống trong hiện tại, luôn nghĩ chuyện quá khứ, chuyện tương lai. Có những lúc chúng ta ngồi lại nhớ về quá khứ ngày xưa mình từng có tài sản, từng có hạnh phúc như thế nào rồi sau đó thấy hoàn cảnh của mình bây giờ tự nhiên buồn, hay có lúc nghĩ ngợi chuyện tương lai chợt lo lắng không biết mai kia mình sẽ làm gì, sống chết ra sao, đó là bị những vọng tưởng điên đảo này giết. Một người không biết tu mà nghe tin bị ung thư, hai tháng nữa chết thì có khi không đợi đến hai tháng mới chết mà bị vọng tưởng làm cho chết nhanh hơn. Còn người biết tu thì bình thản, biết có bệnh nhưng có niềm tin là mình sống đúng với chánh pháp, hiện tại biết tu tập thiền định, chuyển hoá nội tâm thì mai kia ra đi đã có sẵn tư lương, không sợ hãi..
Phật dạy tiếp:
Tương lai còn mong cầu
Quá khứ còn tri niệm
Như cỏ non xanh tốt
Cắt rồi phơi dưới nắng
Kẻ phàm phu khô héo
Chỉ vì ngần ấy thôi.
Tinh thần của nhà Phật cũng như Thiền là luôn an trú trong giờ phút thực tại, không mong mỏi tìm cầu ở đâu hết. Có người hỏi nếu cứ sống trong hiện tại như vậy thì tương lai sẽ thế nào? Thực ra chỉ cần sống mà an trú trong giờ phút thực tại thì xuyên suốt ba thời. Quý vị phải hiểu, sống trong giờ phút thực tại không phải là chết chìm trong giờ phút thực tại, nằm ngồi một chỗ không làm bất cứ việc gì mà ngay trong hiện tại chúng ta cũng sống, cũng làm việc nhưng theo đúng chánh pháp, có một sức chuyển hóa lớn, từ khước mọi tham dục, sân hận, tật đố, ích kỷ nhưng không từ khước cuộc sống thì tương lai sẽ rõ ràng. Vẫn cho con ăn học, nấu cơm, quét dọn, trồng cây, làm cầu, đắp đường… mà đều có ánh sáng trí tuệ trong đó. Xa lìa mọi tham ái nhưng không xa lìa cuộc sống, đó mới là an trú trong giờ phút thực tại. Nhờ an trú trong giờ phút thực tại, chúng ta mới thấy rõ được trong miền sâu thẳm của tâm thức quá khứ ta đã từng làm gì, hiện tại ta đang làm gì và mai kia ta tiếp tục làm gì để đến được quả vị Phật.
Thấy được điều đó rồi thì vị thiên giả rất vui, nói bài kệ:
Quá khứ đã từng thấy
Trượng phu đạt Niết Bàn
Lìa sợ hãi, nghi ngờ
Vượt qua biển ân ái.
III. THIỀN LÀ TÂM CHỨNG, KHÔNG PHẢI KHÁI NIỆM HAY LÝ LUẬN
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay lý luận. Những cái gì cấu tạo bằng ảo giác, bằng khái niệm, bằng lý luận trừu tượng thì Thiền không có mặt.
Trong Kinh Tạp A Hàm có một vị Tỳ kheo đến hỏi Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, thế giới này hữu biên hay vô biên? Thế giới này còn hay mất? Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn có hay là không?” Đức Phật im lặng, không trả lời. Vị Tỳ kheo nói: “Nếu Như Lai không trả lời cho con thì con xin trả lại y áo cho Thế Tôn mà hoàn tục”. Đức Phật trả lời: “Ngày xưa ông đến với ta, ông có nói nếu Thế Tôn trả lời cho con những câu hỏi này thì con mới đi tu hay là đến xin ta chỉ dạy con đường chấm dứt khổ đau?”. Giống như có người bị mũi tên độc bắn vào người, bác sĩ đến để rút mũi tên độc ra nhưng mình không cho mà bắt phải trả lời ai là người bắn mũi tên này, mũi tên này làm bằng chất liệu gì, vào thời nào? Quý vị thấy người này sống hay chết? Mình có giống vậy không?
Một hôm Thiền sư Ajahn Chah đến nước Anh giảng pháp, có một người lý luận rất siêu hình. Thiền sư nói: “Bà chẳng khác nào người nuôi gà, thay vì đi nhặt trứng gà, bà suốt ngày đi nhặt phân gà”. Nghe Thiền sư nói xong, từ đó bà sau bà thay đổi.
Có một câu chuyện như sau: Có một học giả đi nhờ trên một con tàu qua biển. Vì đi lâu nên học giả tranh thủ nói chuyện với người thủy thủ trên tàu:
- Ông đi thuyền đã bao lâu rồi?
- Ba chục năm.
- Ông đã từng học về chiêm tinh học chưa?
- Chưa từng.
- Vậy là ông chết mất một phần ba đời người rồi.
- Học giả hỏi tiếp: Ông học thiên văn học chưa?
- Cũng chưa.
- Ông chết một phần tư đời người.
- Học giả hỏi thêm: Ông đã học địa lý học chưa?
- Cũng chưa.
- Học hải dương học chưa?
- Chưa.
- Vậy là ông chết nửa đời người.
Một lúc sau, sóng gió bất ngờ nổi lên làm thuyền nghiêng ngả. Người thủy thủ quay lại hỏi học giả:
- Ngài đã học môn bơi lội học chưa?
- Chưa.
- Vậy là Ngài chết cả đời người rồi.
Quý vị thấy khi sanh tử đến cũng vậy, mạnh ai người nấy bơi, không ai cứu được mình cả, chỉ duy nhất có mình tự làm hòn đảo cho chính mình.
Sau khi chứng nghiệm được điều này, Thiền sư Bạch Ẩn nói:
“Nếu bạn làm chủ được nó thì dù bạn làm người lái thuyền, kéo xe, gia nhân hay tớ gái, bạn cũng là một người giàu có vô song với đạo hạnh và trí huệ. Nếu bạn không làm chủ được nó thì dù bạn có là vua, là đại thần với chức tước và bổng lộc giàu sang, bạn vẫn là một kẻ nghèo nàn, ngu dốt, một con người thuộc hàng thấp kém nhất”.
Có nghĩa là nếu mình sống được với tâm chân thật của mình, chứng nghiệm được rồi thì dù cho quý vị là người kéo xe, người đầy tớ thì vẫn là người giàu có nhất.
Đức Phật đã thấy và nói rằng người tối thượng giữa loài người là người không bị những tham ái, tật đố, ích kỷ chi phối. Dù cho chúng ta là giám đốc, kỹ sư, bác sĩ mà bị những niệm này chi phối thì cũng chỉ là người thấp kém nhất trong xã hội.
Trong Kinh A Hàm có kể: Ông Trưởng giả Út Già rất giàu có, của cải của ông ngang với vua chúa, có rất nhiều thị nữ. Một hôm ông dạo trong vườn, nhờ túc duyên ông được gặp Phật. Sau khi nghe pháp ông chứng được quả dự lưu, nhập vào dòng Thánh. Sau đó về, ông giải tán hết tất cả các cuộc vui. Và chuyên tâm tu tập thiền định, có lần ông bệnh rất nặng, Phật đến hỏi ông: “Giả như có người đốt 1 lá bùa cho ông uống và sống thêm 50 năm nữa, như vậy ông có uống hay không?”. Ông dứt khoát trả lời: “Thà con chết chứ không uống”. Phật hỏi “Tại sao?”. Ông nói: “Nếu con uống lá bùa này kiếp sau nếu có sanh trong cõi này thì con gặp người đó chứ không gặp Đức Thế Tôn, thà con bỏ thân mạng này mà đời đời kiếp kiếp con gặp Đức Thế Tôn tu học cho đến ngày chứng quả Bồ Đề”. Phật nói: “Ông thật là người hy hữu có mặt trong cuộc đời này”.
IV. CHỨNG NGHIỆM THIỀN – CON ĐƯỜNG SIÊU VIỆT NHỊ NGUYÊN
Đây nói về công phu. Chúng ta ngồi thiền nếu không biết tu thì dung túng vọng. Hàng Nhị thừa thì đoạn vọng tưởng để chứng chơn. Hàng Bồ Tát thì liễu vọng tức chơn, tức là không trừ vọng mà cũng không dung túng vọng.
Ngày xưa lúc chưa biết đạo thì chúng ta luôn dung túng vọng tưởng, không chịu buông bỏ mà lúc nào cũng bám chặt. Đến khi biết đạo rồi thì lại muốn đoạn vọng để mong muốn đạt đến cảnh giới nào đó. Có người ngồi thiền gồng mình, trợn mắt để xua đuổi vọng tưởng. Nhưng vọng tưởng thì không có tự thể, nó vô tướng thì làm sao đuổi được? Quý vị chỉ cần nhìn thẳng vọng thì ngay sóng tức là nước, chỉ cần biết được bản chất nó là không thật thì ngay đó là vô sanh. Từ từ vọng sẽ lặng xuống, thưa dần, một lúc nào đó quý vị nhảy vào. Còn đoạn vọng tưởng thì không khác gì chặn một dòng nước, có một lúc nào đó vỡ đập nước tung ra, cho nên nếu tu không khéo thì càng tu càng sân, càng tu càng làm việc ác. Còn nếu biết tu rồi thì chuyển vọng tình thành đại bi mà chuyển vọng tưởng thành đại trí, giống như một bóng đèn bị những con thiêu thân rớt vào thì càng làm cho ánh đèn càng sáng rực thêm lên. Vọng tưởng cũng như thế, một ngày quý vị có một triệu vọng tưởng thì có một triệu niệm giác, đến một lúc nào đó thì vọng tưởng lặng hết, thì toàn giác, rõ biết hết mà không cần suy nghiệm gì cả. Cho nên Lục Tổ khẳng định rằng: “An tâm tại vọng tình, ngay đó lìa ba chướng”.
Cổ Đức cũng thường nói: “Niệm lặng thì muôn việc nhàn”.
Chứng nghiệm được điều này, Thiền sư Suzuki đã nói: “Thiền là biển nước, Thiền là không trung, Thiền là núi non, Thiền là sấm sét, Thiền là hoa mùa xuân, Thiền là nắng mùa hạ và tuyết mùa đông. Không những thế mà còn hơn thế, Thiền chính là con người”.
-
10. TỊNH ĐỘ NƠI ẤY BÂY GIỜ Ở ĐÂY
TỊNH ĐỘ NƠI ẤY BÂY GIỜ VÀ Ở ĐÂY
Giảng tại chùa Đại Giác, Sóc Trăng
- I. DẪN NHẬP
Hôm nay đầu năm hội đủ duyên lành, chúng tôi lại tiếp tục về chùa Đại Giác chia sẻ chút ít giáo lý cùng tất cả quý vị. Bài pháp ngày hôm nay giống như một bài tâm sự trên bước đường tu học. Trước khi đi vào đề tài, tôi xin đưa ra vài vấn đề như sau.
Cách đây khoảng một tháng có một Phật tử đến nói với tôi rằng: “Nếu như ngày xưa Đức Phật chỉ bày duy nhất một pháp môn thôi, ví dụ một là thiền, hai là tịnh, ba là mật…hoặc là Pháp Hoa tông, Luật tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông… thì giờ tốt biết mấy. Vì con thấy không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả ở Nhật Bản, Trung Hoa hay tất cả các nước tu học theo tinh thần Phật giáo thì thường có những xung đột, dù không có gì là lớn lắm giữa các Phật tử theo các tông phái khác nhau”. Tôi có trả lời rằng: “Dù cho mình có trí tuệ đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới như Ngài Xá Lợi Phất thì cũng không bằng Đức Phật. Đức Phật thấy suốt, biết hết nên Ngài mới tùy căn cơ của chúng sinh mà bày ra các phương tiện khác nhau”. Quý vị thấy trong một gia đình có năm người con thì có phải năm đứa con đều là bác sĩ hết không? Cũng có người làm nghề này hoặc nghề khác chứ không giống nhau, huống chi tâm bệnh của chúng sinh rất nhiều, nếu không dùng nhiều pháp môn, không dùng nhiều phương pháp chữa trị thì chúng sinh không hết bệnh. Với phương tiện thiện xảo, Đức Phật đã đưa ra rất nhiều pháp môn. Khi Phật nhập Niết bàn, chia ra hết thảy hai mươi bộ phái, trong đó có hai phái lớn: Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Sau này qua Trung Hoa tiếp tục chia thêm mười tông phái nữa: Hoa Nghiêm tông, Luật tông, Pháp Tướng tông, Tịnh Độ tông, Mật tông, Thiền tông… Bởi vì chúng sanh trong cái cộng nghiệp với nhau còn có cái biệt nghiệp riêng. Chẳng hạn sinh ra là người Việt Nam thì đó là cộng nghiệp, nhưng trong cái cộng nghiệp đó lại có những biệt nghiệp riêng, như năm vừa rồi ở Hà Tĩnh, Quảng Nam, Đà Nẵng bị lũ lụt, nhưng ở Sóc Trăng lại không bị. Cộng nghiệp thì chung nhưng mỗi chúng sanh có những biệt nghiệp riêng. Tâm bệnh của chúng sinh cũng như thế. Nghe xong, Phật tử lại hỏi tiếp: “Nhưng tại sao có vị Thiền sư nổi tiếng là Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ, sau khi ngộ với ngài Pháp Nhãn thuộc tông Pháp Nhãn, lại xiển dương tông Tịnh Độ?”.
Do những vấn đề trăn trở đó, hôm nay chúng tôi xin chia sẻ và nêu ra cho quý vị thấy. Hiện giờ trên đất nước Việt Nam mình tuy rất nhiều tông, nhưng chủ yếu vẫn là ba tông chính: Thiền, Tịnh, Mật. Sau một thời gian nghiên cứu và tu tập thì chúng tôi thấy ba pháp đó thực chất vốn là một. Bởi vì sao? Vì trong tinh thần tu học của nhà Phật vừa có sự cũng lại vừa có lý. Có lúc Đức Phật nói về sự, có lúc Đức Phật nói về lý. Trong Tứ Liệu Giản, Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói: “Có Thiền, có Tịnh độ cũng như cọp mọc sừng. Không Thiền, không Tịnh Độ, giường đồng cùng cột sắt. Muôn kiếp và nghìn đời, không một người cứu giúp”. Có nghĩa là nếu chúng ta tu Thiền lại thêm tu Tịnh độ nữa thì có sức mạnh giống như cọp mọc thêm sừng. Nhưng trong Thiền tông lại có câu chuyện: Có vị tăng hỏi Thiền sư Triệu Châu: “Niệm Phật là sao?”. Đáp rằng: “Lão tăng niệm Phật một câu thì phải xúc miệng ba ngày”. Do câu nói này nên ngày nay, Phật tử thậm chí cả chư Tăng chưa nắm bắt được kỹ hay đem vấn đề này ra bàn cãi. Thực ra tại mình chưa hiểu chứ trong giờ phút đó, vì vị tăng này chấp chặt vào câu niệm Phật quá nên Thiền sư muốn nhổ đinh tháo chốt để cho ông tiến thêm một bước nữa.
Có một Phật tử kể rằng ngày xưa anh tu theo pháp môn Tịnh Độ rất đắc lực. Một hôm anh đến gặp Hòa thượng Vạn Đức, hỏi rằng: “Niệm Phật là gì?” Thấy anh đã chín muồi, Hòa thượng bèn nói một câu thật mạnh: “Niệm Phật là vọng tưởng”. Ngay tức khắc anh ngộ, bây giờ sống rất thanh thản và an ổn. Nhưng đó là với người tu đã có một thời gian công phu lâu thì Hòa thượng mới nói vậy, mục đích là đẩy hành giả đi sâu hơn nữa, chứ còn đối với những người sơ cơ, mới bước vào Đạo, nếu nói niệm Phật là vọng tưởng thì chắc họ bỏ niệm Phật luôn rồi lại tạo các ác pháp.
Ngài Ajahn Chah có kể lại rằng, một hôm có người hỏi Ngài: “Thưa Sư, Ngài Ajahn Chah là gì? Là vị nào?”. Thấy người này chưa hiểu nhiều về giáo pháp, nên Ngài chỉ vào mình và trả lời: “Thiền sư Ajahn Chah là tôi đây”. Một lần khác, một hành giả khác hỏi: “Thưa Sư, Thiền sư Ajahn Chah là ai?”. Nhìn biết người này công phu đã thuần thục, Ngài nói rằng: “Trên đời này chẳng có ai là Ajahn Chah cả”. Rồi có một lần, một cư sĩ người Mỹ đến hỏi Thiền sư Ajahn Chah: “Tại sao có lúc Ngài nói ngã, lại có lúc Ngài nói vô ngã, rồi có lúc Ngài nói thiện, lại có lúc nói phi thiện, rồi có lúc Ngài nói Phật, lại có lúc nói không có Phật?”. Thiền sư trả lời: “Ví như có một người đi trên bờ ruộng, bị ngả sang bên trái thì lúc này phải làm gì? Phải nâng đỡ họ sang bên phải. Nếu người đó đi ngả sang bên phải thì phải nâng đỡ họ đi sang bên trái. Đó chỉ là phương tiện thiện xảo nhiếp hóa chúng sinh”.
Như vậy quý vị thấy, đối với người mới biết tu mà nghe nói trên đời này không có Thiền sư, không có Phật, Pháp, Tăng, không có thiền, không niệm Phật thì chắc chắn người ta sẽ tạo ác pháp mà đọa địa ngục. Còn người tu lâu năm, thuần thục rồi, muốn nhổ được cái gốc đó thì các Ngài lại dùng cách để đẩy người đó tự vươn lên.
Cho nên trong Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy:
Ta đêm ấy thành đạo
Đến đêm ấy Niết Bàn
Ở trong khoảng giữa này
Ta trọn không có nói
Duyên tự đắc pháp trụ
Nên ta nói thế ấy
Phật kia cùng với ta
Thảy không có sai biệt.
Trong suốt 49 ngày đêm tọa thiền, Đức Phật ngộ nhập tri kiến Phật, thấy rất rõ ràng pháp này không có lời nói, không có văn tự. Mà chúng sanh thì quá nhiều tham dục, nếu nói pháp này, ai sẽ tin? Đức Phật do dự, định nhập vào cõi Vô dư Niết bàn, không giáo hóa chúng sinh. Lúc này Phạm thiên ba lần thưa thỉnh xin Đức Phật dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa chúng sinh. Chúng sanh tuy còn mê muội nhưng trong sự mê muội đó vẫn có hạt giống tri kiến Phật, do đó Đức Phật mới phương tiện nói ra ba thừa, mười hai phần giáo, hay nói khác hơn là lập ra nhiều tông phái chủ yếu là để nhổ gốc si ái của chúng sinh. Quý vị thấy bên Thiền, bên Tịnh, bên Mật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa…, tất cả các pháp môn, ai là thủy tổ? Đều là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Chẳng hạn một ngọn núi trên đó có một ngôi chùa. Có ba đường để đi đến ngôi chùa đó: đường phía Đông, đường phía Tây và đường phía Nam. Người ở hướng đông thì đi đường phía đông, người ở hướng tây thì đi đường phía tây, người ở hướng nam thì đi đường phía nam. Dù đi đường nào nhưng cuối cùng ba người đều gặp nhau ở ngôi chùa, bởi vì mục đích chung của chúng ta khi tu là khiến tâm bình, trí sáng để đạt tới chỗ cứu kính viên mãn đó.
Cho nên ngày hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ cùng quý vị đề tài “Tịnh độ - Nơi ấy, bây giờ và ở đây”, cốt là nêu lên lý Tịnh độ để quý vị nhận thấy bên cạnh cái sự mà Đức Phật dạy còn có một cái lý uyên áo ẩn sâu trong đó, để từ đó quý vị nhảy vọt và đi thẳng vào miền Cực lạc của Đức Phật. Sau khi nắm bắt được rồi, nếu ai có duyên tu Thiền thì cứ mạnh dạn tu, nếu ai có duyên tu Tịnh Độ thì cũng cứ mạnh dạn tu. Tất cả đều đúng hết, không có sai.
II. MỖI BƯỚC ĐI LÀ VÀO CÕI TỊNH
Chữ “Tịnh”, là tiếng Hán, Việt dịch ra là không có sự ô nhiễm của tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, tật đố, ghen ghét, nếu còn các tâm đó thì không gọi là tịnh nữa. Chữ “Độ” nghĩa là cõi, mà cõi đó nếu còn những ngọn lửa tham dục, lửa hận thù, lửa si mê, lửa ảo vọng thì không phải là cõi Tịnh. Có nghĩa là nếu mười phương cõi Phật còn có những thứ lửa đó thì không gọi là cõi Tịnh nữa. Rõ ràng như vậy.
Trong Thiền thoại có kể, Thiền sư Bạch Ẩn giáo hóa đồ chúng rất nhiều, Ngài cũng dùng nhiều phương tiện thiện xảo để nhiếp phục chúng sinh. Một hôm có anh cư sĩ cũng thân tín với Thiền sư đến thiền viện với vẻ mặt rất buồn. Thiền sư hỏi nguyên nhân, anh mới đáp rằng: “Con có một người cha, con cũng rất muốn cha ngày ngày niệm Phật, tụng kinh, sám hối, tu tập và làm các việc thiện pháp. Con nói với cha rằng, cha cũng lớn tuổi rồi, hãy nên tụng kinh, niệm Phật đi thôi, còn đợi đến lúc nào nữa. Nhưng cha con lại bảo rằng: ‘Nếu ta niệm Phật một câu mà văng ra một đồng tiền thì ta niệm, còn nếu không thì ta niệm làm gì?’. Thế nên con rất buồn”. Thiền sư Bạch Ẩn bảo anh về nói với cha, cứ một câu niệm Phật thì thầy trả một đồng, mười câu trả mười đồng. Ông cha nghe nói vậy thì chịu niệm Phật. Ngày đầu tiên chưa thuần thục, ông chỉ niệm được một hai trăm câu. Trước cửa nhà ông bán hàng tạp hóa. Một hôm ông suy nghĩ rằng: “Xưa nay mình có từng niệm Phật đâu mà hôm nay ngồi ở đây niệm Phật, thế nào cũng có khách hàng đến hỏi thăm. Nói dối thì kỳ quá, còn nếu để họ biết mỗi một câu niệm Phật, mình lại được Thiền sư trả cho một đồng, họ tìm đến Thiền sư xin niệm Phật, chẳng phải là mình mất mối làm ăn sao”. Nghĩ vậy, ông lên tầng lầu thứ ba, đóng cửa kín như nhập thất, không cho người nhà con cái quấy rầy để yên tĩnh niệm Phật. Từ đó về sau ông chuyên tâm niệm Phật. Trong chùa có bao nhiều tiền, Thiền sư Bạch Ẩn đều dùng để trả ông hết, có khi phải bán cả lư hương, bình bông… Một hôm ông đang ngồi lần xâu chuỗi, tự dưng xâu chuỗi bị rơi xuống, ông cũng ngồi im luôn. Ông ngồi như vậy từ sáng đến tối, không ăn không uống. Sáng hôm sau, người con trai lên trình với Thiền sư Bạch Ẩn. Khi Thiền sư đến thấy ông vẫn đang tiếp tục ngồi, khuôn mặt hồng hào, thảnh thơi, an ổn, Thiền sư nói: “Cha con đạt đến chỗ chánh định rồi”. Vậy tại sao đạt đến chỗ chánh định? Niệm đến chỗ không còn niệm nữa, nghĩa là vô niệm, mà vô niệm đồng với chỗ Lục Tổ dạy: “Vô niệm làm tông, vô tướng làm thể, vô trụ làm gốc”.
Tôi xin khẳng định đến giai đoạn rốt ráo thì Thiền và Tịnh là một. Khi mình ra đường, đạp phải cây gai, đã trót dính vào chân rồi, muốn nhổ bỏ nó, ta phải làm gì? Ngày xưa chưa có kim, phải dùng một cây gai khác để lể cây gai này ra. Nhưng khi nhổ bỏ ra được rồi, có ai lại khờ dại lấy cây gai đang lể kia đâm lại không? Không, đúng không? Cho nên khi ông cha buông câu niệm Phật rồi thì đến chỗ vô niệm, mà vô niệm chính là tông. Như vậy tông chỉ giữa Thiền và Tịnh gặp nhau.
Trở lại câu chuyện trên, sau khi ông cha xả ra, không ngồi nữa, Thiền sư Bạch Ẩn lại nói rằng: “Giờ ông đã đạt đến chỗ chánh định rồi, tôi sẽ trả cho ông một trăm ngàn tiền vàng”. Lúc này ông già mới nói rằng: “Cho dù thầy trả cho con hết cả thế giới này, con cũng không cần. Ngày xưa con không hiểu, con xin sám hối thầy. Con có bao nhiêu tiền ngày trước lấy của thầy, con xin trả lại hết, con không cần nữa. Cuộc đời con hôm nay chỉ có đi trên con đường lộ trình giải thoát tâm linh thôi”. Đó cũng chính là tinh thần của nhà Thiền “trước dùng dục câu dắt, sau dùng trí mà nhổ”. Cũng có nghĩa là trước dùng tiền để trả cho câu niệm Phật, nhưng sau khi đạt đến chỗ chánh định viên mãn rồi thì tức khắc bao nhiêu sự việc trong cuộc đời này đều nhàm chán hết, cho nên mới thẳng đến chỗ trung tâm giác ngộ hoàn toàn. Nghĩa là quý vị phải một phen mạnh dạn buông xả mới đến thẳng được đất Phật, cho dù có tu pháp môn nào cũng vậy.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật khẳng định, một người mượn thuyền chèo qua sông nhưng khi đến bờ kia rồi thì phải bỏ thuyền lại. Có ai còn vác thuyền theo không? Giáo pháp của Đức Phật cũng như vậy, như ngón tay chỉ mặt trăng, như chiếc bè qua sông, “pháp còn phải bỏ, hà huống phi pháp”, còn chủ đích của chúng ta là thâm nhập vào pháp tạng, chứng nghiệm vào con đường tâm linh.
Trong Kinh Tương Ưng Bộ có ghi lại: Trong một khu rừng lớn, Đức Phật bứt một nắm lá rồi hỏi đại chúng:
- Này các Tỳ kheo, các ông xem nắm lá trong tay ta nhiều hay lá trong rừng nhiều?
- Bạch Đức Thế Tôn, lá trong rừng nhiều hơn lá trong nắm tay Đức Thế Tôn.
- Cũng như thế, cái ta nói cho các ông giống như lá trong nắm tay, còn cái ta chứng nghiệm được thì giống như lá trong rừng.
Cũng vậy, ba Tạng Kinh điển, những pháp môn mà chư Phật, chư Tổ, các Thiền sư đưa ra giống như lá nắm trong tay. Nếu quý vị muốn thâm nhập vào biển pháp tạng mà Đức Phật chưa từng nói ra thì phải ngay nơi tự thân mình mà chứng nghiệm chứ không phải ở đâu khác, mà muốn chứng nghiệm được thì quý vị phải một phen buông xả.
Thiền sư Bạch Ẩn sau khi thâm nhập vào chỗ này, Ngài nói một bài kệ:
Trong động Tất bát la
Không có bài kinh này
Đồng thọ không lời dịch
A Nan chưa từng nghe.
Sau khi Phật nhập Niết bàn, Tổ Ca Diếp vân tập 500 vị A la hán vào trong động Tất bát la để kiết tập ba tạng kinh, luật, luận, nhưng trong đó không có bài kinh này. Đồng thọ tức là Ngài Cưu Ma La Thập cũng không có lời mà dịch, dịch sao được kinh này? Mà Ngài A Nan cũng chưa từng nghe qua bộ kinh này. Quý vị thử nghĩ xem bộ kinh này là bộ kinh gì? Chính là bộ kinh sống của quý vị. Muốn có bộ kinh sống này, quý vị phải một phen mạnh dạn buông xả, dấn thân vào con đường này. Chỉ khi nào buông xả hoàn toàn thì quý vị mới nhảy vào chỗ Tịnh độ, mới tới miền cực lạc của Đức Phật A Di Đà được. Tôi xin khẳng định như vậy.
Có câu chuyện về một vị Lạt ma Tây tạng có thể dùng thần thông giúp một người tịch ngay tại chỗ, thần thức bay về cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà. Sau khi giảng pháp xong, Ngài hỏi đại chúng ai muốn lên cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà thì tất cả mọi người đều muốn. Nhưng đến lúc hỏi cụ thể từng người thì người bận nhà chưa cất, người thì con gái chưa gả chồng, hoặc người thì tiền ngân hàng chưa lấy ra… ai cũng bận việc này việc nọ, không có ai đi được. Chỉ duy nhất có một đứa nhỏ là đi được, vì cha mẹ nó đã chết, căn nhà lại vừa bị cháy. Vậy câu chuyện này nói lên điều gì? Đó chính là tinh thần buông xả, không chấp trước chứ không phải là buông xả theo kiểu quý vị về nhà bán nhà cửa, không lo làm ăn gì. Buông xả theo tinh thần của nhà Thiền là từ khước mọi tham đắm, dục nhiễm nhưng không từ khước cuộc sống này. Vẫn làm ăn, vẫn cho con ăn học, vẫn tu tập, vẫn chuyển hóa, nhưng qua cảnh giới nào chúng ta cũng đều suốt qua hết, không trụ. Đó là đạt đến chỗ “lý sự viên dung”. Người hành giả đã thấy được chỗ đó rồi tự nhiên rất an ổn. Nếu mình tin chắc pháp mình tu thì “mặc ai biếm mặc ai dèm, lấy lửa đốt trời nhọc xác thêm”, có nghĩa là ai bàn cãi gì thì bàn cãi, mình đừng tham gia vào, cứ tu thôi. Ví dụ mình niệm Phật thì một lòng niệm Phật, mình tu thiền thì một lòng tu thiền… đừng thấy người ta chê bai pháp này mình lại chê theo, vì mình chưa thâm nhập được chứ những vị thầy lớn có nhiều năm công phu tu tập rồi thì tự nhiên rất thông cảm với nhau, giữa Thiền, Tịnh, Mật đều thông cảm hết.
Quý vị nhớ khi Đức Phật A Di Đà đứng tiếp độ chúng sinh, Ngài giơ tay phải hay tay trái? Tay phải, đúng không? Biểu tượng bên tay trái là “nghịch chiều sanh tử”, còn bên tay phải là “thuận chiều Niết bàn”. Lý này rất sâu. Biểu tượng Ngài đưa ra là Ngài sẵn sàng cứu vớt chúng sinh, nghĩa là nếu chúng sanh nếu nắm được tay Ngài rồi thì tức là thuận chiều với Niết bàn, nghĩa là trở về với miền sâu thẳm trong tâm thức của mình chứ không có gì lạ hết.
Thiền sư Vĩnh Minh, tổ thứ sáu của tông Tịnh độ dạy: “Nếu tâm thanh tịnh thì hóa sanh nơi cõi tịnh, đài hương cây báo. Nếu tâm cấu nhiễm thì bẩm thọ thân hình nơi cõi nhơ uế, hầm hố, gò nổng, đó là quả cân xứng nhau, có thể cảm nên tăng thượng duyên. Vì vậy rời tự tâm không có lý thể nào khác”. Nếu tâm thanh tịnh thì khi nhắm mắt tức khắc biến hiện ra những cõi tịnh, đài hương cây báo. Còn nếu tâm cấu nhiễm, nhơ uế thì hiện về nơi hầm hố, gò nổng. Đó gọi là nghiệp cảm duyên khởi tương ưng hình thành nên các pháp, mà hình thành nên các pháp là do tâm của chúng sinh biến hiện nên.
Tôi xin hỏi quý vị, trong Kinh A Di Đà, Đức Thế Tôn nói pháp cho ai? Cho Tôn giả Xá Lợi Phất đúng không? Nhưng tại sao Đức Phật không nói cho Ngài Mục Kiền Liên, Ngài Đại Ca Diếp, Ngài Phú Lâu Na, Ngài A Nan …mà lại nói cho Ngài Xá Lợi Phất? Quý vị khi xem kinh, đọc sách, lúc nào mình cũng phải đặt dấu hỏi để cho trí mình sáng chứ không phải kinh nói sao mình nghe vậy. Tôn giả Xá Lợi Phất là Đệ nhất trí huệ, là nguyên soái chánh pháp, là bậc thượng thủ trong giáo đoàn của Đức Phật ngày xưa. Ở đây tiêu biểu rằng Đạo Phật không phải là mê tín dị đoan mà chính là đạo của trí tuệ. Chỉ bậc có trí tuệ mới nhận và tin được pháp môn Tịnh độ, chứ không phải như nhiều người cho rằng Tịnh độ là chỉ dành cho những người căn cơ thấp kém.
Chúng ta nhớ trong Kinh A Di Đà, Đức Phật dạy nếu sanh về cõi Cực Lạc thì nghe ai nói pháp? Nghe nước, chim, cây, rừng… thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đặt tiếp một dấu hỏi: tại sao Đức Phật nói khi chúng ta lên cõi Cực lạc không nói “thấy” mà chỉ “nghe”? Ở đây Đức Phật nhằm chỉ cái gì? Trong Kinh Lăng Nghiêm, có 25 vị thánh bày ra các pháp môn nhưng chỉ có pháp môn “phản văn văn tự tánh” của Bồ Tát Quán Thế Âm là duy nhất trong cõi Ta Bà này. Mắt chỉ có thể nhìn trước, nhìn xung quanh nhưng không thể nhìn ra phía sau nên chỉ có 800 công đức. Còn lỗ tai có thể nghe tứ phía nên được 1200 công đức. Từ đó quý vị thấy, muốn đặt chân vào cõi Tịnh độ phải “phản văn văn tự tánh”, nghe mà không chạy theo tiếng. Chẳng hạn như ai đó chửi mình, mình nghe hết nhưng không chạy theo tiếng thì sẽ không phiền não, tức là nghe mà không trụ vào cái nghe đó. Bởi vì sao? Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là tịnh. Chỉ cái điểm đó để chúng ta thấy mỗi pháp môn chỉ bày về một lý thể tuyệt đối mà mỗi hành giả phải tự mình dấn thân vào con đường này. Quý vị đều hiểu sự rồi cho nên ngày hôm nay chúng tôi muốn nêu lên cho quý vị hiểu rõ cái lý tuyệt đối đó, bởi vì pháp môn này sâu thẳm, vi diệu, nếu chúng ta không có niềm tin lớn, kiên định tu tập để chuyển hóa nội tâm thì cũng chưa đặt chân vào cõi Phật đó được.
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, có một ông tăng hỏi Thiền sư Quy Tịnh về việc Thiền sư Triệu Châu bị một ông tăng hỏi: “Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?”, Triệu Châu đáp: “Cây bách trước sân.”
Thiền sư Quy Tịnh nói: “Tôi nói với ông, ông có tin chăng?”
Tăng thưa: “Lời của Hòa thượng là quý trọng, con đâu dám chẳng tin”.
Quy Tĩnh nói: “Ông nghe giọt mưa rơi ở thềm nhà chăng?”
Có nghĩa là ngay trong giờ phút thực tại đó mình không nghe lại chính mình, mà ngược lại mình hỏi cái chỗ ý Tổ sư từ Ấn Độ sang, mà ý Tổ sư từ Ấn Độ sang là chuyện quá khứ rồi, tức là trong giờ phút hiện tại là mất mình, huống chi chuyện đó là chuyện của người khác, không phải chuyện của mình. Cũng như thế trong cuộc sống giữa đời thường này, nếu quý vị luôn luôn đặt mình trong giờ phút thực tại thì bảo đảm chúng ta sẽ ít phiền não. Chúng ta có được như thế không? Chẳng hạn như mình đang ngồi rất yên ổn, tự dưng nhìn thấy người hàng xóm đi ra ngoài, mình lại khởi niệm: “Ủa, sao mới 5 sáng mà nó đi đâu sớm vậy?” Như vậy là phiền não đến. Mà chuyện đó lại là chuyện của thiên hạ, không phải chuyện của mình. Hoặc lại một hôm nào đó, thấy bà người quen, nhà không nuôi heo, nhưng lại mua hai, ba bó rau muống, thế là mình lại nói: “Gạo hôm nay mắc rồi, nên bà ăn rau muống trừ cơm”. Nếu người ta nghe được, có phải sẽ quay lại chửi mình: “Chuyện hết gạo là chuyện của tôi, mắc mớ gì đến cô”. Thấy không? Tự dưng mình buồn khổ, phiền não. Là do ai? Do mình. Thiền sư Quy Sơn nói rất mạnh là “đem phân bỏ vào tâm của mình”, tức là mình đem chuyện thiên hạ để thị phi, phải quấy, hơn thua thì chính là chúng ta đã đem phân bỏ vào trong tâm của mình làm cho nó nhơ, nó xấu. Cho nên các Ngài muốn kéo mình trở về trong giây phút thực tại đó nên mới nói “Ông có nghe tiếng giọt mưa rơi trước thềm nhà chăng?”.
Lúc này ông tăng chợt khai ngộ, kêu lên: “Chao!”
Thiền sư Quy Tịnh lại nói: Ông thấy đạo lý gì? Nói thử coi.
Ông tăng đáp rằng:
Giọt mưa mé thềm
Rõ ràng từng giọt
Đập nát càn khôn
Liền đó tâm dứt.
Tức là nghe từng tiếng rõ hết nhưng không chạy theo tiếng. Mà không chạy theo tiếng có nghĩa là phiền não, cấu nhiễm trong tâm dứt, tâm vọng tưởng, vô minh kéo dài trong nhiều đời nhiều kiếp ngay đó dứt, cho nên liền đó đập nát càn khôn, cũng ngay đó ánh sáng giác ngộ hiện tiền, lúc này không có những ngọn lửa tham dục, lửa hận thù, lửa si mê, lửa ảo vọng… tức là đã tịnh hóa tâm của mình.
Tu chỉ đơn giản vậy thôi chứ không khó. Nếu quý vị muốn từ bỏ chuyện thị phi, muốn từ bỏ tâm tật đố, ganh ghét mà phải dời non lấp bể thì còn nói khó quá, không làm được. Nhưng ở đây Đức Phật không bảo quý vị dời non lấp bể, chỉ bảo chúng ta dừng lại, nhìn những niệm khởi lên và chuyển hóa thì tức khắc thành tựu. Rất đơn giản, rất dễ. Nhiều khi các Thiền sư nói dễ như ăn ớt. Dễ không? Nếu cay quá thì uống nước lạnh vào là hết chứ gì? Chuyện này là ngay nơi mình, không ngoài đâu khác, ngay nơi tâm của mình, mình chuyển hóa không chạy theo, tức là chúng ta đã dừng được nghiệp.
Xin hỏi tiếp quý vị, Đức Phật A Di Đà còn có những biệt hiệu nào nữa? Là Vô lượng Thọ, Vô lượng Quang, Vô lượng Công đức. Nếu ai thâm nhập được vào biển tánh trí huệ của Đức Phật A Di Đà, thì mình được Vô lượng Thọ, mà vô lượng thọ thì không có chết, Vô lượng Quang thì ánh sáng trùm khắp, mà ngay trong giờ phút đó mình được diệu dụng năng lực, đó là Vô lượng Công đức.
Trong Thiền thoại Tinh Vân, một hôm có ông tăng đến hỏi Thiền sư Triệu Châu: “Người nào là thầy của mười phương chư Phật?” Thiền sư đáp: “Nam mô A Di Đà Phật”. Bởi vì sao? Mười phương chư Phật muốn thành tựu quả Phật cuối cùng, ngộ nhập tri kiến Phật là từ đâu? Từ Vô lượng Thọ, Vô lượng Quang, Vô lượng Công đức mới thành tựu được mười hiệu “Như Lai, Ứng cúng, chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Điều ngự trượng phu, Vô thượng sư, Phật, Thế tôn”. Ông tăng vẫn chưa ngộ, lại hỏi: “Như vậy Nam mô A Di Đà Phật là ai?” Thiền sư nói: “Là đệ tử của ta”. Đến đây quý vị có hiểu không? Tại sao Đức Phật A Di Đà lại là đệ tử của Ngài? Ở đây, tôi xin nói một chút về điểm này để quý vị thấy rõ. Có một lúc nào quý vị yên lặng, thanh tịnh rồi mà tự nhiên dấy lên một niệm trụ vào chỗ thanh tịnh đó thì tức khắc Phật A Di Đà biến mất. Hoặc khi mình ngồi thiền mà mong cầu có chỗ sở đắc, sở ngộ thì chính là ngay trong giờ phút thực tại đó, tịnh biến thành động. Bởi cái tịnh đó nó đối với cái động, động tịnh dung nhiếp với nhau. Nhưng cái gì thấy được giữa cái tịnh, cái động đó. Nên khi mình khởi niệm: “Hôm nay tôi ngồi được thanh tịnh quá” thì đã mất thanh tịnh. Ngay giờ phút thực tại đó ông không sống mà còn hỏi “Nam mô A Di Đà Phật là ai?”, cho nên Ngài mới phá luôn “Là đệ tử của ta”. Nghe trả lời vậy, ông tăng giật mình, ngay giờ phút thực tại đó bặt vọng tưởng, không một niệm suy nghĩ tức khắc ông khai ngộ.
Một hôm Thiền sư Pháp Loa đến hỏi Ngài Điều Ngự (Sơ tổ Trúc Lâm):
- Khi muôn dặm mây tạnh thì thế nào?
Tổ đáp:
- Mưa tầm tã.
Có nghĩa trong giờ phút thực tại đó, “khi muôn dặm mây tạnh” là pháp thân sáng rỡ, rõ ràng, là chỗ sáng sủa, chỗ thanh tịnh, yên ổn mà ông còn hỏi nữa, mà còn hỏi là còn động nên nói là “mưa tầm tã”.
Thiền sư Pháp Loa lại hỏi tiếp:
- Khi muôn dặm mây che kín thì thế nào?
Tức có nghĩa là trong lúc mình ngồi thiền hoặc niệm Phật vọng tưởng, tối om, suy nghĩ tùm lum đủ thứ chuyện. Tổ đáp: “Trăng sáng vằng vặc”, có nghĩa là ông biết ông đang bị vọng tưởng, vô minh, tham dục, thèm khát ái…, nhưng ai biết được sự này, tức là ông sáng, ông hỏi nghĩa là ông sáng. Cho nên Thiền sư Huyền Giác đã khẳng định: “Ai vô niệm, ai vô sanh?” Ai đứng ở chỗ này? Tức có nghĩa là có ông chủ bên trong. Có ông chủ bên trong thì quý vị mới sáng được, cho nên mới nói là “trăng sáng vằng vặc”
Trong Thiền thoại có ghi lại câu chuyện: có hai vị đại sư tu pháp môn Tịnh độ, một vị là Viên Ngu, một vị là Viên Thứ, cả hai đã thâm nhập đạt đến chỗ nhập vào chánh định tam muội viên mãn nhưng vẫn đi hành cước để hỏi chỗ mình đã tu tập như thế nào. Một hôm, hai người đến yết kiến Thiền sư Độc Trạm Lão Nhân.
Thiền sư hỏi:
- Các ông tu pháp môn gì?
Hai vị này thưa:
- Bạch Hòa thượng, chúng con tu pháp môn Tịnh độ.
Hỏi:
- Đức Phật A Di Đà là ai? Bao nhiêu tuổi?
Hai người mới nói:
- Bằng tuổi của chúng con.
Chúng ta thấy người mà đã ngộ rồi thì cái gì cũng thông suốt.
Lại hỏi thêm:
- Như vậy cõi Tịnh độ này ở đâu?
Ngài Viên Ngu giơ ra một nắm tay nói:
- Ở đây.
Lúc này Độc Trạm Lão Nhân nói rằng:
- Ông thật là người chân chánh tu Tịnh độ.
Như vậy ngay trong giờ phút đó giữa Thiền và Tịnh gặp nhau. Các Ngài luôn sống trong chánh niệm tỉnh giác, ông chủ luôn luôn sáng suốt.
Có một vị khách tăng hỏi Thiền sư Kiền Phong: “Trong Kinh Lăng Nghiêm có câu ‘Thập phương bạc già phạm, nhất lộ Niết bàn môn’, xin hỏi đầu đường ở chỗ nào?”. Thiền sư giơ cây quạt lên nói: “Ở đây”. Tức là chỉ ngay tròng con mắt của quý vị, kiến sắc nhưng sáng được tâm mình, mình thấy sắc không chạy theo, tức là sáng tâm. Nhưng chúng ta không làm được như vậy, khi nhìn cái gì, cũng đã là niệm thứ hai. Ví dụ như khi nhìn bình hoa này, mình khởi niệm “bình hoa này hôm nay ai cắm kỳ quá, xấu quá, không đẹp như ngày hôm qua”, có nghĩa là mình đem niệm quá khứ đặt vào giờ phút thực tại đó, thì mình không có được niệm thứ nhất. Vừa phóng ra là mình phân biệt, chia chẻ liền. Còn khi ăn thì sao? Quý vị có khi nào ngồi trên mâm cơm vừa dọn ra mà mình ăn bình thản không? Hay là nghĩ sao hôm nay nó nhạt quá, chua quá, đắng quá, mặn quá… đủ thứ chuyện hết. Nếu người nào ghiền ăn ớt, bữa nào không có ớt thì phiền não. Rõ ràng mình tu mình không nắm bắt được chỗ đó. Nhưng nếu nghe nói như thế, quý vị về nhà ăn không biết ngon dở gì hết thì đúng chưa? Cũng chưa phải đúng. Ở đây các Ngài dạy, ví dụ khi uống nước ngọt, vị ngọt của nó mình biết nhưng biết thì dừng liền chứ không khởi niệm tại sao ly nước hôm qua nhạt mà sao hôm nay ngọt quá. Thế là mất mình. Ngọt biết ngọt, chua biết chua, nhưng ngay trong giờ phút đó, dừng niệm lại, không trụ thêm nữa. Nhưng mình đâu có chịu. Nếu lỡ chẳng may nó nhạt, nếu sẵn có đường thì thêm vào, không có thì thôi, đừng khởi niệm, đừng phiền não thì sẽ không đánh mất mình. Quý vị thấy làm rất dễ nhưng cũng rất khó, khó là khó cái ngã chấp, cái tập khí của chúng ta.
Có một vị Thiền sư xưa tu thấy thế gian sao quá lộn xộn, phiền não, cuối cùng ông xin ông thầy vào thất chuyên tu hai mươi năm. Sau khi ngộ đạo, ông ra ngoài nói: “Hai mươi năm về trước thật là tại mình, đâu phải tại thế gian”. Tổ Đạo Tín dạy: “Cảnh duyên không có tốt xấu, tốt xấu từ nơi tâm”. Cảnh duyên nó có tự nói nó tốt hay xấu không? Không, mà do mình thấy nó tốt, nó xấu. Nếu quý vị đã biết cách tu, tôi đảm bảo cuộc sống của quý vị rất yên ổn, hạnh phúc. Ngày nay, cuộc sống của chúng ta đã có quá nhiều bất ổn, nào sóng thần, lũ lụt, khủng bố…nếu chúng ta không kịp trang bị cho mình những tư lương này thì cuộc đời vốn đã khổ lại chồng thêm khổ. Cho nên đã biết pháp này rồi, biết còn một cái gì cao siêu hơn thì chúng ta cần phải dấn thân vào con đường Phật pháp để chuẩn bị tư lương cho mình.
Trong Kinh Vô lượng Thọ ghi: “Nếu chúng sanh trên mỗi cõi, có ai gặp ánh quang minh này thì ba chất dơ đều tiêu diệt”. Nếu chúng ta quá chấp vào câu, vào lời Đức Phật nói thì sẽ không hiểu lời của Phật, thì cho dù có ngồi trăm năm cũng không gặp được ánh quang minh. Có câu chuyện “Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự, chỉ cốt đàn lang nhận đắc thinh”. Cô tiểu thư này quen một anh thư sinh nọ nhưng bị cha mẹ cấm cản. Một đêm anh chàng này lén vào phủ. Cô đang ở trên tầng lầu thứ hai, nhìn thấy nhưng không dám chỉ cho người yêu chỗ đứng của mình, nên cô gọi to: “Tiểu Ngọc, đưa ta cái bình”. Cô kêu Tiểu Ngọc, hay kêu anh chàng đó? Kêu Tiểu Ngọc nhưng là để cho anh chàng kia nghe tiếng mà biết cô đang đứng ở góc nào trong phòng, phía tây hay phía đông. Phật cũng như thế, “nói ra chỉ cốt cho các ông nhận được điểm mà ta nói”. “Ánh quang minh” đây chính là tri kiến Phật, tức là ngộ nhập lại tâm thái tự do, thanh thản của mình. Sau khi nhận được ánh sáng này rồi thì ba chất dơ là tham, sân, si sẽ hết.
“Thân ý nhu nhuyến vui mừng khấp khởi, lòng lành bởi đó mà sanh ra”. Có nghĩa là khi nhận được cái thể thì tức khắc phát ra cái dụng. Nếu chúng ta không hiểu được điều đó thì cứ ngồi riết mong chờ ánh sáng, mà càng chờ thì càng bệnh.
“Ví như họ ở Tam đồ rất là khổ, mà thấy ánh quang minh này thì đều được nghỉ ngơi, không khổ não nữa, sau khi qua đời họ đều nhờ đó mà được giải thoát”. Đức Phật chỉ ra cái lý rất cao siêu nhưng chúng ta lại không hiểu. Tại sao vậy? Nếu quý vị luôn luôn sống trong tri kiến Phật hàng ngày, hàng giờ, hàng tháng, hàng năm, tôi đảm bảo quý vị vừa chết liền được siêu thoát. Ở đây tôi cũng xin nói thật, khi cha mẹ, người thân của quý vị qua đời, quý vị đem tên đến xin chúng tôi cầu siêu mong cha mẹ, người thân được siêu thoát thì cũng chỉ là năm ăn năm thua. Tại sao? Vì Đức Phật đã khẳng định, quý vị tu là phải tu lúc sống chứ không phải khi đã chết rồi. Trong Kinh Địa tạng nói, nếu người chết rồi, người sống làm phước cúng cho người chết, thì trong 10 phần, người chết chỉ được 3, còn người sống được hưởng 7. Trong lúc cúng dường phải có một duyên thù thắng, tức là người cúng thanh tịnh mà người thọ nhận cũng thanh tịnh thì cha mẹ mình mới siêu. Nếu người thọ nhận thanh tịnh mà người cúng không thanh tịnh thì phước chỉ được một nửa. Cái duyên khai thị trợ niệm cũng có nhưng tôi xin khẳng định, ngay khi mình đang còn sống, còn mạnh, còn có năng lực, các vị nên ráng tu, ráng niệm Phật, tọa thiền, tụng kinh, sám hối, làm các việc thiện pháp.
Trong Kinh Tương Ưng Bộ có ghi, một hôm có một vị Phạm chí Bà la môn hỏi Phật:
- Sa môn Gotama, nếu đệ tử ông chết, ông tụng kinh cầu siêu, thì đệ tử của ông có siêu thoát hay không?
Thế Tôn không trả lời, chỉ hỏi lại:
- Nếu đệ tử ông mất, ông đến tụng kinh thì đệ tử của ông có được sanh lên cõi trời Phạm thiên hay không?
Vị Phạm chí nói:
- Được.
Phật lại hỏi:
- Ví như có một người lấy một hòn đá nặng bỏ xuống giếng, mười ông thầy Bà la môn đến tụng kinh suốt mười ngày, sau đó hồi hướng nói như thế này: “Đá ơi, ngươi hãy nổi lên. Đá ơi, ngươi hãy nổi lên”, vậy hòn đá đó có nổi lên không?
Vị Bà la môn nói:
- Dù cho tụng cho cả trăm ngày, hòn đá nặng kia cũng không thể nổi lên.
Phật nói:
- Cũng như thế, một người tạo tội ngũ nghịch (giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp tăng, làm thân Phật ra máu), tạo mười nghiệp ác quá nặng rồi thì không thể lên được.
Phật lại nói:
- Ví như có một người đem một lít dầu ăn đổ xuống giếng rồi mời mười ông thầy Bà la môn đến tụng kinh suốt mười ngày, sau đó hồi hướng nói như thế này: “Dầu ơi, ngươi hãy chìm xuống. Dầu ơi, ngươi hãy chìm xuống.” Vậy dầu có chìm không?
Bà la môn nói:
- Đương nhiên là không chìm, vì dầu quá nhẹ.
Phật nói:
- Cũng như thế, một người làm mười điều thiện, tu tập về con đường thánh pháp thì dù cho ông rất ghét người đó, nói: “Ngươi phải đọa địa ngục. Ngươi phải đọa địa ngục”, người đó vẫn không đọa địa ngục.
Cho nên tất cả con đường Đức Phật đã đi qua, trả về cho quý vị hết, nên mới gọi là Đạo Sư. Đạo là con đường, Sư là ông thầy. Đức Phật là ông thầy chỉ đường thôi, đi hay không là do quý vị. Cho nên Đức Phật khẳng định “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc với chánh pháp”. Đức Phật ra đi nhưng để lại ba tạng kinh điển, để chúng ta nương pháp môn, nương giáo lý của Phật, tu tập để chuyển hóa
“Này các ông, hãy xem ánh sáng tốt lành rực rỡ chiếu sáng cả đại thiên thế giới, trăm ức vi trần cõi nước, đại hải, tu di, mặt trời, mặt trăng, bốn châu thiên hạ, cho đến cõi phật vi trần đều ở trong ánh sáng phát ra cùng một lúc”.
“Này các nhân giả, có thấy chăng, nếu thấy được thì chính các ông đang tự thân ở trong ánh sáng tốt lành đó, còn không thấy được, đừng nói ánh sáng tốt lành, chẳng có chiếu soi. Hãy tham”. Có nghĩa mình không nhận ra được ánh sáng quang minh tốt lành đó, nhưng hàng ngày, hàng đêm, hàng giờ nó vẫn đang soi chiếu. Nếu không nhờ ánh sáng chiếu soi đó thì mắt không thấy, miệng không nói được, tay cũng không thể cầm nắm. Ví dụ như hình nộm, con rối múa là nhờ bên trong có người điều khiển dây. Người chết không thể ăn cơm, cười nói. Nghĩa là trong lúc chúng ta còn sống, có một ông chủ bên trong điều khiển mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta. Ông chủ đó chính là Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức, từ nơi ánh sáng đó mà lập bày hiển hiện các pháp. Phật pháp rất vi diệu. Nếu không ai nhận ánh sáng đó, thì ánh sáng đó vẫn luôn chiếu soi hàng ngày, hàng giờ, hàng tháng, hàng năm.
Ngài Phó Đại Sỹ dạy:
Đêm đêm ôm Phật ngủ
Ngày ngày cùng Phật dậy
Ngồi đứng cùng theo nhau
Như hình cùng với bóng
Nói nín hằng theo nhau
Mỗi mỗi cùng chung ở
Muốn biết nơi Phật đi
Chỉ chỗ nói năng đó.
Thiền sư Quy Chơn một hôm lên gặp Ngài Quy Sơn. Thiền sư Quy Sơn hỏi:
- Ông tên gì?
- Con tên là Quy Chơn.
- Quy Chơn ở đâu?
Không thể trả lời, Ngài Quy Chơn liền xuống núi, trên đường gặp Ngài Ngưỡng Sơn đang chăn trâu hỏi:
- Tại sao Thượng tọa không lên núi?
- Tôi lên núi gặp Hòa thượng hỏi, tôi không trả lời được.
- Thầy cứ lên đi, nếu Hòa thượng hỏi Quy Chơn ở đâu, thầy chỉ vào trong mắt, trong tai, trong mũi, trong lưỡi, trong đầu của thầy, liền tức khắc ở được.
Thiền sư Quy Chơn lên núi quả nhiên nhắc lại lời như của Thiền sư Ngưỡng Sơn chỉ bày, thì bị Thiền sư Quy Sơn mắng:
- Kẻ nói dối! Nếu người nào nói được câu này là thiện tri thức trên 500 người. Ông đừng giấu tôi. Là ai nói, ông khai thử đi.
- Dạ là người chăn trâu dưới núi.
Quy Chơn là gì? Chơn là chơn thật. Quy là chỗ trở về chơn thật đó. Mà chỗ về chơn thật ở đâu, chính là trong mắt, trong tai… Mắt thấy mà không chạy theo sắc là quy chơn, tai nghe mà không chạy theo tiếng là quy chơn, lưỡi nếm mà không chạy theo mùi vị là quy chơn. Biết hết mà không trụ là chỗ chơn thật của mình. Rất đơn giản.
III. NGUYỆN LỰC VÀ NGHIỆP LỰC
Chư Phật, Bồ Tát, các vị Tổ sư ra đời này đi bằng con đường nguyện lực, tức là sức mạnh của nguyện lực. Trong nguyện lực đó có đại nguyện, bi nguyện và hạnh nguyện. Còn chúng ta đi bằng con đường nghiệp lực, tức là sức mạnh của nghiệp. Sức mạnh của nghiệp chia thành bốn phần: Một là nghiệp cảm duyên khởi, hai là A lại duyên khởi, ba là Chân như duyên khởi và bốn là Pháp giới duyên khởi.
Chẳng hạn chúng ta tạo một thiện nghiệp trong thân ngũ uẩn của mình gọi là chánh báo, nó thành hình ra cái mà chúng ta đến, gọi là y báo. Lúc sống, quý vị làm những điều thiện pháp, tu tập về con đường thánh pháp thì khi vừa chết liền gặp Đức Phật và thánh chúng đến rước, đó là bởi nghiệp cảm duyên khởi từ tín hạnh nguyện của quý vị.
Trong Thiền thoại có kể, có hai vị Ban thiền lạt ma tu hành với nhau, rất yên ổn và thân thiết. Nhưng từ khi có bà thí chủ đến mua nhà dưới chân núi thì hơi xáo trộn một chút. Vì ông sư đệ tướng rất đẹp, hơn hẳn sư huynh nên bà thí chủ khi gặp ông sư đệ thì đem lòng cảm mến, cúng dường rất nhiều cho ông nhưng đối với ông thầy sư huynh thì bà không cúng gì cả. Do nhận nhiều đồ cúng dường, ăn uống nhiều hơn nên thời gian tu hành của sư đệ bị giảm sút. Ông sư huynh thấy tình hình tu tập không ổn nên bỏ núi ra chỗ khác tu. Sau một thời gian tu tập, ông sư huynh đắc được thiên nhãn thông, bèn nhìn lại xem sư đệ của mình dạo này tu tập ra sao thì biết rằng sư đệ mình sắp chết, thần thức đi ra chuẩn bị vào thai lừa. Trong Kinh diễn tả thần thức vừa ra tuỳ theo nghiệp, nếu cực thiện thì hoá sanh lên cõi trời, mà cực ác thì xuống địa ngục, mà lưng chừng thì phải đi qua thân trung ấm. Thân trung ấm này tường vách núi non xuyên qua được hết, nhưng có hai cái xuyên qua không được, một là toà Kim cang của Phật, hai là bào thai. Người sư huynh dùng hết sức để chặn nhưng không chặn được, cuối cùng thần thức của người sư đệ nhập vào bào thai lừa, do nghiệp xấu hàng ngày thọ hưởng mà không tu.
Cho nên quý vị cúng dường thì được phước nhưng người tu thì mắc nợ. Người xuất gia giống như hòn đá mà quý vị giống như con dao, càng mài thì dao càng sắc mà đá càng mòn, nếu không tu thì càng ngày càng tổn. Nhưng nói vậy không phải là sợ để không tu, bởi vì nếu không thọ nhận của chúng sanh thì khó tiến, giống như một người đi trên sa mạc, vừa đói vừa khát, nghĩ mình chắc chết trên sa mạc nhưng ngó thấy có con cọp đằng sau thì có chạy không? Phật nói nhận của tín thí, thứ nhất là để kết duyên với chúng sanh, thứ hai là đã thọ nhận phải ráng tu, càng sợ càng tu. Nếu lỡ xuống địa ngục thì hết kiếp ở cõi địa ngục lên tu tiếp vì vẫn còn hạt giống Phật.
Người sư huynh thương sư đệ của mình nên nghĩ đợi đến lúc con lừa con sinh ra thì mình xin mang về nuôi, hằng ngày tụng kinh cho nó nghe. Nhưng sau khi con lừa con được sanh ra khoảng 1-2 tháng tuổi, ông sư huynh đến xin lừa và lấy dây buộc cổ kéo đi thì nó ghì chân lại không chịu đi. Lý do là vì còn nợ bà thí chủ nên phải ở lại trả. Biết là nghiệp cảm nên ông sư huynh đi về. Từ khi có con lừa này, mọi người đều thừa nhận từ trước đến nay chưa thấy con lừa nào làm việc giỏi như vậy, làm suốt ngày suốt đêm. Đến một lúc nó ngã ra chết, khi ông sư huynh xuống kể lại chuyện thì bà thí chủ tính ra số tiền con lừa mang lại đúng bằng số tiền bà đã cúng dường. Đó là do có tu nên trả nợ hết một đời này. Nếu chúng ta không phát một hạnh nguyện nào thì chắc chắn đi đường bậy, nên chúng ta phải phát đại nguyện lớn. Đó là câu chuyện thứ nhất về nghiệp cảm duyên khởi.
Câu chuyện thứ hai: Trong Kinh Bách Duyên có kể, vào thời Đức Phật sanh ra đời có điểm lạ là có ánh sáng rất lớn. Cùng thời điểm đức Phật ra đời cũng có một vị Thái tử ra đời. Ông vua nghĩ là ánh sáng này do con mình sinh ra mà có nên đặt tên con là Mãnh Quang, Mãnh là sức mạnh, Quang là ánh sáng. Sau khi Thái tử Mãnh Quang lên làm vua thì chuyên đi săn bắn. Trong thành có một ông thợ săn bắn cung rất giỏi, một ngày giết hại không biết bao nhiêu chúng sinh. Ông cưới một người vợ mà trên đời này không có một người con gái nào đẹp bằng. Vì vợ đẹp, sợ ra đường bị kẻ giàu nhòm ngó nên ông bán nhà trong thành đi sâu vào trong rừng, cất căn nhà ngay dưới gốc cây cổ thụ để ở. Mỗi khi ông đi săn thì bắt cô vợ trèo lên cây cổ thụ. Một hôm ông vua Mãnh Quang đi săn bị lạc trong rừng, đến gốc cây cổ thụ đó. Ông nhìn lên thấy một người phụ nữ đẹp tuyệt trần mà trong cung chưa có, liền bắt xuống. Thấy người phụ nữ này đẹp, vua liền khởi niệm dục và sống cùng với người đó. Ngay khi đó, người thợ săn trở về nhìn thấy tức giận, giương cung định bắn chết hai người luôn. Trong lúc giương cung bắn, ông chợt dấy lên một niệm thiện: “Nếu mình giết ông vua này thì đất nước loạn lạc vì không có vua, lúc ấy người dân chết không biết bao nhiêu mà kể”. Ông vừa khởi niệm như thế thì có một con sư tử lao đến vồ lấy ông để ăn thịt. Sau khi bị con sư tử chộp và cắn chết, nhờ niệm thiện phát ra ngay trước khi chết nên ông thác sanh lên cõi trời Tứ thiên vương, làm một vị thiên tử. Quý vị thấy ba mươi mấy năm trời sát sanh nhưng chỉ cần một niệm thiện khi cận tử nghiệp thì nghiệp cảm duyên khởi thác sanh lên cõi trời. Chúng ta đi bằng sức mạnh của nghiệp nên nếu lập hạnh, lập nguyện, có bi tâm thì cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh độ trong bàn tay của quý vị.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật dạy, muốn trở về cõi của mười phương chư Phật hay trở về cảnh giới Tây Phương thì chúng ta phải có chánh nhân Tịnh độ. Chánh nhân Tịnh độ là gì? Thứ nhất là chúng ta phải hiếu thảo với cha mẹ, kính thờ bậc Sư trưởng, có lòng từ bi không giết hại chúng sanh, tu mười nghiệp lành. Đó là những điều tiên quyết chúng ta phải có. Thứ hai là phải quy y Tam Bảo, giữ gìn đầy đủ các giới cấm, không phạm oai nghi. Thứ ba là phải phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Kinh điển Đại thừa và sách tấn, giúp đỡ người khác tu hành. Đó là những cái chúng ta phải làm chứ không phải nói suông. Tôi lấy ví dụ, nếu quý vị có điện thoại, muốn liên lạc với ai đó thì quý vị phải bấm đúng số của người cần gọi thì mới gọi được, còn nếu cần gặp một người mà mình lại bấm số của người khác thì có gặp được không? Trong cuộc sống giữa đời thường còn như thế, huống chi là cảnh giới của mười phương chư Phật. Cảnh giới của Phật thanh tịnh thì tâm của chúng ta cũng phải tương ưng. Ở đây, có một số điều cần lưu ý. Thứ nhất là chúng ta phải phát tâm Bồ đề, đó chính là nguyện lực của quý vị. Bên Miến Điện, Phật tử không tu tập theo con đường đại thừa, con đường Bồ tát đạo, nhưng nhìn kỹ, họ chính là những hạt giống đại thừa, bởi vì họ rất có đức tin về Pháp, chẳng hạn tu Tứ Niệm Xứ thì toàn quốc đều tu Tứ niệm xứ. Trong cuộc sống dù gặp phải nghịch duyên nhưng tinh thần tu tập của họ vẫn rất cao, như Tết có khoảng 10 ngày thì tất cả vợ chồng con cái cả gia đình đều vào chùa, vào các thiền viện tu hết. Muốn đời đời phát khởi niềm tin tu tập thì quý vị phải phát tâm Bồ đề. Tại sao ngày hôm nay quý vị đến đây ngồi nghe pháp? Thường chúng ta tưởng mình đến đây ngồi thiền, nghe pháp, tụng kinh, sám hối, niệm Phật là chuyện ngẫu nhiên nhưng không phải. Sở dĩ ngày hôm nay quý vị đến đây tu học theo con đường thánh pháp của Đức Phật là bởi vì trong vô lượng kiếp, quý vị đã phát nguyện lực cho nên ngày này, tháng này, năm này, hạt giống của nguyện lực thúc đẩy quý vị đến đây ngồi nghe pháp, tu tập. Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy rõ về ba tánh: Pháp tánh, chủng tánh và vô gián chủng tánh. Có nghĩa là thấy được các pháp là vô thường là mỏng manh, là tạm bợ. Hôm nay mình có đủ nhân duyên được ngồi đây nghe pháp, niệm Phật, tọa thiền là do trong đời quá khứ, chúng ta đã gieo hạt giống chủng tánh này. Vô gián chủng tánh là chủng tánh không gián đoạn nhờ các pháp hành của mình. Muốn được như thế thì quý vị từ giờ phút này phải phát một cái nguyện lực. Nếu quý vị có một nguyện lực trong cuộc đời này thì Đức Phật nói giống như một chiến sĩ ra trận mặc áo giáp không sợ cung tên của phiền não, chết chóc.
IV. PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
Phát tâm Bồ đề ở đây chính là nguyện lực của quý vị. Quý vị đã là Phật tử thì chắc hẳn nhà ai cũng có thờ Phật, mình mạnh dạn thắp hương đến trước bàn thờ Phật phát một nguyện lực lớn: “Từ đây cho đến cuối đời mãi mãi về sau, vô lượng kiếp con tu hành đắc quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, trước là lợi ích cho con, sau là nhiếp thọ các chúng sanh được an lạc” thì bảo đảm quý vị vào dòng pháp. Mà nguyện lực này không có tốn tiền. Giả sử phát nguyện lực mà quý vị phải dời một ngọn núi hay lấp biển mới phát nguyện được thì chuyện đó rất khó, còn đằng này, phát nguyện lực là từ nơi tự thân của quý vị, chuyện đó làm đơn giản, cũng không tốn tiền gì hết. Quý vị có dám mạnh dạn hay không?
Trong Nhập Bồ đề hành luận tán thán những lợi ích, những công đức của sự phát tâm bồ đề: “Được sanh làm thân người với một thân thể đầy đủ, không khuyết tật thật là điều rất khó”. Giả sử có một người phát tâm bồ đề, phát nguyện lực lớn nhưng lại bị hoặc mù, hoặc điếc, hoặc câm, hoặc ngọng thì rất là khó mà phát nguyện lực, còn đằng này, quý vị đủ cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mình vẫn sáng suốt, từng lời chúng tôi nói ra quý vị nghe rõ hết, biết rõ hết thì sáu căn của quý vị tròn đủ. Ngày hôm nay mình được sáu căn đầy đủ không phải đơn giản mà do túc duyên trong đời quá khứ chúng ta đã từng tu tập cho nên mới được như vậy.
“Chúng ta may mắn được thân người, vậy hãy nên với thân này mà tư duy và làm những điều hữu ích, trước cho bản thân mình trong đời này và những đời sau”.
Phát bồ đề tâm, phát nguyện lực lớn, đó là điều hữu ích cho bản thân mình, nhưng không phải nói suông mà quý vị phải mạnh dạn làm. Chẳng hạn thấy một người bạn được an ổn, được may mắn, hạnh phúc hơn mình thì quý vị phải vui, phải tùy hỷ theo, đó là làm việc hữu ích. Còn thấy người khác được hạnh phúc, được an ổn, may mắn hơn mình mà mình khởi tâm tật đố, ích kỷ, có cái gì đó bứt rứt chịu không được thì chính chỗ đó quý vị phải dùng Pháp để chuyển hóa.
Cho nên Thiền sư Khuê Phong nói:
Làm việc có nghĩa
Là tâm tỉnh ngộ,
Làm việc vô nghĩa
Là tâm cuồng loạn.
Cuồng loạn theo tình niệm,
Lâm chung bị nghiệp lôi.
Tỉnh ngộ không theo tình
Lâm chung chuyển được nghiệp.
Làm việc có nghĩa là chúng ta tủy hỷ theo người khác mà mình thấy rõ ràng được từng niệm của mình. Nhiều khi mình đồng hóa cái tham, cái sân, cái phiền não, tật đố là của mình, tôi tật đố, tôi tham, tôi sân… nhưng nhìn lại, cái gì thấy được niệm tham, niệm sân, niệm tật đố. Những cái đó là cái bị thấy mà mình lại thường sống với nó, còn cái tánh thấy thì mình không nhận ra.
Cho nên trong Kinh Tương Ưng Bộ, Đức Phật nói: “Này các Thầy Tỳ kheo, có pháp môn nào, tâm tham biết tâm tham, tâm sân biết tâm sân, tâm si biết tâm si?”. Các Thầy Tỳ kheo nói: “Bạch Đức Thế Tôn, do trí tuệ mà biết được”. Bài kinh rất dài nhưng chỉ có một chữ thôi, đó là chữ BIẾT. Biết tham thì tự nhiên hết tham, nó có sức mạnh phóng chiếu vào niệm thì niệm hết. Cho nên trước là chúng ta tư duy làm những việc hữu ích cho mình, cho người thì được lợi ích đời này và đời sau.
“Thỉnh thoảng chỉ trong những khoảng sát na ngắn ngủi, chúng ta mới nghĩ đến điều thiện”. Nói thật là hằng ngày chúng ta luôn nghĩ về những niệm ác nhiều hơn là niệm thiện. Cái này mình phải mạnh dạn nghe, nhìn thẳng để chuyển. Trong Kinh kể, Tôn giả A na luật chứng được Thiên nhãn thông. Một hôm, Ngài nhìn xuống dưới địa ngục thấy có rất nhiều người nữ rớt xuống nên đến thưa hỏi với Đức Phật. Ngài hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, con thấy trong pháp hội của Thế Tôn người nữ rất nhiều, lại có tín tâm nữa, tại sao con thấy họ rơi vào địa ngục rất nhiều?”. Đức Phật trả lời: “Trong một ngày, họ không bao giờ chuyển hóa niệm mà luôn luôn chạy theo niệm. Buổi sáng họ tham muốn của cải tất cả về cho mình, buổi trưa họ thấy ai hạnh phúc hơn mình thì sanh tâm tật đố, buổi chiều họ thèm khát về tham ái. Do những nguyên nhân đó mà tạo nghiệp, bị rơi vào địa ngục”. Thành ra biết điều đó rồi thì chỉ cần một niệm dấy khởi lên thì chúng ta chuyển hóa liền. Đức Phật dạy sở dĩ chúng ta khởi những điều thiện này không phải là tự nhiên, mà do năng lực của chư Phật như đi trong đêm tối mà lóe lên chút ánh sáng. Cho nên kinh nghiệm là mình khởi lên việc thiện nào như bố thí, cúng dường thì phải làm liền, nếu không chỉ một lúc sau là thối tâm, không làm nữa. Chỉ có những sát na ngắn ngủi chợt dấy lên niệm thiện mà mình không làm thì mất vì trong suốt một ngày, chúng ta toàn khởi lên những niệm ác.
“Vì vậy, lực của thiện hành thì yếu ớt mà lực của những ác hành thì thường xuyên và to lớn khủng khiếp. Nếu không bằng tâm bồ đề viên mãn thì không điều thiện nào có thể khắc phục”. Có nghĩa là nếu bồ đề tâm không viên mãn, nguyện lực không lớn thì bảo đảm mình làm ác liền. Quý vị để ý, nghèo thì không nói gì, nhưng giàu có lên là chúng ta sanh cái tâm khác. Nếu không có bồ đề tâm, không phát nguyện lực trước Đức Phật thì chắc chắn mình sẽ làm những điều ác.
“Các Đức Mâu Ni Vương đã trải qua vô lượng kiếp tư duy thấy rõ lợi ích này, do vậy mà an lạc, tăng trưởng an lạc, tràn qua vô lượng dòng thác lũ của thế gian”. Có nghĩa mười phương chư Phật thấy rõ được lợi ích của việc phát bồ đề tâm này rồi nên các Ngài khuyến khích các chúng sanh, các hành giả phát bồ đề tâm, phát nguyện lực lớn.
“Những ai muốn vượt qua trăm nghìn thống khổ của ba cõi, diệt trừ mọi bất hạnh cho chúng sanh, muốn hưởng thọ vô số trăm nghìn phước lạc, luôn luôn không rời bỏ tâm bồ đề. Khốn khổ bị trói buộc trong ngục tù của ba cõi, nhưng chỉ cần trong một sát na phát tâm thì đã được gọi là con của các Đấng Thiện Thệ, được cả thế gian gồm cả loài người và Ma Vương kính nể”. Mình bị trói buộc trong ngục tù tham, sân, si nhưng chỉ cần phát một nguyện lực lớn thì được gọi là con của Phật. Mình bị bệnh nào thì phải dùng nguyện lực để vượt qua. Quý vị có dám tối nay về phát một nguyện lực lớn không? Tu mà còn do dự, do dự thì suốt cả cuộc đời cũng không xong. Cho nên phải phát nguyện lực, chẳng hạn quý vị ngồi thiền, 15 phút là muốn xả thì mình phát nguyện dù cho chân gãy con cũng ngồi thì bảo đảm chúng ta ngồi qua một tiếng đồng hồ. Chỉ có phát bồ đề tâm thì chúng ta mới thành tựu được pháp mà Đức Phật để lại.
“Cũng như dung dịch đồng được chuyển thành công cụ cứng chắc, tâm bồ đề cũng vậy, sau khi nhận hình tượng bất tịnh này tác hình nó thành hình tượng trân bảo, vô giá của đấng tối thắng”. Ngay trong giờ phút phát nguyện lực thì cái thân ô uế, bất tịnh này của mình trở thành trân bảo, gọi là thất bảo tối thượng.
“Do đâu mà Bồ đề tâm được tán thán với những công đức thù thắng như vậy? Giả sử trong thế gian này một người khi đã quyết định mục đích cần phải đạt đến, tâm ý không rời khỏi mục đích ấy, ta biết chắc chắn rằng người ấy có thể vượt qua những điều rất khó vượt, vượt qua những khuyết tật của chính mình, điều này không phải là chuyện hiếm có ở đời. Vậy khi có một chúng sanh đã gắn chặt được tâm mình vào mục đích cứu kính là đại bồ đề thì chúng sanh ấy có thể vượt qua vô lượng chướng ngại, chinh phục được những pháp bất thiện cực kỳ mãnh liệt”.
Chúng ta tu là đi ngược dòng đời, mà ngược dòng đời thì chắc chắn có lúc chúng ta bị những nghịch duyên đến, nếu không phát đại bồ đề, phát nguyện lực lớn, thì có khi nào đó mình quay lại phỉ báng chánh pháp. Đối với những người xuất gia cũng không phải là chuyện đơn giản, bởi vì trong đời tu luôn luôn gặp phải những nghịch cảnh, nghịch duyên khốn cùng, những người không phát nguyện lực, không phát bồ đề tâm thì nhiều khi cởi áo hoàn tục, phỉ báng lại Tam Bảo. Kể cả cư sĩ cũng vậy, đang tu ngon lành mà thấy Thầy làm chuyện gì đó, mình bất mãn, không đến chùa, không đến thiền viện nữa, đó là do gặp nghịch duyên mà không biết vượt lên. Phải thấy rằng nghịch duyên chính là nền tảng cho những bậc có tâm tối thượng. Nhiều khi nhờ gặp nghịch duyên mà chúng ta trưởng thành. Nghịch duyên như lửa nóng nên bằng mọi cách chúng ta phải chạy ra liền để sống sót, còn thuận duyên như nước mát nên chúng ta dễ chết chìm trong đó.
“Đây chỉ là ước nguyện, điều quan trọng bây giờ là làm sao để phát khởi được tâm ấy. Chúng sanh vốn bạc nhược, tâm tư yếu đuối, một chút điều thiện mà chỉ gặp một chút chướng ngại nhỏ lập tức buông bỏ. Vậy thế nào để phát khởi được tâm Bồ đề?”
Chúng ta phải thấy rằng địa ngục khổ quá nghe pháp không được, súc sanh khổ quá nghe pháp cũng không được, ngạ quỷ khổ quá nghe pháp cũng không được. Trời sung sướng quá nghe pháp cũng không được, loài A tu la do tranh đấu quá tu pháp cũng không được. Chỉ có loài người chúng ta nửa khổ, nửa vui, khi chứng kiến những cảnh thiên tai như động đất, sóng thần, khủng bố, đói kém, gặp những điều đau khổ, bất như ý… chúng ta mới thức tỉnh mà phát bồ đề tâm. Cho nên ngày hôm nay, quý vị phải mạnh dạn, phát tâm bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển đại thừa, và sách tấn giúp đỡ người khác tu hành, đó là chánh nhân Tịnh độ. Đức Phật dạy rõ chúng sanh do bị nghiệp lực lôi nhưng nhờ biết được Phật pháp, chúng ta đi bằng con đường nguyện lực thì chắc chắn sẽ thành tựu. Đừng có sợ bởi vì chúng ta có pháp, có nguyện lực, có bồ đề tâm thì quý vị mãi là con của đấng Thiện Thệ, mặc áo giáp Như Lai xông thẳng vào biển khổ trăm ngàn nghịch cảnh nghịch duyên.
V. TỊNH ĐỘ, NGAY TẠI ĐÂY VÀ BÂY GIỜ
(CÕI TỊNH TRONG LÒNG BÀN TAY)
Chúng ta ở nhà hoặc đến chùa học phương pháp niệm Phật hướng về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà, đó là cái phần sự. Ngày hôm nay chúng ta đi qua cái phần lý, thường thường trong phật pháp thường có sự và lý. Nếu chúng ta hiểu phần sự mà chúng ta bỏ phần lý cũng không được, nếu chúng ta hiểu phần lý mà bỏ phần sự cũng không được. Cho nên tinh thần trong nhà Phật thường gọi là lý sự phải viên dung.
Bây giờ tôi xin hỏi: “Trong lúc ngồi, quý vị niệm Phật, vậy trong giờ phút thực tại đó quý vị niệm Phật hay Chư Phật, Chư Bồ Tát niệm Phật lại cho mình?”. Mình niệm, hay nói cách khác hơn là mình tự tu, tự chứng nghiệm. Như vậy, dù tu theo phương pháp nào, Tịnh độ, Thiền tông hay Mật tông, thì mỗi người hành giả đều phải bỏ công sức ra tu học mới có kết quả. Tinh thần tu học theo nhà Phật là không chờ sung rụng.
Lục Tổ dạy: “Tịnh độ cách đây không xa, nếu luận về tướng mà nói thì số dặm có mười muôn tám ngàn dăm. Tức là trong thân có mười ác tám tà. Nếu ôm lòng chẳng thiện thì niệm Phật vãng sanh khó mà đến. Nay khuyên thiện tri thức trước nên dẹp trừ thập ác, sau nên dẹp trừ tám tà, bèn qua được tám ngàn, mỗi niệm thấy tánh thường hành bình trực, đến như trong khảy móng tay liền thấy Đức Phật A Di Đà”.
Mình tưởng rằng Tịnh độ ở nơi nào đó xa xôi nhưng Lục Tổ dạy Tịnh độ cách đây không xa. Mười ác quý vị biết rồi, thân có ba là sát sanh, trộm cắp, tà dâm; khẩu có bốn là nói lời thêu dệt, nói ác độc, nói hai lưỡi, nói thị phi; ý có ba là tham, sân, si. Tám tà là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà mạng, tà nghiệp, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.
“Nếu ôm lòng chẳng thiện, niệm Phật vãng sanh thì khó mà đến”, tức là miệng thì niệm mà ba độc tham, sân, si không chừa bỏ thì Ngài nói rất khó vãng sanh đến cõi đó. Chẳng hạn quý vị thích đi du lịch ở bên Mỹ, châu Âu, đến những nơi đẹp, nhưng nếu không có tiền thì làm sao đi được? Hoặc không có hộ chiếu thì cũng không đi được. Những nước đó còn không đến được hà huống là cõi Phật, cho nên nếu tu pháp này mà còn ôm lòng bất thiện thì khó mà đến được. Kể cả người xuất gia, tụng kinh niệm Phật nhiều mà trong lòng chứa đầy tham dục, thấy người khác được hạnh phúc, an ổn mình không thích, thấy người khác được Phật tử thương mến không chịu được, ôm lòng bất thiện hại người thì dù tu đến mấy chục năm, khi chết cũng thẳng xuống địa ngục chứ đừng nói đến vãng sanh về Tây phương tịnh thổ.
Trong Kinh điển, Đức Phật dạy rất rõ, đa phần nói cho người sống phải ráng tu tập, hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc với chánh pháp, hãy tự mình làm hòn đảo cho chính mình, toàn là khuyên nhắc quý vị tu lúc mình còn mạnh, đầu óc còn tỉnh táo, sáng suốt, còn đợi đến lúc chết mới cầu siêu thì không chắc chắn. Một người lúc sống chuyên làm ác, giống như hòn đá nặng chìm xuống sống, bảo cầu siêu để hòn đá nổi lên có nổi được không? Không bao giờ, vì không đúng với lời Phật dạy. Đành rằng là phải có trợ duyên nhưng nhân tố chính là lúc còn sống, quý vị biết tu các thiện pháp, ráng tu tập chuyển hóa các niệm bất thiện. Biết được như thế rồi thì quý vị an ổn tu, pháp nào cũng là pháp của Phật, tu pháp nào cũng phải dọn tâm của mình.
“Nay khuyên thiện tri thức trước nên dẹp trừ thập ác, sau nên dẹp trừ tám tà, bèn qua được tám ngàn, mỗi niệm thấy tánh thường hành bình trực, đến như trong khảy móng tay liền thấy Đức Phật A Di Đà”: Chúng ta dẹp đi thì Tịnh độ ở ngay trước mắt, còn bằng không trong thân của chúng ta đầy đủ hết mười ác, tám tà, rất khó đến cõi đó. Sao gọi là tà? Tà nghĩa là khác với chánh. Trong bát chánh đạo đầu tiên là chánh kiến, đến chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh mạng, chánh niệm, chánh định. Tinh thần của nhà Phật dạy cho chúng ta trong mọi hành động hằng ngày, lúc uống nước, lúc đi kinh hành, lúc quét sân, quét nhà… phải chánh niệm. Chánh niệm là gì? Chẳng hạn chúng ta đóng cửa thì đóng nhẹ nhàng, uống nước cũng nhẹ nhàng, đi, đứng, nằm, ngồi cái gì cũng nhẹ nhàng hết gọi là chánh niệm. Tuy nhiên, có người nói, một người ăn trộm cũng có chánh niệm vì trước khi nó muốn vào nhà người ta ăn trộm, nó cũng phải đi nhẹ, mở tủ cũng nhẹ luôn chứ đi nhanh hay lớn tiếng mở cửa thì sẽ bị chủ nhà phát hiện. Vậy quý vị có hiểu cái điểm khác nhau giữa một người ăn trộm và một người công phu tu tập là ở chỗ nào không? Ngay trong giờ phút đó, tuy rằng nó đi nhẹ thiệt, nó mở cửa nhẹ thiệt nhưng mà đó là tà niệm. Nó cũng cố gắng thức đêm, thức khuya để đi ăn trộm thì đó là tà tinh tấn. Rồi nó cũng tư duy là cái nhà này phải ăn trộm làm sao, mấy giờ đi ăn trộm, gọi là tà tư duy. Mà có cái nhìn như thế gọi là tà kiến, trong lúc nó hành nghề ăn trộm gọi là tà nghiệp.
Nếu chúng ta khéo tu, khéo chuyển hóa tâm, mỗi niệm, mỗi niệm thường thấy tánh tức là thấy Đức Phật A di đà. Lục Tổ dạy “mỗi niệm, mỗi niệm thường thấy tánh” là thấy làm sao? Ở đây Lục Tổ chỉ về cái quả cứu kính rốt ráo, còn chúng ta tu nhân thì phải tu như thế nào? Tôi xin kể câu chuyện, ở bên Tây Tạng có một vị Lạt ma tu hành rất miên mật, giới đức trang nghiêm nên được một bà thí chủ mời đến cúng dường cùng với các vị cao tăng khác. Trước khi thọ trai, bà thí chủ mời Ngài đi dạo thăm các kho, khi đến kho trà, Ngài thấy một bao trà thật thơm, Ngài thò tay định bốc nắm trà, vừa lúc đó Ngài la lên liền: “Ăn trộm, ăn trộm”. Bà thí chủ quay lại hỏi: “Ăn trộm ở đâu?”. Ngài chỉ bàn tay của mình nói: “Đây chính là ăn trộm”. Đó là thấy được từng niệm tham của mình, mà thấy từng niệm tham thì còn tham không? Hết tham. Mà hết tham thì Đức Phật A Di Đà có mặt ngay trong giờ phút thực tại này. Nếu mình tu như vậy thì rất là tiến. Đến khi thọ trai, Ngài ngồi cuối bàn, bà thí chủ cầm bình sữa rót vào từng ly từ đầu bàn đến cuối bàn, Ngài khởi niệm “chắc đến lượt mình thì bình sữa hết”. Đến khi bà thí chủ đến chỗ Ngài rót sữa thì Ngài không uống nữa. Bà hỏi tại sao thì Ngài nói là: “Tôi đã uống ly sữa của bà rồi”. Bà lại hỏi: “Ngài uống lúc nào?” Ngài nói: “Hồi nãy bà rót sữa cho từng vị, tôi đã khởi niệm bình sữa này đến tôi thì chắc là hết, cho nên lòng tham của tôi đã uống ly sữa của bà rồi”. Như vậy chúng ta thấy các Ngài chăn và chuyển hóa ngay từng ý niệm. Nếu quý vị trong suốt một ngày tu mà chăn tâm được như thế thì tiến bộ rất nhanh, còn mình lấy đồ rồi về nhà mới ăn năn hối hận thì đã muộn. Như vậy quý vị thấy Tịnh độ hay Thiền, pháp môn nào cũng không ra ngoài con đường Giới Định Tuệ. Nhờ dừng lại không có lòng tham là giữ giới, còn cái gì thấy được niệm đó là Tuệ, còn dừng lại không tạo tác nữa là định.
Cho nên Tổ Đạt Ma dạy: “Phàm niệm Phật tức là thực hành chánh niệm, hiểu nghĩa là chánh, không hiểu nghĩa là tà. Chánh niệm thì được vãng sanh, tà niệm thì làm sao đến được bên đó. Phật tức là giác, là biết rõ thân tâm không để cho việc ác khởi dậy. Niệm tức là nhớ, là nhớ giữ giới hạnh không hư dối. Tinh tấn siêng năng, đó gọi là niệm. Nên biết niệm tại tâm, không niệm nơi lời, dùng nơm bắt cá, được cá quên nơm, dùng lời cầu ý, được ý quên lời”.
Phật tức là giác, nhớ lại ông Phật giác của mình là chánh niệm, là biết rõ thân tâm không để cho việc ác khởi dậy: có nghĩa là lúc mình niệm, hoặc là niệm thiện, hoặc là niệm ác khởi lên, chúng ta đều đưa tất cả vào Vô dư y Niết bàn. Còn trong lúc niệm, những việc ác khởi dậy mà chúng ta duyên theo thì cũng chưa phải là chân chánh niệm Phật. Vì niệm tức là nhớ. Thứ nhất là nhớ giữ giới hạnh không hư dối, cũng là đi trên con đường Giới. Chẳng hạn như sáng hôm nay mình trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu thì tối về niệm Phật có yên không, có nhất tâm không hay là loạn động vì nhớ các chuyện hồi sáng?
Niệm là tại nơi tâm, chuyển hóa ở nơi tâm, không phải niệm nơi lời, bởi vì tâm chính là gốc của muôn pháp. Nếu như mình niệm suốt mà trong tâm chưa có lần nào chuyển hóa thì cũng chưa phải là niệm Phật chân chánh. Cho nên người tu học với Phật rất là nhiều nhưng hiểu lời của Phật, tu để chứng nghiệm thì rất là ít. Đức Phật cũng đã dạy: “Người học pháp của ta như lông của con bò, mà người hiểu pháp và hành trì pháp của ta thì giống như sừng con bò”. Quý vị thấy lông con bò nhiều hay sừng con bò nhiều? Lông thì nhiều mà sừng có hai. Có một số người có khả năng đặc biệt, thấy được cõi giới vô hình nhưng nếu không thấy được tâm mình thì cũng uổng một kiếp người, bởi vì dù thấy được tam thiên đại thiên thế giới đi nữa cũng là thấy cái bên ngoài, đó là tướng sanh diệt. Chúng ta lừa dối được ai chứ không lừa dối được chính mình, tự mình thấy tâm mình vẫn còn tham lam, tật đố, ích kỷ, thấy để mà chuyển hóa.
Thời Đức Phật tại thế, Ngài A nậu lâu đà thấy một ngàn tiểu thiên thế giới nên đến trình Ngài Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi Phất nói: “Dù cho ông thấy hai, ba ngàn tiểu thiên thế giới nhưng chỉ là vỏ cây chứ không phải lõi cây. Lõi cây là làm như thế nào đó để chuyển hóa tham sân si, trở về con đường giới định tuệ. Còn thấy bao nhiêu tiểu thiên thế giới cũng chỉ là tướng bên ngoài sanh diệt. Chừng nào ông thấy được tâm của mình thì hãy đến gặp ta”. Ngài A nậu lâu đà vào rừng quyết tâm tu, quả nhiên ba tháng sau chứng quả A la hán. Chẳng hạn như hàng tháng quý vị về đây tu bát quan trai, mà nghe dưới Châu Đốc có người đi trên nước, bay trên hư không thì quý vị còn ngồi ở đây không hay chạy về đó liền? Phật dạy mình tu ngay ở tâm, dù cho quý vị chứng đắc cũng không nói ra huống là những người nói mình chứng A la hán thì biết là không phải. Người tu Phật chân chánh là tìm ngay nơi tâm mình để dọn.
Một ví dụ khác, bây giờ có một cái ly, bỏ chiếc nhẫn vào trong đó rồi đậy nắp lại. Trong chùa có hai vị sư xuất gia cùng năm cùng tháng, về công phu hai người đều tinh tấn siêng năng như nhau. Quý vị đến gặp ông thầy thứ nhất trước, hỏi: “Trong cái ly này có cái gì?”. Ông thầy trả lời: “Có một chiếc nhẫn”. Quý vị lại cầm cái ly này đến gặp ông thầy thứ hai hỏi: “Trong ly này có cái gì?” Ông thầy thứ hai nói: “Không biết”. Vậy trong hai ông thầy đó, quý vị quý ông thầy nào hơn? Ông thầy thứ nhất phải không? Vì ông có thần thông thấy được chiếc nhẫn. Nhưng đối với tinh thần nhà Phật, nhà thiền, tinh thần Bát Nhã thì dù có thấy xa ngoài chợ hay thấy chiếc nhẫn trong cái ly thì ma quỷ nó cũng thấy, ngoại đạo nó cũng thấy, nhưng dù thấy xa hay thấy gần mà tâm còn đắm nhiễm vào các pháp, mắt mình gặp sắc thì ham thích, khởi niệm ưa muốn thì Phật cũng gọi là con mắt phàm, còn quý vị tuy không thấy được ngoài chợ, không thấy được chiếc nhẫn nhưng mắt mình nhìn sắc mà không đắm nhiễm, không chạy theo, rõ biết được từng niệm để chuyển hóa, thì Phật nói đó là mắt Bát Nhã, mắt Phật, mắt vô nhiễm. Mình tu phải cần điểm đó. Tu như vậy thì đời đời kiếp kiếp hạt giống Phật không mất, còn mình ham thần thông, ham sự biến hóa, thấy cái này cái kia, đó gọi là rớt vào con đường tà, bởi vì “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, cái gì thấy được là có tướng, mà có tướng là hư vọng.
Tổ Đạt Ma nói tiếp: “Nên biết niệm là tại nơi tâm. Đã gọi là niệm danh hiệu Phật thì phải hiểu đạo lý niệm Phật. Nếu tâm không thật thì miệng chỉ là tụng danh hiệu rỗng, ba độc vẫn đến từ bên trong, nhân ngã đầy trong trí nhớ, theo tâm vô minh không thấy được Phật, chỉ là phí công, quả tụng và niệm nghĩa lý riêng biệt, tại lời là tụng mà tại tâm tức là niệm. Niệm từ tâm mà khởi, gọi là cửa vào giác ngộ”.
Niệm từ tâm mà khởi là sao? Đây là vào lý hơi sâu một chút. Chẳng hạn mình ngồi đây, chưa khởi vọng mà câu niệm Phật lúc nào cũng sẵn bật ra, chưa khởi niệm chứ không phải đợi niệm, đợi niệm là muộn rồi. Chẳng hạn nghĩ gì đó, mình niệm Nam mô A Di Đà Phật, thì đó là trễ một đường bước rồi. Còn đằng này, niệm chưa khởi mà luôn luôn vẫn có thì đó là niệm từ nơi tâm. Mà niệm từ nơi tâm khởi thì gọi là cửa vào giác ngộ, không khác gì công án.
“Tụng là ở nơi miệng, tức là tướng âm thanh, bám vào tướng mà cầu lý rốt chẳng được gì. Cho nên biết rằng các vị Thánh trong thời quá khứ tu hành đều không nói bên ngoài, mà chỉ tìm ở nơi tâm. Tâm là nguồn của mọi thiện. Tâm là chủ của vạn đức. Niết Bàn thường vui là do sự dừng nghỉ của tâm mà sanh, ba cõi luân hồi theo tâm mà khởi. Tâm là cửa ngõ của hết thảy, tâm là bến bờ của giải thoát. Biết cửa ngõ đâu còn lo khó thành tựu, biết có bờ đâu có sợ không đến chốn”.
Tổ Đạt Ma dạy cuối cùng cũng quy hướng về tâm, bởi vì sao? Niết Bàn thường vui là do sự dừng nghỉ của tâm mà sanh. Tâm không còn vọng động nữa thì Niết Bàn có mặt. Tâm dừng nghỉ thì tương đương với cõi Tịnh thổ của Đức Phật A Di Đà, ba cõi luân hồi theo tâm mà khởi, ba cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới khởi từ tham, sân, si. Tất cả từ chư Phật, chư Tổ, chư vị thiền sư, các bậc thiện hữu tri thức cũng đều chỉ mình quy hướng về tâm, chuyển hóa được tâm của mình thì cái thường vui lúc nào cũng có. Quý vị thử nghiệm bữa nào mình không vọng tưởng, yên ổn, tự tại thì ngày đó mình thấy an ổn, thanh thoát, nhẹ nhàng giống như mình được giải thoát. Còn hôm nào tâm mình nghĩ lung tung, nhớ chuyện này, nhớ chuyện nọ thì mình thấy thân uể oải, có gì đó bứt rứt, khó chịu, bởi vì thân bị ảnh hưởng bởi tâm. Tâm an rồi thì nhìn cái gì cũng được an ổn.
Trong Thiền thoại có kể: Một bà lão đến pháp hội của Thiền sư Bạch Ẩn nghe pháp. Thiền sư dạy: “Tâm tịnh thì cõi nước được thanh tịnh. Đức Phật trong mỗi chúng sanh, một khi Đức Phật xuất hiện thì mọi vật trên thế gian đều chiếu ánh quang minh. Nếu ai muốn nhận được điều này phải phản quang tự kỷ đến chỗ nhất tâm bất loạn. Vì tâm tịnh tức Phật độ tịnh. Vậy làm sao để trang nghiêm tịnh độ? Vì Phật vốn sẵn trong mỗi chúng sanh thì tướng tốt và vẻ đẹp của Phật là gì?”.
Muốn được ở cõi Tịnh độ thì chúng ta phải dọn tâm cho sạch, bởi vì tâm tịnh tức Phật độ tịnh. Muốn nhận ra Phật A Di Đà nơi tự tâm của mình thì chúng ta phải luôn luôn phản quang tự kỷ, tức là nhìn lại chính mình để dọn sạch tâm của mình.
Bà già nghe xong nghĩ: “Điều đó không quá khó”. Trở về, bà quán chiếu suốt ngày đêm, đeo đuổi mãi trong tâm dù ngủ hay là thức.
Quý vị lưu ý, dù tu Thiền hay tu Tịnh, muốn nhận ra được ông Phật nơi tự tâm của mình thì phải hạ thủ công phu, quán chiếu suốt ngày và đêm như bà lão đó. Mình cũng tu nhưng khi niệm Phật, ngồi thiền thì tâm an, còn khi không niệm Phật, xả thiền ra thì chạy theo niệm. Chúng ta tu còn dính mắc rất là nhiều nên đành phải tu từ từ chứ đừng nghĩ rằng pháp này tu sao lâu quá, lại nhảy qua pháp khác. Mình phải tin chắc con đường mình đi thì chắc mới đến. Tôi thấy có người đang niệm Phật rất hăng say, có các vị Lạt ma Tây Tạng đến lại chuyển qua trì chú theo Mật tông, rồi sau các vị Lạt ma về, thấy các sư Miến Điện tới lại chuyển qua tu Tứ niệm xứ. Đi như vậy bao giờ mới đến nơi được. Ở Miến Điện cũng có một bà đến gặp một vị trưởng lão hỏi là tại sao bà tu suốt mà không có kết quả. Vị trưởng lão hỏi: “Vậy bà có tin tôi không?” – “Dạ tin chứ”. – “Vậy bà nhớ ba chữ thôi. Đó là ‘Mặc kệ nó”. Vừa về nhà, chồng bà nói miếng đất ngày xưa bán không được giờ có người định mua rồi. Bà nghĩ mặc kệ nó. Đứa con gái báo tin đã đậu đại học, bà cũng mặc kệ nó. Chuyện gì đến bà cũng chăm chú phản quang, cho đến một hôm khi đang rán con cá, chồng bà nhắc cá bị cháy thì bà nói mặc kệ nó, ngay đó tức khắc ngộ đạo. Quý vị có dám làm như thế không? Nếu chúng ta còn dính mắc nhiều duyên thì chuyện ngộ đạo rất khó đến với mình.
Trở lại chuyện bà lão ở pháp hội Thiền sư Bạch Ẩn. Rồi một hôm, khi đang rửa nồi bà thình lình tỏ ngộ, ném cái nồi qua một bên, bà đến gặp Thiền sư nói: “Tôi bỗng gặp Đức Phật trong thân tôi, mọi vật rạng ngời ánh sáng, thật là kỳ diệu, thật là kỳ diệu”.
Thiền sư nói: Bà nói cái gì cũng sáng, nhưng còn hầm phân của bà thì sao?
Bà già giơ nắm đấm lên, đấm vào mặt Thiền sư nói: Ông già này chưa ngộ.
Thiền sư Bạch Ẩn cười ha hả, ấn chứng cho bà.
Có nghĩa là một khi tâm mình sáng rồi thì thấy cái gì cũng sáng hết, hầm phân, nhà cầu, nhà tiểu cái gì cũng sáng. Nếu một người thực sự buông hết các duyên, sống cuộc đời tự tại thì ở nhà cũng là tự tại, đến chùa cũng tự tại, chứ không phải đến chùa thì vui, tự tại, còn về nhà thì phiền não, khổ đau. Như vậy là vẫn còn có sanh có diệt, có pháp tạo tác. Còn từ nội tâm của quý vị được an ổn, được hạnh phúc, được an vui thì đến đâu cũng được an ổn, an vui hết, đến chỗ nào cũng có Phật A Di Đà. Đó gọi là từ nơi tâm mà hiển bày ra các pháp. Đó là nói về lý Tịnh độ.
Trong Thiền thoại ghi có một vị Tăng hỏi Thiền sư Ran-ji về công dụng Thiền Tịnh khác nhau như thế nào? Sư đáp:
Thiền định và trì niệm
Như hai tòa núi lớn
Căn cơ người sai khác
Phật tánh vốn chung đồng.
Kẻ lên được tận đỉnh
Thấy trăng chiếu muôn nơi
Thương người thiếu tín tâm
Mờ mịt giữa dốc ghềnh.
Chẳng hạn giờ muốn lên núi Châu Đốc thì có rất nhiều đường. Ai thích đi đường nào thì đi đường đó, cuối cùng lên tới đỉnh cũng gặp nhau. Người có duyên tu thiền cũng trở về Phật tánh, người có duyên tu Tịnh cũng trở về ông Phật nơi tự tâm của mình, phóng chiếu ra các pháp thì tự nhiên tâm tâm tương ứng. Người đã sáng mắt thì cười thôi, còn chúng ta chưa sáng mắt, lại không lo tu, không lo chuyển hóa mà ngồi bàn cãi pháp mình hay, pháp người kia dở thì chưa đi được đến đâu hết. Chúng ta phải ngồi yên lại để quán chiếu, nhận diện được tâm của mình để chuyển hóa thì đó là chúng ta có đức tin về pháp. Còn người thiếu đức tin thì như người mờ mịt giữa dốc ghềnh.
Cho nên có một Phạm chí Bà la môn một hôm đến hỏi Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, thế nào là Bà la môn tranh đấu với Bà la môn?”. Đức Phật trả lời: “Do chấp ngã”. Ông hỏi tiếp: “Bạch Đức Thế Tôn, thế nào là Sát đế lợi tranh đấu với Sát đế lợi?”. Đức Phật trả lời: “Do chấp ngã”. Ông lại hỏi tiếp: “Thế nào là Sa môn tranh đấu với Sa môn?”. Đức Phật trả lời: “Do chấp pháp”. Người đời sở dĩ tranh đấu với nhau là do chấp ngã, còn người xuất gia mà tranh đấu với nhau là do chấp pháp. Giống như câu chuyện một ông vua sai cận thần đi tìm 4 người mù từ nhỏ đến lớn về, mang đến một con voi và hỏi con voi như thế nào? Người thứ nhất rờ trúng cái chân, nói con voi giống như cột nhà, người thứ hai rờ trúng cái đuôi, nói con voi giống như cái chổi, người thứ ba rờ trúng lỗ tai, nói con voi giống như cái quạt. Mấy ông người mù cãi nhau, cho rằng mình đúng người kia sai nên cãi nhau và cuối cùng đánh lộn. Ông vua đứng ở trên cười ha hả, bởi vì ông sáng mắt nên thấy rõ. Bốn người này nói cũng đúng, nhưng chỉ ở một khía cạnh thôi. Ông vua tiêu biểu cho những người sáng mắt, thấy hết.
Tổ Đạt Ma dạy tiếp: “Trong tâm có ba độc là quốc độ nhơ bẩn. Trong tâm không có ba độc là quốc độ thanh tịnh”. Hàng ngày, quý vị bớt tham, bớt sân, bớt si chừng nào thì khi chết được giải thoát chừng ấy, được Đức Phật đưa về cõi tương ưng. Còn trong tâm đầy rẫy những cấu nhiễm, cù cặn thì Phật nói rất là khó đến, cho nên dù tu pháp môn nào cũng phải cố gắng chuyển hóa niệm tham, sân, si.
“Khi không vọng tưởng thì một tâm là một cõi Phật, khi có vọng tưởng thì một tâm là một địa ngục”. Nếu như quý vị ngồi đạt đến nhất tâm bất loạn hay ngồi không dấy một niệm tưởng nào thì đó là cõi Phật. Còn dấy khởi một vọng tưởng thì đó là địa ngục. Quý vị thử nghĩ xem hằng ngày chúng ta ở địa ngục bao nhiêu lần? Còn vọng tưởng vắng bóng thì đó là một cõi Phật. Hàng ngày nếu chúng ta kéo dài thời gian giác, một thời gian nó huân sâu thì những sự kiện, những nghịch duyên khốn cùng trong cuộc đời, nhờ năng lực không vọng tưởng sẽ đánh bạt hết các ác pháp. Cho nên, không ai cứu được mình ngoài chính bản thân mình.
“Chúng sanh tạo tác vọng tưởng do tâm sanh tâm nên thường ở trong địa ngục. Bồ Tát quán sát vọng tưởng chẳng do tâm sanh tâm nên thường ở trong cõi Phật. Nếu chẳng do tâm sanh tâm thì tâm tâm vào không, niệm niệm về lặng, từ một cõi Phật đến một cõi Phật. Nếu do tâm sanh tâm thì tâm chẳng lặng, niệm niệm về động, từ một địa ngục này chạy qua một địa ngục khác”.
Chẳng hạn chúng ta khởi niệm lên rồi chạy theo niệm hoặc ai chửi mình, niệm mình khởi lên, mình thấy mà không chịu dừng, lao theo chửi lại người ta tức là từ tâm này sanh thêm cái tâm khác nữa. Mình tưởng mình đang ở cõi người nhưng suốt ngày vọng tưởng thì thực ra đang ở trong địa ngục. Vọng tưởng khởi lên liên tục mà mình chạy theo là từ địa ngục này qua địa ngục khác, nó tương tục mà mình không chuyển hóa được thì rất đáng sợ. Chẳng hạn mình có niệm tật đố, ích kỷ, san tham, hại người này người kia thì vừa chết liền xuống địa ngục bởi vì nó tương xứng với tâm của mình. Còn Bồ Tát quán chiếu, biết được vọng tưởng không có thật tánh, luôn sống trong ánh sáng Bát Nhã thì tự nhiên vọng tưởng tan biến. Lúc này đang ở trong cõi Phật, đơn giản vậy thôi.
“Nếu một niệm tâm dấy lên tức là có hai niệm thiện ác, có thiên đường, có địa ngục. Nếu một niệm tâm chẳng dấy lên tức là không có hai niệm thiện ác, cũng không có thiên đường, địa ngục. Vì thế chẳng phải có, chẳng phải không, ở phàm là có, ở thánh tức không, thánh nhân không có tâm ấy nên trong tâm rỗng suốt cùng với trời đồng lượng”.
Một ngày, nếu quý vị luôn nhìn lại tâm mình để chuyển hoá thì tu rất có kết quả, chứ không chỉ đợi ngồi thiền mới tu. Quét nhà chúng ta cũng tu, nấu cơm chúng ta cũng tu, rửa chén tu, ngồi trên xe cũng tu, làm cái gì cũng tu, tức là chăn nơi tâm. Tôi hay kể câu chuyện có hai huynh đệ tu trên núi, sư đệ suốt ngày ngồi thiền, ngược lại ông sư huynh thì nằm ngủ, không chịu ngồi thiền. Ông sư đệ chịu hết nổi, cầm cục than viết lên vách tường: “Đời người rất ngắn, sao cứ nằm hoài. Kiếp sau thành rắn, khổ ơi là khổ”. Sư huynh thấy bài kệ đó, lấy cục than ghi kế bên: “Ngồi mãi chẳng nằm, kiếp sau thành cóc. Rầu ơi là rầu”. Quý vị thấy con cóc ngồi hay là nằm? Con cóc ăn cũng ngồi, ngủ cũng ngồi. Ông sư đệ sau khi thấy bài kệ tức khắc đốn ngộ. Nếu chúng ta chấp ngồi thiền, lấy đó là công phu thì cũng không phải, nhưng nếu bỏ ngồi thiền thì cũng không được. Cho nên, ngay chỗ ngồi thiền, chúng ta nhìn lại từng ý niệm khởi lên trong tâm mình để chuyển hoá. Như vậy dù ra vào đời sống hàng ngày nhưng chúng ta vẫn còn năng lượng tỉnh giác của lúc ngồi thiền để hoá giải những chuyện xảy đến với mình trong cuộc đời. Đó là lợi ích của ngồi thiền. Niệm Phật cũng như thế, chứ không phải đợi lúc ngồi xuống mới niệm Phật, còn ngoài lúc đó ra chúng ta vẫn tạo tác ác pháp thì chưa phải là người tu giỏi.
VI. THIỀN VÀ TỊNH CÓ LIÊN QUAN GÌ KHÔNG?
Thiền sư Suzuki nói: “Thiền và niệm Phật dường như không đồng, nhưng đồng, vì đích đến của thiền là thấu hiểu ý nghĩa của cuộc sống và đích đến của niệm Phật cũng thế”. Quý vị thấy một người tu thiền, một người niệm Phật thì hai người này có làm thiện pháp không? Vẫn làm thiện pháp như nhau. Cũng đều phải giữ giới, đều có lòng thương cảm đối với chúng sanh đồng khổ. Hai người vẫn đồng thấy các pháp vô thường, vô ngã, không có tự tánh. Từ cái thấy đó mới dấn thân vào cuộc đời làm lợi ích cho người khác và hiểu được ý nghĩa cuộc sống, chúng sinh khổ thì mình khổ, chúng sinh vui thì mình vui. Người nào tu mà không có lòng thương cảm đối với chúng sinh thì người đó chưa phải là người tu chân chánh.
Đại sư Liên Trì dạy: “Hành giả niệm Phật là phải hợp nhất với tánh đức thường hằng của Đức Phật A Di Đà, do đó toàn thể của Đức Phật A Di Đà là tự tánh của mỗi chúng ta”.
Một hôm, có một ông Tăng đến hỏi Thiền sư Triệu Châu: “Thế nào là Phật?”. Thiền sư đáp: “Ngày đêm trăm lẻ tám”. Tức là một ngày một đêm mà thường tỉnh, thường giác, thường nhớ ông Phật của mình thì đó là Phật.
Đại sư Châu Hoằng dạy trong Di Đà sớ sao: “Trọn ngày niệm Phật tức là trọn ngày niệm tâm, nao nức cầu vãng sanh mà tịch nhiên vãng sanh đi đâu cả, vì tự tánh Di Đà tức là duy tâm Tịnh độ. Xem thế thì tôn chỉ của Thiền và Tịnh độ tuy khác nhau về đường lối hành trì nhưng đều quy về một mục đích, vì cả hai đều không tách rời tự tâm. Tự tâm đó là gì? Chính là Đức Phật A Di Đà”.
Sơ Tổ Trúc Lâm có bài kệ:
Tịnh độ là lòng trong sạch,
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương
Di Đà là tánh sáng soi,
Mựa phải tìm về Cực Lạc.
Tâm mình đã tịnh thì khi chết có Thánh chúng đến đưa rước. Cũng giống như có tư lương đầy đủ rồi thì muốn đi đâu cũng được. Chúng ta có phúc duyên lớn là trong đời mạt pháp này vẫn còn biết đường hướng để tu và chuyển hoá, vì trong Kinh Đại Bảo Tích, Đức Phật dạy: “Giả như có một chúng sanh, một ngày một đêm tu ở cõi Ta Bà này thì bằng các chúng sanh tu ở cõi Tây phương của Đức Phật A Di Đà tu một năm”. Mà một ngày một đêm ở cõi Tây phương thì bằng ở dưới cõi Ta Bà một kiếp, bởi vì ở cõi Ta Bà rất khó kham nhẫn. Chẳng hạn ngày lễ, quý vị không ở nhà vui chơi mà lặn lội tới đây tu học Phật pháp để chuyển hoá nội tâm, thì cái thúc đẩy mình đến chính là hạt giống thiện pháp của mình còn sót lại. Mình chỉ tu một ngày một đêm mà bằng các cõi khác tu một năm thì tại sao mình không bỏ ra một ngày một đêm để tu. Thấy được điều đó thì mới thấy đời này mình vẫn còn phúc duyên nghe được Thánh pháp của Phật, biết được con đường nào là chánh, con đường nào là tà, ác thì chúng ta tránh, thiện thì chúng ta làm. Như vậy là mình rất có phước rồi, sao lại nói là mình kém phước? Chỉ cần chúng ta dừng tâm, không tạo tác thì lo gì không đến cõi Tây phương.
VII. SỰ CHỨNG NGỘ GIỮA THIỀN VÀ TỊNH
Thiền sư Huyễn Trụ nói: “Thiền là cốt soi sáng ý nghĩa của sống và chết. Còn niệm Phật dạy cho thanh toán vấn đề cũng sống và chết. Hãy chọn một trong hai đường vì chẳng có tranh luận nào nổi lên ở đó”. Nếu tranh cãi thì không phải là Thiền, cũng không phải là Tịnh, bởi vì ý nghĩa hai bên đều soi sáng lại con đường sống và chết. Sống mà chúng ta không biết mình đang sống, không biết mình đang ăn cơm, uống nước thì các Ngài nói mình như một cái xác sống. Nếu chúng ta biết cách sống có ý nghĩa cho trọn vẹn thì chết không còn sợ nữa. Kinh Pháp cú Phật dạy:
Ai sống một trăm năm
Ác giới, không thiền định
Tốt hơn sống một ngày
Trì giới, tu thiền định.
Như vậy, giữa Thiền và Tịnh có một mắt xích, nếu chúng ta chịu khó chiêm nghiệm thì hai pháp là một, chỉ có phương pháp hành trì hơi khác một chút. Một bên ngồi yên lặng quán chiếu tự tâm, từ tự tâm đó đi ra.
Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật dạy: “Mỗi một Đức Phật Như Lai hiện thân trong pháp giới và thâm nhập trong tâm của tất cả hữu tình. Vậy mỗi khi các ngươi tưởng đến Phật, chính tâm của các ngươi được trang nghiêm bằng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Tâm ấy là gì? Tâm ấy được chuyển thành Phật tánh. Tâm ấy chính là Phật, chánh biến tri của chư Phật nổi dậy trong tâm tưởng của các ngươi. Vì lẽ đó, các ngươi hãy nhất tâm tu tập, quán tưởng Phật Như Lai, Ngài là bậc A la hán, Chánh đẳng chánh giác”.
Thấm được chỗ này, Thiền sư Suzuki dạy tiếp: “Cứ để cho sự chú tâm lên tới cao độ của nó thì sẽ có một trực giác về những chân lý huyền diệu. Như vậy, vãng sanh tức là vô sanh, niệm Phật tức là không còn gì để niệm. Bởi vì tâm này chính là Như Lai, dù sắc thân còn lệ thuộc thế giới này mà tâm thì đang vui sướng hạnh phúc nơi Tịnh độ”.
Thiền cũng như thế, ngay cái thân ràng buộc, ô uế, bất tịnh này mà tâm vui sướng, hạnh phúc như ở trong cõi Phật. Vì niệm tức là không còn gì để niệm, mà vô niệm mà rõ biết tức là niệm chân như.
Do đó, cổ đức nói:
Di Đà trí tánh thể như như
Sẵn có xưa nay chẳng thiếu dư
Mặt thật xưa nay ai khám phá
Đông Tây qua lại thảy gặp y.
Qua điểm này, quý vị thấy giữa Thiền và Tịnh là một thực tại duy nhất, ngay tại đây và bây giờ. Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
-
11. THIỀN - CON ĐƯỜNG VÔ SỞ TRỤ
THIỀN - CON ĐƯỜNG VÔ SỞ TRỤ
Giảng tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt
Hôm nay hội đủ duyên lành quý Phật tử về Thiền viện Trúc Lâm thăm Hòa thượng, chư Tăng và thỉnh quý Thầy nói chuyện. Thời gian vừa qua, tôi có duyên được nhập thất bốn tháng, sau khi ra thất, tôi có tâm đắc một vấn đề nay muốn chia sẻ với quý Phật tử về công phu tu tập. Chúng ta học thiền trong suốt cả bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi. Không phải chỉ có ngồi mới là thiền mà đi, đứng, nằm cũng là thiền. Ngày xưa tôi cho rằng đi, đứng, nằm đều công phu được, nhưng thực ra thì mình cũng không biết công phu là cái gì, mặc dù tôi theo học Hòa thượng từ rất lâu, từ hồi còn là cư sĩ đến khi xuất gia. Cho nên, khi tu thiền thì chúng ta phải nắm bắt được tinh yếu của thiền để đi vào công phu thì mới có hiệu quả, ngay trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi chúng ta đều rỗng suốt, thanh tịnh và biết rõ ràng tất cả các pháp. Vì vậy, ngày hôm nay tôi xin chia sẻ với quý Phật tử về chỗ tâm đắc này, đó là: Thiền - con đường vô sở trụ.
Bài pháp ngày hôm nay là bài pháp tinh yếu về thiền. Bởi vì nói đến thiền là nói đến con đường vô sở trụ. Vô là không, vô sở trụ là không trụ một chỗ nào. Vô sở trụ chính là lẽ sống đích thực của thiền, vô sở trụ là huyết mạch của thiền.
Vì sao nói vô trụ là huyết mạch của thiền? Nếu trong thân của mình mà không có máu thì chúng ta sống hay chết? Chết. Nói vô sở trụ tức là không trụ, mà không trụ thì tức là buông xả. Muốn đạt đến con đường vô trụ, chúng ta phải buông xả. Quý vị thử nghiệm lại trong cuộc đời của mình xem mình đã buông xả đến đâu.
Trong thiền thoại có ghi: Có một anh tiều phu vào rừng đốn củi, trong lúc bất ngờ bị rớt xuống vực thẳm, nhưng may có một nhánh cây ngay sát bờ vực nhô ra, anh nắm bắt được và luôn miệng kêu: “Mô Phật, cứu con”. Tâm thành thì có cảm ứng. Đức Phật hiện ra trên hư không và nói rằng: “Ta sẽ cứu con với điều kiện là ta nói gì con cũng phải nghe và làm theo lời ta. Con có tin hay không?”. Anh tiều phu nghĩ mình sắp chết nên rất tin. Đức Phật nói: “Nếu muốn được ta cứu thì con phải buông thả hai cánh tay ra”. Anh trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, nếu con buông hai tay ra mà rớt xuống vực thẳm chết thì sao?”. Vừa lúc đó Phật biến mất.
Quý vị thấy anh chàng tiều phu đó có giống mình không? Mình cũng buông ra là sợ, sợ mình không có chỗ đứng, sợ mình chết mà không hiểu cảnh giới đó trong tinh thần của nhà thiền gọi là tuyệt hậu tái tô, tức là một lần chết đi để ngàn năm sống dậy. Cái ý thức hệ của mình phải chết đi thì mình mới chứng nghiệm được con đường của Thiền, lúc đó quý vị mới tin chắc rằng tức Tâm là Phật, còn chưa được như vậy thì mình công phu cũng cho vui thôi chứ chưa dám khẳng định tin vào pháp môn này.
Một hôm có một vị Tăng đến hỏi Bố Đại Hòa thượng: “Thế nào là đại ý Phật pháp?”. Ngài liền buông cái bao đồ xuống.
Đó chính là đại ý Phật pháp, muốn biết được cái tinh yếu của Phật pháp thì phải buông xả.
Vị Tăng lại hỏi tiếp: “Như vậy diệu dụng của Thiền là gì?”. Ngài liền vác bao đồ mà đi.
Nhiều khi mình tưởng mình buông hết rồi, không còn gì nữa, mà nó có sức diệu dụng vô cùng. Cảnh giới này nhà Thiền gọi là: “Vô tác diệu lực”
Hòa thượng từng giảng: Buông tất cả là được tất cả. Được tất cả là được cái gì? Được cái diệu dụng trong cuộc đời này. Có những người còn phàm phu, khi gặp cảnh trái ý liền nổi sân hận, nhưng đối với người tu, nhờ biết đến Phật pháp, nhờ có sự chứng nghiệm về thiền, tâm thức của quý vị rung động, từ đó những hạt giống phiền não rơi rụng, vì vậy đối trước sự việc mình có sự bình ổn, thanh thản hơn người đời.
Học thiền là phải có sự chứng nghiệm thì quý vị mới đi hết được con đường của thiền, còn nếu không nắm bắt được tinh yếu của thiền để công phu thì khó có kết quả, kể cả người tại gia lẫn người xuất gia cũng vậy. Có khi tu nửa đường nghe người ta nói tu thiền không được gì hết liền bỏ, không dám tu nữa. Ở đây tôi khẳng định luôn, buông tất cả là được tất cả, cho nên các bậc tiên đức nói: “Trung vô tận tạng, hữu qua, hữu nguyệt, hữu lâu đài”, nghĩa là trong kho tàng vô tận của mình tưởng không có gì, nhưng mà có trăng, có sao, có lâu đài, có hết tất cả. Mình cứ buông hết tất cả đi thì tự nhiên có hết tất cả. Nó có một diệu lực mầu nhiệm, chính Đức Phật thị hiện trong cuộc đời này nhằm khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Sau này Ngũ tổ Hoàng Nhẫn giảng đến đoạn “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm”, Lục Tổ bèn thốt lên: “Đâu ngờ tự tánh mình vốn thanh tịnh, đâu ngờ tự tánh mình không sanh diệt, đâu ngờ tự tánh mình hay sanh ra muôn pháp…”, đó chính là sanh ra cái diệu dụng, diệu lực đi vào cuộc đời này, chứ không phải sanh ra phiền não như mình. Nhận được chỗ đó rồi, buông hết rồi thì mới thấy được.
Trong kinh Kim Cang, Phật dạy: “Này Tu-bồ-đề, Bồ tát đối với pháp nên không có chỗ trụ mà thực hành bố thí”, có nghĩa là Đức Phật dạy trong khi mình bố thí thì không trụ các pháp. Chẳng hạn khi quý vị cúng dường Thầy một cái đồng hồ rất quý, nhưng vị Thầy lại đem cho nó cho một người khác ngay trước mặt quý Phật tử, quý vị có buồn không? Khi mình buồn là mình đã trụ rồi, trụ vào cái đồng hồ, mà trụ vào đó thì phước chỉ có bấy nhiêu thôi, còn nếu không trụ thì phước đức rộng lớn như hư không. Quý vị thử nhìn lên trời, nếu không có một vệt mây nào thì hư không rộng lớn bàng bạc, nhưng khi nhìn vào một đám mây trên nền trời, dù đám mây đó có lớn đến mấy thì hư không cũng chỉ hạn cuộc trong đám mây đó mà thôi. Cho nên trong Kinh Niết Bàn, phàm phu nói khổ nhưng các bậc Bồ Tát lại thấy khổ là đệ nhất nghĩa đế. Ngay cái không trụ thì đâu có khổ, mà không khổ nghĩa là đệ nhất nghĩa đế, trung đạo đế. Khi quý Phật tử bố thí, cúng dường, đừng trụ vào một pháp nào cả thì rất an ổn, thảnh thơi.
Có người cúng dường xây dựng chùa hai chục ngàn mà không được ghi tên liền nổi tâm sân, nói: Tôi cúng dường hai chục ngàn sao không ghi tên tôi”. Nếu trụ vào hai chục ngàn đó thì bố thí tuy rằng có phước nhưng phước đó chỉ có chút xíu, còn nếu bố thí không trụ thì phước đức rất vi diệu.
Trong kinh Bản Duyên có kể lại câu chuyện: Nhân ngày rằm lớn, đích thân vua Ba-tư-nặc mua toàn bộ dầu đèn cúng dường Đức Phật. Có một bà già thấy thế liền hỏi Ngài Mục Kiền Liên, sau khi được Ngài giải thích về hội hoa đăng, bà cắt mớ tóc của mình bán được hai đồng xu, mua được chút dầu đến cúng dường Đức Phật và phát nguyện: “Nguyện đời đời kiếp kiếp con ra đời đều được gặp Phật pháp để chuyển hóa tâm thức của con.” Sau lời phát nguyện này, từ tối đến sáng, những ngọn đèn vua Ba-tư-nặc thắp đều tắt hết, chỉ còn cây đèn dầu của bà là vẫn sáng mãi, dầu không vơi mà cũng không đầy. Rất là vi diệu!
Sáng sớm hôm sau Tôn giả Mục Kiền Liên quét dọn, thấy tất cả các ngọn đèn đã tắt, duy chỉ còn cây đèn của bà lão nọ là không tắt, Ngài bèn dùng tay áo để quẹt tắt nhưng dùng hết thần lực, thần thông mà vẫn không được. Ngài đến bạch Phật, Phật nói do năng lực, nguyện lực của bà, nên cho dù ông dùng hết thần thông vi diệu của ông, ngọn đèn cũng không bao giờ tắt. Phật thọ ký nhờ lời phát nguyện như vậy, đời vị lai bà lão sẽ thành Phật.
Chúng ta tu cũng phải phát nguyện lớn, chẳng hạn như phát nguyện: “Đời đời đời kiếp kiếp dù sanh ra ở đâu đều gặp Phật, gặp Pháp, gặp Tăng, được ở trong Pháp hội của Hòa thượng tôn sư tu để chuyển hóa nội tâm, tu đến khi nào thành Phật thì thôi”. Nguyện lực đó sẽ luôn đi theo chúng ta, giúp chúng ta có đủ sức mạnh để chuyển hóa nội tâm, vượt qua được những nghịch cảnh đến với mình. Còn nếu không có nguyện lực, tâm lực lớn thì quý vị tu nửa đường dễ bỏ cuộc, kiếp sau ra đời có thể làm bộ trưởng, tổng thống, thủ tướng… nhưng mà quên tu, mà quên tu thì tạo ác, tạo ác thì sa đọa. Nhờ nguyện lực từ đời trước mà mình nhớ lại, thức tỉnh và tìm đến chùa tu tập, dừng tạo các nghiệp ác. Tôi đảm bảo quý vị ngồi đây đã từng gieo những hạt giống thiện pháp rất nhiều cho nên ngày hôm nay mới đến đây tu học Phật pháp.
Phật nói: “Chẳng trụ sắc bố thí, chẳng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Này Tu-bồ-đề, Bồ tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì cớ sao? Nếu Bồ tát chẳng trụ tướng mà bố thí thì phước đức đó chẳng thể nghĩ lường.”
Nghĩa là mình bố thí, cúng dường, và làm tất cả các việc với một điều kiện là không trụ tướng bố thí. Không trụ tướng, không phải là mình không biết, chẳng hạn sáng nay quý Phật tử đến đây cúng dường một bao gạo, có biết là mình đang cúng dường, nhưng suốt qua hết mà không trụ. Không trụ, chính chỗ đó là yếu chỉ của Thiền. Vừa phước mà có huệ, mà vừa có huệ tức là có nguyện lực. Giới, định, tuệ, tâm nguyện có đầy đủ. Như vậy một người biết Phật pháp rất thù thắng, chứ không phải chuyện đơn thuần. Chúng ta phải có duyên phúc lắm mới biết đến con đường thánh pháp này.
Nói như vậy nhưng thật ra việc này không phải là dễ làm. Khó như vậy nên chúng ta phải tu tập để chuyển hóa. Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói: “Người nào muốn tụng đọc kinh Pháp Hoa thì phải đủ ba yếu tố:
Thứ nhất là Vào nhà Như Lai: Nhà Như Lai chính là tâm từ bi lớn đối với tất cả chúng sanh. Nghĩa là quý vị muốn tụng đọc kinh Pháp Hoa, ngộ nhập tri kiến Phật thì thứ nhất phải có tâm từ bi rộng lớn thương tất cả chúng sanh, lúc này quý vị sẽ quên mất ranh giới ta người, có vậy mới suốt được tri kiến, không trụ vào cảnh giới ta người nữa.
Thứ hai là Y Như Lai, chính là lòng nhu hòa, nhẫn nhục. Trong Kinh Pháp Cú, Phật dạy:
Nó mắng tôi, đánh tôi
Nó chửi tôi cướp tôi
Ai ôm hiềm hận này
Chẳng phải người tu đạo.
Nghĩa là biết hết, người ta đang đánh mình, biết người ta đang đánh, đánh đau biết đau, nhưng suốt qua chỗ đó mà không trụ chứ không phải là mình không biết chuyện gì. Thiện không biết, ác không biết, ăn không biết mình đang ăn gì thì đó không phải thiền. Biết suốt qua tất cả các pháp mà không trụ tất cả các pháp thì chính đó là thiền. Có nghĩa là quý Phật tử đang ăn, đang uống, đang ngủ, tất cả mọi hành động đi, đứng, nằm, ngồi đều biết suốt qua hết mà không trụ.
Thứ ba là Tòa Như Lai, chính là tất cả pháp Không .
Quý vị đọc Kinh Pháp Hoa đến Phẩm Hiện Bảo Tháp thì Đức Phật thấy Bồ tát từ lòng đất hiện lên, lòng đất này tiêu biểu cho đất tâm. Nhưng tại sao không trụ ở đâu mà lại trụ ở giữa hư không? Chẳng hạn như quý vị đang ngồi thiền hay đi kinh hành mà thấy bảo tháp đang lơ lửng trên hư không có dám ngồi không? Trụ giữa hư không nghĩa là vô sở trụ, là không trụ một pháp nào. Mà không trụ một pháp nào thì từ thân của của quý vị, đất, nước, gió, lửa chuyển thành tháp bảo. Từ cái thức đại đó mà không trụ, suốt qua hết thì chuyển thành tháp bảo. Thấy được như thế rồi thì trong giờ phút thực tại này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn lên cái tháp đa bảo đó cũng phải trụ giữa hư không. Đại chúng muốn thấy Phật Đa Bảo cũng phải nhờ năng lực của Đức Phật, trụ giữa hư không, nghĩa là không còn tình chấp ở cõi đời này nữa. Tu một thời gian, quý vị phải tập buông xả, buông xả những tâm niệm trong cuộc sống phàm tình này thì mới thăng hoa được.
Ở bên Tây Tạng có một vị rất giỏi, có năng lực rất hay, chỉ cần dùng bàn tay đập vào lưng là mình tịch tại chỗ, thần thức mình sanh về cõi Tây phương Cực lạc. Vị này hỏi đại chúng là có ai muốn lên cõi Tây phương Cực lạc hay không. Ai cũng muốn lên. Ngài hỏi người thứ nhất là một bà lão: Bà có muốn lên cõi Tây phương không? Bà lão ngồi suy nghĩ rồi nói: Con cũng muốn lên lắm mà bây giờ con còn hai con bò, một chiếc xe, một cái nhà ở thành phố chưa bán được… - Vậy là chưa lên được rồi, còn nhiều quá vậy, sao lên được! Ngài lại xoay qua hỏi bà khác. Bà này cũng suy nghĩ rồi đáp: Con còn hai đứa con: một trai, một gái. Trai thì chưa lấy vợ, gái thì chưa lấy chồng. - Vậy là cũng chưa đi được luôn. Hỏi hết người này đến người khác, người nào cũng còn vướng mắc hết chuyện này đến chuyện khác. Cuối cùng Ngài nhìn xuống thấy một đứa nhỏ chừng 16, 17 tuổi bèn hỏi: Con muốn về Tây phương không? – Dạ con muốn. – Sao con muốn về bên đó? – Tại vì cha con chết, mẹ con chết, nhà bị cháy. Vừa nghe xong Ngài bèn dùng tay đập vào lưng đứa bé khiến thần thức thoát ra đi về Tây phương.
Qua câu chuyện trên để thấy quý vị phải buông xả hết, không còn chấp trước gì hết thì mới tương ứng với những cảnh giới của mười phương chư Phật. Nói như thế không có nghĩa là quý vị về nhà bán nhà bán cửa, không làm việc, không sinh hoạt hằng ngày… Phải nhớ tinh thần của Thiền là tinh thần từ khước, từ khước mọi tham đắm nhục dục của thế gian, từ khước những chấp ngã, tật đố, ích kỷ nhưng mà chúng ta không từ khước cuộc sống, nghĩa là suốt qua hết cuộc sống mà chúng ta không trụ thì mới gọi là người Phật tử tu thiền, tu về đạo Phật, đạo giác ngộ. Từ khước những cái gì còn dính líu đến cuộc đời nhục dục thì chúng ta mới được thăng hoa. Xa lìa tham, sân, si, tật đố, ích kỷ, nhưng không xa lìa bỏ cuộc sống này. Chúng ta vẫn yêu thương cuộc đời này, vẫn giúp đỡ hết tất cả , nhưng trong lúc giúp đỡ đó quý vị suốt qua hết tất cả, tức là vô sở trụ. Cái này đòi hỏi quý vị phải có công phu dần dần sẽ thấy.
Trong bài Tổ sư luận, Tổ Đạt ma nói: “Vừa có tâm trụ trước mà thấy Phật thời chẳng chấp nhận, Phật chẳng là Phật, chớ khởi cái hiểu Phật.” Có nghĩa là chúng ta làm việc gì, kể cả công phu, tu tập mà có tâm trụ trước, chấp trước thì Phật không có mặt. Thấy bất cứ cảnh giới gì chúng ta phải suốt qua hết.
Nên Lục Tổ dạy: “Đạo là thường thông lưu, chớ có ngưng trệ.” Một hồ nước mà ngưng đọng lâu ngày thì nước hôi hám, thu hút nhiều ruồi muỗi nên nói nước tù đọng thì không phải nước tốt. Đạo cũng vậy, phải thông lưu, nghĩa là phải suốt hết mà không trụ một điểm nào hết, tức là không cho ngưng trệ. Đó chính là tinh thần của Lục tổ Huệ Năng.
Thiền sư Triệu Châu dạy: “Chỗ không Phật thì mau chạy qua, chỗ có Phật thì đừng lưu luyến.” Chỗ không Phật là gì? Khi quý Phật tử ngồi thiền thấy loạn động, vọng tưởng thì phải mau chạy qua, nghĩa là phải cố gắng thế nào đó để vượt thoát cảnh giới này nhưng chỗ có Phật thì cũng đừng có lưu luyến. Chỗ có Phật là có một lúc nào đó quý Phật tử ngồi yên tĩnh, tự dưng cảm giác rất khinh an nhưng nếu chúng ta trụ vào chỗ đó thì cũng là bệnh của Thiền, nên phải suốt qua luôn.
Trong Thiền thoại có ghi lại, có một vị Thiền sư tu trên núi có một vị đệ tử. Một hôm vị đệ tử này ngồi thiền xong đến bạch Hòa thượng:
- Bạch Hòa thượng, hôm nay con ngồi thiền loạn động, nhớ đủ thứ chuyện.
Hòa thượng bèn nói:
- Rồi tất cả sẽ trôi qua.
Sau hai hôm, vị này ngồi thiền lại đến trình Hòa thượng:
- Bạch Hòa thượng, hôm nay con ngồi thiền rất yên tĩnh, không dấy một niệm nào.
Hòa thượng lại nói:
- Tất cả rồi cũng sẽ trôi qua.
Nghĩa là cái gì thấy được loạn tưởng, vọng động, cái gì thấy được sự yên tĩnh đó? Vậy sao mình lại chạy theo cái loạn tưởng, cái yên tĩnh mà quên cái gì thấy được loạn tưởng, yên tĩnh đó?
Lục Tổ khai thị cho Thiền sư Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay đó cái gì là Bản lai diện mục của ông?”. Có người giải thích không nghĩ thiện, không nghĩ ác là không nghĩ gì hết. Có đúng vậy không? Không nghĩ thiện, không nghĩ ác có nghĩa là cái gì suốt qua được cái thiện và cái ác mà không trụ thiện và ác, đó chính là Thiền tối thượng thừa. Có nghĩa là quý vị phải suốt tất cả các cảnh giới thiện ác, có không, phải quấy…nhưng không trụ, chính đó là Thiền. Thiền rất là đơn giản như vậy chứ không có gì huyền bí.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: “Nếu chuyển được vật, tức đồng Như Lai”, có nghĩa là mình không trụ vào pháp này, không trụ nghĩa là chuyển được. Khi mình thấy bình bông, ly tách… thấy đủ hết tất cả mà suốt qua hết, không trụ vào cảnh giới nào hết, thì đó là đồng với cảnh giới của Phật. Lưu ý là chỉ đồng chứ không phải là giống như Phật. Đồng có nghĩa là mình cũng còn phải đang tu nữa. Đồng là đồng cái nhân của Phật, thấy biết rõ ràng chứ không phải đồng cái quả của Phật. Nếu thấy được thế rồi thì quý Phật tử công phu một ngày bằng ngày xưa mình công phu hai hoặc ba tháng, có khi một năm luôn. Biết được pháp yếu đó rồi, mình tu sẽ rất nhanh và an ổn.
Trong Thiền thoại có ghi lại rằng, có hai vị huynh đệ tu lâu năm ở trên núi. Một hôm xuống núi, đi qua một con suối thì gặp một cô gái. Cô này sợ ướt áo nên nhờ vị sư huynh bồng qua suối. Trong giới luật của Tỳ kheo, nếu bồng một cô gái mà có tâm ý gì thì là phạm giới. Do vậy mà vị sư đệ tỏ vẻ không vui trong suốt quãng đường còn lại cho đến tận khi về nhà. Sau đúng một tháng không nói chuyện với sư huynh, vị này liền được sư huynh khai thị : “Anh đã bỏ cô gái bên bờ sông rồi, sao em vẫn còn ôm cả tháng vậy?”. Có nghĩa là người sư huynh này bồng cô gái nhưng không trụ vào các pháp, còn người sư đệ, tuy không bồng mà trụ vào các pháp, mà trụ vào các pháp là khổ.
Trong lúc quý Phật tử công phu, chuyển hóa nội tâm, quý vị phải biết nhìn lại về chính mình. Tôi xin kể câu chuyện về ông Liễu Hạ Huệ.
Ông Liễu Hạ Huệ được người đời tôn là Á thánh. Một hôm trên đường đi, ông gặp một cô gái mười tám tuổi bị lạnh gần chết cóng. Ông ẵm về nhà, không có lửa sưởi ấm, ông ôm cô suốt một đêm. Nhờ vậy cô này thoát chết. Khi ông làm vậy, ông không dấy một niệm dâm dục, ái nhiễm.
Có một anh chàng nhà ở sát cạnh một cô gái. Một hôm trời mưa to, sập nhà cô gái nọ, cô muốn xin tá túc nhờ một đêm, nhưng anh nhất định không cho, vì “nam nữ thọ thọ bất thân”. Cô bèn nói: “Sao anh không bắt chước như ông Liễu Hạ Huệ vậy?” Anh này bèn nói: “Ông Liễu Hạ Huệ thì được nhưng tôi thì chưa được”. Sau này câu chuyện đến tai Khổng Tử, Ngài nói: “Hai người đều là bậc thánh. Ông Liễu Hạ Huệ là bậc thánh, và anh thư sinh này cũng là bậc thánh vì biết được mình”. Biết mình, biết ta thì trăm trận trăm thắng.
Nghe nói không trụ vào các pháp không phải là quý vị mặc tình uống rượu, ăn thịt, chơi bời… mà phải biết chỗ đứng của mình, đừng có chấp, đừng có trụ. Thấy được điều đó rồi, chúng ta tu rất an ổn.
Ông Bàng Long Uẩn có nói một bài kệ:
Thường nghe Phật A Súc
Nghĩ hướng phương đông cầu
Hôm nay xét nét kỹ
Bất động tự nhiên đến.
Nghĩa là: Ông nghe trong Kinh Duy Ma Cật nói đến cõi Phật A Súc ở phương Đông, ông muốn làm cách gì đó hướng đến cõi này, nhưng hôm nay ông nghĩ kỹ, khi bất động, không trụ một pháp nào thì tự nhiên đến cõi Phật A Súc. Rất đơn giản. Muốn vậy chúng ta phải tu hàng ngày, phải chuyển hóa hàng ngày. Quý Phật tử cứ chịu khó đào giếng đi, nếu giếng có nước thì trăng sẽ hiện. Chỉ cần tâm lặng đứng, có một nước vi diệu cam lồ của Bồ Tát Quán Thế Âm thì trăng tự tánh tự nó ứng hiện ra. Khi chúng ta chết, nếu chưa giải thoát thì cũng sanh về miền của mười phương chư Phật. Khi tâm bất động, tự khắc chúng ta đã đến cõi Phật A Súc.
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có ghi: Có một vị tăng hỏi Thiền sư Cốc Ẩm Thông:
- Nếu hay chuyển được vật, tức đồng với Như Lai. Muôn tượng là vật, làm sao mà chuyển được?
Đáp rằng: - Ăn cơm, uống nước xong rồi thì tiệt không có ý chí, như có ý chí tức là bị vật chuyển.
Nói cho dễ hiểu là trong lúc quý vị ăn cơm, uống nước, mà bị dính mắc vào ngon hay dở thì bị vật chuyển. Còn nếu ăn, uống bình thường, không trụ, suốt qua hết thì quý vị đã chuyển được vật. Sau khi thẩm thấu được điểm này rồi, quý vị mới thấy được rằng đọc kinh cũng vậy. Nếu mình chấp trước vào lời kinh của Phật, không suốt được nghĩa đó thì chúng ta bị kinh chuyển, còn ngược lại mình suốt qua được là mình chuyển được kinh.
Cũng trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có ghi: Học sĩ Trần Tú Ngọc xem kinh Di Lặc Thượng Sanh, trong đó có nói: “Không khởi tu thiền định, không vọng trừ phiền não, Phật thọ ký cho người này, thành Phật không có nghi”.
Chúng ta đến đây để tu thiền định, có đến tu là có khởi. Chúng ta lại tìm đủ cách để trừ phiền não. Đó chính là bệnh rồi. Còn nếu một hôm nào chúng ta đến Thiền viện Trúc Lâm hoặc ngồi ở nhà, chỉ như ngồi chơi. Còn nếu ráng cố gắng ngày hôm nay tôi ngồi thiền, tôi phải diệt trừ cái này, diệt trừ cái khác. Có nhiều người ngồi thiền, trợn mắt “đi, đi, sao lỳ quá vậy”. Thế là bệnh rồi. Nhiều khi người ta còn tưởng mình điên nữa. Nếu chúng ta thấy được vọng tưởng hoặc phiền não, bản chất tự tánh nó là không, là rỗng. Nhờ vậy chúng ta suốt hết không trụ, thì nó qua. Một lúc thì vọng tưởng này hết, với điều kiện như Tổ Lâm Tế dạy: “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ. Hồn nhiên mặc áo xiêm.”
Nghĩa là Quý Phật tử đừng huân tập thêm nghiệp mới nữa. Như hàng ngày quý vị đến sám hối, tụng kinh, ngồi thiền nhưng lại liên tục huân tập thêm nghiệp mới như chửi mắng người, hay sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu… Nghiệp trong thời quá khứ mình tiêu dung nó, chuyển hóa nó, không huân nghiệp mới nữa, thì nghiệp này sẽ lần lần hết. Thế mới gọi là tu. Còn ở đây hàng ngày quý vị cứ liên tục huân suốt thì làm sao tu? Bản thân chúng tôi vào thiền viện tu cũng tránh duyên, không huân nghiệp mới nữa. Nói thế để thấy rằng quý Phật tử còn va duyên rất nhiều, nhưng ở đây tôi nói là bớt. Chẳng hạn ngày xưa quý vị buôn bán, nói là đây con bán vốn, không lấy lời. Không lấy lời làm sao sống? Như vậy là mắc vào tội nói dối. Giờ chúng ta chuyển đi, cứ nói thật: Cái này con mua 5 đồng, giờ con bán 6 đồng. Mình cứ nói thẳng đi, đừng có sợ. Đó là mình đã từ từ chuyển hóa nghiệp cũ của mình, không huân thêm nghiệp mới nữa.
Trở lại phần trên, học sĩ Trần Ngọc Tú sau khi xem đoạn kinh đó xong, đến Thiền sư Vạn Tùng hỏi rằng:
- Bồ Tát Di Lặc vì sao chẳng tu thiền định, chẳng dứt trừ phiền não?
Đáp rằng:
- Chơn tâm vốn tịnh, chẳng tu thiền định, vọng tưởng vốn không, nên chẳng dứt trừ.
Vị học sĩ này chưa tỏ, lại đem câu này đến hỏi Thiền sư Hương Sơn Đại Nhuận. Thiền sư đáp:
- Tâm thiền vốn định, chẳng trở lại tu. Phiền não tịch diệt, chẳng cần phải đoạn.
Ngay tức khắc vị học sĩ này đốn ngộ.
Sau khi đốn ngộ rồi, ông đem câu hỏi này hỏi Thiền sư Trúc Lâm Hải Cự. Sư mới đáp:
- Vốn không có thiền định, phiền não.
Ngay tức khắc ông triệt ngộ luôn. Từ tiểu ngộ, đến đốn ngộ, triệt ngộ.
Bản chất vốn là “vô nhất vật”, do vậy mà suốt qua hết không trụ.
Trong Kinh A Hàm có ghi lại một đoạn: Có một vị tăng tu học trong rừng ba tháng. Một hôm vị này đến trình Đức Phật:
Luôn luôn chế ngự ý
Trong tất cả mọi thời
Chỗ nào chế ngự ý
Chỗ ấy được an vui
Đức Phật trả lời rằng: Ông tu như thế thì trói buộc càng ngày càng nặng, chứ không có giải thoát.
Sau khi vị tăng tha thiết, Đức Phật khai thị:
Luôn luôn chuyển hóa ý
Trong tất cả mọi thời
Chỗ nào chuyển hóa ý
Chỗ ấy được an vui.
Từ chỗ chế ngự chuyển sang chuyển hóa. Chuyển hóa nghĩa là không trụ. Thấy biết ý niệm của mình mà mình không trụ. Khi biết được là trong đó có giới, định, tuệ đầy đủ. Chuyển hóa nhưng không chế ngự bởi khi chế ngự là có một sức ép đè nó xuống, ở đây chỉ cần nhìn nó thôi. Nhìn nhưng suốt qua hết, chỗ đó được an vui.
Thiền sư Phổ Chiếu khai thị:
“Thanh văn tâm tâm đoạn hoặc, tâm ngăn đoạn là giặc, chỉ quán sát một cách đúng đắn rằng: sát, đạo, dâm, vọng từ tánh mà khởi”. Có nghĩa là mình sân hận, từ đâu mà khởi? Ích kỷ, tật đố từ nơi đâu? Tất cả đều từ tâm. Sóng nếu không có biển thì có nổi được không? Nó phải nương nơi biển. Thấy được chỗ đó rồi thì “khởi tức chẳng khởi, ngay nơi đó liền lặng, cần gì phải đoạn”. Biết nó khởi lên, mình theo dõi, nhưng không kháng cự, thấy được, nó qua thì nó hết. Bản chất vọng tưởng là vô thường. Nếu nó thường chắc chúng ta chết quá. Sáng mình giận ai đó, mình có tu một lúc là nó hết. Bản chất nó vốn là vô thường, khổ, không, vô ngã. Nhờ biết được như thế nên “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm, lại nói niệm khởi liền giác, giác nó liền không, nên người ngộ tuy có khách trần phiền não, nhưng đều thành cam lồ hết”. Nghĩa là hôm nay quý Phật tử nghe bài pháp này, tuy rằng có vọng tưởng, nhưng “đều thành Cam lồ” hết, đều biến thành diệu dụng.
Hàng Thanh văn cố gắng diệt vọng tưởng, tức là diệt hành ấm. Còn hàng Bồ Tát lấy cái hành ấm này làm chủng trí Bát Nhã đi vào cuộc đời này dìu dắt chúng sanh.
Hiểu điều này rồi ta thấy, một niệm vọng tưởng là một niệm giác, ngàn niệm vọng tưởng là ngàn niệm giác, còn sau đó thì toàn giác. Pháp tu của Hòa thượng chỉ cho đến hết ruột gan luôn, chỉ cho đến giai đoạn thấy biết chân tâm rồi mà quý Phật tử còn thắc mắc, không nắm bắt được, từ đó mà khởi đủ thứ chuyện. Một niệm mê thì một niệm giác. Hết mê thì toàn giác, chứ có gì đâu. Thấy rõ điều đó rồi, đường tu của quý vị sẽ rất an ổn.
Lục Tổ dạy: “Này thiện tri thức, pháp môn của ta đây, từ trước đến nay, trước lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm bổn”.
Vô tướng là đối với tướng mà lìa tướng, ví dụ bố thí, cúng dường là có tướng, nhưng mà lìa tướng, suốt qua hết. Vô niệm là đối với niệm mà không niệm. Thiền sư Thần Hội khai thị “Vô niệm niệm giả tức niệm chân như. Vô sanh sanh giả tức sanh thật tướng”. Không có niệm nào nhưng chúng ta biết hết chứ không phải ngơ ngơ ngáo ngáo. Biết hết mà mình không khởi niệm, đó là niệm chân như.
Vô sanh mà sanh, tức là các pháp đều là thật tướng Bát Nhã. Thấy cái bình bông, cái hoa…đều là Bát Nhã. Đó là suốt qua hết mà không trụ.
“Vô trụ là bản tánh của người đời ở thế gian nào là thiện ác, tốt xấu, cho đến những việc quán cùng thân, ngôn ngữ, xúc chạm, hư dối, tranh đua, thảy đều đem về không. Không nghĩ trả thù lại.”
Nghĩa là khi ai đó làm mình xúc não, ngày nay mình đã biết tu tập rồi, đem niệm sân hận đó đưa về không. Không nghĩ trả thù lại. Đó là vô trụ.
“Trong mỗi niệm không nghĩ cảnh trước, nếu niệm trước, niệm hiện tại, niệm sau, trong mỗi niệm tương tục không dứt, gọi là hệ phược. Đối trên các pháp, mỗi niệm không trụ tức là không bị trói buộc. Đây gọi là lấy vô trụ làm gốc.”
Nghĩa là suốt qua hết các cảnh giới: bố thí, cúng dường, làm tất cả các thiện pháp mà không trụ một pháp nào thì người này chính là đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng. Thấy được như thế rồi thì mình làm hết tất cả mà không dính dáng gì thì tu hành rất là an ổn.
Đó là tinh thần “Vô Sở Trụ” của nhà Thiền – Chúc quý Phật tử được hạnh phúc lâu dài trong chánh pháp.
-
12. NGỘ LÀ HUYẾT MẠCH CỦA THIỀN
NGỘ LÀ HUYẾT MẠCH CỦA THIỀN
Giảng tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt
- I. DẪN NHẬP:
Hôm nay tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, chúng tôi sẽ nói với quý vị một bài pháp rất cô đọng. Đó là “Ngộ là huyết mạch của Thiền”.
Nói đến thiền là nói đến ngộ. Ngộ là huyết mạch của thiền, là cốt lõi tinh hoa của đạo Phật. Trong cuộc sống tu hành, quý vị có giới, định, tuệ rồi nhưng khi chưa ngộ được tự tâm mình thì có những lúc mình giữ giới mà chấp thủ. Có nghĩa là thấy mình có giữ giới, thấy người khác không giữ giới được như mình nên bản ngã của mình tăng trưởng. Hay trong lúc hạ thủ công phu, đi sâu vào thiền định mà chưa phát minh được tâm địa, chưa nhận ra con người chân thật của mình thì thiền định giúp mình được gì?
Ngày xưa, sau khi Thái tử Sĩ Đạt Đa đi tìm đạo thì gặp vị Kalama và đã chứng đến sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Nhưng vì không thỏa mãn được nên Thái tử tiếp tục đi tìm đạo, gặp vị thứ hai là Uất Đầu Lam Phất, đã chứng đến không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhưng cũng chưa thỏa mãn nên Ngài tiếp tục sáu năm khổ hạnh rồi cuối cùng là bốn mươi chín ngày đêm ngồi thiền định dưới cội cây Tất bát la. Khi sao mai vừa lên, Ngài có một sự chuyển hóa tâm thức lớn nên trở thành một vị Phật. Sau khi Đức Thế Tôn thành tựu đạo nghiệp, Ngài nghĩ rằng pháp này là pháp vô ngôn mà chúng sanh thì tham đắm dục lạc rất nhiều, không dễ gì tin được pháp này nên Ngài muốn nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết Bàn. Lúc này Phạm Thiên ba lần thưa thỉnh thì Đức Thế Tôn mới dùng phương tiện để giáo hoá, ban đầu chỉ là giới, định, tuệ, cuối cùng thấy căn cơ đệ tử thuần thục rồi thì giữa hội chúng mới im lặng, đưa cành hoa sen lên, đó đích thực là Thiền tông. Trong pháp hội Linh Sơn, ai nhìn thấy cũng ngơ ngác, suy nghĩ không hiểu tại sao Phật lại giơ cành hoa sen lên mà không nói gì, mà suy nghĩ thì không còn trong cảnh giới thực tại của thiền nữa. Lúc này, chỉ có Tôn giả Đại Ca Diếp chúm chím cười, Đức Phật nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm thật tướng vô tướng, nay truyền cho Ca Diếp”. Quý vị thử nghĩ trong pháp hội Linh Sơn đó, đại thánh chúng có con mắt pháp nhãn không? Không phải chỉ có Ngài Ca Diếp mà tất cả các vị thánh tăng đều có cặp mắt pháp nhãn, nhưng vừa khởi niệm suy nghĩ thì liền không có mặt trong cảnh giới thực tại, chỉ có Ngài Ca Diếp là thấy được thực tướng của các pháp cho nên được truyền pháp. Cho nên tinh thần nhà Thiền là phải một phen chuyển hóa tâm thức, một phen ngộ thì mới gọi là người chân chánh tu thiền.
Như vậy chúng ta thấy, giới, định, tuệ chỉ là phương tiện giúp hành giả đạt đến chỗ cứu kính, rốt ráo, đó là ngộ ra được chỗ diệu tâm chân thật của mình. Mặc dù là phương tiện nhưng nếu quý vị không giữ giới mà sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu thì có ngộ được không? Không được. Còn nếu quý vị chưa từng thâm nhập vào cảnh giới thiền định, chưa từng phát minh được trí huệ thanh tịnh, gọi là chánh kiến Bát Nhã thì cũng không ngộ luôn. Cho nên vẫn phải nhờ ba cánh cửa tam vô lậu học.
Quý vị thử nghiệm lại, trong cuộc sống tu hành này mà không nhận diện được thì nhiều khi mình tu mà không biết tu là gì. Bồ Tát Long Thọ nói: “Giới hạnh là da, thiền định là thịt, trí tuệ là xương mà ngộ được chân tâm là tủy”. Giới hạnh là da bọc ở ngoài, nhưng nếu lấy dao bỏ hết lớp da bên ngoài thì có sống được không? Không. Róc xương hay róc thịt ra cũng không sống được. Cho nên tuy không phải là chỗ cứu kính rốt ráo nhưng bước đầu đòi hỏi quý vị phải giữ giới thanh tịnh rồi mới đi sâu vào thiền định, đến một lúc nào đó quý vị nhận ra được rồi thì từ đây trở đi, không ai lừa được mình hết. Còn ngày nay, mình nói tu Thiền tông nhưng nếu không tin sâu vào pháp này thì thấy bên ngoài có gì khác hay hay là quý vị chạy theo. Sáng Tần chiều Sở thì không bao giờ gặt hái được thành quả.
Trong Sử 33 vị Tổ có ghi: Một hôm, Tổ Bồ Đề Đạt Ma thấy cơ duyên sắp về Tây, Ngài gọi các đệ tử ra nói chỗ sở đắc của mình.
Ngài Đạo Phó bước ra đầu tiên, bạch: “Theo chỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự, cũng chẳng lìa văn tự, đây là dụng của đạo”.
Tổ nói: “Ngươi được phần da của ta”.
Chẳng chấp văn tự là sao? Nghĩa là Kinh giống như ngón tay chỉ mặt trăng, nhưng nếu lìa ngón tay thì không thấy được mặt trăng. Nếu không có Kinh sách của chư Phật, chư Tổ hay Hòa Thượng hướng dẫn cho mình thì bảo đảm quý vị không biết đường hướng tu. Nhưng nếu chấp vào đó là chỗ cứu kính, rốt ráo thì đó là bệnh của người tu.
Đến lượt bà Ni Tổng Trì ra thưa: “Ngay chỗ hiểu của con giống như Tổ A Nan thấy được cõi Phật A Súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại”.
Tổ nói: “Ngươi được phần thịt của ta”.
Ở đây rất là sâu. Ngài A Nan lúc này mới chứng quả vị thứ nhất là Tu đà hoàn, tức là mới kiến đạo thì sao mà thấy được cõi Phật A Súc, là cõi Phật bất động nằm về hướng Nam? Trong Kinh diễn tả, sở dĩ Tổ A Nan thấy được cõi Phật A Súc chỉ một lần, không bao giờ thấy lại là nương thần lực của Đức Thế Tôn mà thấy được cảnh giới bất động đó. Ở đây, tuy rằng mình nghe pháp này chưa hiểu, không nhớ gì cả nhưng quý vị cứ tin thật sâu pháp môn này, gia công tu tập thì có một lúc nào đó hụt cẳng, chuyển thân một cái rồi, dù chỉ một lần duy nhất, không được lần thứ hai thì cũng được phần thịt của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, còn hơn tụng kinh suốt ngày mà không biết gì hết. Pháp môn này là như thế đó. Quý vị tin được không? Thiền sư Phổ Chiếu nói: “Pháp này nghe mà không tin, không hiểu cũng còn hơn phước trời người. Học mà không chịu hành cũng là gieo cái nhân của Phật”. Cho nên quý vị dù có bố thí, cúng dường cũng không bằng ngày hôm nay ngồi ở đây nghe pháp môn đốn giáo này.
Ngài Đạo Dục bước ra thưa: “Năm ấm vốn không, tứ đại chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể được”.
Tổ bảo: “Ngươi được phần xương của ta”.
Bốn đại là đất nước gió lửa. Năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Với cặp mắt Bát Nhã của Ngài Đạo Dục thấy được bốn đại, năm ấm vốn không thật có, hiện có, hiện không, hiện còn, hiện mất. Sau khi thấy tột như thế thì được phần xương của Tổ.
Cuối cùng, đến Ngài Huệ Khả, Ngài bước ra đảnh lễ Tổ ba lễ rồi lui lại đứng yên lặng.
Tổ nói: “Ngươi được phần tủy của ta”.
Ngay chỗ không nói đó là vô ngôn, không còn gì để nói hết, còn nói là còn tạo tác, thì được phần tủy. Nhưng nếu bây giờ nghe trong Sử nói sao mà mình bắt chước y như vậy thì đó là pháp bắt chước, không phải là cảnh giới thực tại của mình. Cho nên đến với các Thiền sư, chỉ cần nhìn là các Ngài biết mình bắt chước, đuổi ra liền.Thiền là trong sự sáng tạo của mỗi con người chúng ta. Pháp môn Hòa thượng dạy đúng, tông chỉ không mất nhưng mà Thầy bước đi bước nào, mình bước đi bước ấy thì không có sáng tạo, mà như vậy thì chưa phải là chân chánh học thiền. Bên Ấn Độ, nói về cảnh giới thực tại của thiền thì các Ngài nói về cảnh giới siêu nhiên, mênh mông, bao la, bát ngát, về pháp giới tánh là như thế, như thế… Nhưng đến với Thiền sư Trung Hoa thì sao? Thần thông và diệu dụng, gánh nước, bửa củi …. Qua bên Nhật Bản thì không phải vậy, cắm hoa thiền, trà đạo thiền, kiếm đạo thiền. Còn qua Việt Nam lại khác, toàn là thơ văn. Hỏi: “Thế nào là gia phong của Hòa thượng?” Thiền sư trả lời: “Áo rách che mây sáng ăn cháo. Bình xưa tưới nguyệt tối uống trà”. Đó là thiền. Lấy ví dụ cho dễ hiểu, cái ly này đổ nước vào gọi là ly nước, nhưng đổ vào cái lu gọi là lu nước, còn ở hồ thì là hồ nước, nhưng bản chất của nó là tánh ướt, nhưng tùy theo chỗ phương tiện thì nó có khác. Thiền cũng như thế.
Cổ đức có nói:
Vô tâm ấy chẳng phải là đạo,
Vô tâm còn cách một lớp rào.
Vô tâm chưa phải là đạo, mới chỉ là chỗ yên tịnh, lặng lẽ nhưng chưa có cái dụng chiếu soi thì chưa phải là đạo, phải có cái dụng chiếu soi thật sự từ nội tại của mình, nhận được mà chiếu ra các pháp thì mới gọi là thiền đốn ngộ.
Trong Thủ thuật nhà thiền có ghi lại, có một vị quan tên là Tiết sử Lý Đoan Nguyện, công việc bề bộn rất nhiều nhưng tu hành rất tinh tấn, ông tu ngày tu đêm, quên ăn quên ngủ. Còn chúng ta bây giờ tu chơi chơi, một ngày nóng bảy ngày lạnh thì biết bao giờ tới được chỗ đó? Một hôm, Thiền sư Đạt Quán nhìn ông nói: “Nếu mà không phải sức thị hiện há được như thế, vì sao lại không có chỗ vào?”. Có nghĩa là ông tu tập như thế, nếu là người thường, chẳng phải là bậc tái lai vào cuộc đời này thì không tu được như vậy, nhưng tại sao lại chưa bước vào được cửa thiền.
Ông mới hỏi:
- Bạch Hòa thường, thiên đường địa ngục có hay không? Thỉnh Thầy nói cho rõ.
Quý vị thấy không, tu như thế nhưng còn một cái nghi trong đầu, mà còn nghi thì còn chưa ngộ. Nhưng nhà Thiền bắt buộc mình phải nghi. Tiểu nghi thì tiểu ngộ, mà đại nghi thì đại ngộ. Nghe Hòa thượng nói câu gì đó, quý vị nghi thì đừng vội lên nhà khách hỏi quý Thầy, mà cứ ôm ấp khối nghi tại sao Phật nói như thế, tại sao Tổ nói như thế, tại sao Hòa thượng Trúc Lâm nói như thế?
Thiền sư Đạt Quán nói:
- Chư Phật hướng trong không nói có như mắt thấy hoa đốm giữa hư không. Còn Thái úy trong có mà tìm không như mò trăng đáy nước.
“Chư Phật hướng trong không nói có” là sao? Tức là trong cảnh giới thực tại không có một lời, không có một vật nào hết. Nhưng nếu giờ nếu chúng sanh nghe nói cái gì cũng không, buông luôn thì làm sao tu? Cho nên Phật mới hướng trong không mà nói có, đưa ra pháp thiện, pháp ác, có địa ngục, có Niết bàn, có sanh tử, có phiền não, có Bồ đề, có này có kia, có đủ thứ hết để chúng sanh sợ mà tu. Chúng sanh làm pháp thiện thì sanh thiên đường, làm pháp ác thì đọa địa ngục…Nhưng rồi cuối cùng thì “mắt thấy hoa đốm giữa hư không”. Bữa nào bệnh, quý vị nhặm mắt thấy hoa đốm loạn xạ trong hư không, nhưng khi mắt lành rồi còn thấy hoa đốm không? Cũng như lúc nằm mộng ngủ mê, thấy người ta rượt đuổi thì chạy, thấy gặp vàng thì mừng, thấy đủ thứ chuyện, nào thiện nào ác, nào có nào không, nào phải nào quấy nhưng khi giật mình tỉnh dậy thì không có gì hết, “bừng con mắt dậy thấy mình tay không”.
“Còn Thái úy trong có mà tìm không như mò trăng đáy nước”: Trong có là gì? Mình có sẵn tri kiến Bát Nhã, có đầy đủ năng lực như Phật, như Tổ mà trong có lại tìm không. Quý vị trong lúc công phu tìm cái gì? Nếu tìm cái gì thì như mò trăng đáy nước, mà trăng đáy nước mò không được, nó là cái bóng thôi. Ngược lại, quý vị nghe nói vậy, về nhà nhủ thầm kỳ này phải ngộ mới được. Ngộ cái gì? Quý vị tu một thời gian sẽ thấy, mình nói chiều nay ngồi nhất định phải định thì nó không định, rồi vào thất kỳ này quyết định phải ngộ đạo thì không ngộ được. Định thì nó tự định mà huệ thì nó tự huệ. Tự tánh tự định, tự huệ, có sẵn rồi nhưng từ vô lượng kiếp mình chất chứa rất là nhiều. Quý vị khi nào ngồi nghiệm lại sẽ thấy tâm mình không khi nào yên, lúc nào cũng suy nghĩ đủ thứ chuyện mà không buông được. Chưa nói đến đô la, hột xoàn, ngọc ngà châu báu mình không dám buông, mà ngay cả những thứ như ve chai, lông vịt có khi mình buông cũng không được. Không dám buông thì ngộ cái gì? Ngộ nghĩnh luôn thì có.
- Thật đáng cười, trước mắt thấy lao ngục không tránh, ngồi tâm nghe thiên đường muốn sanh, đâu chẳng biết vui sợ tại tâm, thiện ác thành cảnh. Thái úy nếu rõ tự tâm, tự nhiên không còn nghi gì nữa hết.
Nếu mà tột được tâm rồi thì không còn nghi gì hết, nhưng mà tâm thức mình biến hiện rất ngộ, quý vị nói cái gì cũng không, thôi làm ác đi thì có đọa địa ngục không? Chắc chắn sa đọa, bởi vì khi chết, tâm thức của quý vị chiêu cảm, biến hiện ra từng cảnh giới địa ngục tương ưng với những tâm niệm ác của mình.. Lúc này vừa khởi niệm thèm nước thì quỷ sứ rót nước đồng sôi, đói bụng quá thì ăn hòn sắt nóng. Rất là rõ, đừng cho rằng nói không rồi muốn làm gì thì làm. Phải giữ giới, tu thiền định, phát huệ, giống như mình dọn sạch cỏ rác thì có những lúc hạt giống bồ đề đã gieo trồng mới mọc được.
Rồi ông thưa:
- Tâm làm sao mà rõ?
Bây giờ nói phải rõ tự tâm, nhưng tâm làm sao mà thấy được?
Lúc này Thiền sư nói:
- Thiện ác đều chớ suy nghĩ.
Ngay chỗ thiện ác bặt hết, đừng suy nghĩ, đó là diệu tâm của mình. Có một lúc nào đó, trong tận sâu thẳm tâm thức của thiền định, quý vị cũng có thể thấy được. Ngồi thiền có những lúc thiện không nghĩ, ác không nghĩ thì đó là diệu tâm của mình, nhưng vừa khởi đây là diệu tâm thì liền mất.
Ông hỏi tiếp:
- Không suy nghĩ, tâm về chỗ nào?
Quý vị ai biết tâm về chỗ nào?
Thiền sư gõ “Cốp”, nói:
- Thỉnh Thái úy về nhà.
Ngay chỗ không còn suy nghĩ nữa thì về nhà thôi chứ còn gì nữa.
Ngay lúc đó, ông liền ngộ được diệu tâm.
Có nghĩa là phải có một phen nghi hoặc, phải có một phen suy tư rồi phải có một phen thiền định sâu sắc, bỏ ăn bỏ ngủ thì mới có lúc đốn ngộ được diệu tâm.
- II. THIỀN LÀ TÂM CHỨNG, KHÔNG PHẢI KHÁI NIỆM HAY LÝ LUẬN
Thiền Sư Na In nói: “Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết, một khái niệm, một lý luận, những cái gì cấu tạo bằng ảo giác, bằng khái niệm, bằng lý luận thì thiền không có mặt”.
Tức là Thiên chúa giáo tu thiền cũng được, Hồi giáo tu thiền cũng được, tất cả con người có tâm thiền đều tu thiền được. Cho nên Thiền vượt thoát cả tôn giáo, không có một khái niệm, lý luận trìu tượng nào hết. Nhưng ngặt một điều, có những người có tâm thiền nhưng chưa bao giờ nhận ra được tâm thiền,
Có khi tu một thời gian, quý vị tranh cãi: Thiền là thế này, là thế kia nhưng như thế thì thiền không có mặt. Thiền là chỗ vô tranh, không có tranh cãi nhưng luôn ở trong chánh định.
Có một vị Tướng quốc đến Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo xin xuất gia. Ông thưa với Sư:
- Bạch thầy! Hiện tại con đã từ bỏ hết tất cả danh lợi, giờ đây đối với con không còn gì quan trọng nữa, xin thầy cho con được xuất gia.
Thiền sư trả lời:
- Nghiệp ông tạo ở thế gian còn nặng nề, ông từ từ hãy xuất gia.
- Bạch Thầy, con đã buông hết tất cả rồi, vợ con thê thiếp, địa vị, của cải đều không thành vấn đề đối với con, xin Thầy cho con xuất gia ngay.
Sư vẫn bảo:
- Thôi hãy cứ từ từ rồi tính.
Quý vị xem trong Kinh điển Đại thừa, Đức Phật thời còn hành Bồ Tát đạo đã từng bố thí cả vợ, con, thành quách, đầu, mắt, tủy sống, … tất cả đều bố thí cúng dường hết. Nghe như vậy thì liệu mình có thành Bồ Tát được không? Quý vị phải nhớ buông đây là buông trong tâm thức của mỗi hành giả. Tức là trong cảnh giới dục nhiễm, tâm tham dục thèm muốn quý vị phải buông. Buông tâm tham ái thì tức là bố thí vợ, bố thí chồng, buông tâm dục nhiễm thì tức là bố thí con. Chỉ cần buông bao nhiêu đó mà buông không được nói gì đến buông thực sự, mà trong cảnh giới thực tại của thiền bắt buộc người hành giả phải buông.
Một hôm, ông dậy rất sớm đến trong chánh điện lễ Phật. Ngài Đại Huệ thấy, bèn hỏi:
- Ông vì sao dậy sớm đến lễ Phật như thế?
Ông bắt chước dùng thi kệ thiền ngữ để đáp:
Vì trừ lửa trong tâm,
Dậy sớm lễ Sư trưởng.
Ngài Đại Huệ bèn cười, dùng kệ đáp lại:
Dậy sớm như thế ấy,
Chẳng sợ vợ ngủ người?
Ông vừa nghe, liền nổi giận mắng:
- Lão quái này, sao nói năng xúc phạm đến người quá vậy!
Thiền Sư Đại Huệ liền cười ha hả, bảo:
Nhè nhẹ phẩy chiếc quạt,
Tánh lửa đã bừng lên.
Tánh ông nóng như thế,
Sao bảo buông xuống xong?
Mình nói thì rất là hay, nhưng đụng chuyện thì không được như vậy. Như vậy, để thấy rằng nói thì đơn giản nhưng hành rất là khó. Cho nên phải một phen đốn ngộ, một phen chuyển hóa nội tâm thì lúc này mới có chỗ đứng trong nhà thiền, từ đó một có một cái nhìn khác, không qua trung gian thiền định và trí huệ nữa.
Vào thời Đức Phật, có những người vào nghe một thời pháp liền chứng quả Tu đà hoàn. Có những lúc quý vị nhận ra được thân mình không thật, tâm mình không thật, hoàn cảnh không thật, con người không thật thì đó là ngộ. Còn đối với các Thiền sư, một khi ngộ thì trời đất rung chuyển hết, sáu phương chấn động. Không phải là sự rung chuyển, chấn động bên ngoài mà đó là sự rung chuyển, chấn động trong tâm thức. Những khái niệm mà ngày xưa quý vị nghĩ, giờ ngộ ra, tự nhiên quý vị có cái nhìn khác, mà chính cái nhìn khác đó là ngộ, là huyết mạch, là mạch máu của thiền. Cần nhất là chúng ta phải nhận được điểm này, còn không quý vị giữ giới, thiền định, trí huệ nhưng chưa chuyển hóa được thì vẫn là người đứng ngoài cửa.
Cho nên Lục Tổ Huệ Năng sau khi nhận được chỗ đó, một phen chuyển hóa rồi thì Ngài thốt lên:
Đâu ngờ tự tánh mình vốn tự thanh tịnh
Đâu ngờ tự tánh mình vốn không sanh diệt
Đâu ngờ tự tánh mình vốn tự đầy đủ
Đâu ngờ tự tánh mình vốn không dao động
Đâu ngờ tự tánh mình hay sanh muôn pháp.
Quý vị có bao giờ “đâu ngờ” mà thấy mình vẫn còn tham lam, còn phiền não không? Cũng mấy cái “đâu ngờ” nhưng lại là đâu ngờ chuyện khác.
“Do đó Thiền đòi hỏi chúng ta phải thực nghiệm, muốn sống với thiền ta phải thực sống với chính mình, nhìn thẳng vào tâm mình, đào xới và thân chứng với tâm thái tự do và bất động đó”.
Có nghĩa là muốn sống với thiền, phải sống thực với chính mình. Thiền sư Đạo Ngộ nói: “Biết thì đồng với phàm phu, mà không biết thì đồng với gỗ đá. Ngay chỗ đó các ông phải làm như thế nào? Nói, nói!”. Thiền là như thế. Trong lúc ăn là phải có ánh sáng Bát Nhã chiếu diệu vào chỗ ăn uống đó, biết tất cả, nhưng trong đó không thêm một niệm thứ hai. Còn nhiều khi quý vị uống nước mà cũng không biết mình đang uống gì, bữa ăn nhìn không có chén tương, trái ớt mà mình đòi thêm là trật. Muốn được như thế phải luôn sống với chính mình, đào xới tâm thức mình thì có một lúc nào đó quý vị mới đốn ngộ vào cảnh giới thực tại này.
Vào đời nhà Tống, có vị cư sĩ Tô Đông Pha và Thiền sư Phật Ấn là hai người bạn thân. Tô Đông Pha có cái nhìn và hiểu rất sâu về thiền. Một hôm, ông có chỗ rất tâm đắc nên viết một bài kệ và sai người mang đến chỗ Thiền sư Phật Ấn:
Đảnh lễ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Tám gió thổi không động
Hoa sen tím ngồi yên.
Thiền sư Phật Ấn không nói gì, ghi đằng sau: “Cục cứt, cục cứt” rồi gửi về lại.
Tô Đông Pha nhận được, tức giận hầm hầm, ngay lập tức liền đi thuyền qua sông đến gặp Thiền sư Phật Ấn hỏi cho ra nhẽ: “Tại sao tôi làm bài thơ này mà Ngài lại làm như vậy?”.
Thiền sư Phật Ấn cười, nói:
Tám gió thổi không động
Cục cứt thổi qua sông.
Cho nên Thiền là phải ngộ, thấy được từng tâm niệm của mình. Hành giả trong tâm thức phải luôn khao khát đòi hỏi như vậy thì tu mới tiến. Cho nên trong nhà Thiền không đòi hỏi mình phải khái niệm, lý luận, làm thơ hay làm văn gì cả mà chỉ thực sống, thực tu. Ở Đài Loan có một vị là tiến sĩ Phật học, nhưng có lần con bà bị chết đuối, bà đau khổ đến mức muốn chết theo, có người đem việc này ra hỏi thì được Hòa thượng Tinh Vân trả lời rằng, đó là do học hiểu được nhưng chưa thực chứng được. Giống như quý vị đang đói thì dù ăn bánh vẽ có lớn đến mấy cũng không no. Quý vị phải tụng kinh, sám hối, giữ giới, thiền định, làm tất cả các thiện pháp để làm trợ duyên, rồi sẽ có một lúc nào đó đốn ngộ vào cảnh giới thực tại. Cho nên Thiền không phải là nói mà đòi hỏi phải tu.
Trong Thiền thoại có một câu chuyện: Có vị Tăng tên Thiết Chu hiểu rõ được lý Bát Nhã. Một hôm ông đến chùa Tướng Quốc nói với một Thiền sư Độc Viên: “Bạch Hòa thượng, con cũng không, Hòa thượng cũng không, nhà này cũng không, pháp giới cũng không, cái gì cũng không hết”. Sẵn cái dùi chuông, Hòa thượng liền đánh vị Tăng một cái “Bốp”. Vị Tăng tức giận thì Thiền sư liền bảo: “Nãy vừa nói không sao bây giờ lại có?”. Mình nói không cũng hay lắm, nhưng chưa từng thực chứng được cảnh giới không đó thì mọi hiện tượng đều là có hết. Cho nên Thiền bắt buộc mình phải ngộ nhập. Một lúc nào đó mà tâm thái mình lắng đọng, không còn tư duy về quá khứ, hiện tại, vị lai, có một phen chuyển thân rồi thì đó là huyết mạch của Thiền. Sống với thiền là sống chỗ đó.
III. NGỘ LÀ SIÊU VIỆT NHỊ KIẾN
“Dung túng vọng tưởng tức là phàm phu”, chẳng hạn vọng tưởng nghĩ thiện, nghĩ ác, nghĩ có, nghĩ không, nghĩ phải, nghĩ quấy, nếu dung túng cho nó thì tức là phàm phu, nhưng “đoạn vọng tưởng là hàng Nhị thừa”, có nghĩa muốn làm sao đó chặt đứt vọng tưởng, đoạn sạch vọng tưởng. Còn pháp mà Hòa thượng dạy thì không qua hai cảnh giới đó. Theo tinh thần của Thiền tông, chỉ cần quý vị liễu vọng, rõ biết thực tánh của vọng là không có thực thể. Thấy được như thế rồi thì không dung túng vọng tưởng mà cũng không đoạn trừ vọng tưởng. Một khi biết được rồi thì mới hay vọng tưởng này huyễn sanh thì cũng huyễn diệt. Trong cảnh giới không dung túng, không đoạn trừ vọng tưởng thì các Ngài sống đều trong giới, định, tuệ chứ không phải dung túng như phàm phu ở ngoài đời. Khổng Tử khẳng định rằng: “Ta mười lăm tuổi để trí hết vào sự học, ba mươi tuổi thì thông suốt, bốn mươi tuổi thì hết nghi, năm mươi tuổi thì thõng tay, sáu mươi tuổi thì biết được mệnh trời, bảy mươi tuổi tùy lòng muốn mà không ra ngoài phép tắc”. Liễu vọng tức là không dung túng, cũng không đoạn trừ vọng tưởng, nhưng vọng tưởng khởi lên thì có ánh sáng Bát Nhã chiếu vào, chiếu đến đâu tan đến đó. Quý vị công phu một thời gian mới thấy, có một lúc nào đó mình chợt nhận ra được thì như Tổ Huệ Khả nói:
Ba thuở tìm tâm, tâm chẳng thấy
Tấc lòng kiến vọng, vọng hoàn không.
Vọng không có thật, rõ ràng như thế. Quý vị để ý, bữa nào quý vị ra sông, nhìn xuống sông thấy cái bóng của mình, giờ làm gì để cái bóng đó đi? Cái bóng đó sanh từ đâu ra? Sanh từ tự thân của mình. Cũng vậy, những vọng tưởng điên đảo, những niệm tham dục, sân hận này nó sanh từ cái cội nguồn chân thật. Cho nên các Ngài mới khẳng định: “Phiền não tức bồ đề”. Chúng ta trong cảnh giới thực tại đó nếu có trí Bát Nhã chiếu vào thì “phiền não cũng tức là Bồ đề”, còn nếu không có trí Bát Nhã chiếu thì có khi “phiền não tức cành hông”.
Tu một thời gian theo phương pháp của Hòa thượng sẽ thấy mình không phải đoạn phiền não chướng mà vọng tình chuyển thành đại bi, còn vọng tưởng thì chuyển thành đại trí. Tinh thần của Nhị thừa là diệt hành ấm, nhưng hàng Bồ Tát lại lấy hành ấm làm chủng trí Bát Nhã, đi vào cuộc đời này để làm lợi ích cho chúng sanh. Trong thực tại, quý vị tu nhưng vẫn bố thí, cúng dường, làm thiện, làm hết tất cả cho người chung quanh và nhân loại, những người khốn khổ mình sẵn sàng giúp, nhưng không chấp trước. Lúc này, những cái sở tri chướng, các hiểu biết, khái niệm, lý luận ngày xưa của mình bây giờ biến thành trí Bát Nhã để đi vào cuộc đời này. Cho nên Thiền sư Huyền Giác ngay lời đầu đã chỉ:
Anh thấy chăng?
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân.
Cái chỗ tuyệt học vô vi, cái chỗ không làm đó gọi là đạo nhân nhàn. Có nghĩa là mình còn tìm cách diệt vọng tưởng, đoạn vọng tưởng, đè vọng tưởng thì chưa phải là đạo nhân nhàn. Còn ở đây nói là “quân bất kiến”, có nghĩa là thấy được từng tâm niệm, từng vọng tưởng mà thấu tột được từng tâm niệm, từng vọng tưởng thì đó là một phen chuyển hóa thành đạo nhân nhàn. Có những người ngồi thiền rất cực, mồ hôi chảy đầm đìa vì đang chiến đấu với hàng ngàn vọng tưởng. Tu một thời gian biết được phương pháp rồi thì rất là nhàn, cứ yên tâm tu hành, kiếp này không xong thì kiếp sau. Đây không phải chuyện nói chơi. Tức là nếu kiếp này không xong thì kiếp sau, quý vị phải y cái pháp liễu vọng này, không theo pháp nào khác hết thì chắc chắn quả Phật có phần. Còn sáng quý vị tu pháp này, chiều tu pháp kia, mai lại tu pháp khác, sáng Tần, chiều Sở thì vô ích, tu nhiều mà không được.
Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân
Vô minh thật tánh tức Phật tánh
Ảo hóa huyễn thân tức pháp thân.
Chỉ là cái gì biết được cảnh giới đó, cái gì biết được có, cái gì biết được không, cái gì biết được nãy giờ vọng tưởng rất nhiều, cái gì thấu tột được bây giờ không còn gì nữa hết, cái gì thấy được chỗ đó? Như quý vị đứng ở trong nhà, khách vào biết, khách ra biết, cái gì cũng rõ biết hết.
Cái thân ảo hóa, hiện còn, hiện mất, có không này, ngay một phen nhận được chính là pháp thân. Ở đây nêu ra cho quý vị học mà chính bản thân chúng tôi cũng học.
Cho nên trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Ấn Tông hỏi Lục Tổ:
- Huỳnh Mai phó chúc, việc chỉ dạy như thế nào?
Huệ Năng bảo:
- Chỉ dạy thì không, chỉ luận về kiến tánh, chẳng luận về thiền định giải thoát.
Chỉ luận về kiến tánh, chỗ thấy được từng tâm niệm, vọng tưởng, sự vận hành của tâm thức, nhận chỗ đó, chứ không luận về thiền định và giải thoát. Chỉ có lúc nào chúng ta đạt được chỗ này thì mới được an ổn, mới đi đứng được tự do, mới tin chắc vào pháp môn đốn ngộ này. Pháp môn này mười phương chư Phật để lại, quả tình như thế. Nếu không có Hòa thượng ra đời, bảo đảm quý vị không biết về pháp môn này. Pháp này không phải chuyện đơn giản, đến mức độ mà Lục Tổ dạy người đồng kiến đồng hành mới nói, chứ nói mà người ta không tin, còn phỉ báng thì sẽ bị đọa địa ngục, rất tội. Nhưng tại sao hôm nay tôi nói? Là bởi vì quý vị có tâm Phật, có tâm thiền thì lúc này quý vị nghe sẽ tin, mà tin thì sẽ tu.
Ấn Tông thưa:
- Sao chẳng luận thiền định và giải thoát?
Huệ Năng bảo:
- Vì ấy là hai pháp, không phải là Phật pháp. Phật pháp là pháp chẳng hai.
Hễ mà nói thiền định thì có loạn tưởng mới có thiền định, nói giải thoát tức là có mê mờ, đều là hai pháp hết.
Ấn Tông hỏi tiếp:
- Thế nào là Phật pháp là pháp chẳng hai?
Huệ Năng bảo:
- Pháp sư giảng kinh Niết Bàn, rõ được Phật tánh, ấy là Phật pháp là pháp chẳng hai.
Rõ tột được chỗ đó thì chính điểm đó là cội nguồn của mười phương chư Phật nói, chỗ đó là diệu pháp Ma ha Bát Nhã Ba la mật.
Trong Thiền thoại, có một cư sĩ đến hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma:
- Bạch Hòa thượng, tâm con dâm dục dẫy đầy, làm sao tu theo pháp môn này được?.
Tổ nhìn thẳng, nói:
- Pháp môn của ta, chẳng luận về dâm dục, chỉ luận về kiến tánh.
Có nghĩa là trong sự mê mờ của tâm thức, quý vị vẫn còn thèm muốn một cái gì đó nhưng một khi kiến tánh rồi thì tất cả giống như hoa đốm giữa hư không. Trong cuộc sống đời thường, chúng ta vẫn còn phạm lỗi rất là nhiều, có những lúc phá giới, phạm trai, nhưng một khi đã kiến tánh rồi thì không bao giờ bước vào cảnh giới thứ hai nữa. Chỉ luận về kiến tánh, luận về ngộ thôi, không luận về chỗ nhỏ nhặt nữa thì đúng pháp môn này.
Cho nên có những hành giả thao thức, mong muốn đạt đến chỗ này mà sau khi chợt nhận ra rồi thì chuyện ngày trước giống như hoa đốm giữa hư không. Chỉ Thiền này mới khẳng định được là “Buông dao liền thành Phật”, tức là nói về pháp môn đốn ngộ này, chứ đừng hiểu rằng mình giết người, cướp của rồi buông dao là thành Phật, không phải vậy. Buông dao thành Phật là phải có một phen chuyển hóa về nội tâm của chính mình.
Cho nên chỉ luận về đốn ngộ mới gọi là:
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Chỉ luận về ngộ nên Lục Tổ khẳng định rằng
An tâm tại vọng tình
Ngay đó lìa ba chướng.
Ba chướng là gì? Là nghiệp chướng, phiền não chướng, báo chướng. Mà an tâm ở đâu? An tâm tại vọng tình. Tức là ngay vọng tưởng điên đảo mình an thì không cần phải tìm an ở đâu hết. Ngay chỗ phiền não, chỗ xấu nhơ, chỗ khổ cực, ngay chỗ cùng khốn nhất của cuộc đời mình thì quý vị an thân lập mệnh. Thiền là chỗ như thế. Chứ bây giờ quý vị tìm Bồ đề ở đâu? Tìm giải thoát ở đâu? Muốn tìm an lạc, giải thoát thì chính ngay chỗ ồn náo, chỗ lộn xộn nhất thì an tâm tại vọng tình, ngay đó tức khắc lìa ba chướng. An tâm là chỗ đó chứ không phải ở đâu khác hết.
“Cho nên ngộ là thấy xuyên suốt động dụng của thân tâm”, tức là ngay chỗ động dụng của thân tâm, đi, đứng, nằm, ngồi, quý vị phải xuyên suốt hết. Theo tinh thần của Thiền, đi biết rõ mình đi, đứng biết rõ mình đứng, tức là những động dụng của thân tâm, những cái vận hành trong nội tâm thì quý vị phải biết thì đó mới gọi là thiền.
Nhưng nãy giờ nghe nói như thế, nếu mình nghĩ về phải ráng ngộ thì Lục Tổ nói:
Tình còn một niệm ngộ
Sao lìa kiếp mê xưa.
Tình còn một niệm ngộ thì không đúng, cho nên chúng ta khẳng định rằng: Vọng tâm dừng thì sanh tử hết, đó là con đường đó của các vị A la hán chứng quả vị vô sanh, còn đi vào con đường Phật quả thì không đi con đường đó mà là phải một phen chuyển hóa nội tâm thật sự.
Động dụng của thức tâm rất là kỳ đặc như, sanh tử hết thì tác dụng của nghiệp không còn. Vì còn vọng tâm thì có vọng báo, mà có vọng báo thì có vọng luân hồi. Tức là có vọng tâm thì khi tác động của nghiệp đến, hoặc thiện hoặc ác thì tái sinh về cảnh giới tương ưng, làm thiện thì tái sinh về cảnh giới thiện, làm ác thì tái sinh về cảnh giới ác. Nhưng một phen chuyển hóa rồi thì tùy thân thọ dụng. Cái này phải tu tập nhiều kiếp mới được, nhưng ở đây chúng tôi vẫn nói là để chánh pháp nhãn tạng này ngày hôm nay được gieo trong tàng thức quý vị, chứ không mai kia mình chết, ra đời không biết gì hết thì uổng.
“Như vậy thiền là sát na bất động”, mà trong khoảng sát na bất động đó, quý vị phải một phen nhảy vào để lấy lại tự do trong cuộc sống đời thường này. Trong cảnh giới sát na bất động đó, dầu cho quý vị trải qua vô số kiếp luân hồi, đã từng làm nhiều điều ác nhưng mà cảnh giới đều vô nhiễm, nhờ vô nhiễm nên ngày hôm nay quý vị mới có duyên nghe pháp, học thiền để chứng ngộ con đường thiền này.
Tôi xin kể quý Phật nghe một câu chuyện về Chàng sĩ tử và cô lái đò. Ngày xưa có một ngôi làng nghèo, có một anh chàng rất thông minh, học đâu nhớ đó, được làng xóm bao bọc nuôi dưỡng để mai này lên kinh ứng thí, sau khi đỗ đạt về thì làng mới được mở mang, sung sướng. Học ba năm thì tứ thư, ngũ kinh đều thông suốt hết, anh lên đường ra kinh ứng thí. Trên đường đi thì đi qua một bến sông, có một cô lái đò hỏi, biết anh lên kinh thi liền cho một câu đối, nếu anh đối được thì cô sẵn sàng đưa anh qua bến sông mà không lấy tiền, còn tặng thêm một số tiền nữa. còn nếu không đối được thì phải hoàn trả số tiền lại. Anh rất tự tin nên đồng ý. Cô gái liền ra câu đố: “Hỏa tại thạch trung, trầm tích thủy thiên niên bất tuyệt”. Anh nghe xong, sửng sốt vì câu đố quá sâu sắc, có cái gì đó sâu kín, ẩn mật bên trong. Anh thẫn thờ từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, người ta thương đưa đồ ăn anh cũng không ăn, câu đố lúc nào cũng nằm trong đầu. Mình tu thiền cũng phải nghi kiểu đó. “Hỏa tại thạch trung” là lửa trong đá, “trầm tích thủy” là chìm trong nước, ngàn năm không mất. Như vậy có nghĩa là gì? Cuối cùng anh chết mà vẫn không có lời giải. Sau khi anh chết, vào buổi chiều nào cũng vậy, dân làng đều nghe thấy bên bờ sông câu “Hỏa tại thạch trung trầm tích thủy thiên niên bất tuyệt”, sợ quá bèn lập miếu thờ anh. Một hôm có một vị Thiền sư đến nghe câu chuyện xong, buổi chiều Ngài ra bờ sông, nghe thấy câu “Hỏa tại thạch trung trầm tích thủy thiên niên bất tuyệt”, Thiền sư liền nói: “Nguyệt tại không trung chiếu nhân gian vạn cổ trường tồn”. Anh nghe xong, tức khắc siêu thoát. Lửa trong đá chìm dưới nước gì? Nước tham ái, nước vô minh, nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã chìm trong đó nhưng Phật tánh không mất, đủ duyên thì trăng trên trời chiếu xuống nhân gian, ngàn năm không bao giờ thay đổi. Vẫn còn đó nhưng sở dĩ chúng ta không thấy được là vì vô minh, tham ái, ngày hôm nay nhờ Hòa thượng chỉ dạy, mình biết mình có một cái thực tại tối hậu, làm chủ đi vào cuộc đời này.
Có những lúc mình nghe nói chân tâm, Phật tánh, chủ nhân ông, mình không hiểu Thiền sư đang nói gì. Tôi lấy ví dụ, cái micro này, cái quạt máy này, hay các thứ lỉnh kỉnh khác hoạt động được là do có nguồn điện, nhưng mình thì chỉ biết và chạy theo những thứ bên ngoài đó mà không biết được nguồn điện. Cũng như vậy, chúng ta có một chủ nhân ông bên trong phát ra mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nhưng mình chỉ nhớ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, chạy theo thức tâm phân biệt mà quên ông chủ, mà quên thì mình chìm đắm trong phiền não, chìm đắm trong vô minh.
Cho nên Tổ Lâm Tế khai thị: “Trong thân của chúng ta có một vô vị chân nhân thường ra vào nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta mà không ai nhận biết. Hãy mở mắt tâm mà xem”.
Sở dĩ chúng ta không ai nhận biết được là vì đánh mất chính mình, thậm chí có những lúc quý vị ngồi thiền, đi kinh hành mà cũng không biết chính mình nữa. Mà sai lầm lớn nhất của đời người, đó là đánh mất chính mình. Còn bi ai lớn nhất của đời người là tự ti, mặc cảm. Có người nói: Con tu mấy năm trời mà vọng tưởng quá nhiều, ngồi thiền thì đau nhức không chịu nổi, pháp này cao quá, thôi con về tìm pháp nào khác để tu nhẹ nhẹ, làm phước, cúng dường thôi. Đó là bi ai lớn nhất của đời người. Quý vị tu đừng tự ti, mặc cảm, phải mạnh dạn lên.
“Này các ông, chỉ như người đang nghe pháp hiện nay không phải là tứ đại của các ông, mà hay sử dụng tứ đại của các ông. Nếu hay thấy được như thế mới là người đi, đứng được tự do”.
Nghe thì mình thấy dễ mà sao tu khó vậy. “Không phải là tứ đại của các ông mà hay sử dụng tứ đại của các ông”, nếu mình chấp vào tứ đại này là thân thì không phải, mà bên trong có gì điều khiển nó? Hôm nọ chúng tôi đi đám ma, thấy người chết nằm thẳng đơ, mắt không mở được, ăn cũng không ăn được. Tại sao bây giờ mình còn sống mình biết ăn uống, biết ngửi, biết nếm, biết mở mắt, nhắm mắt? Như vậy phải có cái gì bên trong đó mà mình không thấy được. Trong cuộc đời này có rất nhiều điều khổ não, nhưng may một điều là chúng ta biết đạo, nhờ biết đạo mà mình biết tụng kinh, sám hối, tọa thiền để có vốn ngày mai ra đi. Thấu tột được chỗ đó rồi thì quý vị đi vào cuộc đời này không còn sợ nữa mà đi đứng tự do, ung dung tự tại. Có những người sợ thị phi, hay cái sợ lớn nhất là sợ chết, nhưng nghiệm lại, pháp môn này nếu thấu tột được rồi thì không còn sợ gì nữa, kể cả cái chết.
“Theo chỗ thấy của sơn tăng, không chán ghét pháp nào, nếu ông mến thánh thì thánh chỉ là tên suông. Có một hạng người học hướng trong Ngũ Đài Sơn tìm Văn Thù, sớm đã lầm rồi. Trong Ngũ Đài Sơn không có Văn Thù, ông muốn biết có Văn Thù chăng? Chỉ là chỗ dùng trước mắt của các ông. Trước sau không khác, chỗ chỗ không nghi, đó là Văn Thù sống”.
Ngài chỉ rất là rõ, hướng trong Ngũ Đài Sơn tìm Văn Thù sớm đã lầm rồi, trong đó không có Văn Thù. Mà chính trong từng phút, trong từng giây, trong từng vận hành của tâm thức quý vị không nghi một điểm nào nữa, đó là Văn Thù sống vì trở về căn bản trí. Trở về căn bản trí rồi, quý vị ăn cũng có căn bản trí, uống cũng có căn bản trí, đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, động dụng đều có căn bản trí mà không nghi nữa, mà không nghi chính là Văn Thù sống, không tìm ở đâu nữa hết.
“Một tâm niệm sáng suốt không sai khác của ông, nơi nào cũng là chơn Phổ Hiền”, tức làm các hạnh, làm phước mà không chấp trước, không thủ không xả, không năng không sở, không chủ không khách, đó là Phổ Hiền có mặt.
“Một tâm niệm tự hay mở trói tùy chỗ giải thoát của các ông, đó là pháp chánh định của Quán Âm hỗ tương làm chủ, làm bạn ra thì đồng thời ra, một tức là ba, ba tức là một, Hiểu được như thế mới cho xem Kinh”.
“Đại đức tìm vật gì? Hôm nay đạo nhân không nương tựa đang nghe pháp ở trước mắt rõ ràng phân minh, chưa từng thiếu thốn”.
Đừng có tìm vật gì, nãy giờ mình nghe pháp thì nghe bằng gì, ai biết? Nếu dùng lỗ tai mà nghe thì là bậc hạ, dùng tâm nghe pháp là bậc trung mà dùng thần nghe pháp tức là bậc thượng. Cái nghe và cái bị nghe đồng thời có mặt trong giờ phút thực tại, thì chính đó là người biết đang nghe pháp rõ ràng trước mắt của các ông.
“Nếu ông muốn cùng với Phật, Tổ không khác thì chỉ thấy như thế, chớ nên nghi ngờ. Ông tâm tâm không khác gọi là Tổ sống, tâm nếu có khác thì tánh tướng khác nhau, tâm nếu không khác thì tánh tướng không riêng biệt”.
Có nghĩa là muốn cùng với Phật, Tổ tương ưng thì tâm tâm không khác, nếu tâm khác thì tánh tướng khác nhau. Chẳng hạn quý vị nghe cũng thấm lắm, nhưng ra ngoài cổng thì quên hết, phiền não vẫn là phiền não thì tánh tướng khác, còn nghe, tin chắc pháp như thế, mình phải tu như thế thì cùng với Phật, Tổ tương ưng.
Vừa nói xong, có một vị Tăng hỏi: “Người chân thật không ngôi vị là gì?” Thiền sư Lâm Tế nói: “Cục cứt khô”.
Chỗ này hay lắm, cho nên trong thực tại tối hậu của thiền là đều quét sạch, không có một tướng nào để chúng ta chấp thủ hết. Nghe “cục cứt khô”, quý vị tá hỏa tam tinh thì ngay đó là thiền, là huyết mạch, là sự sống của thiền.
Thực tại tối hậu nằm ở đâu?
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm hoa sân trước một cành mai
Từ đầu giờ đến cuối giờ cùng đại chúng ở trong mộng mà nói mộng, thật là quậy sông thành sóng, vết thương đang lành lại khoét thành máu chảy. Thật là đáng tức cười.
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm cõi nước Phật
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu khổ muôn loài
Nguyện những ai xem qua
Đều phát tâm Bồ Đề
Mãn một báo thân này
Đồng chứng quả Diệu Lạc.
Mục lục
- 1. THIỀN – CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT TRI KIẾN
- 2. VÔ THƯỜNG CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN TUỆ GIÁC
- 3. HÃY LUÔN QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT TRONG CUỘC SỐNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
- 4. LÀM THẾ NÀO PHÁT KHỞI BỒ ĐỀ TÂM
- 5. NHẪN LÀ CHÁNH HẠNH THÀNH PHẬT
- 6. GIỚI LÀ CON ĐƯỜNG DUYÊN THÀNH PHẬT ĐẠO
- 7. LỜI THIỀN TRONG CUỘC SỐNG
- 8. NĂM PHÁP CHE LẤP TỰ TÁNH BÁT NHÃ
- 9. THIỀN – CON ĐƯỜNG CỦA SỰ CHỨNG NGHIỆM
- 10. TỊNH ĐỘ NƠI ẤY BÂY GIỜ Ở ĐÂY
- 11. THIỀN - CON ĐƯỜNG VÔ SỞ TRỤ
- 12. NGỘ LÀ HUYẾT MẠCH CỦA THIỀN
Tìm kiếm
Tác giả
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 89974
- Online: 42