Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký (tập 3)
05/06/2018 | Lượt xem: 18
Danh mục: Kinh - Luật
Tác giả: HT. Thích Thông Phương
Lời Tựa
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Giảng Ký này do chúng tôi giảng cho chư Tăng tại Thiền viện Trúc Lâm, rồi được quý Sư cô hợp tác với Phật tử ghi chép lại, xong gửi về chúng tôi chỉnh sửa; sau đó một số Tăng Ni và Phật tử phát tâm ấn hành để làm lợi ích rộng rãi đến nhiều người. Nhân duyên hội tụ đầy đủ, Bộ Lăng Nghiêm Giảng Ký này được hình thành và đến tay người đọc.
Tuy nhiên, nghĩa lý kinh Lăng Nghiêm rất sâu, rất rộng, rất nhiệm mầu, vượt ngoài thức tình suy nghĩ hay ngôn ngữ luận bàn, vậy làm sao có thể giảng, có thể ghi chép được? Song nếu một bề im lặng mãi thì ai biết được đây?
Do đó, Đức Phật cũng từ chỗ không thể nói mà phương tiện nói. Và nay đây cũng từ chỗ khó nói mà phương tiện giảng nói, từ chỗ không thể ghi chép mà phương tiện ghi chép. Những mong người đọc khéo hiểu được, đây chỉ là phương tiện, mà cần phải đạt sâu ý ngoài lời thì cũng không đến nỗi uổng phí vô ích.
Ôi, chân tâm sáng suốt nhiệm mầu ai ai cũng sẵn đủ, nhưng vì sao phải làm chúng sanh vô minh, sống trong vòng hư vọng lưu chuyển không dừng thế ấy? Chỉ vì một niệm bất giác ban đầu, quên mất cái sẵn chân thật sáng suốt nhiệm mầu ấy mà vọng khởi thành sai biệt có nhiều thứ, đến nỗi che mất cả cội nguồn chân thật xưa nay ấy!
Thanh tịnh bản nhiên bỗng sanh núi sông, quả đất! Như Diễn-nhã-đạt-đa từ chỗ không cuồng mà phát cuồng bỏ chạy. Cái đầu vẫn sẵn đó, mà bảo là mất đầu rồi đi tìm đầu?!
Có Ai thấy chăng cái cuồng của chính mình đó?
Không cuồng, tại sao vẫn làm chúng sanh điên đảo đây?
Thật cuồng, thì còn Ai có biết để chạy tìm?
Mong sao mỗi người ngay đây thức tỉnh trở lại xem!
Mới hay, Ân Phật quá lớn lao không thể nghĩ bàn! Dù tán nhỏ thân này như vi trần mà phụng thờ Phật trong vô số kiếp cũng khó đáp đền!
Một chút công đức này có thấm là bao !
Tuy nhiên, một chút ánh sáng soi đường cho nhau trong đêm tối vô minh sao bảo là không cần thiết?
Cuối cùng, nguyện đem công đức này, hồi hướng chia đều cho tất cả chúng sanh trong pháp giới đều được thấm nhuần lợi ích không phân chia xa gần, đây kia ngăn cách.
Này nhé !
Nguồn tâm chân thật sẵn đây rồi,
Sao phải khởi thêm cái chiếu soi?
Giác minh, minh giác lầm ngay đó !
Hỡi ai ! Có thấy, Thấy chăng, ôi !
Thấy chăng, ôi !
Đáng tiếc cho kìa, một kiếp người !
Thiền viện Trúc Lâm
Mùa xuân Đinh Dậu 2017
THÍCH THÔNG PHƯƠNG
-
1. MỤC 12 ĐÁNH CHUÔNG NGHIỆM TÁNH THƯỜNG
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Như Phật đã dạy, muốn cầu quả thường trụ, chỗ phát tâm tu nhân cần phải cân xứng với danh mục của quả vị. Bạch Thế Tôn! Như trong các quả vị Bồ-đề, Niết-bàn, Chân Như, Phật Tánh, Yêm-ma-la thức, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, bảy thứ danh hiệu ấy tuy có khác mà thể tánh đều thanh tịnh viên mãn, vững chắc như Kim cang vương, thường trụ không hoại diệt. Nếu cái thấy nghe này ngoài những tướng tối sáng, động tịnh, thông bít, rốt ráo không có tự thể, cũng như tâm niệm rời tiền trần vốn không thật có, tại sao lại đem cái rốt ráo đoạn diệt đó dùng làm nhân tu hành mà muốn được bảy quả thường trụ của Như Lai. Bạch Thế Tôn! Nếu rời sáng tối rốt ráo là không, như không có tiền trần thì tự tánh của tâm niệm bị diệt mất, tới lui xoay vần suy xét cho chín chắn vốn không có tâm và tâm sở của con, vậy con đem cái gì mà lập thành nhân để cầu Vô thượng giác? Đức Như Lai trước đã dạy, tánh hay biết yên lặng, viên mãn thường trụ, thật là lời nói trái lẽ thường, rốt cuộc chỉ thành hý luận, làm sao nhận được lời nói của Như Lai là chân thật. Cúi mong Đức Như Lai mở lòng đại bi khai ngộ chỗ mê lầm cho chúng con”.
GIẢNG GIẢI:Đoạn trên, Phật dạy ngay nơi các căn nhổ sạch cái hư vọng dính khằn, thì các phù trần và những tướng biến hóa sẽ chuyển thành tri giác Vô thượng, không gì làm mờ tối được nó. Tức ngay nơi căn chuyển lại, lấy chỗ đó làm chỗ tu hành. Nhưng Ngài A-nan chưa nhận ra ý chỉ của Phật, Ngài còn nghi căn tánh, tâm niệm rời tiền trần không có tự thể, tức thành đoạn diệt, làm sao lập thành cái nhân tu để cầu quả thường trụ Vô thượng giác. Vì ở trên nói cái nghe nếu rời tiếng không có tự thể, cái thấy rời sắc cũng không có tự thể, như vậy là nó thuộc sanh diệt; nếu lấy chỗ đó làm nhân tu cầu quả Vô thượng giác, tức quả thường trụ, là nhân trái với quả, nên Ngài mới khởi nghi.
Ở trước, Phật đã nói rõ căn trần đã tiêu thì tánh giác minh nhiệm mầu cùng khắp, hoặc nói nước nóng làm tiêu băng, băng trở về nước, chớ đâu trở thành đoạn diệt, nhưng Ngài A-nan còn chưa thấu rõ. Nói thấy nghe và những tâm niệm rời tiền trần không có tự thể, là ngầm chỉ nó nguyên là thể giác thôi, chớ không riêng có, khiến mỗi người ngộ ngay vọng tức là chân, đâu phải thành đoạn diệt, mà nghi là sanh diệt không hợp với quả thường trụ, rồi nghi lời Phật thành hý luận, đâu ngờ chính mình rơi vào hý luận mà không hay biết.
Bởi vì Ngài A-nan chưa thấy được ý chỉ của Phật, nên cầu Phật chỉ rõ thêm. Ngài hỏi đây cũng là hỏi chung cho nhiều người vì có nhiều người cũng nghi chỗ đó.
CHÁNH VĂN:
Phật bảo ông A-nan: “Ông tuy học rộng nghe nhiều, mà các mê lầm chưa hết, trong nhân chỉ biết suông cái nhân của điên đảo, mà cái điên đảo hiện tiền thật chưa hay biết, Tôi e cho tâm thành thật của ông vẫn chưa tin phục.
GIẢNG GIẢI:
Phật trách Ngài A-nan tâm chưa thật tin phục. Phật đã chỉ rõ ngay căn trần hư vọng là chỗ điên đảo, chỗ phát khởi phiền não. Ngài cũng chỉ rõ cái thấy rời tiền trần không có thật thể, khiến người không nhận theo trần rồi khởi cái thấy biết hư vọng. Tức muốn chúng ta đừng để trên đầu lại thêm đầu. Ngay đó thường thấy biết rõ ràng không mê, thì không bị căn trần làm mờ. Chính ngay đó là hợp với quả vị thường trụ rồi, còn nghi gì nữa? Phật đã ngầm chỉ mà Ngài A-nan không thấy, nên Phật mới quở trách: “Trong tâm ông chỉ biết suông cái nhân của điên đảo, mà cái điên đảo hiện tiền lại không hay biết”.
CHÁNH VĂN:
Nay Tôi thử đem các việc thế gian để trừ nghi cho ông”.
Liền khi ấy, Đức Như Lai bảo La-hầu-la đánh một tiếng chuông và hỏi A-nan rằng: “Nay ông có nghe chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ có nghe”.
Khi tiếng chuông hết ngân, Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ không nghe”.
Khi ấy La-hầu-la lại đánh một tiếng chuông nữa, Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ có nghe”.
Phật lại hỏi A-nan: “Thế nào là ông có nghe và thế nào là ông không nghe?”.
A-nan và đại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông nếu đánh lên thì chúng con được nghe, đánh lâu tiếng hết, âm vang đều dứt, thì gọi là không nghe”.
Đức Như Lai lại bảo La-hầu-la đánh một tiếng chuông nữa và hỏi A-nan rằng: “Theo ông thì nay có tiếng chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ có tiếng”.
Rồi giây lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi: “Theo ông nay lại có tiếng chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ không tiếng”.
Lát sau La-hầu-la lại đánh tiếng chuông nữa. Phật lại hỏi A-nan: “Nay đối với ông có tiếng chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ có tiếng”.
Phật hỏi A-nan: “Thế nào mà ông gọi rằng có tiếng và thế nào gọi là không tiếng?”.
A-nan và đại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông đánh lên thì gọi là có tiếng, đánh lâu tiếng hết, âm vang không còn thì gọi là không tiếng”.
Phật bảo A-nan và đại chúng: “Hôm nay các ông sao nói trái ngược lộn xộn như thế!”.
A-nan và đại chúng đều bạch Phật: “Thế nào Thế Tôn bảo chúng con là nói trái ngược lộn xộn?”.
Phật bảo: “Tôi hỏi ông về nghe, thì ông nói là nghe. Hỏi ông về tiếng, thì ông nói là tiếng. Chỉ cái nghe và cái tiếng mà ông trả lời không nhất định, như thế làm sao không gọi là trái ngược lộn xộn? A-nan! Tiếng hết không còn âm vang, ông nói rằng không nghe, nếu thật không nghe, thì tánh nghe đã diệt đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên ông làm sao mà biết tiếng? Biết có biết không tự là thanh trần hoặc có hoặc không, chớ tánh nghe kia há lại vì ông mà thành có thành không. Nếu tánh nghe cho là thật không thì ai biết là không nghe?
Thế nên A-nan! Tiếng trong cái nghe tự có sanh diệt, chẳng phải vì ông nghe tiếng sanh tiếng diệt, khiến cho tánh nghe của ông là có hay là không. Ông còn điên đảo lầm cho cái tiếng làm cái nghe, thì đâu lạ gì không mê muội cho cái thường làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rời các tướng động tịnh, đóng mở, thông bít, thì cái nghe không có tánh”.
GIẢNG GIẢI:
Phật khai thị tánh nghe thường trụ rõ ràng, chứng thật cho thấy nó không phải đoạn diệt. Chỗ này phải lặng tâm, lắng lòng quán kỹ, đừng suy luận theo tình thức sẽ cảm nhận sâu được điều không thể nghĩ bàn ở ngay cái nghe này đây.
Phật bảo La-hầu-la đánh tiếng chuông rồi hỏi Ngài A-nan và đại chúng có nghe chăng, tất cả đều đáp có nghe. Đánh lâu tiếng chuông dứt, không còn ngân nữa, Phật lại hỏi có nghe chăng, tất cả đều đáp không nghe. Đây là chỗ lầm mà đa số người thế gian không thấy được. Tuy tiếng chuông dứt không còn ngân, nhưng còn tiếng Như Lai hỏi có nghe chăng, và mọi người cũng biết trả lời là không nghe, tức còn nghe tiếng Phật hỏi. Nghe tiếng Phật hỏi để đáp, như vậy đâu phải hoàn toàn không nghe, nếu thật không nghe làm sao biết trả lời Phật? Người đời đa số đều lầm, không thấy được chỗ này, rõ ràng là sống mê theo tiếng, đồng hóa mình với tiếng, mà quên mất cái hiện tiền!
Thêm nữa, khi Phật bảo La-hầu-la lại đánh chuông, hỏi đại chúng có nghe không, tất cả đều đáp có nghe. Mới đó nói không nghe, bây giờ nói có nghe, vậy cái nghe ở đâu chạy lại? Rõ ràng điên đảo là đó! Cho nên Phật mới gạn kỹ: “Thế nào là có nghe? Thế nào là không nghe?”. A-nan và đại chúng đều đáp: “Hễ có tiếng chuông ngân vang là có nghe, không có tiếng chuông hay tiếng chuông dứt là không nghe”. Ngay đó đã lộ ra cái lầm rồi, có tiếng chuông thì có nghe, không có tiếng chuông thì không nghe, vậy là đồng hóa cái nghe với cái tiếng.
Hỏi vậy mà A-nan và đại chúng vẫn chưa ngộ, nên Phật lại bảo La-hầu-la đánh chuông tiếp. Khi tiếng chuông vang lên, Phật hỏi có tiếng chăng, A-nan và đại chúng đều đáp có tiếng. Khi tiếng chuông ngưng, hết vang Phật lại hỏi có tiếng chăng, A-nan và đại chúng đều đáp không tiếng. Phật lại bảo La-hầu-la đánh tiếp tiếng chuông rồi hỏi có tiếng chăng, tất cả đều đáp có tiếng. Phật gạn: “Thế nào là có tiếng? Thế nào là không tiếng?”. A-nan và đại chúng đều đáp: “Tiếng chuông đánh lên là có tiếng, đánh lâu tiếng dứt là không tiếng”. Cũng đáp y như câu trước, trước hỏi nghe thì đáp nghe, bây giờ hỏi tiếng thì đáp tiếng, đồng hóa cái nghe với cái tiếng. Chỉ có bấy nhiêu đó thôi mà lộn xộn, nên Phật quở: “Tại sao các ông hôm nay điên đảo lộn xộn như vậy!”, trả lời không rõ ràng. Chỉ cái nghe với cái tiếng mà không phân biệt chính xác. A-nan và đại chúng vẫn chưa nhận ra, Phật mới khai thị thêm: “Tôi hỏi ông về nghe thì ông nói là nghe, hỏi ông về tiếng thì ông nói là tiếng, chỉ cái nghe và tiếng mà trả lời không nhất định, không phải điên đảo lộn xộn là sao?”. Phật dạy: “Tiếng hết không còn âm vang, ông nói không nghe, nếu thật không nghe thì tánh nghe đã diệt, đồng như cây khô. Khi tiếng chuông đánh trở lại, tại sao ông còn biết có tiếng? Cái nghe nếu thật diệt rồi thì đâu còn nghe nữa. Sự thật biết có biết không tự là thanh trần hoặc có hoặc không, chớ tánh nghe đâu phải vì đó mà thành có thành không”.
Đây là Phật còn chưa nói hết: “Nếu tiếng dứt hỏi ông có nghe không, ông đáp không nghe, không nghe tại sao ông nghe tôi hỏi mà trả lời?”. Như vậy ngay cái thứ nhất là đã lầm rồi.
Thứ hai là nếu quả thật không nghe, tức cái nghe đã theo cái tiếng diệt mất, thì khi tiếng chuông thứ ba đánh lên sẽ không còn nghe nữa, vậy mà vẫn nghe, thì cái nghe ở đâu chạy lại? Đây là cái lầm thứ hai.
Có và không là thuộc về tiếng, là thanh trần hoặc có hoặc không, đâu có dính dáng gì với tánh nghe. Tánh nghe vẫn luôn luôn có mặt, chưa từng thiếu vắng. Người mê đồng hóa cái nghe với cái tiếng. Đúng ra, có tiếng chuông nghe có tiếng chuông, không có tiếng chuông nghe không có tiếng chuông, rõ ràng như vậy. Nếu hoàn toàn không nghe thì cả tiếng nói, tiếng chim, tiếng đại chúng ai ho lên cũng đều không nghe, sự thật không phải vậy, chỉ không nghe tiếng chuông, còn những tiếng khác vẫn nghe. Cho nên trong cái nghe, thanh trần tự sanh tự diệt, chúng ta đừng đồng hóa cái nghe với cái tiếng.
Phật kết lại: “Ông không nên nói rời tướng động tịnh, đóng mở, thông bít thì cái nghe không có tánh”. Những cái đó thuộc về trần, còn tánh nghe thì không sanh diệt. Phật đã ngầm chỉ tánh không sanh diệt sẵn trong tánh nghe, do người tự mê, điên đảo nhận lấy cái sanh diệt, quên mất cái không sanh diệt. Nếu giác trở lại là đầy đủ cái nhân không sanh diệt, tức hợp với quả rồi, đâu còn gì nghi!
CHÁNH VĂN:
Như người ngủ say trên giường gối, trong lúc người kia đang ngủ, trong nhà có người giã gạo. Người ấy ở trong chiêm bao nghe tiếng chày giã gạo, lầm cho là tiếng gì khác, hoặc cho là tiếng trống, hoặc là gióng chuông. Tức ngay khi trong mộng, người ấy tự lấy làm lạ: “Sao tiếng chuông lại vang lên như là tiếng cây tiếng đá?”. Khi ấy chợt tỉnh dậy biết là tiếng chày giã gạo thì người ấy tự bảo người trong nhà: “Chính khi tôi chiêm bao lầm tiếng chày này cho là tiếng trống”. A-nan! Người ấy khi ở trong chiêm bao đâu có nhớ những việc động tịnh, mở đóng, thông bít; thân người tuy nằm ngủ nhưng tánh nghe không mờ tối; dẫu cho thân hình ông có tiêu tan, mạng căn có dời đổi diệt mất, làm sao tánh nghe ấy lại vì ông mà tiêu diệt được?
GIẢNG GIẢI:
Phật chỉ rõ tánh không sanh diệt ở sẵn trong đây. Như người nằm ngủ nghe tiếng chày giã gạo, vì khi ngủ không có thức phân biệt nên không phân biệt rõ là tiếng chày giã gạo mà nghe như tiếng trống tiếng chuông. Vậy ngay khi ngủ, tánh nghe cũng không mất, vẫn nghe nhưng không phân biệt rõ vì không có thức chen vào.
Tôi cũng có kinh nghiệm tương tự. Lúc còn ở chùa Bửu Minh, một hôm tôi nằm ngủ trưa, nghe mé bên kia chùa xay đậu nành. Ở quê, xây đậu nành làm đậu hủ, đậu nành còn nguyên hột phải bỏ vào cối xay cho bể thành hai, rồi đãi bỏ vỏ lấy hạt trong ruột, ngâm nước nở ra rồi mới xay vắt lấy nước làm đậu hủ. Vì xay khô nên có tiếng động lớn, tôi ngủ nghe như có tiếng nhạc vang vang, đến khi thức dậy mới biết bên kia đang xay đậu nành. Rõ ràng khi ngủ vẫn có nghe. Đó là tôi kinh nghiệm thực tế đàng hoàng, chứng minh điều Phật đã nói trong kinh.
Như vậy khi ngủ tánh nghe không mất, tuy không nhớ động tịnh, đóng mở, mà vẫn không thiếu. Chúng ta nghiệm kỹ, nghiệm sâu sẽ cảm thông được lời Phật dạy. Từ đó tin chắc rằng, dù thân hình này có tiêu tan, mạng căn có dời đổi diệt mất, nhưng làm sao tánh nghe hoại được mà thành đoạn diệt.
CHÁNH VĂN:
Do các chúng sanh từ vô thủy đến nay theo các thứ sắc thanh dong ruổi với vọng niệm mà lưu chuyển, chưa từng khai ngộ Bản Tánh Thanh Tịnh Diệu Thường; không theo cái thường chỉ theo các thứ sanh diệt, do đó mà đời đời bị tạp nhiễm phải chịu lưu chuyển. Nếu bỏ cái sanh diệt, giữ tánh chân thường, cái sáng suốt chân thường hiện tiền, các thứ tâm niệm căn, trần, thức đồng thời tiêu mất. Tướng của vọng tưởng là trần, tình phân biệt là cấu, cả hai đều xa lìa, thì pháp nhãn của ông liền được trong suốt, làm sao lại không thành bậc Vô thượng tri giác?”.
GIẢNG GIẢI:
Do các chúng sanh từ vô thủy đến nay sống với vọng niệm, đuổi theo các trần nên mới thành lưu chuyển, thành sanh diệt, mà chưa từng khai ngộ được bản tánh thanh tịnh diệu thường. Vì thấy theo chiều sanh diệt nên mới nghi có đoạn diệt. Đó là sống trái với cái chân, theo cái vọng, Phật gọi là đời đời bị tạp nhiễm, phải chịu lưu chuyển.
Nếu ngộ cái sanh diệt, không lầm theo nó nữa, nhận ra tánh chân thường sáng suốt rồi sống trở lại, không còn bị các thứ tâm niệm căn, trần, thức che ngại, gọi là đồng thời tiêu mất. Tiêu mất là như vậy, chớ không phải giống như đốt thành tro.
Như Đức Phật hay các vị Bồ-tát ngộ đạo rồi vẫn còn mắt tai đây chớ đâu có tiêu. Nhưng các Ngài thấy suốt tất cả, không có gì che ngại được. Bởi các Ngài chỉ là một tâm tánh sáng suốt xưa nay, không có cái thứ hai chen vào.
Đức Phật nói rõ: “Các tướng vọng tưởng là trần, tình phân biệt là cấu, cả hai đều xa lìa thì pháp nhãn của ông liền được trong suốt. Như vậy làm sao không thành bậc Vô thượng tri giác?”. Tướng vọng tưởng là trần, tình phân biệt là cấu, hai thứ đó che mờ tánh sáng suốt xưa nay. Sống theo tình phân biệt, đuổi theo tướng vọng tưởng, bị hai thứ đó che ngại, đâu còn nhớ tánh chân thật của mình. Bây giờ không lầm theo nó nữa, hết bị nó che mờ thì pháp nhãn trong suốt, tức chuyển thành tri giác Vô thượng chứ gì. Cái thấy biết sáng suốt chân thật này vượt lên cái sanh diệt, nó rõ biết sáng suốt không còn mê. Vậy là ngay vọng tức chân, chẳng cần tìm cái chân nào khác. Trước cũng là tri giác, nhưng là tri giác chúng sanh, tri giác mê; bây giờ chuyển thành Tri giác vô thượng, tri giác của Phật. Thấy rõ như vậy thì hết nghi ngờ.
Đức Phật khai thị để chúng ta thấy rõ ngay cái sanh diệt có cái không sanh diệt. Ngộ được chỗ này sẽ hết nghi thành đoạn diệt, cho cái nhân khác với quả, mà trái lại rõ biết nhân quả khế hợp nhau.
***
-
2. MỤC 13 NÊU RA CĂN ĐỂ CHỈ CHỖ MÊ
CHÁNH VĂN:
A-nan bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Như Lai tuy nói nghĩa quyết định thứ hai, song nay con xem trong thế gian, những người mở gút, nếu không biết đầu gút ở đâu, thì con tin chắc rằng người ấy không thể nào mở được.
Bạch Thế Tôn! Con và hàng Thanh Văn hữu học trong hội cũng giống như vậy. Từ vô thủy đến nay chúng con cùng với các thứ vô minh đồng sanh đồng diệt. Tuy được thiện căn nghe nhiều Phật pháp thế này, nhưng tiếng là xuất gia mà cũng như người bị bệnh rét cách ngày. Cúi mong Đức Thế Tôn mở lòng đại bi thương xót kẻ trầm luân, chính nơi thân tâm hiện nay chỉ cho chúng con thế nào là cột và làm sao để mở, cũng khiến cho chúng sanh khổ não đời vị lai được ra khỏi luân hồi, chẳng rơi vào ba cõi”.
Nói lời ấy rồi tất cả đại chúng năm vóc gieo xuống đất, khóc lóc thành khẩn trông chờ lời khai thị vô thượng của Đức Như Lai.
GIẢNG GIẢI:
Đoạn trước Phật đã chỉ gút là ở ngay nơi sáu căn, cũng ngay nơi sáu căn mà mở. Nhưng Ngài A-nan chưa biết đầu mối của gút và cách mở thế nào, nên thưa hỏi thỉnh Phật khai thị thêm. Ngài A-nan tự nói mình tuy nghe pháp nhiều nhưng giống như bị rét cách ngày, hết rồi rét trở lại, chưa thật hết mê, xin Phật chỉ rõ ngay thân tâm này thế nào là cột, làm sao để mở.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy, Đức Thế Tôn thương xót A-nan và đại chúng các hàng hữu học trong hội, rồi cũng lại vì chúng sanh đời vị lai tạo cái nhân xuất thế và làm đạo nhãn cho tương lai. Ngài dùng cánh tay sắc vàng sáng ngời xoa trên đảnh ông A-nan. Liền khi ấy khắp tất cả các cõi nước của chư Phật trong mười phương, sáu thứ rung động; các Đức Như Lai nhiều như số vi trần ở trên thế giới ấy, mỗi vị đều có hào quang báu từ trên đảnh phóng ra, hào quang ấy đồng thời ở thế giới kia phóng đến rừng Kỳ-đà soi trên đảnh Đức Như Lai. Khi ấy, tất cả đại chúng được việc chưa từng có.
Khi ấy, ông A-nan và cả đại chúng đều nghe mười phương các Đức Như Lai như số vi trần, tuy khác miệng nhưng đồng một lời bảo với A-nan rằng: “Lành thay! A-nan! Ông muốn biết câu sanh vô minh là cái đầu gút khiến ông luân chuyển sanh tử, thì nó chính là sáu căn của ông chớ không phải vật gì khác. Ông muốn biết tánh Vô thượng Bồ-đề khiến ông mau chứng an lạc giải thoát tịch tịnh diệu thường cũng là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác”.
GIẢNG GIẢI:
Phật thương xót Ngài A-nan và đại chúng, các hàng hữu học trong pháp hội hiện tại và chúng sanh đời vị lai mà tạo cái nhân xuất thế. Ngài lấy tay xoa đảnh A-nan, xoa đảnh để khiến cho thân thiết mà tiếp nhận. Ngay đó mười phương chư Phật đồng phóng quang trên đảnh, soi đến trên đảnh Đức Phật Thích Ca, biểu thị Phật Phật đồng cảm thông với nhau, chỗ này vượt ngoài cái phân biệt của thường tình, người ngoài không biết. Mười phương chư Phật đồng nói rõ chính sáu căn là chỗ đi vào luân chuyển sanh tử, cũng chính sáu căn này là chỗ chứng an lạc, giải thoát, Niết-bàn. Tức là đi vào sanh tử luân hồi cũng ngay sáu căn, ra khỏi sanh tử luân hồi cũng ngay sáu căn, mười phương chư Phật đồng nói như vậy. Điều này chứng minh đây là lẽ thật của tất cả chư Phật, chớ không phải chỉ Đức Phật Thích Ca, khiến chúng ta có đầy đủ lòng tin.
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan tuy được nghe pháp như thế, nhưng tâm còn chưa rõ, nên mới cúi đầu bạch Phật: “Thế nào là khiến con sanh tử luân hồi, hay an lạc diệu thường cũng đều do sáu căn của con, chớ không phải vật gì khác?”.
Phật bảo A-nan: “Căn và trần đồng một nguồn, triền phược hay giải thoát không hai, thức phân biệt là hư vọng như hoa đốm giữa hư không. A-nan! Do trần mà phát ra cái biết của căn; nhân căn mà có cái tướng của trần, tướng và kiến không có thật tánh, như những hình cây lau gác vào nhau”.
GIẢNG GIẢI:
Ngài A-nan tuy được mười phương chư Phật đồng thời khai thị cho thấy khiến lưu chuyển sanh tử luân hồi hay khiến ra khỏi sanh tử luân hồi, chứng Niết-bàn an lạc cũng ngay sáu căn này, chớ không gì khác. Nhưng tâm Ngài vẫn chưa nhận được yếu chỉ nên thưa hỏi thêm. Điều này ngầm chỉ, đây là chỗ sâu xa vi tế, không thể nghe một cách hời hợt, không thể dùng tình thức phân biệt lý luận, phải quán sâu quán kỹ mới nhận được lẽ thật đó. Đây là lẽ thật mười phương chư Phật đồng nói, chớ không phải tầm thường.
Phật chỉ rõ căn trần đồng nguồn, trói buộc hay giải thoát cũng không có hai, không có thật thể riêng, cũng từ Như Lai Tạng bởi mê mà vọng phát khởi. Căn không có tự ngã riêng của căn, trần không có tự ngã riêng của trần, trói buộc hay giải thoát cũng vậy, không có tự ngã trói buộc riêng, tự ngã giải thoát riêng. Thì chính ngay trói buộc này là giải thoát, không có cái nào riêng khác. Vậy lỗi ở chỗ nào mà thành mê lầm, trói buộc? Lỗi ở thức phân biệt, do thức phân biệt mới có yêu ghét, lấy bỏ. Nếu thấy nghe không có thức phân biệt chen vào thì thanh tịnh, trong sáng, không có yêu ghét, lấy bỏ, kia đây v.v…, ngay đó là trở về gốc. Thấy được đầu mối này rồi thì ngay đầu mối mà gỡ. Nhưng thức này cũng hư vọng, nhân căn trần mới khởi, nó cũng không có tự thể riêng. Căn trần không thật thể, thức phân biệt cũng không thật thể, đồng một cái giả dối không thật. Vậy mà chúng sanh lại mê trong đó.
Do trần phát ra cái biết của căn, nhân căn có tướng của trần, tức căn nhân trần mới biết, như con mắt nhân nơi sắc mới thấy. Trần cũng nhân căn mới hiện, do mắt thấy mới biết có sắc trần, nếu không có con mắt thấy thì sắc trần không chỗ hiện. Hai cái nương nhau tạm lập, tách ra một cái liền thành không có thật thể, nên giống như hình cây lau gác vào nhau, cái này gác vào cái kia, kéo ra thì không thành gì hết. Vậy có gì đâu để trói buộc? Trói buộc là do vọng tưởng thôi, nhưng thức phân biệt lại nương vào đó sanh, nên gọi là sống trong hư vọng. Nếu giác ngộ trở lại, thấu suốt nó không thật thể, ngay đó tự thành giải thoát, không thật có gì trói buộc mà nguyên chỉ là một thể giác xưa nay.
Có bài kệ của một vị Thiền sư nói: “Tìm trâu là phải theo dấu, hễ dấu còn thì trâu không mất”. Từ căn đi ra theo trần, chúng ta ngay cái dấu này phăng trở lại, tức ngay cái thấy nghe hiểu biết này là dấu của nó, phăng trở lại nguồn sẽ gặp lại bản tâm chân thật. Còn thấy nghe hiểu biết là còn dấu, nếu không còn thấy nghe hiểu biết thì hết chỗ tìm. Chúng ta cũng còn cái may mắn là còn dấu rõ ràng, vậy ngay dấu phăng tìm trở lại là trở về đầu nguồn, là gặp lại người xưa!
CHÁNH VĂN:
Thế nên, nay ông chính nơi tri kiến mà lập ra tướng tri kiến là cội gốc của vô minh. Chính nơi tri kiến mà không có tướng tri kiến thì đó là vô lậu chân tịnh Niết-bàn, làm sao trong ấy lại còn có vật gì khác”.
GIẢNG GIẢI:
Nguyên văn chữ Hán là: “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn”. Ngay nơi cái thấy biết này mà lập ra cái thấy biết nữa là cội gốc của vô minh. Còn ngay nơi cái thấy biết này, không thêm cái thấy biết nữa, đó gọi là vô lậu, chân tịnh Niết-bàn, chớ không có vật gì khác chen vào. Rõ ràng ngay vọng tức chân, đâu có cái chân nào khác. Cho nên, trói buộc - giải thoát không hai, không có thật thể riêng.
Gốc của vô minh hay vô lậu, chân tịnh Niết-bàn cũng ở ngay tri kiến này, ngay cái thấy biết này, chớ không có gì khác. Chỉ khác là tri kiến lập thêm tri kiến, hay không lập thêm tri kiến. Ngay nơi thấy biết hiện tiền mà thêm cái thấy biết nữa, tức là thêm cái thức phân biệt, đó là gốc vô minh, là cái vọng thấy biết, không phải cái thấy biết chân thật, là bị trói cột.
Cũng ngay cái thấy biết hiện tiền, không thêm cái thấy biết nữa, tức không sanh thêm thức phân biệt, thì thấy biết vẫn là thấy biết, là cái thấy biết thanh tịnh trong sáng, rõ ràng. Đó là Niết-bàn chân thật, là giải thoát, là mở. Vậy rõ ràng cột hay mở, chân hay vọng cũng ngay cái thấy biết hiện tiền này, không có vật khác, không có hai thể riêng.
Phật đã chỉ rõ con đường mê ngộ rất sáng tỏ, chúng ta còn chưa chịu nhận, còn muốn tìm gì nữa? Các Thiền sư thường tận dụng ý nghĩa này để khai thị cho người. Ngữ lục của các Thiền sư tuy nhiều, nhưng tóm tắt lại không ngoài sáu căn. Có khi giơ phất tử hay giơ ngón tay để khai thị từ con mắt mà trở về. Gọi biết dạ là khai thị nơi lỗ tai. Khai thị nơi lỗ mũi như trường hợp Ngài Hối Đường khai thị cho Hoàng Sơn Cốc: Hai vị đi rừng gặp mùa hoa quế nở, Hối Đường hỏi Hoàng Sơn Cốc có ngửi thấy mùi hoa quế hay không, Hoàng Sơn Cốc đáp có, Hối Đường nói đâu có gì che giấu, Hoàng Sơn Cốc liền ngộ. Hoặc Thiền sư Hồng Nhân ở Thần Đảnh khai thị nơi lưỡi biết vị khi gắp món ăn đưa vào miệng. Hoặc khai thị nơi thân biết xúc, như Ngài Vân Môn gặp Trần Tôn Túc đóng cửa, bị thương ở đầu ngón chân mà cảm ngộ, ngay nơi xúc mà trở về. Còn khai thị nơi ý căn như Ngài Duyên Quán khai thị chỗ đạo tràng vô tướng.
Rõ ràng kinh Phật nói, các Tổ, các Thiền sư chỉ bày luôn khế hợp nhau, trước sau thông suốt, không có gì khác. Chỉ vì người học không hiểu, phân tích trên chữ nghĩa, suy luận theo cái hiểu riêng tư, nên thấy có đây kia sai biệt, thế này thế khác. Người thật sự tỏ ngộ lẽ thật thì chỗ thấy không hai, thông suốt một đường xưa nay.
Chúng ta học kỹ để có đủ niềm tin, không cần phải tìm đâu xa, ngay sáu căn, ngay cái thấy biết hiện tiền này, khéo léo trở về. Cột hay mở chỉ ngay chỗ này. Tu ngay sáu căn là tu kỹ nhất, xuống bếp, ra đồng, ra chợ v.v… đều không rời sáu căn. Nếu đợi ngồi thiền mới tu thì chỉ tu trên thiền đường thôi. Khéo biết như vậy sẽ thấy được yếu chỉ tu hành của mình.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Nơi chân tánh pháp hữu vi không,
Do duyên sanh nên giống như huyễn.
Pháp vô vi không sanh, không diệt,
Không thật như hoa đốm hư không.
GIẢNG GIẢI:
“Nơi chân tánh pháp hữu vi là không, do duyên sanh nên giống như huyễn”, pháp hữu vi đối với chân tánh thì vốn là không, không có thật thể tồn tại riêng. Tuy nhiên, ‘do duyên sanh nên giống như huyễn’, là không mà không phải không có gì, nó theo duyên mà hiện như huyễn có. Thí dụ như huyễn rất hay, là có nhưng không phải có cũng không phải không. Thấy rõ ràng nên không phải không, nhưng nắm bắt không được nên không phải có. Nói như huyễn thì không mắc kẹt trong có và không. Bởi chữ “không” đây, là không thật tánh hay không tự tánh, chớ không phải không có gì.
Như thân chúng ta đây rõ ràng còn ăn còn nói, nhưng nói là không vì nó không có tự tánh, bởi nó do duyên sanh. Vậy cái “không” của pháp hữu vi đây không phải là cái không của đoạn diệt, không phải phá hoại cái “có” để thành “không”, mà ngay cái “có” thấy là “không”, nên cái không đó không mắc kẹt nơi có và không.
“Pháp vô vi không sanh không diệt, không thật như hoa đốm hư không”, pháp vô vi thì không có tạo tác, không thuộc duyên sanh, nên không thể lập bày, không thể chỉ riêng ra được, gọi là như hoa đốm trong hư không. Không phải có pháp vô vi riêng đối với pháp hữu vi, mà ngay nơi pháp hữu vi, thấu suốt được bản chất không thật của nó, không lầm vào nó thì tự bày pháp vô vi, không phải bỏ pháp hữu vi thành pháp vô vi, không phải tách rời bên này là hữu vi, bên kia là vô vi. Như vậy ngay sanh tức vô sanh, không phải rời sanh có vô sanh.
CHÁNH VĂN:
Nói vọng để tỏ bày cái chân,
Vọng và chân cả hai đều vọng.
Còn không phải chân, phi chân
Làm sao có năng kiến sở kiến.
GIẢNG GIẢI:
Nói vọng để tỏ bày cho người nhớ trở về cái chân, nhưng chân chỉ là đối với vọng tạm lập, không phải riêng ngoài cái vọng có cái chân, hay ngoài cái chân có cái vọng. Vọng và chân đối đãi tạm lập, không có thật tánh.
Như mặt trăng và bóng mặt trăng. Bóng mặt trăng tạm dụ như vọng, mặt trăng dụ như chân, bóng mặt trăng không rời mặt trăng riêng có, mặt trăng cũng không rời bóng. Khi còn bóng thì chúng ta nói đây là bóng, kia là thật, có đây kia đối đãi, nhưng thật thể không hai. Nên nói vọng và chân đều là tên giả lập, không thật có hai thể, vì mê nên chia thành có chân có vọng, với người tỉnh thì không có pháp để sanh hai tâm.
“Còn không phải chân phi chân, làm sao có năng kiến sở kiến”, chân hay chẳng phải chân còn không thể thành lập được, thì nói gì là năng kiến sở kiến. Khi chúng ta lìa được cái thấy hai bên, vượt lên tâm kia đây, thấy chúng đều không có thật thể, thì không còn chấp theo cái thấy phân chia nữa. Năng kiến là căn, sở kiến là trần. Khi còn chia đây là căn, kia là trần, đây là cái hay thấy, kia là cái bị thấy là còn ở trong mê, trong thể giác vốn không có hai.
CHÁNH VĂN:
Thức ở giữa không có thật tánh,
Vậy nên như hình cây lau gác.
GIẢNG GIẢI:
Năng kiến sở kiến đã không, tức căn là cái hay thấy và trần là đối tượng bị thấy, hai cái đều không thật. Vậy thức do căn trần hòa hợp mà sanh, nhưng căn trần đã không thật thì thức làm sao thật được. Quán kỹ để rõ thức phân biệt không có thật tánh, giống như hình cây lau gác vào nhau, khi tạm gác vào nhau giống như có một chùm, gỡ ra thì không có thật thể gì. Rốt cuộc chỉ là vọng sanh. Nếu mê, lầm chấp trong đó thì thành chướng ngại, nếu thấu suốt thức phân biệt không có thật tánh, ngay đó liền giải thoát.
CHÁNH VĂN:
Cột và mở đồng một sở nhân,
Thánh và phàm vốn không hai lối.
GIẢNG GIẢI:
Cột cũng ngay thấy biết này mà cột, mở cũng ngay thấy biết này mà mở, nên nói cột và mở đồng một sở nhân, không có riêng. Ngay thấy biết này mà sanh thêm thấy biết, sanh thêm cái ngã trong đó là cột. Ngay thấy biết mà không thêm thấy biết, không sanh cái ngã, không sanh thức phân biệt trong đó, là mở. Cho nên Thánh phàm không hai lối, cũng ngay thấy biết này thôi, không riêng có chỗ khác, không có cái thể thứ hai. Chúng ta thấy chỗ tu hành rất sáng tỏ, ngộ hay mê chỉ ngay chỗ thấy biết này, không phải tìm đâu khác.
CHÁNH VĂN:
Hãy xem tánh cây lau gác nhau,
Đâu phải là không hay là có.
GIẢNG GIẢI:
Như hai cây lau gác vào nhau, thấy có rõ ràng mà tách ra thì không còn, nên nói không cũng không được, nói có cũng không được. Nó không thật thể cố định, còn nói có nói không là còn mê, còn kẹt một bên.
CHÁNH VĂN:
Mê mờ nghĩa đó tức vô minh,
Tỏ sáng liền thành giải thoát.
GIẢNG GIẢI:
Ngay đó mà vọng chấp cho là thật là vô minh, rõ biết nó không thật có, hết chấp liền thành giải thoát. Đây chính là con đường Đốn giáo.
CHÁNH VĂN:
Mở gút tuy phải theo thứ lớp,
Sáu đã mở, một cũng không còn.
GIẢNG GIẢI:
Khi mở gút phải theo thứ lớp, không phải vừa nói là xong. Chúng ta mê đã nhiều đời, nên mở cũng theo thứ lớp, tức là trái vọng để về chân. Nhưng khi sáu cái đã mở thì một cũng không còn, tức chân vọng đều quên sạch. Lúc mê phải bỏ vọng về chân, gọi là có thứ lớp. Khi sạch hết vọng, sáu cái đã mở hết thì một cũng không còn, chẳng còn đối đãi sáu và một nữa, chân vọng đều quên sạch, không còn chút dấu vết nào ngăn ngại.
CHÁNH VĂN:
Nơi các căn chọn tánh viên thông,
Nhập lưu được thì thành Chánh giác.
GIẢNG GIẢI:
Ngay các căn này ngộ suốt tột nguồn viên thông, thể nhập được trong đó thì cùng Phật không khác. Không khác là cái thấy đó hợp với Phật, cùng Phật không hai, nói theo nhà thiền là được Phật ấn chứng.
Khi Ngài Lâm Tế ngộ đạo, Ngài từng nói: “Chỗ thấy của Sơn Tăng cùng Phật Thích Ca không khác”, chỗ thấy không khác nhưng quả chưa đồng, vì công đức của Ngài sao bằng được công đức của Phật. Ở đây nói “nhập lưu thì thành Chánh giác” là nghĩa cùng Phật không khác như thế.
CHÁNH VĂN:
Thức A-đà-na rất nhỏ nhiệm,
Tập khí lưu hành như dòng thác.
GIẢNG GIẢI:
A-đà-na là chấp trì, chấp trì có ba nghĩa: Một là chấp trì thân căn này, thức giữ thân căn khiến cho không hoại. Hai là chấp trì chủng tử khiến nó không tan mất, giống như cái kho. Ba là chấp lấy kiết sanh để tương tục, giữ gìn cho sanh tử liên tục không dứt, khi chúng ta chết, thức vẫn kéo dài về sau. Thức A-đà-na là tên khác của thức thứ tám, tức tàng thức. Thức này rất nhỏ nhiệm, khó thấy.
Thức thứ sáu phân biệt hơn thua, phải quấy, tốt xấu v.v… dễ thấy. Thức A-đà-na là thức thứ tám ở sâu bên trong, là kho chứa những chủng tử, nó nhỏ nhiệm vì hòa hợp cả chân và vọng nên khó thấy. Người tu thật tỏ ngộ mới thấy được. Thể của nó nguyên là Như Lai Tạng tánh, vì vô minh vọng động huân thành những tập khí sanh diệt lưu chuyển giống như dòng thác. Dòng thác đổ xuống nhanh, đứng xa nhìn giống như một mảng nước, sự thật là từng giọt từng giọt kết hợp chớ không phải một. Nó là cái tương tục nối tiếp nhau, nói một không được, nói khác cũng không được. Nên nói nó vi tế nhỏ nhiệm là vậy. Thấy giống như một nên người không khéo thì chấp nó là chân, sự thật nó sanh diệt tương tục nên không phải chân. Bởi nó sanh diệt quá nhanh, quá nhỏ nhiệm nên khiến người dễ lầm.
CHÁNH VĂN:
E lầm là chân hay phi chân,
Nên Tôi thường không diễn giảng đến.
GIẢNG GIẢI:
Nó sanh diệt trôi chảy liên tục nên không phải chân, nhưng nó vốn là Như Lai Tạng tánh nên không phải vọng. Người mê không khéo chấp là chân vì thấy nó là một dòng liên tục, nhưng chấp như vậy là gồm thâu luôn cả cái vọng, tu không giải thoát nổi. Nếu cho nó là vọng là chối bỏ luôn cả cái chân, đó là chỗ hàng Nhị thừa mắc kẹt. Đây là chỗ khó nói, nên Như Lai thường không nói đến, chỉ khi thời tiết nhân duyên khế hợp Ngài mới nói, vì sợ người lầm là chân hay phi chân.
CHÁNH VĂN:
Tự tâm trở lại chấp tự tâm,
Không phải huyễn thành ra pháp huyễn.
GIẢNG GIẢI:
Tự tâm trở lại chấp tự tâm, khiến tự tâm thành cái thứ hai, có hai cái tự tâm. Một cái là tự tâm, một cái bị chấp lấy, thành hai cái. Tự tâm vốn tự tại, lại khởi ra một cái để chấp giữ lại nó, biến nó thành đối tượng bị chấp, bị giữ, mất đi sức tự tại. Nó vốn không phải huyễn, bây giờ thành ra huyễn, trở thành cái bóng thứ hai, thành đối tượng. Đó là trên đầu thêm đầu, trên cái biết thêm cái biết nữa. Thế nên người tu không khéo dễ bị mắc kẹt chỗ này. Trong nhà thiền hay quở chỗ này là đem tâm quán tâm, đem tâm tìm tâm, đem tâm dụng tâm, hay cỡi trâu tìm trâu v.v… Tâm chính là nó, còn đem cái tâm để quán trở lại tâm, vậy tâm nào quán, tâm nào được quán?
Như chúng ta tu thường nói giữ gìn chân tâm không mất. Nói nghe như đúng, nhưng đó chỉ là ngôn ngữ phương tiện. Nếu thật giữ gìn chân tâm thì ai giữ, chân tâm là cái gì mà giữ? Biến chân tâm thành đối tượng bị giữ, có thêm cái tâm giữ cái chân tâm thành hai tâm. Vậy tâm nào thật? Nếu cái giữ thật thì chân tâm thành vọng. Cũng vậy, thay vì tìm tâm, chúng ta tìm trở lại cái đang đi tìm đó mới hay. Chính cái đang đi tìm đó là cái được tìm, chớ không phải có cái khác để được. Cho nên trong nhà thiền thường nói: “Ngộ rồi đồng chưa ngộ”. Ngộ cái mình chưa ngộ chớ không phải ngộ cái khác, không có thêm cái thứ hai để ngộ. Chỗ này rất vi tế, chúng ta học kỹ để đừng lầm.
CHÁNH VĂN:
Không chấp trước không gì phi huyễn,
Cái phi huyễn vẫn còn không sanh,
Thì pháp huyễn làm sao thành lập?
GIẢNG GIẢI:
Có huyễn nên lập phi huyễn. Khi không chấp trước thì huyễn không sanh, vậy lấy gì để nói phi huyễn. Huyễn không có thì phi huyễn cũng không lập, vì đó là hai pháp đối đãi. Vượt lên cả hai pháp huyễn phi huyễn, ngay đó tự lặng lẽ, không có sở đắc. Còn nói huyễn phi huyễn là còn mê. Nên ở đây Phật nói rõ không chấp trước thì không gì phi huyễn. Cái phi huyễn còn không sanh thì pháp huyễn làm sao lập.
CHÁNH VĂN:
Ấy gọi Như Huyễn tam-ma-đề,
Bảo giác chắc như Kim Cang Vương,
Không nhiễm tịnh tợ diệu liên hoa,
Khảy ngón tay vượt hàng Vô học.
GIẢNG GIẢI:
Ngay nơi tướng lìa tướng, biết nó là huyễn thôi, chớ không phải phá hoại các tướng, gọi là chánh định Như Huyễn, không như hàng Nhị thừa, bỏ cái này lấy cái kia. Đạt như huyễn là tâm không sanh, ngay sanh mà vô sanh, ngay động mà bất động, vượt cả hai niệm có không. Đó là bảo giác chân thật chắc chắn hay chém sạch tất cả vô minh lậu hoặc, như kiếm bén Kim cang, chém sạch hết những pháp nhiễm tịnh. Đây gọi là không nhiễm tịnh tợ diệu liên hoa, tức không kẹt nơi nhiễm tịnh, không còn thấy hai, vượt vòng đối đãi phân biệt, thức tình không có chỗ sanh. Đó là pháp nhanh chóng vượt lên hàng Vô học, tức là vượt thứ lớp, không có lấy bỏ. Nên nói khảy móng tay vượt hàng Vô học.
CHÁNH VĂN:
Pháp ấy không gì so sánh được,
Là con đường thẳng đến Niết-bàn,
Của mười phương các Đức Thế Tôn.
GIẢNG GIẢI:
Pháp này không gì so sánh được, vì nó vượt lên phân biệt đối đãi, tu mà như không tu. Là con đường thẳng tắt đến Niết-bàn của mười phương các Đức Thế Tôn.
Chỗ này chúng ta phải quán kỹ, quán sâu mới thấy được giá trị, mới thấy ý vị sâu xa. Ngay cái thấy-nghe-hiểu-biết hiện tại đây mà mê, rồi cũng ngay cái thấy-nghe-hiểu-biết đây mà giác, chớ không có gì khác. Con đường thẳng tắt là vậy, vào sanh tử cũng ngay đây, vào Niết-bàn, trở về nguồn chân cũng ngay đây. Cho nên đoạn trước mười phương chư Phật đồng khai thị chân hay vọng cũng ngay sáu căn này. Trên tâm khởi tâm là vọng, tức trên đầu thêm đầu; biết vọng vốn không sanh thì ngay đó tức chân. Rõ ràng nhanh chóng như vậy. Vọng-chân là hai tên, còn thể vốn không hai, có gì để lấy bỏ trong đó? Thế nên gọi đó là con đường thẳng tắt đến Niết-bàn của mười phương chư Phật.
Bài kệ này Đức Phật tóm tắt ý nghĩa trên. Chúng ta học kỹ, quán kỹ sẽ thấy đường lối tu hành rất sáng tỏ và nhanh chóng, không có kẹt hai bên.
***
-
3. MỤC 14 CỘT KHĂN ĐỂ CHỈ ĐẦU GÚT
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ ông A-nan và đại chúng được nghe lời từ bi chỉ dạy của Phật, kệ tụng tinh túy, diệu lý trong suốt, mắt tâm tỏ sáng đồng tán thán là pháp chưa từng có.
Ông A-nan chắp tay đảnh lễ và bạch Phật rằng: “Nay con được nghe Phật vì lòng đại bi vô giá dạy cho những pháp cú chân thật thanh tịnh diệu thường, nhưng tâm con chưa rõ thứ lớp mở gút cho đến nghĩa sáu gút mở, một gút cũng không còn. Cúi mong Phật mở lòng đại bi thương xót trong hội này và chúng sanh tương lai, bố thí pháp âm để rửa sạch những cấu nhiễm trầm trọng của chúng con”.GIẢNG GIẢI:
Chữ “vô giá” đây không phải là quý báu, mà chữ “giá” đây cũng đọc là “già” tức là không có ngăn che, lòng từ bi không bị ngăn che, hay nói rõ là vô duyên từ.
Ngài A-nan nghe được những điều sâu xa chưa từng nghe, mới tán thán là được pháp chưa từng có. Nghe được những điều chưa từng nghe tức là nghe được điều vượt ngoài ngôn ngữ. Chỗ này ngôn ngữ có nói cũng không đến, vượt ngoài chỗ suy nghĩ hiểu biết lâu nay. Đó thật là một niềm vui lớn nên Ngài mới tán thán.
Tuy nhiên, lúc ấy Ngài vẫn còn chưa rõ nghĩa thứ lớp mở gút, và mở sáu mà mất một. Ngài mới thỉnh Phật chỉ dạy thêm để rửa sạch những cấu nhiễm trầm trọng, mà cũng là hỏi về chỗ chân thật tu hành. Tuy chúng ta ngộ rồi nhưng vẫn còn những tập khí sâu xa, nên đâu phải ngộ là hết liền.
CHÁNH VĂN:
Liền khi ấy, Đức Như Lai nơi tòa sư tử sửa áo niết-bàn-tăng và vén áo tăng-già-lê, vịn ghế thất bảo đưa tay lấy cái khăn hoa nơi ghế của Trời Kiếp-ba-la dâng cúng. Đối trước đại chúng Ngài cột thành một gút đưa cho A-nan xem và hỏi rằng: “Cái này gọi là gì?”.
Ông A-nan và đại chúng đều bạch Phật: “Cái này gọi là cái gút”.
Khi ấy Đức Như Lai cột cái khăn điệp hoa thành một gút nữa, lại hỏi ông A-nan: “Cái này gọi là gì?”.
Ông A-nan và đại chúng đều bạch Phật: “Cái này cũng gọi là gút”.
Như thế theo thứ lớp Phật cột cái khăn điệp hoa thành sáu gút. Mỗi gút khi cột xong đều lấy cái gút vừa cột xong trong tay đưa hỏi ông A-nan: “Cái này gọi là gì?”.
Ông A-nan và đại chúng cũng lại theo thứ lớp đáp lời Phật hỏi: “Cái này gọi là gút”.
Phật bảo ông A-nan: “Khi Tôi mới cột cái khăn, thì ông gọi là gút, cái khăn hoa này, trước nó chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai, lần thứ ba, ông cũng gọi là gút?”.
Ông A-nan bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Cái khăn lụa thêu dệt quý báu này, tuy vốn là một thể, nhưng theo ý con suy nghĩ: Đức Như Lai cột một lần thì được gọi tên một gút, nếu cột một trăm lần thì trọn gọi là một trăm gút, huống chi khăn này chỉ có sáu gút, không lên đến bảy và cũng không đứng ở số năm, cớ sao Đức Như Lai chỉ cho cái đầu là gút còn cái thứ hai, thứ ba không gọi là gút?”.
Phật bảo ông A-nan: “Cái khăn hoa báu này, ông nên biết nó vốn chỉ có một cái, khi Tôi cột sáu lần thì ông gọi là sáu gút, ông nên xem xét cho chín chắn, thể của cái khăn này là đồng, nhân nơi các gút mà có khác. Ý ông nghĩ sao? Khi Tôi cột gút ban đầu thì gọi là gút thứ nhất, như thế cho đến cột lần thứ sáu thì gọi là sáu gút, nay Tôi muốn gọi gút thứ sáu là gút thứ nhất có được chăng?”.
- Bạch Đức Thế Tôn! Không vậy. Nếu còn là sáu gút, thì cái gọi là thứ sáu rốt cuộc không phải là cái thứ nhất, dầu cho cố gắng biện bạch suốt đời cũng không thể làm cho sáu gút đổi tên được.
Phật dạy: “Đúng thế! Sáu gút không đồng nhau, tuy xét về bản nhân vẫn do một cái khăn tạo ra, nhưng rốt cuộc không thể làm cho sáu gút xáo trộn lẫn nhau. Sáu căn của ông cũng lại như vậy, trong thể rốt ráo “đồng” lại sanh ra rốt ráo “khác”.”
GIẢNG GIẢI:
Đến đây Đức Phật dùng cái khăn buộc thành sáu gút để khai thị cho Ngài A-nan và đại chúng. Đang ngồi thuyết pháp tức đang ngồi nơi tòa sư tử, Phật mới sửa cái Niết-bàn Tăng, rồi vén áo tăng-già-lê và vịn ghế thất bảo, đưa tay lấy cái khăn hoa, đối trước đại chúng cột gút, Phật bắt đầu khai thị.
Khi Phật cột cái khăn thành cái gút đưa lên giữa đại chúng hỏi cái này gọi là cái gì? Nếu là Thiền sư thì ngay đó ngộ liền, chắc là Phật khỏi phải nói dài dòng. Nhưng trong kinh đây Ngài A-nan ngộ cái gì? Chỉ thấy cái gút thôi. Giống như Ngài Bá Trượng khai thị cho Tổ Quy Sơn, đưa cục lửa lên bảo: “Ông nói không có lửa, vậy cái này là cái gì?”. Ngay đó Tổ Quy Sơn liền ngộ. Cũng vậy, nếu Đức Phật hỏi ông gọi cái này là cái gì nếu ngay đó Ngài A-nan ngộ liền thì quá hay! Nhưng đây do còn thấy cái gút nên Ngài A-nan mới thưa cái này gọi là cái gút.
Phật buộc sáu lần như thế rồi hỏi thì Ngài A-nan cũng đáp là sáu cái gút. Đúng ra ngay đó mà ngộ thì dù cho Phật buộc sáu lần đi nữa nhưng cái kia đâu có sáu. Chỗ đó quá hay!
Cho nên Phật mới theo chỗ này để khai thị trở về. Chỉ có một cái khăn nhưng khi thắt thành sáu gút thì nhìn cái khăn đó người ta chỉ thấy sáu gút mà quên mất cái khăn ban đầu. Khăn buộc thành gút rồi nên chỉ thấy gút thứ nhất, gút thứ hai, gút thứ ba v.v..., chứ không còn nhớ cái khăn. Chúng ta cũng vậy, ban đầu chỉ có một tâm thể chân thật, giờ thắt thành gút sáu căn này, thành ra chỉ nhớ tới sáu căn, tức thấy-nghe-hiểu-biết này thôi, không còn nhớ được cái nhất tâm kia. Mê là chỗ đó.
Khi đó, Phật mới hỏi: “Gọi cái thứ sáu là cái thứ nhất được không?”. Ngài A-nan đáp là không được, bởi có sáu cái thì có sự phân biệt rồi. Hễ còn có sáu gút thì đây kia tranh nhau, cái này không phải là cái kia, chúng càng thêm lăng xăng, càng làm mờ thêm cái khăn ban đầu. Cũng vậy, chúng ta cứ mãi lo bàn trên thấy-nghe-hiểu-biết hay trên sáu căn này, nhiều khi vì sáu căn này mà cãi nhau nữa. Cái này không phải cái kia, mắt không phải tai, thấy không phải nghe v.v... Cho nên ai nói cái thấy là cái nghe thì cãi, cái thấy làm sao là cái nghe được! Thành lăng xăng làm mờ mất tâm thể chân thật ban đầu. Bấy giờ chỉ còn nhớ cái gút, kẹt trên cái gút.
Tất cả mỗi người đều nguyên một tánh giác thì đâu có gì là kia là đây. Tánh giác chỉ là tánh giác, nhưng do bất giác khởi vọng minh, như kinh nói do bất giác khởi lên cái vọng minh để mà minh trở lại nó. Tức là khởi lên cái soi sáng để mà soi sáng lại nó, biến nó thành cái sở minh, cái được soi sáng, thành ra có năng có sở; từ đó mới hiện ra các căn, hiện ra thế giới.
Các căn đã hiện ra rồi dính khằn ở trong các căn này cột chặt trong đó gọi là thắt gút; thắt gút ở trong các căn này cho nên mới chia ra thành sáu cái thấy, nghe, hiểu, biết. Vậy ban đầu chỉ có một tánh giác, bây giờ thành sáu cái biết: biết thấy, biết nghe, biết ngửi, biết nếm v.v... Do vậy, cái biết thấy không phải là cái biết nghe, cái biết ngửi không phải là cái biết nếm, chia cái nào ra cái đó. Với người mê còn thêm lớp nữa là chấp mỗi cái có tự ngã riêng, cái thấy có tự ngã riêng của cái thấy, cái nghe có tự ngã riêng của cái nghe thành ra mê thêm mê, quên mất tánh giác ban đầu lúc nào không hay.
Cũng như đây quên mất cái khăn chỉ còn nhớ cái gút thôi. Nhưng mà trong mỗi cái thấy-nghe-hiểu-biết đó nó đều có mang tánh giác trong đó, bởi vì thể của nó là tánh giác mà! Cũng giống như cái khăn buộc thành sáu gút thì trong mỗi gút đều có mang cái khăn trong đó hết. Đây cũng vậy, trong mỗi cái thấy-nghe-hiểu-biết đều có mang tánh giác, đồng thời cũng mang cái vọng minh ở trong đó luôn. Bởi vì chính cái vọng minh mà nó chia thành ra sáu cái, tức là mỗi cái đều có mang cái vọng trong đó. Nó mang cả cái chân mà cũng có mang cái vọng luôn.
Chính vì thấy được điều đó, các Thiền sư mới vì người khai thị ngay chỗ đó, người khéo thì ngay đó ngộ trở lại tánh giác. Bất cứ căn nào nếu khế hợp thì đều ngộ trở lại tánh giác được hết. Bởi vì chính ngay cái vọng minh này, nó chia thành có sáu cái sai khác, nhưng mà sai khác đó là sai khác trong cái vọng, chứ còn cái thật thì đâu có sai khác. Đó gọi là trong rốt ráo “đồng” mà sanh ra rốt ráo “khác” là vậy đó.
Ở trong cái vốn là đồng bây giờ lại thành có khác. Tức là cái khác nhưng mà nó vẫn ở trong đồng. Nếu ngay đó ngộ trở lại thì liền thấy chỗ đồng. Ngay đây khéo giác trở lại thì thấu suốt cái vọng kia, tức trở về tánh giác không hai là cái thể đồng. Vậy ngay vọng tức là chân. Ý Phật muốn khai thị là chỗ đó.
***
-
4. MỤC 15: CHỈ MỞ GÚT TRƯỚC SAU
CHÁNH VĂN:
Phật bảo ông A-nan: “Chắc hẳn ông không muốn thành ra sáu gút và trông mong chỉ thành một thể, lại làm sao được?”.
Ông A-nan thưa: “Nếu còn những gút đó, thì phải trái lăng xăng, trong đó tự sanh ra gút này không phải gút kia, gút kia không phải gút này. Giờ đây Đức Như Lai cởi bỏ tất cả không sanh gút nữa, thì không đây kia, còn không gọi là một, làm sao mà thành sáu được”.GIẢNG GIẢI:
Sáu gút còn đó mà muốn cho nó thành một thể thì khó thành, bởi vì hễ sáu cái còn thì cái này nó tranh cái kia, cái này không phải là cái kia. Muốn cho hết cái một thì phải cởi bỏ cái gút của sáu cái kia. Chỉ cần cởi bỏ hết những cái gút thì hết còn cái tên sáu tên một, bởi vì gút đâu còn mà nói một. Có sáu cái nên nhân cái sáu này mà nói cái kia là một, là đối đãi nhau. Nếu không còn cái gút nào hết thì cái khăn nói khăn, nói sáu một chi nữa. Thành ra còn nói một là chưa hết mê.
Chỗ này rất vi tế. Nghĩ trở về một, tưởng đâu là xong nhưng vẫn chưa phải là cái vui rốt ráo. Còn giữ cái một tức là còn chưa quên cái sáu, trong đầu còn nhớ cái sáu nên mới nói cái này là một, giữ cái một. Đến chỗ này người không tu không thể thấy tột, lý luận không đến được.
Điều quan trọng là gì? Nói một nói sáu không quan trọng, mà quan trọng là cởi cái gút, còn lý luận một - sáu hoài không tới đâu hết.
CHÁNH VĂN:
Phật dạy: “Cái nghĩa cởi cả sáu gút, một gút cũng không còn, cũng lại như vậy. Do tâm tánh của ông cuồng loạn từ vô thủy mà vọng phát sanh cái thấy biết; vọng phát không dừng, thì làm cho tri kiến sanh bệnh mà phát sanh ra trần cảnh, như tròng con mắt bị mỏi mệt thì thấy có hoa đốm lăng xăng; tất cả những tướng thế gian, núi sông, đại địa, sanh tử, Niết-bàn vốn không nhân gì mà rối loạn khởi lên trong tướng sáng suốt yên lặng, đều là những tướng hoa đốm điên đảo do bệnh mê lầm phát ra”.
GIẢNG GIẢI:
Phật nói rốt lại cũng giống như hoa đốm, là điên đảo thôi. Khi sáu gút đã không thì không còn lấy gì để so sánh là một, là sáu nữa, tức hết còn kẹt kia đây. Đó là chỗ quan trọng!
Đây Đức Phật mới chỉ tột cái hư vọng. Do cái bất giác từ vô thủy ở trong tánh giác sáng suốt, nhiệm mầu bỗng khởi ra cái thấy biết bệnh, Phật gọi là cái cuồng loạn từ vô thủy.
Từ cái thấy biết bệnh mới vọng sanh có trần cảnh đối trước để cho nó thấy, là có căn trần vọng sanh, vọng sanh thì nó chia thành sai biệt lăng xăng đây kia. Giống như mắt mỏi rồi vọng thấy trong hư không có hoa đốm chứ không phải là hoa đốm thật có. Nghĩa là không phải riêng có cái thể của căn trần, hay nói rõ hơn là không phải có cái thể thấy biết riêng, mà nó nguyên là tánh giác xưa nay. Cái thấy biết này giống như mắt bệnh, không phải thật có cái thứ hai.
Như vậy, do mê vọng hiện có sanh tử lăng xăng, do có sanh tử lăng xăng rồi mới chán sanh tử cầu Niết-bàn. Rốt lại cũng là ở trong vọng, chớ tự tánh vốn là Niết-bàn rồi. Nó vốn là vô sanh mà còn cầu vô sanh gì nữa? Đây gọi là khi mê thì thấy giống như thật có sanh tử, do thấy thật có sanh tử nên mới chán sanh tử cầu Niết-bàn, có bỏ đây mà đến kia. Nhưng nếu ngộ được chỗ chân thật này thì mới thấy thể sanh tử vốn là Niết-bàn, ngay sanh tử tức là vô sanh. Thành ra nói chán sanh tử cầu Niết-bàn thì đó là đối với trong mê mà nói, chứ còn tâm tánh chân thật thì đâu có kia đây.
Chỗ này là chỗ chúng ta cần học rồi quán kỹ để thấy được những ý sâu của Phật chỉ dạy.
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Bệnh mê lầm đó giống như các gút kia làm sao cởi bỏ được?”
Đức Như Lai liền đưa tay cầm cái khăn có gút kéo mối bên trái, rồi hỏi ông A-nan: “Thế này mở được chăng?”.
Ông A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Không vậy”.
Phật liền lấy tay kéo riêng mối bên phải, rồi lại hỏi ông A-nan: “Thế này mở được chăng?”.
Ông A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Không vậy”.
Phật hỏi ông A-nan: “Nay Tôi lấy tay kéo mối bên phải, bên trái, hai bên mà rốt cuộc không mở được, vậy ông có dùng phương tiện gì mở được chăng?”.
Ông A-nan bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Phải mở ngay trung tâm cái gút thì tan rã ngay”.
Phật bảo ông A-nan: “Đúng vậy, đúng vậy! Nếu muốn mở gút thì phải ngay trung tâm cái gút mà mở.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây, Ngài A-nan hỏi về cách mở gút. Phật kéo cái khăn có gút ấy về bên phải rồi kéo bên trái đều không mở được. Phật hỏi Ngài A-nan làm sao mở được? Ngài A-nan đáp là phải mở ngay trung tâm cái gút. Nhưng trung tâm cái gút là gì mới là quan trọng. Tức cái biết hiện tiền sáng suốt đây chứ không gì khác. Còn cái gút là cái gì? Gút là cái thấy biết xen cái ngã trong đây hay cái thấy biết thêm thấy biết, đó là gút.
Ngay thấy biết này mà thêm thấy biết thì đó là gút, cột nơi sáu căn, còn trung tâm gút là ngay cái biết sáng suốt hiện tiền đây. Nếu không biết cứ kéo bên phải kéo bên trái, là nhằm bên căn hoặc nhằm bên trần mà trừ, trừ hoài không ra nhiều khi còn dính nữa, cứ kẹt ở bên căn trần. Có khi muốn trừ cho sạch cái căn nhưng nếu trừ hết cái căn thì còn cái gì?
Ngài Hàm Thị nói: “Dẫu cho rời trần mà giữ cái tịnh hay đóng kín cửa sáu căn cũng chưa phải rốt ráo giải thoát”. Rời trần cảnh lo giữ cái yên tịnh thì cái tịnh đó là cái gì? Trần là động, là sanh trần, tịnh là diệt trần thì cũng là trần. Hoặc là sanh trần hoặc là diệt trần, chứ chưa rốt ráo giải thoát.
Còn đóng kín cửa sáu căn, không cho thấy nghe hiểu biết thì có giải thoát không? Cái lỗi đâu phải ở sáu căn, mà lỗi là ở chỗ thức phân biệt, chứ sáu căn này đâu có lỗi. Do không biết cứ đóng bít cửa sáu căn không cho thấy biết giống như gỗ đá, đó là lầm!
Bởi vì trói là cái gì trói? Đâu phải sáu căn trói hay sáu trần trói, mà trói cũng là tâm trói, rồi mở cũng là cái tâm mở. Căn trần không có lỗi mà đổ cho nó, trong khi chính cái anh “tâm” này, tâm thức phân biệt đây, lại bỏ qua. Nếu anh thức phân biệt này không chen vào sanh chuyện thì căn trần đâu có lỗi lầm gì, thấy-nghe-hiểu-biết thanh tịnh sáng suốt thôi. Thấy được chỗ đó là thấy được chỗ mở.
Bởi ngay cái thấy biết sáng suốt hiện tiền mà mê nên tự trói vào căn trần thành bệnh. Thành bệnh tức là sanh thêm cái thấy biết. Còn nếu ngay đó mà giác trở lại thì vượt khỏi căn trần là thường biết rõ ràng, không rơi vào đoạn diệt, cũng không phải trừ hết căn trần.
Bấy giờ cũng thấy biết này nhưng là thấy biết không rời Như Lai, thấy biết mà không rời tự tánh thì đâu có mê. Còn chúng ta thấy biết mà rời mất tự tánh nên cứ nhớ căn trần, đó là chỗ mê. Như Ngài Bá Trượng nói:
Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần.
Thể bày chân thường,
Chẳng kẹt văn tự.
Cái linh quang sáng suốt đó riêng chiếu một mình, không kẹt nơi căn trần, thì thể bày cái chân thật của nó thường còn không mất, không kẹt trong văn tự. Cái đó không nằm trong văn tự chữ nghĩa, không có trong quyển kinh này quyển kinh kia. Đây mới là sức sống chân thật hay gọi là bộ kinh sống. Nếu nhắm ngay đó mở thì cái gút tự tan. Còn cứ lo trừ căn hoặc trừ cảnh thì khó hết. Kế, Phật dạy thêm:
CHÁNH VĂN:
A-nan! Tôi nói thật pháp từ nhân duyên sanh, chẳng phải chấp tướng hòa hợp thô tháo theo thế gian. Như Lai phát minh pháp thế gian, xuất thế gian biết rõ nhân gốc của nó theo duyên gì mà phát ra, cho đến một giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới cũng biết số mục hiện tiền các thứ, cây tùng thì ngay, cây gai thì cong, chim hạc thì trắng, chim quạ thì đen, đều rõ được nguyên do của nó.
Thế nên A-nan! Tùy trong tâm ông lựa chọn nơi sáu căn, nếu trừ được cái gút nơi căn ấy rồi, thì trần tướng tự diệt, các vọng đều tiêu hết thì chẳng phải chân là gì?
GIẢNG GIẢI:
Phậy dạy kỹ. Phật pháp từ nhân duyên sanh chẳng do tướng hòa hợp thô tháo theo thế gian. Đây Phật ngăn ngừa, bởi vì ở trước Phật bác về nhân duyên tự nhiên, đến đây theo thứ lớp nói mở gút sợ Ngài A-nan nghi nhân duyên nữa, nên nói Phật pháp cũng từ nhân duyên sanh nhưng không chấp theo tướng hòa hợp thô tháo của thế gian.
Chỗ này là chỗ phải hiểu cho kỹ, Phật nói Phật pháp từ nhân duyên sanh có ý nghĩa sâu xa. Nói từ nhân duyên sanh là nói sanh mà không có thật sanh, sanh không thật sanh thì diệt cũng không thật diệt. Bởi vì nó là nhân duyên sanh tức không có cái thật thể sanh, mà không có thật thể sanh tức không có thật thể diệt. Không thật sanh không thật diệt thì ngay sanh diệt là vô sanh, không lầm theo nhân duyên nữa.
Nghĩa nhân duyên của Phật nói là như vậy, không phải theo nghĩa nhân duyên thô tháo của thế gian. Theo thế gian thấy nhân duyên hòa hợp rồi sanh, sanh là thật có sanh; rồi diệt thấy nhân duyên tan rã cũng thật có diệt, đó gọi là theo tướng hòa hợp thô tháo, chấp thật có sanh thật có diệt, là thế gian mê muội.
Cái thứ hai sâu thêm một bước. Nói về Phật pháp tức là pháp thành Phật, để thành Phật đạo thì không phải do tự nhiên thành, tức cũng có nhân duyên. Lấy Phật tánh làm nhân rồi các hạnh thanh tịnh làm duyên, đầy đủ các công đức mới thành tựu được đạo quả. Nhưng thành tựu đó là thành cái gì? Thành cái nhân sẵn có.
Sẵn có nhưng vì mê nên phải nhờ những hạnh thanh tịnh, đầy đủ công đức mới thành tựu đạo quả. Nhưng thành tựu đó là thành tựu cái sẵn có chứ không phải thành tựu cái mới được. Thành ra nói nhân duyên mà không phải là thật có sanh, thật có được. Đó mới là lý nhân duyên sâu xa mà Phật muốn nói.
“Như Lai phát minh pháp thế gian và xuất thế gian, biết rõ nhân gốc của nó theo duyên gì mà phát ra cho đến một giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới cũng biết được số mục”. Nghĩa là những hạt mưa ở ngoài hằng sa thế giới Phật cũng biết rõ số mục từng giọt không lầm. Chỗ này ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, song nếu chúng ta có kinh nghiệm tu tập thì cũng có thể tin được.
Đây Như Lai phát minh pháp thế gian và xuất thế gian đó, biết rõ cái nhân gốc của nó theo duyên gì mà phát ra, vậy nhân gốc của nó là gì? Thấy pháp thế gian xuất thế gian, xét cho thấu nhân gốc của nó cũng từ chỗ nhất tâm, hay Như Lai Tạng tánh. Tức là từ cái nhất tâm chân thật đó, rồi tùy theo các duyên nhiễm tịnh mà thành sai khác. Theo duyên nhiễm thì nó thành pháp thế gian, theo duyên tịnh thì nó thành pháp xuất thế gian, nhưng gốc cũng từ nhất tâm thôi. Đó là cái nhân gốc.
Phật giác ngộ thấu suốt rồi nên xưng gọi Như Lai, tức sống trọn vẹn trong cái rõ ràng thường biết, không chút mê lầm. Mà ở trong cái rõ ràng thường biết nên Ngài biết rõ tất cả pháp không có một chút mê mờ, đến một giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới cũng không thể làm mờ mắt được, không thể qua mặt được, cho nên Phật nói là biết rõ hết số mục.
Như vậy mới gọi là trọn vẹn giác ngộ, giác hoàn toàn không còn dấu vết. Giác được như vậy mới gọi là Cứu cánh giác. Chúng ta học kinh cũng nhận hiểu, tin được điều đó và cũng có thể làm được, chứ không phải nó ngoài sức của chúng ta. Nếu chúng ta tu tập kỹ, khi sống được đầy đủ trọn vẹn trong tánh giác, từ trong tánh giác nhìn ra biết rõ hết không có gì che mờ, lúc nào cũng giác đâu có mê. Nhìn từng hạt bụi, từng con kiến cũng đâu có mê.
Học kỹ rồi tu tập có kinh nghiệm thì chúng ta thấy những điều Phật dạy trong kinh cũng dễ tin không khó. Được vậy chúng ta mới thấy có sự hứng thú, còn chỉ học theo chữ nghĩa thì thấy như Phật nói chuyện ở cõi nào khác không dính dáng gì tới mình hết. Sự thật, Phật nói pháp là nói cho tất cả chúng sanh cõi này nghe chứ đâu phải là nói cho cõi nào. Nếu mà nói cho cõi nào thì tức là không có kinh này cho chúng ta học ở đây. Hiểu vậy, chúng ta có đủ niềm tin cố gắng để tu tập, và càng phải tu tập kỹ lưỡng hơn, tu tập nhàn nhã không dễ vào được chỗ này đâu.
Tiếp, Phật nói: “Tùy trong tâm ông lựa chọn nơi sáu căn, nếu trừ được cái gút nơi căn ấy rồi thì trần tướng tự diệt. Mà trần tướng tự diệt thì các vọng tiêu hết vậy không phải chân là gì?”. Nếu ông chọn sáu căn này, không lầm trong đó mà trừ ngay cái gút nơi căn để không sanh vọng thì trần tướng tự diệt, các vọng tự tiêu; mà các vọng tiêu hết thì ngay đó tức chân, không vọng tức chân rồi.
Vậy thì căn trần đâu còn ngăn ngại nữa. Mà căn trần không còn ngăn ngại tức là cái biết sáng suốt thanh tịnh, thấu suốt cả xưa nay, đâu còn gì phải nghi, vậy không phải chân là gì, còn cầu chân gì nữa? Lẽ thật quá sáng tỏ rồi!
CHÁNH VĂN:
Phật bảo: “A-nan! Nay Tôi hỏi ông: Cái khăn kiếp-ba-la này hiện có sáu gút, nếu đồng thời mở ra thì có thể đồng một lúc trừ hết được chăng?”.
A-nan bạch: “Bạch Thế Tôn, không vậy! Những cái gút này, khi cột có thứ lớp, thì ngày nay cũng theo thứ lớp mà mở. Sáu gút tuy đồng một thể, nhưng khi cột không đồng một lúc, khi mở gút làm sao đồng thời trừ bỏ hết được?”.
Phật bảo: “Việc giải trừ cái gút nơi sáu căn cũng giống như vậy. Căn ấy khi bắt đầu mở, trước được nhân không, đến khi tánh không tròn sáng, thì giải thoát pháp chấp, pháp chấp giải thoát rồi cả hai cái nhân không, pháp không cũng không còn; ấy gọi là Bồ-tát do tam-ma-đề mà chứng được Vô sanh nhẫn”.
GIẢNG GIẢI:
Đây Phật chỉ về cách mở gút phải có thứ lớp. Trước căn cứ theo thí dụ về cái khăn, khi thứ lớp gút thành sáu cái thì khi mở cũng phải có thứ lớp. Việc giải trừ cái gút nơi sáu căn cũng như vậy.
Bắt đầu mở nơi căn, trước chứng được nhân không, là giải trừ được ngã chấp, đến khi tánh không tròn sáng, thấu tột các pháp không còn thấy có một pháp thật, gọi là giải thoát pháp chấp. Cuối cùng là giải thoát cả hai nhân không và pháp không tức ngã chấp và pháp chấp đều sạch. Bởi vì người có chấp nên mới nói “không” để phá chấp, khi chấp hết rồi thì cái “không” cũng buông luôn. Tức còn chấp ngã chấp pháp thì mới nói ngã không pháp không để phá. Nếu hết chấp rồi thì nói không gì nữa!
Hết chấp rồi mà vẫn giữ cái không là còn mắc kẹt. Giống như uống thuốc trị bệnh, khi có bệnh phải uống thuốc để trừ bệnh, khi hết bệnh cho thuốc này hay nên uống hoài là sanh bệnh tiếp. Đây cũng vậy, đã hết chấp rồi thì cái “không” cũng buông luôn, gọi là Bồ-tát do chánh định mà chứng được Vô sanh nhẫn, không còn chỗ nào để tâm sanh được nữa. Hết chỗ để tâm sanh gọi là chứng Vô sanh nhẫn. Đây nhằm để ngăn ngừa những người tăng thượng mạn, chưa chứng mà nói chứng. Nhiều khi người tu mới được một chút cho là đủ thành tăng thượng mạn, do đó, Phật chỉ ra thứ lớp rõ ràng để chúng ta vững tiến tu.
Về lý thì ngay vọng tức chân không có thứ lớp. Nhưng trên sự tu hành cần gạn lọc thì không phải thấy vậy là xong. Ngộ thì đúng là ngay vọng tức chân nhưng để sống được với cái ngộ của mình thì cũng phải có thời gian, thực tế là như vậy.
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan và đại chúng nhờ được Phật khai thị, tuệ nhãn được viên dung thông suốt không còn những điều nghi hoặc, đồng thời chắp tay đảnh lễ nơi hai chân Phật mà bạch Phật rằng: “Chúng con ngày nay thân tâm sáng suốt, vui sướng được vô ngại, song tuy nhận biết cái nghĩa một và sáu không còn, nhưng vẫn chưa rõ thấu căn tánh bản lai viên thông. Bạch Thế Tôn! Bọn chúng con đã trôi nổi bơ vơ trong nhiều kiếp, ngờ đâu được dự vào dòng giống của Phật, khác nào đứa con mất sữa được gặp mẹ hiền.
Nếu nhân nơi cơ hội này mà được thành đạo, chỗ bản ngộ phù hợp với đạo lý vi diệu đã được nghe, thì cùng với người chưa nghe không có sai khác. Cúi mong Phật mở lòng đại bi ban cho chúng con pháp bí mật diệu nghiêm, thành tựu lời dạy cuối cùng của Như Lai”. Nói lời ấy rồi năm vóc gieo xuống đất lui về an trụ nơi cơ cảm sâu nhiệm, trông mong Phật thầm truyền cho.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây, Ngài A-nan và đại chúng đã được tuệ nhãn viên dung thông suốt, hết nghi hoặc, rồi chắp tay đảnh lễ Phật thỉnh cầu chỉ dạy thêm. Tức là đã ngộ cái sẵn có nhưng lại hỏi chỗ căn tánh bản lai viên thông, vì đó là chỗ chưa chứng đến. Cũng như bây giờ đã rõ suốt được nghĩa mở sáu mất một, sáu với một đều mất, không còn nghi ngờ, đây mới thỉnh Phật khai thị pháp bí mật diệu nghiêm thành tựu lời dạy cuối cùng.
“Nếu nhân nơi cơ hội này mà được thành đạo, chỗ bản ngộ phù hợp với đạo lý vi diệu đã được nghe”. Chỗ này dịch hơi thoát một chút, nguyên văn chữ Hán là “Sở đắc mật ngôn, hoàn đồng bản ngộ” tức chỗ được những lời sâu kín đồng với bản ngộ. Khi nhận được chỗ mật ngôn đó, nói theo tinh thần của nhà thiền là nhận được cái ý chân thật ngoài lời thì lại đồng với cái chỗ sẵn ngộ, chứ không phải là cái mới có mới được.
***
-
5. MỤC 16: GẠN HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ CHỖ VIÊN THÔNG
CHÁNH VĂN:
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo khắp các vị đại Bồ-tát và các hàng lậu tận A-la-hán ở trong chúng rằng: “Các ông là những vị Bồ-tát, A-la-hán sanh trong Phật pháp đã chứng quả Vô học, nay Tôi hỏi các ông: Lúc ban đầu khi mới phát tâm, trong mười tám giới ngộ được viên thông ở giới nào và do phương tiện gì mà được vào Tam-ma-địa?”.
GIẢNG GIẢI:
Ở đây, Phật hỏi các vị đại Bồ-tát và các vị lậu tận A-la-hán, là những bậc đã thật chứng ngộ, đã sạch hết các lậu hoặc, thì những kinh nghiệm ban đầu tu chứng là gì? Những vị này tự thuật lại chỗ đã tự chứng, đã kinh qua bằng kinh nghiệm của chính mình không bằng suy luận.
CHÁNH VĂN:
Ông Kiều-trần-na, năm vị Tỳ-kheo liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng: “Khi con ở Lộc Uyển và nơi Kê Viên, xem thấy Đức Như Lai khi mới thành đạo, chúng con do nghe pháp âm của Phật ngộ pháp Tứ đế. Phật hỏi trong hàng Tỳ-kheo, thì con được gọi là nhận hiểu trước tiên. Như Lai ấn chứng cho con tên là A-nhã-đa, đi sâu vào bản tánh nhiệm mầu của âm thanh mà được viên dung sâu kín. Con do âm thanh mà được quả A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng được của con thì âm thanh là hơn hết”.
GIẢNG GIẢI:
Đây Ngài Kiều-trần-na hay Kiều-trần-như, một trong năm vị Tỳ-kheo đầu tiên ở nơi Lộc Uyển được Phật độ, đứng lên thưa. Năm vị đó là A-thấp-bà tức Ngài Mã Sư, thứ hai là Bạt-đề dịch là Hiền, thứ ba là Ma-nam-câu-lực, thứ tư là Kiều-trần-na dịch là Hỏa Khí, thứ năm là Thập-lực Ca-diếp.
Năm vị này cùng nghe Đức Phật thuyết về Tứ đế, thì Ngài Kiều-trần-na thấy đạo trước hết nên được tên là A-nhã-đa tức là Giải. Do Ngài thấy đạo trước nên Ngài đại diện để trình bạch rõ là khi nghe pháp âm của Phật rồi ngộ pháp Tứ đế, Ngài đi sâu vào bản tánh nhiệm mầu của âm thanh được viên dung sâu kín, tức là từ âm thanh mà được vào đạo.
Nghe âm thanh mà suốt qua âm thanh, không dừng trên âm thanh, vượt khỏi thanh trần. Nếu nghe pháp như thế mới thật sự vào đạo, còn nghe mà chỉ phân biệt theo tiếng, là dừng trên âm thanh hoặc là kẹt trên thanh trần. Nhưng đa số người học đạo thường chỉ nghe dừng trên âm thanh, nghe tiếng rồi phân biệt trên tiếng nên không vào sâu được.
Đúng ra theo thứ lớp thì phải nói sắc trần trước: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thì đối với nhãn là sắc nhưng ở đây lại nói thanh trần trước, đó là có ý. Bởi vì giáo thể cõi Ta-bà này từ âm thanh được thành, nên người nghe pháp vào đạo thì phải nghe âm thanh. Thuyết pháp, là dùng âm thanh làm Phật sự, nên ở trong kinh dẫn chứng về âm thanh trước. Lại cũng muốn nhắc cho người học đạo phải nghe thấu qua âm thanh để thấy được pháp chân thật chứ không dừng trên âm thanh cho đó là đủ. Bởi vậy đây dẫn Ngài Kiều-trần-na thuật lại khi nghe âm thanh rồi đi sâu vào bản tánh nhiệm mầu của âm thanh mà được viên dung sâu kín, không dừng trên ngôn ngữ.
Trong nhà thiền có câu chuyện, có vị pháp sư đến hỏi Thiền sư Huệ Hải ở Đại Châu:
- Giờ định hỏi thầy một câu nhưng thầy có vui lòng đáp lại không?
Ngài Huệ Hải đáp:
- Bóng trăng dưới đầm sâu mặc ý mò bắt.
Vị pháp sư này hỏi là định hỏi thầy một câu, thầy có vui lòng đáp lại hay không? Sư không nói là được hay không được, chỉ nói giống như bóng trăng dưới đầm sâu mặc ý cho ông mò bắt, là sao? Hỏi thì Sư cũng sẵn sàng đáp nhưng lời đáp của Sư giống như bóng trăng dưới đầm sâu. Cốt yếu là phải ngộ được mặt trăng ở trên trời chứ không phải ở chỗ bóng trăng đó, tức phải đạt ý quên lời.
CHÁNH VĂN:
Ông Ưu-ba-ni-sa-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: “Con cũng thấy khi Phật mới thành đạo, do con quán tướng bất tịnh mà sanh tâm rất nhàm chán xa lìa, ngộ được thật tánh của các sắc. Do từ quán tướng bất tịnh, đến tướng xương trắng và tướng vi trần, đều tan về hư không, cả hai cái không và sắc cũng không, thành tựu đạo Vô học. Như Lai ấn chứng cho con tên Ni-sa-đà. Sắc của trần cảnh đã hết, sắc của tinh diệu được mật viên. Con do sắc tướng mà chứng A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng được của con, do sắc trần là hơn cả”.
GIẢNG GIẢI:
Ưu-ba-ni-sa-đà dịch là Trần Tánh, chỗ khác dịch là Cận Thiểu, do chỗ chứng mà được tên.
Ban đầu, Ngài quán về tướng sắc bất tịnh, kế quán sâu hơn về tướng xương trắng, phân tích thành những vi trần, thành từng hạt bụi nhỏ như những hạt phân tử. Rồi phân tích vi trần tan thành hư không, hết còn chỗ để tâm phân biệt. Đã tan về hư không rồi thì cả hai sắc và không cũng không luôn, tức không còn kẹt nơi sắc nơi không nữa. Ban đầu quán giống như còn có sự đối đãi, từ sắc quán thành không, sau sắc-không đều vượt qua nên tâm thanh tịnh sáng suốt, không còn bị sắc-không che ngại. Đến giai đoạn sắc trần hết, sắc của tinh diệu được mật viên, tức chuyển thành diệu sắc. Mật viên là sâu kín, tròn đầy.
Chỗ hết đây không phải là phá hoại cái có thành không, mà là sắc của trần cảnh hết thì sắc của tinh diệu được mật viên, là chuyển thành diệu sắc, không còn làm mê mờ tham đắm nữa. Tiêu hết tức nó không còn là đối tượng chướng ngại thì giống như tiêu. Nhưng không có nghĩa là phá hoại tướng thế gian, đừng hiểu nghĩa tiêu theo kiểu là từ có thành không, rồi cả thế gian này không còn gì hết. Hiểu như vậy là cái hiểu đoạn diệt. Đây có nhưng thấy suốt qua hết, không còn chướng ngại, nên tâm giải thoát thanh tịnh, thành chứng được A-la-hán.
Vậy từ thanh trần cũng vào đạo được, từ sắc trần cũng vào đạo được, đều do khéo quán đến tột cùng thì cũng được vào đạo.
CHÁNH VĂN:
Ông Hương Nghiêm Đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: “Con nghe Đức Như Lai dạy, phải quán xét kỹ các tướng hữu vi. Khi ấy con từ giã Phật, đầu hôm đến ngồi yên lặng nơi nhà thanh trai, thấy các thầy Tỳ-kheo đốt trầm thủy hương, mùi thơm lặng lẽ bay vào trong mũi con. Con quán mùi thơm ấy không phải là gỗ, không phải là hư không, không phải là khói, không phải là lửa, đi ra không dính vào đâu, đến cũng không từ đâu, do đó mà ý niệm phân biệt tiêu diệt, phát minh tánh vô lậu. Như Lai ấn chứng cho con hiệu là Hương Nghiêm. Tướng hương tiền trần bỗng diệt, thì diệu tánh của hương là mật viên. Con do hương nghiêm mà chứng A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con hương nghiêm là hơn cả”.
GIẢNG GIẢI:
Ở đây, Ngài Hương Nghiêm quán về hương trần, cũng là một trong những tướng hữu vi nên đây mới nói là nghe Đức Như Lai dạy phải quán xét các tướng hữu vi. Do ngồi nơi nhà thanh trai, là nơi yên tĩnh vắng vẻ, gặp các thầy Tỳ-kheo đốt trầm thủy hương, là loại hương rất thơm.
Thường khi nghe mùi hương thì mọi người đều dính vào mùi hương, duyên theo mùi hương đó phân biệt hoặc thơm hoặc hôi, gọi là dính vào hương trần. Đây Ngài nhân mùi hương đó quán kỹ trở lại, tức không theo mùi hương rồi phân biệt, mà dùng mùi hương đó quán sát để vào đạo. Do quán mùi thơm này không phải là gỗ, vì gỗ thì đâu phải mùi thơm; rồi mùi thơm đâu phải là hư không, vì hư không trống rỗng; rồi mùi thơm cũng không phải là khói, vì khói đâu có mùi thơm; mùi thơm cũng không phải là lửa, lửa cũng đâu có mùi thơm!
Khi Ngài quán kỹ tìm không ra chỗ để chấp bám, tức không có cái thật thể. Còn chúng ta hễ nghe mùi thơm, liền tưởng mùi thơm là thật có, rồi duyên vào đó bị dính mắc, tham đắm, thành ra mắc kẹt. Nếu quán theo như trên thì đâu còn chỗ để bám mà phân biệt.
Nhờ Ngài quán kỹ nên thấu suốt qua mùi hương, tâm không còn chỗ sanh. Mà tâm không sanh thì trần tự tiêu, hết còn chỗ nào để tồn tại liền thành giải thoát. Là chuyển hương trần thành diệu hương, nó không còn làm ngăn ngại, cũng không còn đắm nhiễm.
Vậy, từ nơi hương trần cũng chứng được Vô học.
CHÁNH VĂN:
Hai vị Pháp Vương tử Dược Vương, Dược Thượng và 500 vị Phạm Thiên trong hội liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con từ kiếp vô thủy làm lương y thế gian, miệng thường nếm cỏ, cây, vàng, đá trong cõi Ta-bà này, số mục có đến mười vạn tám ngàn loại, biết hết các vị: đắng, chua, cay, mặn, lạt v.v... cùng với các vị biến đổi do các vị kia hòa hợp, cùng sanh ra thứ nào là nóng, thứ nào là lạnh, thứ nào là có độc, thứ nào là không độc, con đều biết cả. Vâng nghe lời dạy của Đức Như Lai rõ biết được bản tánh của vị trần, chẳng phải không, chẳng phải có, chẳng phải tức thân tâm, chẳng phải rời thân tâm, phân biệt đúng bản tánh của vị trần mà được khai ngộ. Nhờ Phật ấn chứng cho anh em chúng con hiệu là Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng. Nay ở trong hội làm vị Pháp Vương tử, chúng con nhân vị trần mà được giác ngộ sáng suốt lên bậc Bồ-tát. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì vị trần là hơn cả”.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây hai vị Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Dược Thượng kể lại túc duyên về trước từng làm lương y ở thế gian, miệng nếm đủ hết các vị của thế gian đến mười vạn tám ngàn loại (108000 loại). Tuy nếm biết đủ hết các vị nhưng lại không bị các vị làm mê mờ. Chúng ta thì ngược lại, vừa nếm một hai vị là bị mê vì vị ngon vị dở, thành ra bị nó che ngại.
Hai Ngài vâng lời dạy của Đức Phật trình bày chỗ tu tập là quán rõ biết được bản tánh của vị trần nên không dính mắc. Bản tánh của vị trần là không phải không, không phải có. Nếm có vị thì đâu phải không, không thể nắm bắt được thì đâu phải có, cũng không phải tức thân tâm, không phải rời thân tâm mà riêng có. Quán kỹ như vậy nên đâu còn tâm tham đắm vào vị, nhờ vậy suốt qua vị trần tâm được sáng tỏ.
Đây là các Ngài nhân nơi vị trần được giác ngộ sáng suốt, lên bậc Bồ-tát. Chúng ta học pháp tu quán vị đây rồi, thì khi thọ trai phải khéo quán cho thấu suốt bản tánh của vị trần để được rỗng suốt, không tham đắm trong đó rồi bị nó che mờ.
Nhà thiền có câu chuyện Ngài Dược Sơn gạn hỏi Ngài Vân Nham. Một hôm, Ngài Dược Sơn hỏi Ngài Vân Nham:
- Ông ở đâu đến?
Vân Nham thưa:
- Ở chỗ Bá Trượng đến.
Ngài Dược Sơn hỏi:
- Bá Trượng có ngôn cú gì chỉ dạy đồ chúng?
Vân Nham thưa:
- Thường ngày, Ngài từng nói rằng: “Ta có một câu đầy đủ trăm vị”.
Ngài Dược Sơn hỏi:
- Mặn là vị mặn, lạt là vị lạt, không mặn không lạt là vị thường. Vậy thế nào là một câu mà đầy đủ được trăm vị?
Vân Nham đáp không được.
Bị vị trần ngăn ngại rồi! Vậy làm sao thấu được một câu đầy đủ trăm vị? Ở đây, Ngài Dược Vương, Ngài Dược Thượng thì trong một câu còn đủ cả 108 ngàn vị, nói gì là trăm vị?
Đây dù cho bao nhiêu vị đi nữa, chỉ cần “rõ biết” là xong, nhưng chúng ta không sáng được chỗ này mà chỉ nhớ các vị trần nên bị các vị làm ngăn ngại. Sáng tỏ được chỗ “rõ biết” này là suốt cả 108 ngàn vị luôn. Cho nên đây chỉ cần khéo soi trở lại, chớ có nhớ theo các vị trần là bị ngăn ngại, dù cho suy nghĩ nát óc cũng không ra nổi. Đây là hai Ngài Dược Vương, Dược Thượng từ vị trần mà vào đạo.
CHÁNH VĂN:
Ông Bạt-đà-bà-la và 16 vị khai sĩ đồng bạn liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Trước kia nơi Phật Oai Âm Vương, chúng con do nghe pháp mà được xuất gia. Khi chư Tăng tắm gội, con theo thứ lớp vào nhà tắm, bỗng ngộ được chân tánh của nước, đã chẳng rửa bụi, cũng chẳng rửa thân, trong khoảng giữa yên lặng được không có gì. Do cái túc tập chẳng quên, cho đến hôm nay theo Phật xuất gia, mới thành được quả Vô học. Đức Phật ấy gọi tên con là Bạt-đà-bà-la do phát minh được diệu tánh của xúc trần mà thành bậc Phật tử trụ. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì nhân xúc trần là hơn cả”.
GIẢNG GIẢI:
Bạt-đà-bà-la có chỗ dịch là Thượng Thủ. Bạt-đà-bà-la cùng với 16 khai sĩ đồng bạn thuật lại nhân duyên trước kia của mình là từ thời Phật Oai Âm Vương. Mới thấy các Ngài tu do chủng tử và duyên lành từ nhiều đời nhiều kiếp chứ không phải mới một đời mà có được.
Ở đây, Ngài Trường Thủy có giải thích, theo kinh Pháp Hoa chép từ thời Phật Oai Âm Vương có hai vạn ức Đức Phật Oai Âm Vương liên tục ra đời. Khi Đức Phật Oai Âm Vương trước nhập diệt rồi qua đến thời tượng pháp thì vị này xuất gia, nhưng là vị Tỳ-kheo tăng thượng mạn hủy nhục Bồ-tát Thường Bất Khinh.
Bồ-tát Thường Bất Khinh đi đâu cũng xá xá nói: “Tôi không dám khinh quý Ngài, quý Ngài đều sẽ thành Phật”. Vị Bạt-đà-bà-la này cũng là một trong những vị Tỳ-kheo thời đó, thấy Bồ-tát Thường Bất Khinh làm vậy, sanh tâm sân giận lấy đá ném hoặc dùng lời chê bai. Sau đó phải đọa địa ngục trải qua nhiều kiếp, khi tội hết, ra khỏi địa ngục gặp Đức Phật Oai Âm Vương sau cùng mới xuất gia và ngộ đạo.
Trong kinh Pháp Hoa nói rõ là liên tục mấy ngàn vạn ức Đức Phật ra đời, đây là Đức Phật Oai Âm Vương sau cùng. Như vậy, Ngài gặp Đức Phật Oai Âm Vương sau cùng xuất gia được ngộ đạo. Còn 16 vị khai sĩ theo Ngài là người mới phát tâm, gọi là đồng bạn của Ngài Bạt-đà-bà-la.
Ngài thuật là khi theo thứ lớp vào nhà tắm mới ngộ được chân tánh của nước không phải rửa bụi, không phải rửa thân, khoảng giữa nó là yên lặng không có gì hết, không có gì để được, tức là thấu qua xúc trần, không bị nó làm mê mờ. Tuy tắm xối nước nhưng mà quán thấu như vậy thì đâu có mê, còn chúng ta khi tắm chỉ nghe mát lạnh hoặc ấm thành ra bị xúc trần che mờ, rồi tham hoặc là sân khởi. Nếu mát ấm dễ chịu thì thích, còn nếu lạnh quá không thích liền bực bội, khó chịu nên bị xúc trần làm mê.
Để cho thấy, ngay xúc trần đó mà tâm vẫn sáng tỏ, hay là ở trong nhà tắm mà cũng có Phật pháp, đâu phải tìm Phật pháp đâu xa. Cho nên người biết tu thấy Phật pháp hiện khắp nơi, còn không biết tu thì nhiều khi lên đến Thiền đường mà tâm vẫn rối loạn, phiền não, không thấy Phật pháp.
Trong nhà thiền có câu chuyện bà Ni sư Trí Thông, tu thiền ngộ đạo. Bà làm nhà tắm rồi treo cái bảng ở ngoài cửa nhà tắm báo là ai vào nhà tắm phải quán câu này thì vào tắm mới được: “Một vật cũng không rửa cái gì, mảy trần nếu có từ đâu khởi. Nói lấy một câu tử huyền (một câu thông suốt có ý nghĩa) mới có thể đồng vào nhà tắm. Cổ Linh chỉ biết kỳ lưng, Khai sĩ đâu từng sáng tâm. Muốn chứng quả Ly cấu địa, phải là toàn thân toát mồ hôi. Trọn nói nước hay rửa bụi nhơ, đâu biết rằng nước cũng là bụi. Dù cho nước và nhơ chóng trừ, đến đây cũng phải rửa sạch”.
Vào nhà tắm nhìn cái bảng, quán như vậy thì tắm đâu có mê, đâu còn nhớ xúc trần.
Một vật cũng không rửa cái gì? Chúng ta thấy có da thịt, có thân này thật, có ta đây thật, mới có sạch nhơ, rồi mới có tắm nó. Nhưng nếu xét tột nguồn của nó thì vốn là xưa nay không một vật, vậy tắm cái gì đây?
Mảy trần nếu có từ đâu khởi? Nếu thật sự một mảy trần có được thì từ đâu nó có? Quán kỹ vậy xem. Rồi làm sao nói lấy được một câu cho có ý nghĩa, một câu thông suốt thì mới có thể vào nhà tắm? Còn nói không được thì thôi đừng tắm. Tắm như vậy đúng là đâu có mê được.
Cổ Linh chỉ biết kỳ lưng, Cổ Linh tức Ngài Cổ Linh - Thần Tán, Ngài kỳ lưng cho ông thầy rồi thức tỉnh ông thầy: “Điện Phật đẹp mà Phật không Thánh...”.
Khai sĩ đâu từng sáng tâm, khai sĩ tức 16 vị khai sĩ trong kinh này kể. Muốn chứng quả Ly cấu địa, phải là toàn thân toát mồ hôi mới được, là không thể nói suông, hiểu suông ngoài miệng được.
Trọn nói nước hay rửa bụi nhơ, đâu biết rằng nước cũng là bụi, thường cho nước hay rửa trần, nhưng đâu biết rằng nước cũng thuộc về sắc trần, rồi bụi trên thân mình cũng là trần, đem trần rửa trần, vậy cái nào rửa cái nào?
Cuối cùng dù cho nước và bụi nhơ chóng trừ, đến chỗ này cũng phải rửa sạch. Nghĩa là rốt ráo cũng phải vượt qua chỗ trừ đó luôn, rỗng suốt, sáng tỏ được tự tâm.
Chỗ này thì nước làm sao rửa đến được! Xúc trần cũng không xúc đến được chỗ này! Thấy được chỗ này mới gọi là thấu suốt được chân tánh. Tắm như vậy thì lúc nào cũng sáng suốt, không mê. Đây là từ xúc trần mà vào đạo.
CHÁNH VĂN:
Ông Ma-ha Ca-diếp và bà Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang v.v... liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Ở kiếp xa xưa trong cõi này có Đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng, con được gần gũi nghe pháp tu học. Sau khi Phật diệt độ con thắp đèn sáng mãi cúng dường Xá Lợi và dùng vàng thắm thếp hình tượng Phật. Từ đó đến nay sanh ra trong mỗi đời thân thể thường viên mãn sáng chói như vàng thắm. Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang v.v... này là quyến thuộc của con lúc đó, cũng đồng thời phát tâm như con.
Con do quán sát sáu trần ở thế gian đều biến hoại, chỉ dùng pháp không tịch, tu định Diệt tận, thân tâm có thể trải qua trăm ngàn kiếp cũng như khảy móng tay. Con quán các pháp là rỗng không mà thành quả A-la-hán. Đức Thế Tôn nói con tu hạnh đầu-đà bậc nhất. Diệu tánh của các pháp được tỏa sáng thì tiêu diệt các lậu. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì do pháp trần là hơn cả”.
GIẢNG GIẢI:
Ngài Ma-ha Ca-diếp thuật lại duyên xưa từ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng được gần gũi nghe pháp, sau khi Phật diệt độ mới thắp đèn sáng cúng dường Xá-lợi, dùng vàng thếp tượng Phật nên quả báo hiện tại được thân tướng sắc vàng.
Về chỗ tu, do Ngài quán sáu trần đều biến hoại, mà căn bản do thấu suốt pháp trần mà chứng viên thông. Bởi vì pháp trần cũng từ năm trần mà tạm có, pháp trần là bóng của năm tiền trần còn đọng lại. Vậy quán kỹ thì năm trần đều là tướng biến hoại, không có thật thể tồn tại. Gốc năm trần không thật rồi thì pháp trần cũng không thật, vốn là không tịch.
Pháp trần lại là chỗ duyên của ý, mà không tịch rỗng lặng vậy ý duyên vào cái gì? Thành ra ý không có chỗ bám, ngay đó nhập định Diệt tận thành tựu quả A-la-hán. Tức rỗng suốt qua pháp trần, sạch hết các lậu, mà chứng được viên thông. Do chứng định Diệt tận cho nên thân tâm trải qua trăm ngàn kiếp dường như khảy móng tay vậy thôi. Bởi vì ý đâu còn có pháp trần làm đối tượng để duyên nữa, không chỗ đối tượng để duyên thì đâu còn phân biệt lâu mau, nên vượt qua cả thời gian.
Trên đây là sáu vị đều từ sáu trần mà chuyển lại cởi mở hết những ràng buộc, thành giải thoát. Gọi là ngay nơi sáu trần mà phát minh ra diệu tánh của các trần, hết mê theo trần mà trở về nguồn chân.
Nhà thiền cũng có câu chuyện ông tăng hỏi Thiền sư Hồng Chẩn:
- Khi vạch trần thấy Phật thì thế nào?
Thiền sư Hồng Chẩn đáp:
- Phật cũng là trần.
Chúng ta quán cho kỹ, thấu suốt được chỗ này thì các trần hết còn làm ngại. Nghĩa là sao? Ông hỏi là vạch các trần mà thấy Phật thì Ngài nói Phật cũng là trần. Bởi vì thấy Phật thì Phật là tướng bị thấy, mà tướng bị thấy tức là sắc trần, thì Phật cũng là trần chứ gì.
Nếu thấy được vậy thì đâu còn bị trần làm mê, đã thấy Phật cũng là trần tức là không lầm theo tướng bị thấy đó nữa, mà nhớ trở lại cái sáng suốt nơi mình đây, như vậy mới là thấy Phật, là chuyển trở về nguồn. Còn mê theo tướng đó tức là theo trần, là quên Phật thật.
Đây qua tới sáu căn.
CHÁNH VĂN:
Ông A-na-luật mới từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: “Khi con mới xuất gia thường ưa ngủ nghỉ, nên Như Lai quở con là loài súc sanh, nghe Phật quở con liền khóc lóc tự trách, thức suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt. Thế Tôn dạy con tu pháp “Nhạo Kiến Chiếu Minh Kim Cang Tam-muội”. Con không do con mắt mà thấy khắp cả mười phương, rỗng suốt tinh tường, như xem trái cây để trong lòng bàn tay. Như Lai ấn chứng cho con thành quả A-la-hán. Nay Phật hỏi về viên thông, theo chỗ chứng của con, xoay cái thấy trở về bản tánh là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
A-na-luật dịch là Vô Bần, xưa Ngài có túc duyên lành nên đời nay được quả không nghèo. Khi xuất gia theo Phật cũng còn tập khí buồn ngủ, như một hôm, ngồi nghe Phật thuyết pháp mà ngủ gật, Phật mới nói bài kệ quở: “Như loài súc sanh, loài trai, loài sò (trai, sò thích ngủ, nó khép hai cái vỏ lại nằm ngủ) ngủ, ngủ như vậy cả ngàn năm không được nghe Phật pháp”.
Ngài A-na-luật nghe quở mới giật mình, quá hổ thẹn. Sau đó, Ngài khóc lóc tự trách, rồi phát tâm tinh tấn không ngủ suốt cả tuần nên mới hư hai con mắt. Sau đó được Phật chỉ dạy xoay cái thấy trở về bản tánh mà thành giải thoát. Tức xoay cái thấy lại, không thấy theo sắc trần, không dính vào nhãn căn mà xoay trở về bản tánh nên chứng giải thoát, thành bậc thiên nhãn bậc nhất trong hàng Thanh Văn. Vậy là chuyển cái thấy vượt khỏi nhãn căn, không nhờ nhãn căn mà vẫn thấy. Đây là từ nhãn căn mà được vào đạo.
Trong nhà thiền, các Thiền sư cũng thường lợi dụng căn mắt này để khai thị cho người học, như giơ phất tử, giơ ngón tay v.v...
Ở đây Ngài A-na-luật hư hai con mắt nhưng được thiên nhãn, thấy suốt cõi Tam thiên đại thiên, không nhờ con mắt mà vẫn thấy khắp mười phương, để chứng thực cái thấy không phải chỉ có ở con mắt.
Tiếp theo là phần tỷ căn, còn nhĩ căn của Ngài Quán Tự Tại sẽ học ở sau.
CHÁNH VĂN:
Ông Châu-lợi-bàn-đặc-ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Do con thiếu trì tụng, không có tuệ đa văn, ban đầu được gặp Phật nghe pháp xuất gia, con cố nhớ một câu kệ của Như Lai, song trong một trăm ngày hễ nhớ trước thì quên sau, nhớ sau thì quên trước. Phật thương xót con ngu muội mới dạy con pháp an cư điều hòa hơi thở ra vào. Khi con quán hơi thở cùng tột các tướng sanh, trụ, dị, diệt nhỏ nhiệm từng sát-na; tâm con rỗng suốt được đại vô ngại; cho đến hết các lậu thành quả A-la-hán, ở dưới tòa của Phật, được Phật ấn chứng thành quả Vô học. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con xoay hơi thở trở về tánh không là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Châu-lợi-bàn-đặc-ca dịch là Tiểu Lộ Biên, em Ngài Châu-lợi, hai anh em sanh ở bên đường cho nên gọi là Đại Lộ Biên và Tiểu Lộ Biên. Do những đời trước kia làm pháp sư nhưng lại bỏn xẻn Phật pháp, không chịu nói cho người nên mắc phải quả báo ngu độn, học mãi một bài kệ mà không thuộc, học câu trước là quên câu sau. Nhưng được Phật thương xót phương tiện chỉ dạy quán hơi thở mà tâm được rỗng suốt. Để thấy rằng tuy là ngu độn nhưng được Phật chỉ dạy rồi khéo tu tập thì cũng chứng quả A-la-hán.
Khi Ngài được Phật chỉ dạy pháp quán hơi thở, đây không phải chỉ quán hơi thở vô ra bình thường, mà quán sâu đến cùng tột thấy tướng nhỏ nhiệm của nó vi tế trong từng sát-na sanh diệt. Như vậy, thấy sanh diệt rồi không phải dừng trong cái sanh diệt mà để không bám vào đó, nên sau dần dần tâm rỗng suốt vô ngại, sạch hết các lậu. Cho thấy pháp quán hơi thở không phải tầm thường, nhưng nhiều người hiểu lầm cho pháp quán hơi thở là pháp sơ cơ cho mấy người mới vào đạo tập quán, đó là cái hiểu lệch lạc, sai lầm.
Quán hơi thở là pháp rất là thiết thực, gần gũi với mọi người trong mọi lúc, lúc nào cũng có mặt với chúng ta hết. Quán hơi thở khiến cho tâm người tập trung theo hơi thở thì không có duyên ra ngoài. Bước đầu dừng tâm tán loạn, sau khi tâm yên rồi mới xét sâu tướng sanh diệt vi tế cho đến các tướng nhỏ nhiệm của hơi thở trong từng sát-na, chỗ này dù có suy nghĩ cũng không thể bắt kịp. Cuối cùng tâm rỗng suốt thành tựu được giải thoát. Đó là Ngài Châu-lợi-bàn-đặc từ nơi tỷ căn mà chứng viên thông.
CHÁNH VĂN:
Ông Kiều-phạm-bát-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con mắc khẩu nghiệp thuở quá khứ, khinh rẻ chế giễu các vị Sa-môn, nên nhiều đời sanh ra có bệnh lưỡi giống như lưỡi trâu. Đức Như Lai dạy con tu pháp môn “Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa”. Nhờ đó mà con diệt được phân biệt vào Tam-ma-địa, quán cái biết vị chẳng phải thân thể, chẳng phải ngoại vật, liền đó được vượt khỏi các lậu trong thế gian, bên trong giải thoát thân tâm, bên ngoài vượt khỏi thế giới. Xa lìa ba cõi, như chim ra khỏi lồng, lìa hết cấu nhiễm tiêu diệt trần tướng, nên pháp nhãn được thanh tịnh, thành quả A-la-hán, Đức Như Lai ấn chứng cho con lên bậc Vô học. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con xoay các vị trở về tánh biết, đây là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Kiều-phạm-bát-đề, dịch là Ngưu Ty, vì thời quá khứ khinh rẻ chế giễu các vị Sa-môn, nên bị quả báo của khẩu nghiệp sanh ra lưỡi giống như lưỡi trâu, ăn rồi thường nhơi lại. Được Phật chỉ dạy pháp môn tu quán “Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa”, tức là quán thấu cái biết vị, suốt qua thân thể và ngoại vật, thấu qua căn và trần.
Ở đây, Ngài quán cái biết vị chẳng phải là thân thể, thân thể là tứ đại đâu có biết, cũng chẳng phải ngoại vật, vật bên ngoài thì đâu biết vị, nên vượt khỏi các lậu trong thế gian, bên trong thì giải thoát thân tâm, bên ngoài vượt khỏi thế giới. Vậy là thấu qua căn trần, vượt lên cả cái lưỡi và vị trần, rồi trần tướng tiêu không còn làm nhiễm và che ngại, thành tựu giải thoát.
Như vậy, từ nơi thiệt căn mà không đồng hóa với thiệt căn, xoay ngược trở về nguồn chân. Đó là từ thiệt căn mà chứng viên thông.
CHÁNH VĂN:
Ông Tất-lăng-già-bà-ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con khi mới phát tâm theo Phật vào đạo thường nghe Đức Như Lai dạy về những việc không vui trong thế gian. Lúc đi khất thực trong thành tâm con suy nghĩ pháp môn Phật dạy, giữa đường bất ngờ bị gai độc đâm vào chân, toàn thân đều đau nhức. Con tâm niệm: Con có cái biết, biết được cái đau nhức ấy, tuy biết được cái biết đau nhức, nhưng đồng thời giác biết nơi tâm thanh tịnh không có cái đau và cái biết đau. Con lại suy nghĩ: “Một thân thể này đâu thể có hai tánh biết”. Nhiếp niệm chưa bao lâu thân tâm bỗng nhiên không tịch. Trải qua hai mươi mốt ngày, các lậu đều sạch hết, thành quả A-la-hán, được Phật ấn chứng lên bậc Vô học. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thuần một tánh biết rời nơi thân thể là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Tất-lăng-già-bà-ta dịch là Dư Tập, tức là còn dư tập của 500 đời làm Bà-la-môn. Ở đây, Ngài Tất-lăng-già-bà-ta nhân bị gai độc đâm vào chân, thân có cảm giác đau nhức từ đó mà quán rồi vào đạo. Học thấy các Ngài tu chứng A-la-hán nghe sao dễ dàng, chỉ gai đâm vào chân rồi tu quán là chứng A-la-hán, nhưng đâu biết rằng các Ngài đã tu tập kỹ từ trước rồi.
Chúng ta vì tu hời hợt, không thường xuyên kỹ lưỡng, do đó nếu gặp chuyện là chỉ nhớ phiền não chớ đâu có nhớ pháp tu. Gặp gai đâm chân đau thì phiền não sanh, giận trách người. Đôi khi nhân cái đau đó xin khỏi ngồi thiền, xét lại mình mới thấy hổ thẹn.
Còn các Ngài lúc nào cũng nhớ pháp rồi tu tập, nên khi bị gai đâm chân ngay đó nhớ quán chiếu liền, không để cho niệm khác chen vào thành phiền não. Thành ra nhân cái đau quán trở lại để không theo cái đau nhức, mà nghĩ nhớ có cái giác biết đau nhức, rồi lại có cái giác biết trở lại tâm thanh tịnh; tức cái không có đau và cái biết đau. Từ đó xét sâu hơn, là trong một thân làm sao lại có hai cái tánh biết được? Một thân có hai tánh biết thành ra hai người sao? Cứ quán sâu, quán sâu như vậy thì dần dần tâm lặng lẽ quên theo cái đau. Do quán ngược trở lại, không có đồng hóa với cái đau nữa, cho nên tâm lặng lẽ vượt qua khỏi cái đau, thuần trở lại tánh biết nguyên vẹn không trộn lẫn với cái đau, tâm rỗng lặng, sạch lậu thành giải thoát.
Trong nhà thiền, Ngài Vân Môn đến gặp Ngài Trần Tôn Túc rồi bị đóng cửa dập bàn chân bị đau, cũng ngộ đạo. Đây là từ thân căn mà vào đạo.
CHÁNH VĂN:
Ông Tu-bồ-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Từ nhiều kiếp đến nay tâm con được vô ngại, tự nhớ thọ sanh nhiều đời như cát sông Hằng. Khi còn trong thai mẹ đã biết tánh không tịch, như thế cho đến mười phương đều thành rỗng không và cũng khiến cho chúng sanh chứng được tánh không. Nhờ Đức Như Lai chỉ dạy con phát minh được tánh giác chân không, tánh không được viên mãn sáng suốt chứng quả A-la-hán, liền vào Bảo minh không hải của Như Lai, tri kiến đồng như Phật, được Phật ấn chứng cho con thành quả Vô học, tánh giải thoát rỗng không, con là trên hết.
GIẢNG GIẢI:
Tu-bồ-đề dịch là Không Sanh. Duyên của Ngài là từ nhiều kiếp đến nay tâm được vô ngại, tự nhớ thọ sanh nhiều đời như số cát sông Hằng, ở trong thai mẹ đã biết tánh không tịch. Căn cơ của các Ngài thật sâu dày đến thế! Rồi phát minh tánh giác chân không tức là không mà chân, chớ không phải cái không đối với cái có. Rồi tánh không được viên mãn sáng suốt, nhập vào Bảo minh không hải của Như Lai, là biển không sáng suốt quý báu của Như Lai. Tri kiến đồng như Phật, đây là vượt hẳn cả Nhị thừa. Ngài được chứng thành Vô học, chỗ chứng của Ngài gọi là tánh giải thoát rỗng không là trên hết.
Đây Ngài mới thuật lại thêm chỗ chứng:
CHÁNH VĂN:
Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, các tướng đều vào tướng phi. Năng phi, sở phi đều hết, xoay pháp trở về không là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Các tướng đều vào tướng phi tức là vượt qua tướng, rồi năng phi sở phi đều hết là sạch cả tướng năng sở, vượt qua cả có không, ý căn hết chỗ bám. Như vậy, Ngài Tu-bồ-đề do từ nơi ý căn mà chứng viên thông.
CHÁNH VĂN:
Ông Xá-lợi-phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Từ nhiều kiếp đến nay tâm thấy của con được thanh tịnh. Tuy con thọ sanh nhiều đời như số cát sông Hằng như vậy mà đối với các pháp biến hóa nơi thế gian và xuất thế gian, một phen thấy liền thông suốt không chướng ngại.
Con ở giữa đường gặp anh em ông Ca-diếp-ba cùng đi và tuyên nói pháp nhân duyên, con ngộ được tâm không bờ mé.
Con theo Phật xuất gia, chỗ nhận thấy sáng suốt viên mãn, được pháp đại vô úy thành quả A-la-hán, làm trưởng tử của Phật, do miệng Phật mà sanh ra, do pháp của Phật mà hóa sanh. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì tâm thấy phát sáng, sáng cùng tột các tri kiến, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Đây Ngài Xá-lợi-phất từ tâm thấy xoay trở lại mà vào đạo. Tâm thấy tức nhãn thức, cái biết phân biệt nơi con mắt, gọi là tâm thấy. Ngài nói tuy thọ sanh nhiều đời như số cát sông Hằng, nhưng đối với các pháp biến hóa ở thế gian xuất thế gian, một phen thấy liền thông suốt không chướng ngại. Tức là nhãn thức Ngài sáng suốt bén nhạy. Theo Ngài Hàm Thị giải, tuy thấy thông suốt không chướng ngại nhưng đó thuộc về danh tướng thế gian, không phải chân thật đạt được pháp xuất thế. Và chỗ đã ngộ được tâm không bờ mé mới là Kiến đế.
Đây nói Ngài gặp ba anh em ông Ca-diếp-ba, nhưng nhiều chỗ nói Ngài gặp Ngài A-thuyết-thị, là một trong năm anh em ông Kiều-trần-như nói bài kệ nhân duyên. Bài kệ nhân duyên này do nhiều kinh thuật lại nên cũng có sai biệt chút ít:
Chư pháp tùng duyên sanh,
Chư pháp tùng duyên diệt.
Như thị diệt dữ sanh,
Ngã sư như thị thuyết.
Tức:
Các pháp từ duyên sanh,
Các pháp theo duyên diệt.
Như thế diệt và sanh,
Thầy tôi nói như thế.
Có kinh ghi:
Chư pháp tùng duyên sanh,
Diệc phục tùng duyên diệt.
Ngã Phật đại Sa-môn
Thường tác như thị thuyết.
Dịch:
Các pháp từ duyên sanh,
Cũng lại từ duyên diệt.
Thầy tôi, Đại Sa-môn,
Từng dạy như thế đó.
Các pháp từ duyên sanh và cũng từ duyên diệt, thì sanh cũng là duyên sanh, diệt cũng là duyên diệt, trong đó không thật có tự ngã sanh diệt. Nếu quán kỹ, quán sâu như vậy thì ngay đó chứng Vô sanh, thấu suốt vô ngã thôi.
Ngài Xá-lợi-phất nghe rồi ngộ tâm không bờ mé, là Kiến đế, mới theo Phật xuất gia, chỗ nhận thấy sáng suốt viên mãn nên được chứng A-la-hán. Ngài nói là do miệng Phật sanh ra, do pháp của Phật mà hóa sanh, là gần gũi thân thiết từ Phật mà ra, là trưởng tử của Phật. Chỗ chứng của Ngài là tâm thấy phát sáng, sáng đến cùng tột các tri kiến. Tức là thấy biết cái gì cũng sáng suốt không mê. Đó là từ nhãn thức mà chứng viên thông.
CHÁNH VĂN:
Bồ-tát Phổ Hiền liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con đã từng làm Pháp Vương tử của các Đức Như Lai như số cát sông Hằng. Mười phương Như Lai dạy các đệ tử có căn cơ Bồ-tát tu hạnh Phổ Hiền, hạnh đó do con mà đặt tên.
Bạch Thế Tôn! Con dùng tâm nghe phân biệt những tri kiến của chúng sanh đã có. Nếu ở phương khác cách ngoài thế giới như số cát sông Hằng, có một chúng sanh nào trong tâm phát được hạnh Phổ Hiền, thì liền trong khi ấy con phân thân trăm ngàn, cỡi voi sáu ngà đến chỗ người đó. Dầu người ấy nghiệp chướng sâu nặng chưa được thấy con, con cũng thầm kín xoa đảnh đầu người ấy, ủng hộ an ủi, khiến họ được thành tựu. Nay Phật hỏi về viên thông, con nói chỗ bản nhân của con do tâm nghe phát sáng, phân biệt tự tại, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Phổ Hiền nghĩa là hạnh nguyện rộng độ chúng sanh khắp pháp giới không cùng tận. Hạnh Phổ Hiền có ba giai vị:
- Thứ nhất là vị tiền Phổ Hiền, gồm hai vị Tư Lương và Gia Hạnh, thuộc về địa tiền đứng trước Thập địa.
- Thứ hai là đương vị Phổ Hiền, tức là Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác.
- Thứ ba là vị hậu Phổ Hiền, tức là đã chứng quả rồi nhưng về sau không xả bỏ nhân môn, không bỏ bi nguyện độ sanh, chỉ nghĩ đến việc cứu độ chúng sanh.
Đây Bồ-tát Phổ Hiền là vị đại Bồ-tát từng làm Pháp Vương tử cho các Đức Phật nhiều như số cát số Hằng, thì mới biết hạnh nguyện của Ngài rộng lớn như thế nào! Ngài nói: “Nếu chúng sanh nào ở các phương khác cách ngoài thế giới như số cát sông Hằng hễ trong tâm phát được hạnh Phổ Hiền thì Ngài liền phân thân cỡi voi sáu ngà đến chỗ người đó”. Đúng là ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Qua đó cho thấy, tâm các Ngài rộng lớn vô ngại, không có gì làm chướng được hết. Nếu ai tu hạnh Phổ Hiền viên mãn thành Phật, tâm cũng đầy đủ những diệu dụng như vậy, còn chúng ta bị hạn cuộc trong cái ngã này cho nên sống rất hạn hẹp, vậy mà còn tự hào!
Đây Ngài Phổ Hiền do tâm nghe phát sáng, phân biệt tự tại không kẹt nơi căn thức, rồi dùng cái tâm nghe đó mà phân biệt khắp các tri kiến của chúng sanh không chướng ngại, gọi là suốt cả xa gần. Đây là từ nhĩ thức mà chứng viên thông.
CHÁNH VĂN:
Ông Tôn-đà-la Nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con khi mới xuất gia theo Phật vào đạo, tuy giữ đủ giới luật, nhưng lúc tu Tam-ma-địa, tâm thường tán loạn, chưa được quả Vô lậu. Đức Phật dạy con và ông Câu-hy-la quán tướng trắng ở chót mũi. Khi con bắt đầu tu quán ấy, trải qua hai mươi mốt ngày thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói, thân tâm bên trong sáng soi thông suốt cả thế giới, khắp nơi thành trống không thanh tịnh như ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần tiêu hết, hơi thở hóa thành sắc trắng, đến khi tâm được khai ngộ các lậu hết sạch; các hơi thở ra vào hóa thành hào quang soi khắp mười phương thế giới, được quả A-la-hán. Thế Tôn thọ ký cho con sẽ được quả Bồ-đề. Nay Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp nhiếp thu ý niệm nơi hơi thở, yên lặng lâu ngày phát ra sáng suốt, sáng suốt viên mãn, diệt hết các lậu, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Trong sách sử ghi có nhiều Ngài trùng tên Nan-đà nên ở đây mới gọi thêm tên Tôn-đà-la Nan-đà để phân biệt. Tôn-đà-la là tên vợ Ngài lúc chưa xuất gia, ghép chung với tên của Ngài để phân biệt với vị Phóng-ngưu Nan-đà.
Ngài nhiếp tâm quán tướng trắng ở chót mũi, trụ tâm nơi chót mũi, khi tâm yên định rồi mới thấy hơi thở ra vào giống như khói. Dần dần khi được thanh tịnh thì Ngài thấy hơi khói suốt cả trong ngoài, thế giới giống như ngọc lưu ly; cho đến khói tiêu hóa thành sắc trắng, thành hào quang.
Tâm sáng liền chuyển cái thấy thành sáng, đó là do tâm thanh tịnh mà thấy chớ không phải hơi thở hóa thành hào quang. Tức là tâm chuyên chú được thanh tịnh, nên tâm sáng rồi thấy cảnh sáng, cũng không ngoài tâm riêng có. Khi tâm sáng tỏ thì hơi thở tiêu hóa thành hào quang soi khắp cả mười phương, sạch hết những chướng ngại, các lậu không còn, được giải thoát. Đó là từ nơi tỷ thức mà chứng viên thông.
CHÁNH VĂN:
Ông Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con từ nhiều kiếp đến nay tài biện thuyết được vô ngại, tuyên dương các pháp khổ-không, thấu suốt tướng chân thật.
Như thế cho đến các pháp môn bí mật của hằng sa các Đức Như Lai, con ở trong chúng khéo léo chỉ bày không chút sợ sệt. Đức Thế Tôn biết con có tài biện thuyết lớn lao nên dùng pháp luân âm thanh dạy con tuyên dương chánh pháp. Con ở trước Phật, giúp Phật chuyển pháp luân. Nhân tiếng sư tử rống mà thành quả A-la-hán. Đức Thế Tôn ấn chứng cho con nói pháp hơn cả. Nay Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp âm hàng phục tà ma ngoại đạo, tiêu diệt các lậu, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Ngài Phú-lâu-na có tài biện thuyết nên thuyết pháp không sợ sệt, thường trợ Phật giáo hóa chuyển pháp luân. Ở đây, Ngài nói là tuyên dương các pháp khổ-không mà thấu suốt tướng chân thật. Pháp khổ-không thuộc về Nhị thừa, Ngài phương tiện nói pháp vô thường, khổ, không nhưng ngầm chỉ pháp chân thường hay pháp chân thật thường, lạc, ngã, tịnh cho nên gọi là khéo dùng phương tiện.
Ngài Phú-lâu-na khéo dùng các âm thanh để hàng phục chúng ma, tiêu diệt các lậu mà thành giải thoát, tâm biết nơi thiệt thức thật sáng tỏ. Ma đây không phải chỉ là ma quỷ bên ngoài, mà nói đủ là tứ ma. Nhờ diệt sạch tứ ma, Ngài giải thoát thành A-la-hán. Nếu chỉ tiêu diệt ma bên ngoài thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải hiểu cho kỹ.
Đây là Ngài từ thiệt thức mà chứng viên thông, nhưng thiệt thức này nhắm vào thuyết pháp. Bởi thiệt căn có hai phần: phần thuyết pháp, phần nếm vị. Do đó, chúng ta thấy từ thiệt thức cũng có thể chứng viên thông.
CHÁNH VĂN:
Ông Ưu-ba-ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, mà bạch Phật rằng: “Chính con được theo Phật vượt thành xuất gia, xem thấy Như Lai sáu năm siêng tu khổ hạnh, thấy Đức Như Lai hàng phục các bọn tà ma, đối trị các ngoại đạo, giải thoát các lậu tham dục trong thế gian. Con được nhờ Phật dạy giữ giới như thế cho đến ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh; tánh nghiệp, giá nghiệp thảy đều thanh tịnh. Do đó thân tâm được tịch diệt thành quả A-la-hán; nay con làm người cương kỹ trong chúng của Như Lai, Phật ấn chứng cho con giữ giới tu thân hơn cả trong chúng.
Nay Phật hỏi về viên thông, con do giữ gìn nơi thân mà thân được tự tại, kế gìn giữ nơi tâm mà tâm được thông suốt, về sau thân tâm tất cả đều thông suốt, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Đây Ngài Ưu-ba-ly thưa là Ngài theo Phật vượt thành xuất gia, nhưng các sử ghi là Ngài Sa-nặc đi theo. Lúc Phật về thăm thành Ca-tỳ-la-vệ, các vị vương tử theo Phật xuất gia mới dẫn Ngài Ưu-ba-ly là thợ cạo tóc đi theo. Khi đó, Ngài thấy các vương tử kia là con vua chúa mà bỏ tất cả sang giàu đi tu, còn mình là anh cạo tóc còn tiếc gì thế gian nữa. Bấy giờ, Ngài chạy trở lại xin các vương tử dẫn Ngài theo xuất gia luôn. Đến lúc xuất gia, các vị kia mới thưa với Phật xin cho Ngài được thọ giới trước tiên. Các vị là con vua cháu chúa nên muốn ngăn dẹp tâm kiêu mạn, sẵn sàng nhường cho Ngài cạo tóc ngồi trước.
Ngài xuất gia rồi lại chuyên về giữ giới, ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, tánh nghiệp, giá nghiệp đều thanh tịnh, thông suốt hết. Giới lớn, giới nhỏ, tất cả bốn oai nghi lúc nào Ngài cũng giữ rất kỹ. Trong tất cả các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi tâm nhận biết rõ ràng, không để sơ suất. Nên đây gọi là từ thân thức mà chứng viên thông.
Thân thức tức tâm nhận biết nơi thân, mọi cử chỉ oai nghi hành động đều nhận biết rõ ràng, không để nó sanh tội lỗi. Cuối cùng thân tâm thanh tịnh, đạt được tự tại thông suốt, thành giải thoát. Như vậy, giữ giới đây không phải chỉ giữ trên thân, mà cũng là giữ cái tâm. Cho nên, Ngài nói: “Con do giữ gìn nơi thân mà thân được tự tại, kế giữ gìn nơi tâm mà tâm được thông suốt, sau là thân tâm tất cả đều thông suốt”.
CHÁNH VĂN:
Ông Đại Mục-kiền-liên, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Lúc trước con khất thực giữa đường, gặp ba anh em ông Ca-diếp-ba là ông Ưu-lâu-tần-loa, ông Già-da, ông Na-đề giảng nói nghĩa lý nhân duyên sâu xa của Như Lai, con liền phát tâm được thông suốt. Đức Như Lai ban cho con áo ca-sa đắp trên mình, râu tóc tự rụng. Con đi khắp mười phương được không ngăn ngại, phát sáng thần thông, được trong chúng suy tôn là vô thượng, thành quả A-la-hán. Không những riêng Đức Thế Tôn, mà mười phương Như Lai đều khen sức thần thông của con thanh tịnh tròn sáng tự tại không sợ sệt.
Nay Phật hỏi về viên thông, do con xoay ý niệm trở về với tánh yên lặng, nên tâm tánh phát ra sáng suốt, như lóng nước đục, lóng càng lâu nước càng trong sáng, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Đây Ngài Mục-kiền-liên thuật là cũng gặp ba anh em ông Ca-diếp, còn chỗ khác lại nói là Ngài Xá-lợi-phất gặp ông A-thuyết-thị nói bài kệ nhân duyên rồi kiến đạo, sau đó mới về thuật lại cho Ngài Mục-kiền-liên nghe, Ngài cảm rồi có tỉnh. Sau đó, hai Ngài mới cùng dẫn 250 đồ chúng đến gặp Phật xuất gia.
Ngài Mục-kiền-liên có sức thần thông tự tại thanh tịnh và tròn sáng. Sở dĩ chứng viên thông do không theo thức phân biệt lăng xăng làm vẫn đục mà xoay ý niệm trở về tánh trong lặng, rồi tâm tánh phát ra sáng suốt, như là lóng nước càng lâu càng trong, thoát khỏi mê lầm của ý thức. Ý thức rất bén nhạy nên nói là “công vi thủ mà tội vi khôi”, công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu. Người biết dùng thì ý có công, còn không biết dùng thì nó thành tội. Khi chuyển ý rồi thì nó thành diệu dụng, nên Ngài được thần thông tự tại.
Đây là sáu vị từ nơi sáu thức mà chứng viên thông. Sáu thức này nếu nó theo căn trần mà sanh phân biệt thì nó bị giới hạn nơi căn trần. Chuyển được nó thì vượt thoát căn trần, không theo căn trần mà sanh phân biệt nên sáng suốt, giải thoát tự tại tức sạch hết lậu. Như vậy, từ mười tám giới căn, trần, thức xoay trở lại thì đều thành giải thoát, không phải tìm giải thoát ở đâu xa. Ở đây chỉ còn thiếu nhĩ căn chưa nói là để phần sau mới chọn nhĩ căn viên thông.
Qua đến phần thất đại, từ thất đại mà chứng viên thông.
CHÁNH VĂN:
Ông Ô-sô-sắt-ma đối trước Đức Như Lai, chắp tay đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con tưởng nhớ trước kia trong kiếp xa xôi tánh có nhiều tham dục. Lúc ấy có Đức Phật ra đời, hiệu là Không Vương, bảo người nhiều dâm dục thành như đống lửa hừng và dạy con quán khắp những hơi nóng lạnh nơi trăm vóc tứ chi. Con nhờ quán như vậy mà thần quang bên trong lặng đứng, hóa tâm đa dâm thành lửa trí tuệ. Từ đó chư Phật đều gọi con tên là Hỏa Đầu, con dùng sức Hỏa quang tam-muội thành quả A-la-hán. Trong tâm phát đại nguyện, khi các Đức Phật thành đạo, con làm lực sĩ gần gũi bên Phật hàng phục bọn tà ma không cho khuấy phá.
Nay Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp quán các hơi ấm nơi thân tâm đều lưu thông không ngăn ngại. Các lậu đã tiêu, sanh ra ngọn lửa đại trí quý báu lên bậc Vô thượng Giác, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Ô-sô-sắt-ma dịch là Hỏa Đầu, tức là thần Hỏa Đầu Kim Cang thị hiện hộ trì Phật pháp, còn trong kinh đây Ngài cũng là bậc chứng quả A-la-hán giải thoát. Ngài quán thấu lửa dâm dục không có thật thể, chỉ là vọng tưởng nên không đồng hóa với nó, chuyển thành lửa trí tuệ đốt tiêu các lậu thành giải thoát. Ngài thường thị hiện làm thần Kim Cang Lực Sĩ theo hộ vệ Đức Phật. Đó là từ nơi hỏa đại mà vào đạo.
CHÁNH VĂN:
Bồ-tát Trì Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con nhớ kiếp xưa, khi Đức Phổ Quang Như Lai ra đời, con làm Tỳ-kheo thường ở nơi các nẻo đường trọng yếu, bến đò, đất đai hiểm trở eo hẹp không được như ý, có thể làm hại đến xe ngựa, con đều đắp bằng, hoặc làm cầu cống, hoặc gánh đất cát. Siêng năng khổ nhọc như vậy, trải qua không lường Đức Phật ra đời. Hoặc có chúng sanh ở nơi chợ búa, cần người mang đồ vật, trước tiên con mang hộ đến nơi đến chốn, để đồ vật xuống liền đi, chẳng nhận thù lao. Cho đến khi Phật Tỳ Xá Phù ra đời, người đời phần nhiều bị nghèo đói, con cũng giúp người không kể xa gần, chỉ lấy một tiền, hoặc có xe trâu sa xuống bùn lầy, con dùng sức mạnh đẩy xe lên cho khỏi khổ não.
Vị Vua trong nước thuở ấy thiết trai cúng Phật, con liền sửa sang đường đất bằng phẳng chờ Phật đi qua. Đức Tỳ Xá Phù Như Lai xoa đảnh đầu con mà bảo rằng: “Nên bình đất tâm thì tất cả đất ngoài thế giới đều bình” con liền khai ngộ, thấy vi trần nơi thân thể và tất cả vi trần tạo thành thế giới đều bình đẳng không sai khác, tự tánh của vi trần không chạm xúc lẫn nhau, cho đến những việc đao binh cũng không đụng chạm gì. Con do nơi pháp tánh ngộ Vô sanh pháp nhẫn thành quả A-la-hán, xoay tâm về Đại thừa nên hiện nay ở trong hàng Bồ-tát. Khi nghe Đức Như Lai dạy về chỗ Tri kiến của Phật như Diệu Liên Hoa thì tỏ chứng đầu tiên làm thượng thủ.
Nay Phật hỏi về viên thông, con do quán kỹ hai thứ vi trần nơi căn thân và thế giới đều bình đẳng không sai khác, vốn là Như Lai Tạng, giả dối phát sanh ra trần tướng, trần tướng tiêu thì trí tuệ được viên mãn, thành đạo Vô thượng, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Trì Địa thuật lại nhân duyên ban đầu từ thời Phật Phổ Quang Như Lai, làm vị Tỳ-kheo thường tu hạnh sửa sang đường xá, đất đai khiến cho bằng phẳng, giúp người đi lại dễ dàng, tức bình đất bên ngoài. Đến khi gặp Phật Tỳ Xá Phù thì Phật dạy Ngài bình đất tâm thì thế giới sẽ bình. Liền đó, Ngài ngộ trở lại, quán thấu vi trần ở trong thân và ngoài thế giới đều không có tự tánh thật, không rời ngoài tâm mà riêng có. Tức thấu qua trần tướng, tâm không có chỗ sanh, liền thành giải thoát. Nhưng rồi Ngài chuyển tâm về Đại thừa vào Tri kiến Phật.
Trong đây cần thấu suốt bụi ở trong và bụi bên ngoài cũng chỉ là bụi thôi. Tự tánh của bụi thì không chạm xúc lẫn nhau. Thứ hai, quán bụi không có tự tánh thật, do chúng ta chấp thành có ngã. Thấy bụi trong thân là thuộc về cái ngã của tôi, bên ngoài là thuộc cái khác nên có cái này chạm cái kia. Còn bụi với bụi thôi thì có gì chạm?
Quán thấu như vậy thì sạch hết tâm phân biệt, tâm không sanh. Khi sáng tỏ rồi cho đến đao binh cũng không đụng chạm được trong ấy. Vì đao binh thuộc về bụi trần, làm sao chạm đến chỗ chân thật kia, chỗ chân thật kia đâu có hình tướng gì mà chạm được. Nó có chém thì chỉ chém cái thân này, là đem bụi chém bụi, đâu có chém được cái kia, quán thấu vậy thì giải thoát. Đây là từ địa đại mà chứng viên thông.
CHÁNH VĂN:
Ngài Nguyệt Quang Đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con nhớ kiếp xưa như số cát sông Hằng, có Đức Phật ra đời hiệu là Thủy Thiên; dạy chư Bồ-tát tu tập quán nước để vào Tam-ma-địa. Quán tánh nước trong thân không ngăn ngại lẫn nhau. Quán từ nước mũi, nước bọt cho đến tất cả các thứ tân dịch tinh huyết, đại tiện, tiểu tiện, xoay vần trong thân đồng là một tánh nước. Quán thấy nước trong thân và nước các bể hương thủy của cõi Phù Tràng Vương ở ngoài thế giới đều bình đẳng nhau không sai khác.
Khi ấy con mới thành tựu được pháp quán này, chỉ thấy nước mà chưa được không có thân. Chính khi làm Tỳ-kheo tọa thiền trong thất, con có đứa đệ tử nhỏ dòm cửa sổ nhìn vào trong thất chỉ thấy nước trong đầy khắp trong thất, không thấy vật gì khác. Nó nhỏ dại không biết, bèn lấy một miếng ngói ném vào trong nước, đập vào nước phát ra tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi. Sau khi con xuất định liền cảm giác bị đau tim, như Ngài Xá-lợi-phất bị con quỷ Vi Hại đập.
Con tự suy nghĩ, nay mình đã được đạo A-la-hán, từ lâu không còn nhân duyên mắc bệnh được nữa, làm sao ngày nay lại sanh ra đau tim, không lẽ đã bị thối thất chăng. Khi ấy đứa đệ tử của con đi đến kể lại cho con những việc như trước, con bảo nó sau này nếu thấy nước thì nên mở cửa vào phòng lấy miếng ngói trong nước ấy đi. Đệ tử vâng lời con bảo. Sau khi con nhập định, nó lại thấy nước và miếng ngói rõ ràng, nó liền mở cửa lấy miếng ngói bỏ ra. Sau khi xuất định thân thể trở lại như cũ.
Con đã gặp không lường chư Phật cho đến Đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai, con mới được không thân và cùng các biển Hương Thủy trong mười phương thế giới, các tánh hợp với chân không, không hai không khác. Hiện nay ở nơi Đức Như Lai con được tên là Đồng Chân, được dự vào hội của các vị Bồ-tát. Nay Phật hỏi về viên thông, con do quán tánh nước một mực lưu thông, được pháp Vô sanh nhẫn, viên mãn đạo Bồ-đề, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Ngài Đồng tử Nguyệt Quang quán thấu tánh nước ở trong thân và cả bên ngoài là không hai, đến rốt ráo quên thân, trở về tánh chân không không còn ngăn ngại. Sức quán của Ngài cũng thật hy hữu. Ban đầu quán nước trong thân như nước mũi, nước bọt, nước mắt cho đến tinh huyết, đại tiện tiểu tiện đều là nước, mà tánh nước là không hai, không có phân biệt là nước này nước kia. Ngược lại, tâm chúng ta phân biệt nên thấy nước mũi khác, máu, nước tiểu khác mới có nhơ sạch, kia đây. Rồi Ngài quán sâu nữa thấy nước trong thân cả đến nước bên ngoài, và các bể Hương Thủy của cõi Phù Tràng Vương nhiều vô kể đều bình đẳng như nhau. Tuy định sâu như vậy nhưng chưa viên mãn nên chưa quên được thân. Đến thời Phật Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ngài mới được giải thoát, mới được quên thân. Đến đây mới cùng với các biển Hương Hải trong mười phương thế giới, tánh hợp chân không, không hai không khác, trong ngoài không còn chỗ nào ngăn ngại.
Như vậy, tất cả nước cũng không ngoài Tạng tánh, tức không có tự tánh riêng, không phải ngoài tâm riêng có, thì chỗ nào để tâm sanh? Liền thành Vô sanh pháp nhẫn. Đây là từ thủy đại mà vào viên thông.
CHÁNH VĂN:
Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con nhớ thuở xưa trải qua hằng sa kiếp có Đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh, khai thị tánh bản giác diệu minh cho các hàng Bồ-tát và dạy quán thế giới cùng thân chúng sanh này, đều do sức lay động của vọng duyên chuyển biến ra, khi ấy con quán cái không gian an lập, quán thời gian thiên lưu, quán thân thể khi động khi yên, quán thức tâm động niệm; tất cả cái lay động đều như như bình đẳng không sai khác. Khi ấy con giác ngộ các thứ động ấy đều không do đâu, đi không tới đâu; tất cả chúng sanh điên đảo như số vi trần trong mười phương đều đồng một hư vọng. Như thế cho đến tất cả chúng sanh trong một tam thiên đại thiên thế giới cũng như hàng trăm loài muỗi mòng đựng trong một cái đồ đựng, vo vo kêu loạn ở trong gang tấc ồn ào rối rít.
Con gặp Phật chưa bao lâu, được pháp Vô sanh nhẫn. Bây giờ tâm con khai mở mới thấy cõi Phật bất động, làm vị Pháp Vương tử, phụng thờ chư Phật trong mười phương, thân tâm phát sáng, thấu suốt không ngăn ngại. Nay Phật hỏi về viên thông, con dùng trí quán sát sức lay động không chỗ nương, ngộ được tâm Bồ-đề, vào Tam-ma-địa, hợp với một diệu tâm mà mười phương chư Phật truyền dạy, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương tử thuật lại vào thời quá khứ xa xưa, thời Phật Vô Lượng Thanh ra đời dạy chúng sanh, khai thị về bản giác diệu minh, là tánh giác chân thật sáng suốt sẵn có của mỗi người, giúp tất cả tỉnh giác thấy trở lại lẽ thật nơi mình. Rồi Ngài quán cả thế giới cho đến thân và tâm chúng sanh, tất cả đều lay động. Quán thấy những lay động đó đều bình đẳng với nhau.
Ngài quán thấu sức lay động nơi thân tâm thế giới, đều một tánh không. Nghĩa là về tướng động thì có động nơi thân tâm và thế giới, nhưng những cái động đó tánh là không, không có thật thể, nên nói “giác ngộ các thứ động đó đều không do đâu, đi không tới đâu”, thấy gốc gác nó không có thực. Đã là tánh không, không thật thể thì nó đâu có động đến được cái diệu tâm mà mười phương chư Phật truyền dạy. Tức ngay cái tâm đó mà thấy suốt cõi Phật bất động, và gặp chư Phật đồng phụng thờ mười phương chư Phật. Đó là điều quan trọng.
Đây là ngay cái động mà quán thấu cái bất động. Ngay nơi gió là cái lay động mà quán thấu được tột gốc của nó thì cũng thành tựu được giác ngộ. Đó là Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương tử từ phong đại mà chứng viên thông.
CHÁNH VĂN:
Bồ-tát Hư Không Tạng liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con cùng Đức Như Lai đến chỗ Phật Định Quang, chứng được thân vô biên. Khi ấy tay con cầm bốn hạt châu báu lớn, chiếu sáng các cõi Phật trong mười phương như số vi trần hóa thành hư không. Lại ở nơi tự tâm hiện ra trí Đại viên kính, trong ấy phóng ra mười thứ hào quang vi diệu quý báu soi khắp các cõi Phù Tràng Vương cùng tột hư không trong mười phương đều vào trong viên kính ấy, nhập với thân con, và thân con đồng với hư không, không ngăn ngại lẫn nhau. Thân con lại khéo vào các cõi nước như vi trần rộng làm các Phật sự, được đại tùy thuận.
Thần lực lớn đó là do con quán kỹ tứ đại không chỗ nương, do vọng tưởng mà có sanh diệt, hư không không có hai, và cõi Phật vốn đồng, do phát minh được tánh đồng mà chứng được Vô sanh nhẫn. Nay Phật hỏi về viên thông, do con quán xét hư không không bờ bến, vào Tam-ma-địa, sức nhiệm mầu được viên mãn sáng suốt, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Ngài Hư Không Tạng quán về hư không. Quán thấu bốn đại vốn không có tự tánh nên thấy thân đồng với hư không, không bờ mé. Còn chúng ta vì thấy bốn đại là thật thành ra có chướng ngại, có giới hạn.
Do thân rỗng suốt đồng với hư không nên tâm không có chỗ sanh, thấu qua tất cả không gì ngăn ngại, được thân vô biên, thành tựu sức nhiệm mầu viên mãn sáng suốt, quên cái ngã này. Đây là Ngài khéo quán về không đại mà thành tựu giác ngộ viên thông.
CHÁNH VĂN:
Bồ-tát Di-lặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con nhớ trải qua vi trần kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Con được theo Đức Phật kia xuất gia, nhưng tâm nặng về danh lợi ở thế gian, ưa giao du với những người quyền quý. Lúc ấy Đức Thế Tôn dạy con tu tập “Định Duy Tâm Thức”, con được vào Tam-ma-địa. Trải qua nhiều kiếp đến nay, do pháp Tam-muội này mà phụng thờ hằng sa chư Phật. Tâm cầu danh lợi thế gian đã diệt hết không còn.
Đến khi Đức Phật Nhiên Đăng ra đời, con mới thành tựu được chánh định Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm cho đến tất cả cõi nước Như Lai nào tịnh, uế, có, không tột bờ mé hư không, đều do tâm con biến hóa hiện ra.
Bạch Thế Tôn! Do con rõ được duy tâm thức như thế, nên nơi thức tánh lưu xuất vô lượng Như Lai, và hiện nay con được Phật thọ ký, sau đây sẽ bổ xứ thành Phật nơi cõi này.
Nay Phật hỏi về viên thông, con do quán sát mười phương đều duy thức, thức tâm được viên mãn sáng suốt, chứng nhập tánh “viên thành thật” xa lìa tánh “y tha khởi” và tánh “biến kế chấp”, được pháp Vô sanh nhẫn, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Di Lặc quán về Duy thức. Đây là Ngài quán tột thức tâm không có bờ mé, là ngoài tâm không có một pháp thật. Rõ thấu các pháp đều từ tâm thức hiện nên không thấy một pháp nào ngoài tâm mà riêng có thì chỗ nào để sanh tâm? Sở dĩ chúng ta sanh tâm là thấy ngoài tâm có pháp, nên mới duyên nơi pháp mà sanh tâm. Còn đây không thấy ngoài tâm có pháp nào hết, vậy còn chỗ nào để sanh tâm nữa? Nên nói tột mé hư không đều do tâm con hóa hiện, không có một pháp thật nào riêng có.
Vô lượng Như Lai cũng từ tâm mà được thành, không phải ngoài tâm mà riêng có. Vậy ngộ ngay tâm là đủ, rốt ráo thức tâm được viên mãn sáng suốt, chứng nhập được tánh “viên thành thật”, xa lìa tánh “y tha khởi” và tánh “biến kế chấp”, trở về thức tánh chân thật.
“Viên thành thật” là tánh chân thật. Trở về tánh “viên thành thật”, là tánh không sanh diệt, thành tựu được giác ngộ, chứng viên thông. Chúng ta thấy, ngay cái thức cũng mang đủ tánh viên thông chân thật. Khi quán thấu trở lại thì không theo thức mà sanh tâm, liền trở về thức tánh chân thật được giác ngộ.
CHÁNH VĂN:
Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng tu một pháp môn liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật và bạch Phật rằng: “Con nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang. Lúc ấy mười hai Đức Như Lai tiếp tục ra đời trong một kiếp. Đức Phật rốt sau hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang.
Đức Phật kia dạy con tu pháp “Niệm Phật tam-muội”. Thí như có hai người, một đàng chuyên nhớ, một đàng chuyên quên, thì hai người ấy dù gặp nhau mà cũng là không gặp, dù thấy cũng là không thấy.
Nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ khắc sâu vào tâm niệm, thì đồng nhau như hình với bóng, cho đến từ đời nay sang đời khác, không bao giờ cách xa nhau.
Mười phương Như Lai thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn tránh thì tuy có nhớ nào có ích gì. Nếu con nhớ mẹ, như khi mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách xa nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hoặc về sau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa thì không cần phương tiện, tự tâm được khai ngộ.
Như người ướp hương thì thân thể có mùi thơm. Đây gọi là hương quang trang nghiêm. Căn bản tu nhân của con là dùng tâm niệm Phật, mà vào pháp vô sanh nhẫn. Nay ở cõi này (Ta-bà) tiếp dẫn người niệm Phật về cõi Tịnh độ. Nay Phật hỏi về viên thông, con không lựa chọn chỉ thu nhiếp sáu căn tịnh niệm liên tục được vào Tam-ma-địa, đó là bậc nhất”.
GIẢNG GIẢI:
Ngài Đại Thế Chí tu về niệm Phật tam-muội, nhiếp hết sáu căn, không phải là tu từng căn. Ngài thí dụ như là hai người một bên chuyên nhớ còn một bên chuyên quên, nên dù gặp nhau cũng như không thấy nhau. Còn hai bên đều nhớ nhau thì khế hợp với nhau, bảo đảm là thường gặp nhau. Niệm Phật cũng như vậy, Phật nhớ chúng sanh, chúng sanh nhớ Phật, hai bên cùng nhớ, bảo đảm khi duyên đầy đủ thuần thục sẽ thấy Phật.
Ngài tu niệm Phật đây là dùng tâm niệm Phật, không phải niệm ở trên miệng. Niệm là luôn luôn nghĩ nhớ không quên. Tâm luôn nghĩ nhớ đến Phật, niệm niệm không gián đoạn thì Phật hiện nơi tâm, tâm khế hợp với Phật. Gọi là như con nhớ mẹ, rồi mẹ nhớ con thì con và mẹ gặp nhau, nhất định là thấy Phật, cách Phật không xa.
Niệm Phật như thế này thì cũng đâu khác với tu thiền, cũng là dùng một niệm mà dẹp tất cả niệm, không để niệm nào khác chen vào, cuối cùng tâm thấy Phật, Phật hiện ngay nơi tâm. Vậy thiền và niệm Phật đâu có ngăn cách, đâu còn khen chê kia đây gì nữa. Tu mà được thế này thì đâu dễ dàng. Nếu có tâm khen chê đây kia thì đâu thành tịnh niệm liên tục được. Ngài trình bày chỗ căn bản tu nhân của Ngài là dùng tâm niệm Phật mà vào được Vô sanh nhẫn, đồng thời nhờ thu nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm liên tục mà thành tựu Tam-ma-địa. Tức từ kiến đại mà chứng viên thông.
Đến Bồ-tát Quán Thế Âm kể về pháp tu nhĩ căn chứng được viên thông.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy Bồ-tát Quán Thế Âm liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nhớ vô số hằng hà sa kiếp về trước có Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, từ Đức Phật kia con phát tâm Bồ-đề. Đức Phật kia dạy con do từ nghe, suy nghĩ và tu mà vào Tam-ma-địa.
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Quán Thế Âm thuật lại nhân duyên phát tâm Bồ-đề của Ngài cũng từ thời xa xưa, từ hằng hà sa số kiếp về trước. Thời đó cũng có Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, từ nơi Đức Phật đó mà Ngài phát tâm Bồ-đề. Đức Phật đó dạy Ngài tu từ văn, tư, rồi tu mà vào được Tam-ma-địa tức chánh định. Đây cũng là con đường tu hành của chúng ta nên phải học kỹ. Tức là nghe, suy nghĩ quán chiếu rồi thực hành để chứng thật trong đó, chứ không phải chỉ dừng ở trên cái nghe cho là đủ.
CHÁNH VĂN:
Ban đầu ở trong tánh nghe, vào được dòng liền quên tướng bị nghe. Trần tướng đã vắng lặng thì hai tướng động và tịnh rõ thật không sanh. Như vậy dần dần tăng tiến thêm, các tướng năng văn, sở văn đều hết. Không dừng lại chỗ dứt hết năng văn, sở văn mà tiến lên nữa, thì năng giác sở giác đều không. Cái không giác tột bực viên mãn nên các tướng năng không, sở không đều diệt. Sanh diệt đã diệt thì bản tánh tịch diệt hiện tiền.
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Quán Thế Âm trình bày pháp tu theo thứ lớp. Chúng ta học kỹ sẽ thấy được chỗ cạn sâu để trở về nguồn.
Thứ nhất, ở trong tánh nghe, vào dòng liền quên tướng bị nghe: tướng bị nghe là đối tượng âm thanh; vào dòng tức ngược trở lại trong tánh nghe. Tức là nghe mà quên thanh trần, quên tiếng, quên trần, không theo duyên. Đó gọi là vào dòng, là chỗ khéo tu. Còn nghe mà theo tướng bị nghe là đi vào sanh tử.
Đây nói vào dòng tức là trở về nguồn, là con đường xuất thế gian. Để thấy con đường thế gian và xuất thế gian đơn giản rõ ràng, không phải xa xôi. Nếu nghe mà theo tướng bị nghe là theo thanh trần thì đó là vào thế gian; còn đây là nghe mà quên tướng bị nghe, ngược trở lại vào dòng đó là xuất thế gian. Hai con đường rõ ràng, hễ đi ra thì vào thế gian tức vào sanh tử, còn nghe trở lại, ngược dòng trở về thì đó là con đường xuất thế gian, đây gọi là vào dòng.
Thứ hai, trần tướng vắng lặng thì hai tướng động tịnh không sanh, không theo tướng bị nghe nên trần tướng vắng lặng. Là không có tâm duyên theo thì nó tự lặng thôi. Như vậy, hai tướng động tịnh tự nó không sanh. Là bặt duyên bên ngoài.
Thứ ba, năng văn sở văn đều hết, tức là cái hay nghe và cái bị nghe đều hết, là vượt qua hai tướng năng sở đối đãi.
Thứ tư, năng giác sở giác đều không. Bởi vì cái hay nghe, cái bị nghe dứt nhưng nhiều khi còn giữ lại cái giác, giác được hai cái năng sở đều dứt đó, thành ra cũng còn có năng sở. Còn thấy chỗ hết tức là còn chỗ để giác, giác cái chỗ hết đó. Mà còn chỗ giác là còn có năng giác, đối với sở giác. Như vậy, cũng lại còn đối đãi vi tế, chưa hết được kia đây, là chưa sạch được dấu vết của tâm duyên. Cho nên tiến lên bước nữa, năng giác sở giác đều không tức là buông luôn cái chỗ hết năng văn sở văn đó.
Thứ năm, năng không sở không cũng diệt. Bởi vì năng giác sở giác đều không nhưng không khéo lại trụ nơi cái chỗ không đó thành ra cũng còn có cái năng không, sở không. Nên cũng còn có cái năng sở đối đãi vi tế. Do đó, tiến thêm bước nữa là năng không sở không đều diệt tức không còn có cái không để mà không nữa. Nếu còn có cái không để mà không, lại cũng nằm trong cái sanh diệt tạo tác. Đến khi không còn cái không để mà không nữa thì hết chỗ để tâm duyên đến.
Thứ sáu, sanh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền, không còn có bóng dáng của sanh diệt tức là không còn cái thấy sanh diệt. Đây vượt qua tất cả đối đãi, hết còn chỗ thấy sanh diệt, gọi là sanh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền. Sạch hết tướng sanh diệt thì không còn gì để nói nữa, tạm gọi là tịch diệt hiện tiền.
Như vậy, Bồ-tát Quán Thế Âm tu từng bước kỹ lưỡng chớ không phải nói suông. Ban đầu là từ cái nghe soi trở lại quên cái bị nghe, tức không nghe theo tiếng, quên đối tượng, quên thanh trần, gọi là nhập lưu vong sở, vào dòng quên chỗ bị nghe.
Cho đến khi năng sở đều hết, rồi cái chỗ hết cũng không luôn, là không còn dấu vết để giác. Nhớ kỹ là không còn dấu vết để mà giác. Nếu còn giác được cái chỗ hết năng sở thì cũng hay, nhưng còn cái chỗ hết để mà giác, thì cái giác đó cũng chưa viên mãn. Rồi đến sạch hết cái không để mà không nữa, là tột hết dấu vết sanh diệt, thì tịch diệt hiện tiền. Người quán kỹ, quán tột chỗ này liền ngay đây chứng Vô sanh nhẫn. Quán vậy đó mới gọi là tột. Đó là con đường để trở về nguồn.
Điều mà tất cả phải nên chú ý là điểm tột cùng “tịch diệt hiện tiền”. Cuối cùng không phải là hoàn toàn đoạn diệt không còn gì hết, mà đến chỗ cuối cùng hết còn ngôn ngữ để nói, tạm gọi là tịch diệt hiện tiền. Đó là chỗ quan trọng. Cái tịch diệt hiện tiền này không có ngôn ngữ để diễn tả nên người chứng đến đó thì tự biết. Nhưng người chưa chứng đến cũng cần hiểu chỗ vi tế đó để trên đường tu khỏi phải lo sợ.
Nói là cuối cùng sanh diệt diệt hết, tịch diệt hiện tiền, vậy thế nào là hiện tiền? Trong nhà thiền hét lên một tiếng là xong. Còn giải thích thế này thế kia là đi xa, vì chỗ đó không phải là chỗ lý luận. Đây là gợi ý cho tất cả, cần phải đi đến tột như thế.
Kế, Bồ-tát Quán Thế Âm nói lên những kết quả tu, khi tu chứng rồi thì thành tựu những quả đức tức những diệu dụng phát ra.
CHÁNH VĂN:
Bỗng nhiên siêu vượt thế và xuất thế gian, mười phương tròn sáng được hai pháp thù thắng. Một là trên hợp với Bản Giác Diệu Tâm của Phật, cùng với Phật Như Lai đồng một từ lực; hai là dưới hợp với tất cả lục đạo chúng sanh trong mười phương, cùng với các chúng sanh đồng một bi ngưỡng.
GIẢNG GIẢI:
Đến chỗ tột con đường tu là vượt khỏi thế gian và xuất thế gian, không còn nằm trong đối đãi, hết còn dấu vết để tìm. Vậy là không còn chỗ nào để cho cái mê chen vào, sự giác ngộ mới viên mãn. Rồi mười phương tròn sáng được hai pháp thù thắng, trên đồng một từ lực giống với Phật, dưới đồng một bi ngưỡng với chúng sanh. Là thấu suốt cả trên dưới, không còn cách biệt phàm Thánh. Chỗ này tư tưởng làm sao tưởng tới được.
CHÁNH VĂN:
Bạch Đức Thế Tôn! Do con cúng dường Đức Quán Thế Âm Như Lai, nhờ Ngài truyền thọ cho con chánh định Kim Cang Như Huyễn, văn huân, văn tu mà được cùng với Như Lai đồng một từ lực, nên làm cho thân con thành ba mươi hai ứng thân vào các cõi nước.
GIẢNG GIẢI:
Dùng chánh định Kim Cang Như Huyễn thành tựu các ứng thân. Chánh định này cứng chắc như Kim Cang nên nó chặt đứt hết tất cả những vô minh, phân biệt, đối đãi v.v..., thấu suốt tất cả pháp đều như huyễn. Bởi thấu suốt tất cả như huyễn cho nên mới có thể hiện được các thân, không có thân nào chướng ngại hết. Tuy hiện các thân nhưng không rời chánh định.
Ngài lại kể:
CHÁNH VĂN:
Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát vào Tam-ma-địa tấn tu vô lậu, thắng giải hiện đã viên mãn, con hiện thân Phật mà vì họ thuyết pháp khiến cho được giải thoát.
GIẢNG GIẢI:
Đối với các vị Bồ-tát cần hiện thân Phật thì Ngài hiện được thân Phật để giúp cho Bồ-tát ấy được viên mãn giải thoát. Vậy Ngài cần hiện thân Phật là hiện được thân Phật, nên có kinh ghi là các vị Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Văn-thù là những vị cổ Phật, đã thành Phật nhưng không trụ nơi quả Phật mà vẫn hành hạnh Bồ-tát để giáo hóa chúng sanh.
CHÁNH VĂN:
Nếu các hàng hữu học được pháp diệu minh vắng lặng, chỗ thắng diệu đã viên mãn, con ở trước người ấy hiện thân Độc Giác vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được giải thoát.
GIẢNG GIẢI:
Với những vị cần hiện thân Độc Giác thì Ngài cũng hiện thân Độc Giác để giúp họ được giải thoát. Độc Giác là những vị ra đời không gặp Phật, nhưng do chủng tử huân tập sâu dày nên tự mình tu được giác ngộ. Thí dụ các Ngài ra đời thấy cảnh mùa xuân cây cối lá xanh tươi, hoa nở tươi đẹp, qua mùa thu thấy lá vàng rụng thì liền ngộ lý vô thường, không có ai dạy mà tự ngộ, tự chứng đạo.
CHÁNH VĂN:
Nếu các hàng hữu học đoạn mười hai nhân duyên, do các nhân duyên đã đoạn mà phát ra thắng tánh và thắng tánh đó hiện viên mãn, con ở trước người ấy hiện thân Duyên Giác vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được giải thoát.
GIẢNG GIẢI:
Với người cần hiện thân Duyên Giác thì Ngài cũng hiện ra để thuyết pháp khiến được giải thoát. Duyên Giác do tu pháp Mười hai nhân duyên mà được giải thoát.
CHÁNH VĂN:
Nếu các hàng hữu học được pháp không của Tứ đế, tu đạo và diệt đế thắng tịnh hiện ra viên mãn, con ở trước người kia, hiện thân Thanh Văn mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được giải thoát.
GIẢNG GIẢI:
Người tu Tứ đế để cầu giải thoát là hàng Thanh Văn, nếu cần thì Ngài cũng hiện thân Thanh Văn mà thuyết pháp. Tuy Ngài hiện thân Thanh Văn nhưng đâu phải Thanh Văn, nên gọi là ngoài hiện tướng Thanh Văn mà trong ẩn hạnh Bồ-tát. Chúng ta phải cẩn thận, đừng thấy như vậy mà phê bình.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh muốn tâm được tỏ ngộ, không phạm vào cảnh ngũ dục và muốn cho thân được thanh tịnh, con ở trước người kia hiện thân Phạm Vương mà vì họ nói pháp, khiến cho được giải thoát.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân Phạm Vương thì cũng hiện thân Phạm Vương để độ thoát.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh muốn làm Thiên chủ thống lãnh chư Thiên, con ở trước người kia hiện thân Đế-thích mà vị họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân Trời Đế-thích là vị chủ trời của 32 cõi trời thì Ngài cũng hiện thân Đế-thích để thuyết pháp. Trời Đế-thích thuộc về Dục giới, còn Phạm thiên thuộc về Sắc giới.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh muốn thân được tự tại, dạo đi khắp mười phương, con ở trước người kia hiện thân Trời Tự Tại mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân Trời Tự Tại thì cũng hiện thân Trời Tự Tại vô ngại.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh muốn thân tự tại, bay đi trong hư không, con ở trước người kia hiện thân Trời Đại Tự Tại mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Đây, cần hiện thân Trời Đại Tự Tại là cõi trên đảnh Sắc giới thì Ngài cũng hiện được thân Trời Đại Tự Tại.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh ưa thống lĩnh quỷ thần cứu hộ cõi nước, con ở trước người kia hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Các vị Thiên Đại Tướng Quân này thống lãnh các quỷ thần, cần hiện thì Ngài cũng hiện được để làm lợi ích chúng sanh.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh ưa thống lãnh thế giới bảo hộ chúng sanh, con ở trước người kia hiện thân Tứ Thiên Vương mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Trời Tứ Thiên Vương là cõi trời thứ nhất của Dục giới, ở bốn phía nơi eo núi Tu-di, cũng gọi là Hộ Thế Chủ.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh ưa sanh thiên cung để sai khiến quỷ thần, con ở trước người kia hiện thân Thái tử con của Tứ Thiên Vương vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Thái tử con của Tứ Thiên Vương có thế lực lớn, nên thống lãnh và sai khiến các quỷ thần.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh ưa làm Vua trong cõi người, con ở trước người kia hiện thân Vua, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân Vua thì hiện thân Vua để làm lợi ích.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh thích làm chủ trong gia đình danh tiếng, người đời kính nhường, con đối trước người kia, hiện thân Trưởng giả vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Trưởng giả là người thuộc gia đình quý tộc, được nhiều người kính nhường, cần hiện thì Ngài liền hiện tự tại.
CHÁNH VĂN:
Nếu có chúng sanh thích đàm luận những lời hay, giữ mình trong sạch, con ở trước người kia hiện thân Cư sĩ, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Hiện thân Cư sĩ là những người sống trong thế gian nhưng giữ mình trong sạch.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh ưa trị cõi nước, chia đoán các ban, các ấp, con ở trước người kia hiện thân Tể quan vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân Tể quan thì hiện thân Tể quan để làm lợi ích.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh thích các số thuật tự mình nhiếp tâm giữ thân, con ở trước người kia hiện thân Bà-la-môn vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân Bà-la-môn thì hiện thân Bà-la-môn.
CHÁNH VĂN:
Nếu có người nam ưa hạnh xuất gia, giữ các giới luật, con ở trước người kia hiện thân Tỳ-kheo vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân Tỳ-kheo thì hiện thân Tỳ-kheo.
CHÁNH VĂN:
Nếu có người nữ ưa theo hạnh xuất gia, giữ gìn các giới cấm, con ở trước người kia hiện thân Tỳ-kheo-ni vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện Tỳ-kheo-ni thì cũng hiện thân Tỳ-kheo-ni.
CHÁNH VĂN:
Nếu có người nam ưa giữ năm giới, con ở trước người kia hiện thân Ưu-bà-tắc vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân Cư sĩ nam thì hiện thân Cư sĩ nam.
CHÁNH VĂN:
Nếu có người nữ tự giữ năm giới, con ở trước người kia hiện thân Ưu-bà-di vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân Cư sĩ nữ thì hiện thân Cư sĩ nữ.
CHÁNH VĂN:
Nếu có người nữ, lập thân trong nội chính để tu sửa nhà nước, con ở trước người kia hiện thân Nữ chúa, hay thân Quốc phu nhân, Mệnh phụ, Đại cô vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân những người nữ quyền quý như Nữ chúa, Quốc phu nhân, Mệnh phụ tức vợ các ông quan lớn thì Ngài đều có thể hiện các thân như thế khiến cho được thành tựu sở nguyện.
CHÁNH VĂN:
Nếu có chúng sanh không phá nam căn, con ở trước người kia hiện thân đồng nam, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân người nam sống trong sạch, thanh tịnh thì hiện thân đồng nam.
CHÁNH VĂN:
Nếu có người nữ trinh bạch ưa thích thân trinh bạch, không cầu xâm phạm, con ở trước người kia hiện thân đồng nữ vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân người nữ sống đời trinh bạch, thanh tịnh thì cũng hiện đồng nữ.
CHÁNH VĂN:
Nếu có chư Thiên muốn ra khỏi loài Trời, con hiện thân trời vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
Nếu có các rồng muốn ra khỏi loài rồng, con hiện thân rồng, vì họ mà thuyết pháp khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Tức hiện Trời, hiện rồng, các thần.
CHÁNH VĂN:
Nếu có Dược-xoa muốn ra khỏi loài Dược-xoa, con hiện thân Dược-xoa vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Dược-xoa, cũng đọc Dạ-xoa, tên loài quỷ nửa người nửa thần. Có ba hạng: đi trên đất, bay trên không và ở cõi trời.
CHÁNH VĂN:
Nếu Càn-thát-bà muốn thoát khỏi loài Càn-thát-bà, con hiện thân Càn-thát-bà, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Càn-thát-bà là những thần đánh nhạc cho Trời Đế-thích.
CHÁNH VĂN:
Nếu A-tu-la muốn thoát khỏi loài A-tu-la, con ở trước A-tu-la hiện thân A-tu-la, mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân A-tu-la thì cũng hiện thân A-tu-la không ngăn ngại.
CHÁNH VĂN:
Nếu Khẩn-na-la muốn thoát khỏi thân loại Khẩn-na-la, con ở trước Khẩn-na-la kia hiện thân Khẩn-na-la, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Cần hiện thân Khẩn-na-la thì cũng hiện thân Khẩn-na-la, hình người nhưng trên đầu có sừng, chuyên ca múa cho Trời Đế-thích.
CHÁNH VĂN:
Nếu Ma-hô-la-già muốn thoát khỏi loài Ma-hô-la-già, con liền hiện thân Ma-hô-la-già, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Ma-hô-la-già tức là thần Mãng xà. Đây là các vị trong Bát bộ.
CHÁNH VĂN:
Nếu các chúng sanh thích làm người, tu cho được thân người, con hiện ra thân người mà thuyết pháp, cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Nếu cần hiện thân người thì cũng hiện thân người.
CHÁNH VĂN:
Nếu có loài phi nhân, hoặc có hình, hoặc không hình, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, con ở trước họ đều hiện ra cái thân như họ, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Những loài phi nhân có hình không hình, có tưởng không tưởng v.v... cần thì Ngài cũng đều hiện ra được hết.
CHÁNH VĂN:
Ấy gọi là ba mươi hai ứng thân thanh tịnh nhiệm mầu vào trong cõi nước, đều do chánh định văn huân, văn tu, vô tác diệu lực tự tại thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Do chánh định vô tác diệu lực mà được hiện thân thành tựu tự tại như vậy. Hiện mà không phải do tạo tác hay do động niệm mà do sức cảm ứng vô tác tự tại. Đó là những ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Ngài hiện đủ hình tướng từ Thánh đến phàm, từ quyền quý, cao sang đến hạng tầm thường cũng đều hiện được hết.
Bên Trung Hoa, Ngài có hiện những thân tướng mà sau này thành những đề tài cho các vị họa sĩ, thi văn như là Quan Âm Ngư Lam, Quan Âm Mã Lang Phụ v.v...
Truyện kể ở vùng Thiểm Hữu, là vùng chưa biết Phật pháp, người dân theo nghề nghiệp sát sanh, tạo nhiều tội ác. Vì muốn độ người dân trong vùng, Ngài mới hiện thân người nữ đến đó để độ. Khi ấy, có một người nữ không có cha mẹ thân thuộc, cũng không biết từ đâu đến. Nhiều thanh niên trong vùng thấy cô xinh đẹp nên muốn cưới làm vợ.
Cô gái ấy ra điều kiện là ai tụng thuộc lòng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa trong một đêm thì sẽ chọn người đó làm chồng. Sáng ra, có đến hơn hai mươi người đọc thuộc, cô gái nói là chồng chỉ một người, đây nhiều quá không biết chọn ai? Cô lại ra điều kiện là đọc thuộc kinh Kim Cang. Sáng ra vẫn có mười người đọc thuộc. Cô lại trao cho kinh Pháp Hoa ước hẹn trong ba ngày. Đúng hẹn chỉ có chàng họ Mã đọc thuộc kinh. Cô thuận theo và hẹn ngày làm lễ.
Khi đến giờ rước dâu, cô gái tức hóa thân của Bồ-tát mới thị hiện đau bụng xin vào phòng uống thuốc nghỉ ngơi một chút. Chỉ chốc lát cô lăn ra chết, không lâu thân cô sình trướng lên, trong gia đình mới mau đem chôn. Mấy ngày sau, có vị tăng đến đào huyệt lên thì không còn thấy thân đâu hết mà thấy bộ xương hóa thành vàng. Vị tăng báo cho mọi người biết, đây là Bồ-tát thị hiện để hóa độ cho những người ở vùng này. Từ đó, người dân trong vùng mới biết đến Phật pháp và thờ Phật rất đông. Gọi là tích Quan Âm Mã Lang Phụ.
Như vậy Ngài có nhiều diệu dụng, tùy duyên ứng hiện mà thuyết pháp để giúp chúng sanh được thành tựu những điều cần thiết. Đây cũng là pháp có ý nghĩa để chúng ta quán chiếu. Khi cần hiện thân Phật thì hiện thân Phật, cần hiện thân Độc Giác thì hiện thân Độc Giác, cần hiện thân Duyên Giác thì hiện thân Duyên Giác cho đến hiện thân Trời, người, A-tu-la, cần hiện thân nào thì hiện thân đó. Vậy, thân nào là thân thật của Ngài?
Đó là chỗ quan trọng. Là chỗ chúng ta phải quán thấu, sáng tỏ được lẽ thật thì ngay đó ngộ lý vô sanh. Học kinh cần phải đạt được ý chứ không phải chấp theo lời, không phải phân biệt theo chữ nghĩa. Chỗ này có liên hệ với câu chuyện:
Một hôm, Tiệm Nguyên theo hầu Ngài Đạo Ngô đến điếu tang nhà đàn-việt.
Tiệm Nguyên mới vỗ vào quan tài nói:
- Sanh ư, tử ư?
Nghĩa là chết vào quan tài rồi thì đây là sanh hay là tử?
Ngài Đạo Ngô nói:
- Sanh cũng chẳng nói mà tử cũng chẳng nói.
Lúc đó, Tiệm Nguyên chưa hiểu được ý của Ngài Đạo Ngô nên hỏi lại:
- Vì sao chẳng nói?
Ngài Đạo Ngô bảo:
- Chẳng nói là chẳng nói.
Tiệm Nguyên cũng chưa ngộ.
Trên đường đi về, Tiệm Nguyên thưa:
- Hôm nay, Hòa thượng phải vì con nói mới được. Nếu chẳng nói cho con thì con sẽ đánh Hòa thượng.
Ngài Đạo Ngô bảo:
- Đánh thì cứ mặc ông đánh, nhưng nói thì chẳng nói.
Tiệm Nguyên đánh.
Khi về đến Viện, Ngài Đạo Ngô bảo:
- Thôi, ông nên từ giã đi nơi khác, e Tri sự biết được chuyện thì khó cho ông.
Tiệm Nguyên mới từ giã đi, đến ẩn nơi viện nhỏ trong thôn, trải qua ba năm. Một hôm, nhân nghe một đồng tử tụng kinh Phổ Môn nói về Bồ-tát Quán Thế Âm này, đến câu “nên dùng thân Tỳ-kheo được độ tức dùng thân Tỳ-kheo mà vì đó nói pháp”. Ngay đó bỗng nhiên Tiệm Nguyên đại ngộ. Sau đó, Sư mới thắp hương hướng về Ngài Đạo Ngô lễ bái, nói:
- Rõ thật lời của Tiên sư để lại trọn chẳng hư dối, tự là ta chẳng lãnh hội lại oán trách Tiên sư.
Đây là ý nghĩa sâu xa về ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, khi cần hiện thân nào thì hiện thân đó.
Khi Tiệm Nguyên hỏi: “Sanh ư, tử ư?” tức là cái thấy còn kẹt nơi sanh tử. Còn Ngài Đạo Ngô nói rõ: “Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói”, tức là không thể nói là sanh, cũng không thể nói là tử, hay sanh không cố định là sanh, tử không thể nói cố định là tử. Ngay đó nếu người khéo thì ngộ sanh tử tức vô sanh.
Nhưng Tiệm Nguyên cũng không ngộ được nên hỏi: “Vì sao chẳng nói?”, Ngài Đạo Ngô xác định lại: “Chẳng nói là chẳng nói”, không có vì sao. Ngay đó Tiệm Nguyên vẫn chưa ngộ. Đến sau này nghe đồng tử tụng phẩm Phổ Môn: “Bồ-tát có 32 ứng thân, hễ cần dùng thân nào thì dùng thân đó để độ”, lúc ấy Tiệm Nguyên liền ngộ. Vậy thân nào là thân của Bồ-tát?
Hiện thân Tỳ-kheo rồi bỏ thân Tỳ-kheo hiện thân Tỳ-kheo-ni; vậy thân Tỳ-kheo là thật có sanh có tử không? Thân Tỳ-kheo-ni là thật có sanh có tử không? Tức nó không thật có cái ngã sanh tử trong đó. Vậy ngay đó tức vô sanh chứ gì nữa? Sanh tức vô sanh, ngay đó ngộ vô sanh. Việc sanh tử của chúng ta cũng vậy. Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta hiện biết bao nhiêu thân rồi? Khéo thì ngay đó liền ngộ trở lại, còn không khéo thì cứ theo tướng đó mà lưu chuyển.
Tổng kết lại, Bồ-tát Quán Thế Âm tùy theo cơ cảm mà ứng hiện 32 thân như thế. Đó là do chánh định vô tác diệu lực tự tại thành tựu chứ không phải là do tạo tác. Vô tác là rõ ràng hiện mà không có hiện, hiện mà không có thật sanh, tức là không thuộc sanh diệt, vì thấu suốt tất cả đều như huyễn, không sanh cái ngã trong đó. Nếu người học khéo quán xét thì ngay đây chúng ta ngộ được “ngay sanh tức vô sanh”. Đó là ý nghĩa sâu xa của việc hiện 32 thân của Ngài.
Kế là mười bốn món công đức vô úy.
CHÁNH VĂN:
Bạch Thế Tôn! Lại do con dùng vô tác diệu lực của Tam-muội Kim Cang văn huân, văn tu ấy, cùng với mười phương ba đời tất cả chúng sanh trong sáu đường đồng một bi ngưỡng, nên khiến các chúng sanh, từ nơi thân tâm con được mười bốn món công đức vô úy.
GIẢNG GIẢI:
Đây Ngài nói rằng do vô tác diệu lực của Kim Cang tam-muội văn huân, văn tu nhờ đó cùng với mười phương ba đời chúng sanh đồng một bi ngưỡng. Ngưỡng là ngước lên trên mong muốn được cứu vớt. Bi là lòng thương xót mà cứu vớt. Là sạch hết sự ngăn cách với chúng sanh, không còn cách biệt nữa. Thấy chúng sanh cũng như là mình cho nên thành tựu được mười bốn món vô úy cho các chúng sanh. Công đức vô úy là công đức không có sợ hãi.
CHÁNH VĂN:
Một là, do con không tự quán các tướng mà quán cái tâm năng quán, khiến cho chúng sanh khổ não trong mười phương kia, quán âm thanh con, tức liền được giải thoát.
GIẢNG GIẢI:
Đây Ngài không quán theo tướng mà quán trở lại tâm năng quán, còn chúng sanh hay chúng ta quán theo tướng mà quên cái tâm năng quán, chỉ nhớ tướng thôi.
Như vậy, không theo tướng sanh tâm, mà xoay ngược trở lại cái tâm năng quán theo hướng giải thoát. Do đó đem đến được nhiều công đức khiến chúng sanh trong mười phương khi quán âm thanh Ngài liền được giải thoát. Vì đâu có theo tướng để trói buộc. Chúng ta khéo tu như vậy cũng được giải thoát. Đó là công đức vô úy thứ nhất.
CHÁNH VĂN:
Hai là, do con xoay tri kiến trở lại, khiến cho các chúng sanh giả sử vào trong lửa lớn, lửa cũng không thể đốt cháy.
GIẢNG GIẢI:
Tri kiến tức là cái thấy biết, xoay trở lại chứ không theo nó để hướng ra ngoài sanh phân biệt. Cho nên khiến chúng sanh giả sử có vào trong lửa lớn thì lửa cũng không đốt cháy được.
Điều này có sự có lý, sự tức là có những trường hợp chúng sanh quá sức thành tâm hướng về Ngài nên tâm tạm thời không phân biệt, cũng được qua những nạn khổ về lửa.
Về lý thì xoay cái tri kiến trở lại không theo vào các trần, thì lửa đâu có đốt cháy được trong đó. Nó không theo trần mà lửa cũng thuộc về trần thì trần đâu có vào tới trong đó được mà đốt cháy. Lửa có thể đốt cái thân này thôi chớ đâu có đốt tới chỗ đó được. Thành ra xoay trở lại đó thì lửa không có thể đốt cháy tới. Đó là về lý, trên là về sự.
CHÁNH VĂN:
Ba là, do con quán cái nghe xoay trở lại, khiến cho các chúng sanh bị nước lớn cuốn đi mà không bị chết chìm.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây, vào nước mà không chìm, là do quán cái nghe, xoay trở lại không theo đó mà chìm trong tiếng, nên nước không dính ở trong đó được. Cái nghe thôi mà nước cũng không dính tới rồi, còn cái nghe mà xoay trở lại nữa thì nước đâu có dính tới trong đó được.
Có vị tăng hỏi Ngài Bảo Phước:
- Thế nào là vào lửa chẳng cháy, vào nước chẳng chìm?
Ngài Bảo Phước liền đáp:
- Nếu là nước lửa thì liền bị cháy chìm.
Nếu tâm vừa nghĩ đến nước, vừa nghĩ đến lửa thì liền bị cháy, bị chìm ngay. Còn ngay nơi đây xoay trở lại tâm không sanh thì nước lửa đâu có cháy chìm đến trong đó được. Đó là quán về lý.
Còn về sự, cũng có nhiều trường hợp những người đi biển sắp bị chìm thuyền, liền niệm Quán Âm cũng được qua khỏi. Đó cũng là có sự có lý. Do lúc gặp nạn lòng hết sức chí thành, niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Âm không có tạp niệm. Niệm đến không có tạp niệm thì tâm thành cảm ứng. Tuy chưa biết tu nhưng lúc đó xoay ngay trở lại, đâu nghĩ đến cái gì khác. Vậy là tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh nên mới cảm ứng. Không phải là ai niệm cũng khỏi nạn hết, có người không khỏi là do niệm không có chuyên, không có thành. Rồi cũng do phước của người đó nữa.
CHÁNH VĂN:
Bốn là, do con diệt hết các vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến cho các chúng sanh vào các nước quỷ, quỷ không thể hại được.
GIẢNG GIẢI:
Do diệt hết các vọng tưởng không còn có tâm sát hại, mà không có tâm sát hại thì quỷ đâu có hại mình. Không có tâm sát thì cảm đến quỷ, nó cũng đâu khơi dậy lòng sát. Thí dụ như người mà có tâm sát khi đi đến gần chim thú là chúng sợ liền chạy, chúng cảm từ trường sát của người đó. Còn người mà có lòng từ thật sự còn cảm đến cọp nữa. Chúng ta do có tâm sát nên khi nhìn thấy cọp liền sợ nó hại mình, mà nó cũng sợ mình hại nó.
Chỗ đó là chỗ chúng ta phải khéo để quán trở lại mà chuyển hóa tâm mình. Đây là do diệt hết vọng tưởng nên không có tâm sát hại. Thêm ý sâu nữa là chỗ hết vọng tưởng thì quỷ làm sao thấy đến được trong đó, đâu có thấy được để mà hại. Đó là điều vô úy thứ tư.
CHÁNH VĂN:
Năm là, do con huân cái nghe thành tựu nơi tánh nghe, sáu căn đều tiêu về bản tánh, đồng như cái nghe và cái tiếng, hay khiến cho chúng sanh đương lúc bị hại đao gãy từng đoạn, khiến các binh khí chạm vào thân người như cắt dòng nước, như thổi ánh sáng, bản tánh không hề lay động.
GIẢNG GIẢI:
Thứ năm là do huân cái nghe thành tựu nơi tánh nghe, sáu căn đồng về bản tánh nên cái nghe đồng với cái tiếng, không còn phân biệt cái nghe cái tiếng riêng biệt nữa (tức không đối đãi), như vậy dao gậy cũng đâu làm sao chặt đến trong đó. Đây dứt tâm phân biệt rồi, không còn thấy có căn có trần nên sáu căn đều tiêu về bản tánh. Đó là về lý.
Còn về sự thì cũng có những trường hợp những người gặp nạn đao binh, do tâm hết sức chí thành niệm Quán Âm, lúc đó tâm quá thành khẩn, không còn tạp niệm nào nữa thì cũng cảm được mà qua nạn đao gậy.
CHÁNH VĂN:
Sáu là, con huân tập tánh nghe được sáng suốt thấu khắp cả pháp giới, thì các tối tăm không thể được toàn, hay khiến cho chúng sanh, tuy quỷ Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-giá, Phú-đơn-na v.v... ở gần bên cạnh mà mắt chúng vẫn không thể thấy được.
GIẢNG GIẢI:
Do huân tập tánh nghe sáng thấu khắp pháp giới, cho nên không còn có chỗ bóng tối ẩn núp. Còn quỷ là sống nương chỗ tối, chỗ tối chúng mới nhìn thấy, chúng sống theo cõi âm. Cái tánh nghe mà sáng khắp pháp giới thì bóng tối hết chỗ ẩn, quỷ cũng đâu có chỗ để mà nhìn được là như thế.
Chúng ta giữ được tâm thanh tịnh, sáng suốt, không động niệm thì quỷ cũng không thấy đến được. Cho nên đọc câu chuyện của Ngài Động Sơn, thổ địa tìm không thấy. Hoặc như ông Chủ sự mấy năm lo làm việc chúng, đến chừng sắp chết thấy quỷ vô thường hiện đến, ông mới xin: “Tôi lâu nay bận làm Chủ sự tu không kịp, xin hoãn lại bảy ngày”.
Quỷ nói:
- Cái này tôi không có quyền nhưng với tâm thành khẩn của Ngài thì tôi trình với Diêm vương. Được thì bảy ngày nữa sẽ tới, còn nếu không được thì tôi sẽ bắt ngay.
Trong vòng bảy ngày đó Ngài tu quyết liệt, tâm được vào đạo. Cho nên đến ngày thứ bảy, quỷ đến tìm không thấy, bắt không được. Tâm đâu còn chỗ cho thấy nữa.
Do đó, người biết tu là phải hết sức cẩn thận trên từng tâm niệm. Vừa động niệm tính toán, suy tưởng nhiều quá thì bị ma quỷ thấy. Nếu suy tưởng, tính toán theo chiều tà thì bị quỷ xen vào dẫn chúng ta đi theo chiều tà.
Còn tâm chánh thì tà không vào được, huống nữa là tâm thanh tịnh. Tâm mà thanh tịnh không có động niệm thì quỷ đâu có thấy được mà vào. Khi ngồi thiền tu tập chúng ta phải giữ tâm niệm là vậy đó. Thí dụ như ngồi thiền mà tưởng về tham, mong cầu được cái này cái kia, hoặc nghĩ về sân chẳng hạn. Chính những tâm niệm đó mới chiêu cảm ma quỷ đến, còn tâm chân chánh thì đâu có chỗ nào để vào.
Ở đây cũng vậy, do huân tập được tánh nghe sáng thấu suốt cả pháp giới, không còn có chỗ tối tăm nào để ẩn nữa do đó mà quỷ không thấy được. Ngược lại sanh tâm quỷ thì đi vào cõi quỷ.
Trong nhà thiền có câu chuyện ông Tướng công Vu Địch hỏi Thiền sư Đạo Thông:
- Thế nào là gió đen thổi thuyền bè trôi vào nước quỷ La-sát?
Dẫn trong kinh Phổ Môn người đi vào biển gặp gió lớn thổi thuyền bè trôi vào nước quỷ La-sát mà niệm Quán Âm thì được qua khỏi, quỷ La-sát không có hại.
Thiền sư Đạo Thông mới lên giọng nói:
- Cái gã khách Vu Địch này! Hỏi việc ấy làm gì?
Là ông tướng mà bị nói xem thường như thế có chịu nổi không?
Ông chạm tự ái, đỏ mặt lên muốn sân. Sư mới chỉ nói:
- Chính cái đó là trôi dạt vào nước quỷ La-sát.
Khỏi tìm đâu xa, động niệm lên thì chính đó là trôi dạt vào nước quỷ La-sát, là bị hại ngay. Nếu tâm thanh tịnh thì đâu có trôi, đâu có bị hại.
Ở đây Dạ-xoa hay Dược-xoa, La-sát đều là những loài quỷ. Dược-xoa tức loài quỷ nam, còn La-sát là quỷ nữ; cả hai đều là quỷ ăn thịt người. Loài Dược-xoa, La-sát này thuộc Vua Trời Đa Văn cai quản (hay Đa Văn Thiên Vương). Còn Cưu-bàn-trà dịch là Ủng Hình hay là Yểm Quỷ, quỷ này thường gây ác mộng hay gây bóng đè, thuộc về Vua Trời Tăng Trưởng cai quản. Tỳ-xá-giá là quỷ ăn tinh khí của người cũng như tinh khí của ngũ cốc, quỷ này thuộc về Vua Trời Trì Quốc cai quản. Phú-đơn-na là quỷ gây những bệnh nhiệt, như bệnh sốt, quỷ này thuộc về Vua Trời Quảng Mục cai quản. Đó là nói qua xuất xứ của những loài quỷ.
Chúng ta học hiểu biết rồi cũng phải khéo luôn giữ gìn thân tâm thanh tịnh, tránh những tư tưởng, vọng tưởng lung tung nhất là những tà tưởng. Đó là niệm nguy hiểm. Tà tưởng liền chiêu cảm quỷ vào.
CHÁNH VĂN:
Bảy là, các tiếng hoàn toàn tiêu diệt hết, thấy nghe xoay vào tự tánh, rời các trần cảnh hư vọng, nên hay khiến cho chúng sanh những thứ cùm trói gông xiềng không thể dính vào mình được.
GIẢNG GIẢI:
Các tiếng đều tiêu hết, thấy nghe đã xoay trở lại vào tự tánh, là rời các trần cảnh hư vọng. Như vậy thì gông cùmg làm sao trói được trong đó, bất quá trói là trói thân này thôi, chớ đâu có trói trong đó được. Cho nên nếu khéo thấu được chỗ này, thấy nghe xoay vào tự tánh, rời các trần cảnh hư vọng thì gông cùm không trói được.
Đây cũng có sự có lý. Về sự cũng có những trường hợp do người gặp nạn gông cùm, tâm hết sức chí thành niệm danh hiệu Quán Âm đến không còn tạp niệm, cũng có những cảm ứng mà thoát khỏi gông cùm.
CHÁNH VĂN:
Tám là, do con diệt hết tướng âm thanh viên thông tánh nghe, sức từ phát sanh trùm khắp, hay khiến cho chúng sanh trải qua đường hiểm, giặc không thể cướp hại.
GIẢNG GIẢI:
Đây do diệt hết tướng âm thanh, không theo tướng âm thanh rồi viên thông tánh nghe mà sức từ rộng lớn trùm khắp. Tức là không thấy có ai là đối nghịch, dù cho đối trước giặc cướp mà vẫn không mất lòng từ nên gọi là lòng từ rộng khắp, thì giặc đâu có làm hại được.
Chỗ này nếu chúng ta có tu tập về lòng từ thật sự mạnh mẽ rộng khắp, thì có sức mạnh cảm ứng lớn lao. Như Đức Phật, Ngài cũng từng nói: “Khi Ta tu một mình ở trong rừng, do lòng từ mà Ta không thấy sợ sệt”. Chim muông, thú dữ cũng cảm với Ngài mà thành gần gũi. Đây cũng vậy, lòng từ mà rộng khắp chân thật, dù đối trước giặc cướp vẫn không mất lòng từ thì lúc đó giặc cũng đâu có cảm được sự đối nghịch với nó. Còn chúng ta nhiều khi huynh đệ tu ở trong chùa còn thấy đối nghịch, nếu gặp giặc cướp là nó hại ngay thôi.
CHÁNH VĂN:
Chín là, do con huân tập tánh nghe rời các trần tướng, sắc không thể cướp hại được, có thể khiến cho tất cả chúng sanh nhiều dâm dục, xa lìa lòng tham dục.
GIẢNG GIẢI:
Huân tập tánh nghe rời các trần tướng, tức là không có theo trần thì sắc đâu có chỗ để bám. Như vậy tham dục làm sao sanh ở trong đó được. Cho nên gọi là khiến chúng sanh xa lìa lòng tham dục.
CHÁNH VĂN:
Mười là, do âm thanh của con thuần thục không tướng, căn và cảnh viên dung, không có năng đối và sở đối, có thể khiến cho tất cả chúng sanh giận hờn lìa các nóng giận.
GIẢNG GIẢI:
Âm thanh thuần thục không tiếng là không dính với trần. Rồi căn cảnh viên dung, không có năng sở đối đãi với nhau thì nóng giận bám vào đâu để sanh? Không thấy có năng sở, là không thấy có mình có người, thì lấy ai để mà sân, rồi sân với ai? Tức là xa lìa lòng sân chứ gì nữa.
CHÁNH VĂN:
Mười một là, do con tiêu diệt trần tướng, xoay trở lại tánh bản minh thì pháp giới và thân tâm đều như ngọc lưu ly sáng suốt không ngăn ngại, khiến cho những kẻ ngu ngốc u mê tánh chướng, xa lìa hẳn sự si mê tối tăm.
GIẢNG GIẢI:
Đây là tiêu diệt trần tướng xoay về cái bản minh là tánh sáng suốt sẵn có thì si mê chứa chỗ nào? Si mê là theo chỗ tối tăm, còn giờ xoay trở lại tánh bản minh. Trong tánh bản minh thì đâu có chỗ cho si mê ẩn núp. Nên khiến cho những kẻ ngu ngốc, u mê cũng xa lìa sự u mê, tối tăm.
CHÁNH VĂN:
Mười hai là, do con tiêu dung các hình tướng, trở về tánh nghe, không động đạo tràng mà lẫn vào thế gian, nhưng không hủy hoại thế giới. Cúng dường chư Phật Như Lai như số vi trần, cùng khắp mười phương làm vị Pháp Vương tử gần bên mỗi Đức Phật, có thể khiến cho những chúng sanh trong pháp giới không có con, muốn cầu con trai, liền sanh được con trai có đủ phước đức trí tuệ.
GIẢNG GIẢI:
Do tiêu dung các tướng xoay về tánh nghe, không động đạo tràng mà lẫn vào các thế giới, tức vào trong các thế giới mà chẳng rời tâm bất động, ở trong động mà không động. Nhưng cũng không hủy hoại các tướng của thế giới, tức vào thế giới nhưng không có rời thật tướng, như vậy là không kẹt có không.
Rồi cúng dường chư Phật nhiều như số vi trần tức là luôn thấy Phật, gặp Phật cúng dường, thì sở nguyện đâu còn ngăn trái; mỗi mỗi đều được tùy thuận cho nên gọi là cầu con trai được con trai.
CHÁNH VĂN:
Mười ba là, do sáu căn của con viên thông soi sáng không hai, trùm khắp mười phương thế giới, thành lập Đại Viên Cảnh Không Như Lai Tạng, vâng lãnh pháp môn bí mật của vi trần Như Lai không thiếu sót, có thể khiến cho trong pháp giới những chúng sanh không con gái muốn cầu con gái liền sanh con gái, có tướng tốt đoan chính phước đức, dịu dàng được mọi người yêu kính.
GIẢNG GIẢI:
Sáu căn được viên thông rồi soi sáng không hai, là không còn kẹt bên này bên kia. Trùm khắp thế giới mười phương, thành Đại Viên Cảnh Không Như Lai Tạng. Đại Viên Cảnh là giống như cái gương lớn, Không Như Lai Tạng là Kho Như Lai lìa sạch các tướng, tức như cái gương sáng sạch hết các tướng, không có tướng nào dính được trong đó. Vâng lãnh pháp môn bí mật của vi trần chư Phật, tức không có một mảy bụi nào có thể che mờ thì tâm đâu còn gì để trái nghịch nữa, tức là được tùy thuận vô ngại, cho nên nói là cầu con gái được con gái. Đó là tùy thuận vô ngại.
CHÁNH VĂN:
Mười bốn là, trong tam thiên đại thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng hiện ở thế gian, các vị Pháp Vương tử hiện trong thế gian số lượng có đến sáu mươi hai số cát sông Hằng đều tu theo Phật pháp, nêu gương mẫu giáo hóa chúng sanh, tùy thuận chúnh sanh mà phương tiện và trí tuệ mỗi vị không đồng nhau.
Do con được bản căn viên thông nên phát sanh diệu tánh của nhĩ căn, sau đó thân tâm nhiệm mầu bao trùm cùng khắp pháp giới nên có thể khiến cho chúng sanh chấp trì danh hiệu của con, so với những người chấp trì danh hiệu tất cả các vị Pháp Vương tử số lượng bằng sáu mươi hai số cát sông Hằng kia, phước đức hai bên bằng nhau không sai khác.
Bạch Thế Tôn! Một danh hiệu của con cùng với rất nhiều danh hiệu kia không khác là do con tu tập được tánh viên thông chân thật. Ấy gọi là mười bốn đức thí vô úy đem phước khắp cho chúng sanh.
GIẢNG GIẢI:
Thứ mười bốn này là trì một danh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm thì công đức bằng với trì danh hiệu của các vị Bồ-tát bằng sáu mươi hai số cát sông Hằng trong mười phương.
Trước, Bồ-tát Quán Thế Âm nói được căn bản viên thông nên phát sanh diệu tánh của nhĩ căn, tức không dính kẹt nơi lỗ tai. Mà không kẹt lỗ tai này tức là cũng không kẹt theo danh tự, rồi thân tâm nhiệm mầu bao trùm khắp pháp giới, không giới hạn ở thân tâm này, nên không còn ngăn ngại, không có thấy đây kia sai khác. Do đó trì một danh hiệu thì thông hết nhiều danh hiệu.
Nói trì ở đây không phải là đọc danh hiệu “Nam-mô Quán Thế Âm”, không phải trì như vậy. Mà trì là quán thấu tánh nghe rỗng suốt qua các tên của danh hiệu. Tên này là tên rỗng, là tự tánh không. Như vậy mọi thứ tên đều là rỗng suốt, không hai thì đâu có thấy sai biệt. Trì như vậy thì công đức mới bình đẳng. Còn chỉ niệm thì đâu thấu đến chỗ đó. Nếu người niệm Quán Âm mà thấu được như vậy thì đúng là tâm đã thanh tịnh, sáng suốt, vô ngại được công đức rộng lớn.
Đó gọi là mười bốn đức thí vô úy ban đến khắp chúng sanh được hết lo sợ.
Ở phần trước, ba mươi hai ứng thân của Ngài là trên khắp đồng một từ lực với chư Phật mười phương, ứng hiện ba mươi hai ứng thân để làm lợi ích chúng sanh. Còn mười bốn đức thí vô úy này là đồng một bi ngưỡng cứu khắp chúng sanh. Thông suốt cả trên dưới, thông với chư Phật mà cũng thông với chúng sanh là tâm đâu còn hai, không còn phân biệt Thánh phàm.
Nhưng cũng do chúng sanh có cảm thì có ứng. Lòng từ bi của Bồ-tát rộng khắp, không phân biệt nhưng cũng tùy theo lòng thành của chúng sanh. Nếu tâm chúng sanh chuyên nhất không tán loạn, là có cảm. Còn nếu tâm chúng sanh không có cảm thì Ngài không ứng. Ngài sẵn sàng ứng hết ba mươi hai thân, sẵn sàng chan rải mười bốn đức vô úy cho chúng sanh, nhưng nhiều chúng sanh không được hưởng là do không có cảm.
CHÁNH VĂN:
Bạch Thế Tôn! Do con được đạo Vô thượng tu chứng viên thông ấy, nên lại khéo được bốn món Vô tác diệu đức không thể nghĩ bàn.
Một là, do con ban đầu chứng được tánh nghe chí diệu, nơi tâm tánh không còn có tướng năng văn, các sự thấy nghe hiểu biết không còn cách biệt và thành một Bảo Giác Viên Dung Thanh Tịnh, nên con có thể hiện ra rất nhiều hình dung nhiệm mầu, nói ra vô số thần chú bí mật.
Trong đó hoặc hiện ra một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu, như vậy cho đến một trăm lẻ tám đầu, một ngàn đầu, mười ngàn đầu, tám mươi bốn ngàn cái đầu kim cang; hoặc hai tay, bốn tay, sáu tay, tám tay, mười tay, mười hai tay, mười bốn tay, mười sáu tay, mười tám tay, hai mươi tay, hai mươi bốn tay, như thế cho đến một trăm lẻ tám tay, một ngàn tay, mười ngàn tay, tám mươi bốn ngàn cái tay bắt ấn (Mẫu-đà-la); hoặc hai mắt, ba mắt, bốn mắt, chín mắt, như thế cho đến một trăm lẻ tám mắt, một ngàn mắt, mười ngàn mắt, tám mươi bốn ngàn mắt báu thanh tịnh; hoặc hiện từ, hoặc hiện oai; hoặc định hoặc tuệ cứu độ chúng sanh được đại tự tại.
GIẢNG GIẢI:
Đây nói đến bốn món vô tác diệu đức không thể nghĩ bàn.
Ngài Hàm Thị có giải thích bốn món không thể nghĩ bàn là từ cực quả mà được: “Đây là công đức sau khi đã thành tựu đạo quả tột cùng, nên gọi là tu chứng đạo Vô thượng. Đây căn cứ sau khi bi và trí đã viên mãn, đại bi hiển hiện, cơ cảm đồng thời, không do tâm niệm, tự nhiên như vậy, gọi là không thể nghĩ bàn”. Chỗ này không phải là do khởi tâm tạo tác mà có được. Là tự nhiên, không khởi tâm động niệm, tính toán, suy tư, cho nên gọi là không thể nghĩ bàn. Bởi vì đây là do Ngài tu Tam-muội Kim Cang Như Huyễn. Từ đó thấy tất cả pháp như huyễn, không thấy có một pháp thật, vượt qua tất cả âm thanh, trần tướng, dứt hết những tưởng sai biệt, thì đâu còn có gì để mà sợ hãi.
Rồi từ trong đó mới hiện được các thứ tự tại. Là cần hiện nhiều đầu thì hiện nhiều đầu, hiện nhiều tay thì hiện nhiều tay, hiện nhiều mắt cũng hiện nhiều mắt. Tuy nhiên, chỗ này nếu người hiểu theo chữ nghĩa thì sẽ thấy trở ngại? Giả sử hôm nào đó vào đêm tối âm u quý vị đi gặp Ngài ứng thân kiểu ba bốn đầu, nhiều tay v.v..., như vậy chắc là hoảng hồn, sợ hãi có khi bất tỉnh luôn. Hơn nữa, một người mà 84.000 cái đầu, 84.000 cái tay, rồi 84.000 con mắt thì chứa chỗ nào cho hết? Vậy là dưới bàn chân cũng có mắt luôn, nếu vậy khi đi mắt có dính bụi không? Thành ra nếu hiểu theo chữ nghĩa là thấy có chướng ngại.
Bởi vì đây là Ngài chứng được tánh nghe chí diệu, tột cái nhiệm mầu, không còn kẹt nơi căn nên không còn thấy có tướng năng văn, tức không có tướng hay nghe. Vậy là cái nghe không cuộc hạn nơi nhĩ căn, và sáu căn được lẫn thông với nhau, không còn trở ngại nữa, cho nên nói là sự thấy, nghe, hiểu, biết không còn cách biệt.
Lại hợp với bảo giác viên dung thanh tịnh, tức trở về tánh giác không hai nên được diệu dụng tự tại. Trong nhà thiền nói là đại dụng hiện tiền. Nghĩa là sẵn sàng cứu giúp chúng sanh kịp thời, kịp lúc, không bỏ sót ai hết. Hễ cần ứng là ứng liền, không qua suy nghĩ, nên gọi là nhiều tay, nhiều mắt, nhiều đầu là vậy đó. Đúng là điều ngoài sức nghĩ bàn của tình thức phân biệt. Hiểu theo ý đó thì chúng ta thấy không có chướng ngại. Còn nghĩ theo chữ nghĩa là thấy có chỗ ngại.
CHÁNH VĂN:
Hai là, do cái nghe, cái suy nghĩ của con thoát ra ngoài sáu trần, như tiếng đi qua tường vách không bị ngăn ngại, nên diệu dụng của con có thể hiện mỗi mỗi thân, tụng mỗi mỗi chú; hình đó, chú đó có thể đem sức vô úy thí cho các chúng sanh. Thế nên cõi nước mười phương như vi trần đều gọi con là vị Thí Vô Úy.
GIẢNG GIẢI:
Vậy cái nghe, cái suy nghĩ đó không bị vật làm ngăn ngại, nên là tự tại hiện thân tụng chú, và đem đến cho chúng sanh sự không lo sợ, không sợ hãi. Chúng ta mà khéo tu tập cũng sẽ được như vậy.
CHÁNH VĂN:
Ba là, do con tu tập phát ra căn tánh diệu viên thông thanh tịnh, nên đi qua trong thế giới nào, đều khiến cho chúng sanh xả thân và đồ trân bảo cầu con thương xót.
GIẢNG GIẢI:
Đây là phát ra căn tánh diệu viên thông thanh tịnh không nhiễm cái gì hết. Do đó khi đi qua các thế giới khiến chúng sanh sẵn sàng xả thân, xả của báu để cầu thương xót. Bởi thân này và của báu đâu sánh bằng với chỗ căn tánh diệu viên thông thanh tịnh kia, cái kia quý báu hơn.
CHÁNH VĂN:
Bốn là, do con được tâm Phật, chứng quả rốt ráo, có thể từng đem các thứ quý báu cúng dường mười phương Như Lai, cả đến lục đạo chúng sanh trong pháp giới, ai cầu vợ thì được vợ, cầu con thì được con, cầu Tam-muội thì được Tam-muội, cầu sống lâu thì được sống lâu; như thế cho đến cầu Đại Niết-bàn thì được Đại Niết-bàn.
GIẢNG GIẢI:
Đây do được tâm Phật, rồi chứng quả rốt ráo, đã từng đem của báu cúng dường mười phương Như Lai không tiếc, cho nên đâu còn tâm phân biệt chúng sanh đây kia, cũng như đâu còn tâm tham cầu của chúng sanh nữa. Chính vì đã từng xả nên mới khiến cho chúng sanh mong cầu đều được như ý.
Nhưng quan trọng là được tâm Phật rồi thì mới khiến cho chúng sanh cầu gì được đó, cho đến cầu Đại Niết-bàn được Đại Niết-bàn, vậy Ngài là cổ Phật rồi. Đó gọi là bốn công đức không thể nghĩ bàn, ngoài sức suy nghĩ của chúng sanh. Phần này thuộc về quả đức.
CHÁNH VĂN:
Kết lại, Phật hỏi về viên thông, con do viên chiếu Tam-muội nơi nhĩ căn mà tâm duyên tự tại, nhân nơi tướng nhập lưu mà được Tam-ma-địa, thành tựu quả Bồ-đề, đó là bậc nhất.
Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai kia khen con khéo được pháp môn viên thông, ở trong đại hội thọ ký cho con hiệu gọi là Quán Thế Âm; do con quán tánh nghe thấu suốt mười phương, nên danh tiếng Quán Thế Âm cùng khắp cả mười phương thế giới.
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Quán Thế Âm từ nơi nhĩ căn chiếu soi tròn khắp, tuy chiếu soi tròn khắp nhưng vẫn ở trong chánh định, tức không mất mình nên mới được viên thông. Còn chúng ta duyên cái gì dính cái đó thì đâu được chánh định, đâu được tự tại. Đây gọi tâm duyên tự tại không kẹt nơi trần.
Nhân tướng vào dòng, là ngược với các trần cảnh. Trong kinh Kim Cang nói: “Không vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp” tức là vào dòng Thánh. Còn vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là vào sanh tử. Như vậy, nhân tướng vào dòng mà được chánh định, vượt khỏi năng sở, không còn thấy có đây có kia, có mình có người, được quả Bồ-đề, rồi căn trần không còn che chướng, tánh nghe thấu suốt mười phương, được tên là Quán Thế Âm, danh tiếng vang khắp mười phương. Nếu người nghe mà khéo soi lại nơi tự tánh, không theo tiếng theo trần, cũng sẽ cảm thông cùng chư Phật mà cũng thấu đến chúng sanh, là đến chỗ Thánh phàm không hai.
Đây kết lại, Bồ-tát Quán Thế Âm tu về nhĩ căn viên thông được vô lượng công đức không thể nghĩ bàn như vậy. Đến phần Ngài Văn-thù chọn căn viên thông thì Ngài Văn-thù đã chọn nhĩ căn viên thông là căn thích hợp với căn cơ chúng sanh ở cõi này.
Đối với những bậc tu tập sâu dày thì căn nào hay giới nào cũng có thể tu chứng đạo. Nhưng pháp nhĩ căn viên thông này là phương tiện thích hợp để thành tựu chớ không phải là hơn kém. Bởi chúng sanh cõi này thường nhân pháp âm mà được vào đạo, nghe pháp là thuận với nhĩ căn. Nhưng nếu ở cõi khác thì không hẳn. Thí dụ như cõi Phật Hương Tích thì thích hợp với mùi hương, nhân ngửi mùi hương mà tỉnh giác thì vào đạo.
Kết lại, đây dẫn một vài nhân duyên từ nơi Bồ-tát Quán Thế Âm qua cái nhìn trong nhà thiền, nhất là Thiền tông, để giúp cho tất cả khai sáng thêm.
Như có vị tăng hỏi Hòa thượng Trường Sa - Cảnh Sầm:
- Thế nào là Quán Âm?
Ngài Trường Sa đáp:
- Âm thanh, lời nói.
Hỏi: “Thế nào là Quán Âm?” thì Ngài đáp: “Âm thanh, lời nói”. Vậy là sao? Người khéo thì ngay đó thấy được Quán Âm, còn không khéo thì chỉ thấy là âm thanh, lời nói. Với Ngài Cảnh Sầm, thấy Quán Âm không phải là có đầu, có mắt, có tai; mà ngay âm thanh, lời nói là thấy Quán Âm.
***
Có vị tăng hỏi Thiền sư Cư Tố - Minh Chiếu ở Viện Cảnh Thanh:
- Thế nào là cửa Quán Âm nhập lý? (tức cửa Quán Âm vào lý)
Thiền sư Cư Tố đáp:
- Chim quạ kêu, chim khách hót.
Đó là cửa Quán Âm nhập lý. Ngay khi nghe chim quạ kêu, chim khách hót thì Quán Âm ngồi ngay cửa chứ còn gì nữa. Khéo thì ngay cửa cái nghe đó mà vào lý liền, còn không thì chỉ là nghe tiếng chim quạ, chim khách, thành mờ mịt không hiểu gì.
***
Có vị tăng hỏi Thiền sư Tiếu Nham:
- Thế nào là Tam-muội Quán Âm nghe khắp?
Thiền sư Tiếu Nham đáp:
- Cái lỗ tai người chết.
Làm sao cái lỗ tai người chết mà là Tam-muội Quán Âm nghe khắp? Cho nên đối với các Thiền sư, các Ngài luôn có cái nhìn đặc biệt. Người học cần phải đạt ý quên lời, chứ không thể chấp theo ngôn ngữ. Lỗ tai người sống quá lanh lợi nên không thể đạt được Tam-muội Quán Âm nghe khắp, vừa nghe liền dính trần thì đâu có nghe khắp được. Còn lỗ tai người chết thì nghe cái gì? Nghe mà không chỗ để nghe thì mới nghe khắp, mới thấu được Tam-muội Quán Âm nghe khắp.
Kế, Bồ-tát Văn-thù chọn căn viên thông.
***
-
6. MỤC 17: CHỈ CHÍNH CHỖ VIÊN TU
CHÁNH VĂN:
Khi ấy, Đức Thế Tôn nơi tòa sư tử, từ năm vóc đồng thời phóng ra hào quang báu, xa rọi đến trên đảnh mười phương các Đức Như Lai như số vi trần và trên đảnh các vị Pháp Vương tử, các vị Bồ-tát. Các Đức Như Lai kia cũng từ năm vóc đồng phóng ra hào quang báu, từ các thế giới như số vi trần đến rọi trên đảnh Phật và trên đảnh các vị đại Bồ-tát cùng A-la-hán trong hội, rừng cây, ao hồ đều diễn ra pháp âm, ánh hào quang giao xen lẫn nhau, cùng nhau như lưới tơ báu.
Cả trong đại chúng đây được việc chưa từng có, tất cả đều được Kim Cang Tam-muội. Liền khi ấy, trên trời mưa hoa sen trăm báu: màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng xen lẫn nhau, mười phương hư không hóa thành sắc bảy báu. Trong cõi Ta-bà này, nào đất liền, núi, sông đồng thời chẳng hiện, chỉ thấy các cõi nước như số vi trần trong mười phương hợp thành một cõi, tiếng hát ca ngợi tự nhiên nổi lên.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây, Đức Thế Tôn từ năm vóc phóng hào quang. Năm vóc là từ tay chân và đầu. Vậy là từ đầu tới chân đồng thời phóng hào quang soi đến trên đảnh của mười phương các Đức Phật nhiều như số vi trần và đảnh của các vị Pháp Vương tử, các vị Bồ-tát các cõi nước kia.
Các Đức Phật ở các cõi kia cũng từ nơi năm vóc phóng hào quang soi đến trên đảnh của Đức Phật và đảnh các vị Bồ-tát, A-la-hán trong hội này. Rồi rừng cây, ao hồ v.v... tất cả đều diễn pháp âm (nói pháp). Hào quang thì giao xen lẫn nhau, không còn phân biệt đây kia nữa. Đúng là không còn ngôn ngữ nào nói hết được. Đến đây chỉ còn trực tiếp nhận thấy mới biết thôi. Như vậy, lúc này trong pháp hội là tâm tâm thầm cảm với nhau, không còn ngăn cách kia đây. Nhìn đến đâu cũng thấy hào quang Phật, cũng gặp Phật, thấy Phật. Rồi nghe cái gì cũng thành nghe pháp, cho nên rừng cây, ao hồ gì cũng nói pháp hết. Như vậy, đâu còn chỗ nào để niệm tạp xen vào! Quả thật vượt qua cảnh giới của ngôn ngữ luận bàn.
Bấy giờ, trong chúng được việc chưa từng có, đều được Kim Cang Tam-muội. Tâm vững chắc không còn lay động.
Rồi trời mưa hoa sen báu, mười phương hư không đều thành sắc bảy báu, đất đai, núi, sông ở cõi Ta-bà này đều ẩn mất, các cõi nước mười phương đều thông làm một cõi, tiếng ca hát khen ngợi tự nhiên nổi lên. Đến đây cõi Ta-bà này không còn thấy núi sông, chỗ cao, chỗ thấp, chỗ lồi, chỗ lõm gì nữa; ngay đây đều thành Tịnh độ. Vậy núi sông, đất liền lúc này ẩn đi đâu? Ai thấy được chỗ đó mới hay.
Trong hội lúc ấy, tâm của đại chúng đều thanh tịnh, chứng Kim Cang Tam-muội, không có các tưởng niệm sai biệt. Do không có những tưởng niệm sai biệt, không có tạp niệm xen vào nên thấy tất cả đều thanh tịnh, xóa tan ranh giới kia đây, chỉ còn một tâm thanh tịnh, sáng suốt. Vậy là những cái kia ẩn hết. Để chứng minh lời Phật dạy “tâm tịnh tức cõi tịnh”, khi tâm chúng ta thanh tịnh thì cõi thanh tịnh, còn nếu tâm không thanh tịnh thì dù cho ở cõi Phật cũng thấy thành cõi chúng sanh. Trái lại, tâm thanh tịnh thì ở cõi Ta-bà cũng thấy thành Tịnh độ.
Người chứng đến thì mới biết rõ ràng lẽ thật này không nghi. Chỗ này dù có tưởng tượng thì tưởng cũng không ra nổi. Suy tưởng là chỉ suy tưởng theo tâm chúng sanh. Tâm chúng sanh tức là tâm sai biệt, mà tâm sai biệt thì tưởng sao nổi chỗ tâm thanh tịnh này. Tức đem tâm không thanh tịnh mà tưởng cái chỗ thanh tịnh thì tưởng sao ra nổi? Tưởng không ra nhiều khi còn hiểu thành lệch lạc. Cho nên, nhiều khi chúng ta không khéo đọc kinh, đem tâm suy nghĩ phân biệt của mình mà bóp méo lời Phật dạy, hoặc phê phán theo ý riêng của chúng ta thì càng đi xa nữa. Bởi vậy, đừng quá ỷ lại vào tâm phân biệt này. Đó là chỗ chúng ta phải cẩn thận!
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, Đức Như Lai bảo Ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương tử: “Ông hãy xét trong hai mươi lăm vị Vô học gồm các vị đại Bồ-tát và A-la-hán, mỗi mỗi đều trình bày phương tiện thành đạo lúc ban đầu, đều nói tu tập tánh viên thông chân thật, chỗ tu hành của các vị kia thật không có hơn kém, trước sau khác nhau.
Nay Tôi muốn khiến cho ông A-nan được khai ngộ, trong hai mươi lăm pháp tu, pháp nào hợp với căn cơ của ông ấy; và gồm sau khi Tôi diệt độ, chúng sanh trong thế giới này muốn vào Bồ-tát thừa để cầu đạo Vô thượng, sẽ dùng môn phương tiện nào dễ được thành tựu hơn?”.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi chọn căn viên thông thích hợp cho Ngài A-nan và chúng sanh đời sau ở thế giới này để làm phương tiện vào Bồ-tát thừa. Như vậy, đây là chọn pháp môn hợp với căn cơ chúng sanh ở cõi này.
Ở trước, Phật bảo các vị đại Bồ-tát cũng như các vị A-la-hán, mỗi vị trình bày phương tiện tu tập tánh viên thông chân thật của từng vị. Có vị từ căn mắt, có vị từ căn mũi v.v..., nhưng đều là tu tập tánh viên thông chân thật không có hơn kém. Đây chính là điểm chúng ta cần phải nhận cho kỹ. Tức là phương tiện thì có sai khác nhưng chỗ tu chứng chân thật thì không có hơn kém, sai khác.
Nghĩa là lối vào thì có nhiều nhưng đạo chân thật đó không có hai. Đó là để trừ niệm sai lầm tưởng đâu là có hai đạo chân thật. Bởi vì nếu còn thấy có ta tu được đạo đặc biệt hơn, thấy chỗ được của mình đặc biệt hơn người khác thì thành ra kẹt vào sở đắc, thành bệnh. Đây chỉ là phương tiện tu, mỗi người thích hợp phương tiện nào thì ứng dụng pháp tu ấy. Pháp nào thích hợp với mình thì pháp đó hay với mình, nhưng với người khác thì cũng chưa hẳn là hay. Đó là chỗ chúng ta phải nhận cho kỹ.
Ở đây, Ngài Văn-thù chọn căn viên thông hợp với căn cơ chúng sanh cõi này để giúp phương tiện cho người cõi này tu tập dễ thành tựu hơn, không phải Ngài cho là pháp này hay hơn pháp kia, pháp này hay pháp kia dở, không phải chê khen như thế. Nếu sanh tâm phân biệt, chê khen trong đó thì cách xa với đạo.
CHÁNH VĂN:
Ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương tử vâng từ chỉ của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, nương vào oai thần của Phật, nói kệ đáp lại:
Bản tánh biển giác khắp đứng lặng,
Tánh khắp đứng lặng vốn nhiệm mầu.
GIẢNG GIẢI:
Đây Ngài Văn-thù-sư-lợi nương oai thần của Phật, dùng kệ đáp lời Phật, không phải tự ý Ngài đặt ra. Mở đầu Ngài nói rõ:
Bản tánh biển giác khắp đứng lặng,
Tánh khắp đứng lặng vốn nhiệm mầu.
Trước khi chọn căn viên thông, Ngài nói thẳng về cái gốc chân thật ban đầu để trừ niệm phân biệt hơn kém sau này. Bởi vì bản tánh biển giác tức là tánh giác chân thật sẵn có không phải là cái tạo tác, không phải là cái do tu chứng mới thành nên gọi là bản tánh vốn tròn đầy, đứng lặng, không có thêm bớt, không có các tướng gì khác ở trong đó.
Rồi trong tánh tròn đầy, trong lặng đó, không phải nó hoàn toàn không ngơ, mà nó vốn là nhiệm mầu, đầy đủ diệu dụng. Như Quốc sư Trúc Lâm chỉ cho Vua Trần Thái Tông: “Nếu tâm bệ hạ lặng mà biết rõ ràng, thì chính đó là tâm Phật”. Ở đây thì nói là trong lặng mà nhiệm mầu, chớ không phải trong lặng mà không ngơ, không phải chết cứng ở một chỗ, đúng như nghĩa thể dụng đầy đủ, không nghiêng lệch một bên.
CHÁNH VĂN:
Bản minh chiếu ra hình như sở
Sở lập thì mất đi tánh chiếu.
GIẢNG GIẢI:
Bản minh tức là cái gốc sáng suốt sẵn có. Nó là cái sáng suốt sẵn có rồi, không cần thêm gì nữa nên là bản minh, không cần cái minh thêm nữa. Nhưng do bất giác rồi quên cái gốc, cái vốn sẵn có của nó mà theo cái minh chiếu ra. Do theo cái minh chiếu ra thành như có cái sở, tức thành có đối tượng. Ban đầu vốn không có thêm cái gì khác, nhưng giờ đây biến ra có thêm cái sở, là đối tượng. Mà đã có sở rồi tức là đánh mất đi tánh chiếu của nó.
Tánh chiếu là cái chiếu soi sẵn có. Nó vốn lìa các duyên nhưng giờ thành có chỗ để duyên, là lệ thuộc vào đối tượng, là chỗ vi tế bất giác khó thấy ban đầu đó. Cho nên tu là ngộ trở lại ngay cái chỗ bất giác đó, là thấy tột về nguồn giác.
CHÁNH VĂN:
Do mê vọng mà có hư không,
Nương hư không lập thành thế giới.
Tư tưởng lóng lặng thành cõi nước,
Phân biệt hiểu biết là chúng sanh.
GIẢNG GIẢI:
Như vậy cái gốc sáng suốt sẵn có đã mê rồi, thành vọng có cái hư không mênh mang, không bờ mé. Ban đầu gốc là sáng suốt sẵn có nhưng mê mất gốc rồi thành mờ mờ mịt mịt. Cái mờ mờ mịt mịt thì mênh mang thành hư không không bờ mé, không biết đâu là điểm trụ. Kiểm lại sẽ thấy rõ khi tâm đang tỉnh táo sáng suốt, bỗng mơ mơ màng màng giống như hư không mênh mang vậy đó, không rõ ràng đâu là bờ mé hết. Cho nên nói do mê vọng mà có hư không, rồi nương hư không mới thành lập thế giới. Tức là thế giới được thành lập ở trên hư không.
Như ở trước đã nói rõ. Do cái giác sáng soi, và hư không mờ tối, hai cái đối đãi với nhau thành có dao động nên có phong luân giữ gìn thế giới. Vậy tức là trong cái chưa từng động mà vọng thành có động. Nhưng động ở trong hư không mênh mang, không có điểm tựa. Thế giới còn trụ là do phong luân giữ gìn. Mà phong luân là động cho nên chúng ta sống trong thế giới này là sống trong cái luôn luôn động; mà lại động trong hư không mênh mang không có điểm tựa. Như vậy cái động đó cũng không có thật tánh, không có chắc chắn. Nếu quán kỹ thì ngay đó liền có chỗ tỏ ngộ.
Tư tưởng lóng lặng thành cõi nước, Phân biệt hiểu biết là chúng sanh. Tức là từ cái thể giác mà chợt mê đi thành ra có vọng giác. Rồi cái vọng giác do mê mờ nên nó lóng lặng thành như cõi nước vô tình làm chỗ nương tựa. Mặc dù nó đã thành cái vọng giác mê mờ, lóng lặng thành cõi nước vô tình nhưng trong đó vẫn không rời tánh chân. Thành ra trong đó vẫn còn có chúng sanh phân biệt hiểu biết. Trong cái cõi nước vô tình đó có chúng sanh hữu tình. Tuy nó phân biệt, hiểu biết nhưng vẫn còn mang tánh giác trong đó, chớ không phải là nó hoại hết.
Do đó, nếu ngay cái chúng sanh này khéo giác ngộ trở lại thì bản giác xưa nay vẫn không có mất. Đó là chỗ mỗi người cần phải tỉnh ngộ trở lại. Cho nên đây Ngài Văn-thù trước khi lựa chọn, Ngài chỉ ra những lẽ thật sâu xa này.
CHÁNH VĂN:
Hư không sanh trong biển Đại Giác,
Như hòn bọt nổi trên biển cả.
Các cõi hữu lậu như vi trần,
Đều nương hư không mà phát sanh.
Bọt nổi diệt hư không vốn không,
Huống nữa là hình tướng ba cõi.
GIẢNG GIẢI:
Quán thấu chỗ này rồi liền thấy thế giới chúng ta đang sống không có ý nghĩa gì hết. Xét cho rõ thì hư không là cái vọng sanh ở trong biển Đại Giác thênh thang rộng lớn. Hư không giống như hòn bọt nổi, vậy có nghĩa lý gì đâu! Bởi nó là thứ vọng sanh trong cái mê mờ nên không có chắc chắn.
Rồi các cõi nước nhiều như vi trần, tức nhiều như hạt bụi thì lại nương nơi hư không phát sanh. Có cõi nước nào ngoài hư không mà có được, vậy thì bao nhiêu cõi nước đó có chắc chắn gì? Có chỗ nào để chúng ta bám trụ? Quán đến chỗ này là không còn chỗ nào để chúng ta mong cầu sanh đến, thì ngay đó là vô sanh, là giải thoát! Sở dĩ người ta còn sanh tử là còn thấy có chỗ để sanh đến, mới cầu sanh đến đó cho nên còn sanh tử, tức còn chỗ sanh. Giờ hết chỗ để sanh thì ngay đó là vô sanh, là giải thoát.
Đây chính là chỗ mỗi người cần phải thấy trở lại, mà không chịu thấy, lo đi tìm thấy cái gì! Tìm thấy những cái hư dối, vọng tưởng đâu đâu, thật đáng tiếc! Thấy trở lại biển Đại Giác này mới là quan trọng. Chính từ chỗ này mới vọng sanh ra hư không, rồi bao nhiêu tinh tú, thiên hà, bao nhiêu thiên thể chỉ nằm trong hòn bọt nổi hư không này thôi. Sống được trong biển Đại Giác rồi thì đối với thế giới này, với những trần cảnh, văn minh vật chất này, thấy không có gì đáng để tham luyến, không có gì đáng để mong cầu. Đó là con đường giải thoát. Đây là lời chân thật nhưng ít ai chịu nghe, lại muốn đi nghe những lời hư vọng. Đó là chỗ muốn nhắc cho tất cả.
CHÁNH VĂN:
Trở về nguồn tánh vốn không hai,
Phương tiện tu chứng có nhiều cách,
Cách nào cũng thông vào bản tánh,
Nói thuận nói nghịch đều phương tiện,
Do hàng sơ tâm vào Tam-muội,
Bên mau bên chậm không đồng nhau.
GIẢNG GIẢI:
Xoay trở lại tột nơi nguồn chân ban đầu, chỉ một thể giác chớ đâu có gì khác, đâu có hai. Nhưng phương tiện tu chứng để sống trở về nguồn chân thật thì có nhiều cách. Cho nên 25 vị Thánh trình ra 25 pháp tu, đó là những phương tiện chớ có chấp vào để thành ngăn ngại.
Quan trọng là thấu tột nguồn “không hai” đó mới là chỗ quý. Chớ có phân biệt trệ ngại ở trên pháp tu, vì pháp nào cũng thông vào bản tánh. Do hàng sơ tâm vào Tam-muội có bên mau, bên chậm không đồng mới có nói thuận nói ngịch, nói phương tiện này phương tiện kia cốt để dẫn vào nguồn tánh không hai đó thôi. Đây là ngăn ngừa trước.
Kế lựa ra pháp tu, trước lựa ra sáu trần:
CHÁNH VĂN:
Vọng tưởng kết lại thành sắc trần,
Hay biết không thể thông suốt được,
Làm sao chính chỗ không thông suốt
Tu hành lại được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Đây lựa về sắc trần. Trước, ông Ưu-ba-ni-sa-đà quán về xương trắng, quán thành vi trần cho đến chẻ sắc gần với hư không, đến khi vi trần và sắc tướng hết thì diệu sắc thầm tròn mà tự chứng viên thông. Như vậy, ông Ưu-ba-ni-sa-đà quán về sắc trần cũng vào được đạo, tu chứng đến Vô lậu. Nhưng với người sơ tâm thì pháp tu này không phải dễ dàng, làm sao thấy thấu qua sắc ngại đó để chứng viên thông? Bởi vì sắc trần có tướng ngăn ngại, thì cái hay biết không dễ gì thông suốt được. Ngài không phải chê pháp đó không vào được viên thông, nhưng đó là chỗ khó với người sơ tâm. Cho nên Ngài lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Âm thanh xen lộn với lời nói,
Chỉ nương theo ý vị danh từ,
Nếu một, không trùm được tất cả,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Kiều-trần-na từ âm thanh chứng được đạo. Nhưng âm thanh lại thường xen với lời nói, mà lời nói có danh từ, có ý vị cho nên người nghe dễ bám theo lời nói rồi theo ý vị. Ý vị tức là những nghĩa lý của danh từ, dễ mắc kẹt trong đó. Hơn nữa, danh từ, ý vị cùng lời nói có giới hạn, đâu nói hết được ý nghĩa. Nếu không thấu suốt qua được thì làm sao thông được một nghĩa trùm hết tất cả nghĩa, vậy mới được viên thông. Còn nếu cái nghĩa thuộc về chữ nghĩa tất nhiên nó giới hạn, mà giới hạn thì không viên thông. Như vậy tức là nó có giới hạn ngăn ngại, thì sơ tâm khó được viên thông. Đó là chỗ khó của người sơ tâm cho nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Hương chỉ lúc hợp mới rõ biết,
Lúc rời ra thì vốn là không.
Nếu chỉ biết không được thường hằng,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Đồng tử Hương Nghiêm do từ hương trần mà chứng đạo. Nhưng lúc mùi hương hợp với lỗ mũi thì mới rõ biết được, chưa hợp với lỗ mũi thì đâu biết. Như vậy, nếu rời ra thì nó vốn là không, tức là không thành hương trần. Do chỗ biết với hương trần không được thường hằng, có hợp lại mới biết, rời ra thành không cho nên người sơ tâm cũng khó chứng viên thông. Do đó Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Vị không phải bản nhiên tự có,
Cần phải nếm mới biết có vị,
Nếu giác quan không thường duy nhất,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng từ vị trần chứng viên thông. Nhưng xét cho kỹ thì cái vị không phải là cái vốn sẵn có mà cần phải hợp với cái nếm mới có biết vị, mới thành vị trần. Có nếm mới biết vị, còn không nếm làm sao biết vị! Khi rời ra thì cái vị nó cũng thành không. Như vậy, nó cũng không phải là cái thường hằng duy nhất, mà lúc có lúc không. Đối với người sơ tâm thì chỗ đó cũng là chỗ khó nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Xúc do các vật chạm mà biết.
Không vật chạm thì không thành xúc.
Khi hợp, khi ly không nhất định.
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Bạt-đà-bà-la tu về cái xúc mà chứng đạo. Nhưng xúc cũng không thường hằng, lúc chạm với thân mới có, mới thành xúc, còn không chạm thì không có, tức không nhất định, mà không nhất định thì làm sao y đó để tu chứng được viên thông? Cho nên đó cũng là chỗ khó của hàng sơ tâm, do đó mà cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Pháp cũng có tên là nội trần,
Nương theo trần tất phải có sở,
Năng sở, không viên dung nhập một.
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Ma-ha Ca-diếp từ pháp trần mà vào, nhưng pháp trần là do năm thứ tiền trần bên ngoài đọng lại thành bóng dáng ở bên trong. Bóng dáng bên trong đó nó làm duyên cho ý căn, ý căn duyên với bóng dáng gọi là nội trần. Nương theo đó thì phải có sở, phải có đối tượng, là có sở có năng. Như vậy làm sao viên dung nhập một không còn năng sở được? Hàng sơ tâm cũng khó vào, cho nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
Đến đây là lựa ra năm căn:
CHÁNH VĂN:
Cái thấy tuy rỗng suốt rất xa,
Nhưng thấy trước mà chẳng thấy sau;
Bốn bề còn thiếu mất một nửa,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài A-na-luật từ nhãn căn vào đạo. Cái thấy thuộc về nhãn căn thì không được viên dung; tức thấy trước mà không thấy sau; còn bốn bên thì thấy bên này mà không thấy được hết bốn hướng, thấy chỉ có một phần nên nói bốn bề vẫn còn thiếu một nửa, nên không được tròn đủ. Đó là chỗ khó cho hàng sơ tâm chứng viên thông. Nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Mũi có thở ra và thở vào,
Chặng giữa hiện không có hơi thở;
Nếu không viên dung sự cách bức,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Châu-lợi-bàn-đặc-ca từ tỷ căn mà tu chứng. Tỷ căn tức hơi thở ra thở vào. Mũi thở ra thở vào thì khoảng giữa có cách hở. Vậy làm sao viên dung được chỗ cách hở đó? Đó là chỗ khó cho hàng sơ tâm cho nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Ngoài sở nhập, tánh nếm không thành,
Nhân vị trần mà sanh hay biết;
Không có vị, cái biết không có,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Kiều-phạm-bát-đề từ thiệt căn vào đạo. Nhưng thiệt căn đối với vị trần mà sanh cái hay biết, thì cái hay biết nơi thiệt căn khi đối với vị trần nó mới sanh; không có vị trần thì cái hay biết đó cũng không thể hiện. Không có vị trần thì cái biết vị đó là biết vị gì? Tức cái hay biết đó cũng không thể hiện được. Như vậy nương theo đó làm sao được viên thông? Cho nên cũng là chỗ khó cho hàng sơ tâm vào viên thông. Do đó mà Ngài Văn-thù lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Thân biết xúc đồng với cảnh sở xúc,
Đều có hạn không phải cùng khắp,
Nếu không nhận tánh không bờ bến,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Tất-lăng-già-bà-ta từ thân xúc mà tu chứng. Nhưng thân biết xúc với cảnh bị xúc, mỗi cái có giới hạn của nó nên không đến kịp với nhau. Vậy trong cái thân biết xúc với cảnh bị xúc đó làm sao nhận ra được tánh không bờ bến thì mới vào được viên thông. Đó là chỗ khó cho hàng sơ tâm, nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Ý căn xen với các loạn tưởng,
Đứng lặng, rốt cuộc không thấy gì;
Nếu không thoát được các tưởng niệm,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Tu-bồ-đề từ ý căn mà chứng quả Vô lậu. Nhưng ý căn đi với loạn tưởng, khi loạn tưởng đứng lặng, dừng lại hết thì ý căn bám vào đâu mà hiện? Làm sao biết có ý căn? Như vậy phải bám vào các tưởng niệm mới biết được ý căn, ý căn mới hiện. Tuy nhiên, nếu mãi bám vào các tưởng niệm thì làm sao buông được duyên, làm sao chứng viên thông? Đó là chỗ khó cho hàng sơ tâm nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
Đến đây lựa ra sáu thức:
CHÁNH VĂN:
Nhãn thức phát khởi nhờ căn trần,
Gạn cùng vốn không có tự tướng;
Cả tự thể còn không nhất định,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Xá-lợi-phất từ nhãn thức vào đạo. Nhưng ở đây xét kỹ thì nhãn thức có được là phải nương vào nhãn căn và sắc trần, chớ không thể tự có. Đã nương vào căn trần mới có thì nó không có tự thể của nó, vì phải nương vào cái khác. Vậy tức là nó không có tự thể nhất định, thì làm sao nương vào đó để được viên thông? Đó là chỗ khó cho hàng sơ tâm nên Ngài Văn-thù lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Tâm nghe thông suốt cả mười phương,
Là do sức hoằng thệ rộng lớn;
Sơ tâm không thể đến chỗ ấy,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Phổ Hiền dùng tâm nghe nghe thông suốt cả mười phương thành hạnh Phổ Hiền. Nhưng với người sơ tâm thì không dễ, làm sao dùng tâm nghe mà nghe khắp mười phương. Cho nên, đây mới nói đó là do sức thệ nguyện rộng lớn của Bồ-tát Phổ Hiền mà được, hàng sơ tâm đâu được dễ dàng. Đó là chỗ khó cho hàng sơ tâm, do đó Ngài Văn-thù lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Tưởng chót mũi, vốn là quyền cơ,
Chỉ để nhiếp tâm được an trụ;
Nếu cảnh quán lại thành sở trụ,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Tôn-đà-la Nan-đà từ nơi tỷ thức vào đạo. Do Ngài quán từ chót mũi thấy cái tướng hơi trắng, có khói, rồi từ từ đi sâu vào. Nhưng đây Bồ-tát Văn-thù nói đó là quyền cơ tức là phương tiện tạm thời để nhiếp tâm an trụ. Nếu người không khéo biết, không buông được cảnh sở quán, cứ bám vào cảnh đó hoài thì cũng không được viên thông. Tức là tạm mượn chỗ quán đó để tâm an trụ nhưng không khéo thấy có cảnh sở quán đó rồi kẹt nơi cảnh sở quán, thì làm sao thấu suốt được viên thông? Đó là chỗ lo ngại cho hàng sơ tâm dễ mắc kẹt. Cho nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Nói pháp khéo dùng các danh từ,
Cốt yếu trước phải được khai ngộ,
Nếu lời nói không phải vô lậu,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Phú-lâu-na từ nơi thiệt thức vào viên thông. Do biện tài vô ngại nên Ngài tuyên nói lý khổ không rồi thâm đạt được thật tướng. Với Ngài Phú-lâu-na thì dễ nhưng mà với người sơ tâm thì không dễ. Tuyên nói lý khổ-không, rồi thâm đạt được thật tướng thì đây Ngài Văn-thù nói là do căn cơ đã thuần thục rồi mới được như vậy, chớ không phải dễ với hàng sơ tâm. Tức là trước phải được khai ngộ, vượt qua lời nói, đạt được ý sâu ngoài lời, mới thông suốt được. Còn không khéo mắc kẹt trên chữ nghĩa thì làm sao được viên thông. Đây là chỗ khó cho hàng sơ tâm, do đó Bồ-tát Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Giữ giới chỉ câu thúc cái thân,
Ngoài thân ra lấy gì câu thúc?
Vốn không phải cùng khắp tất cả,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Ưu-ba-ly nơi thân thức trì giới thanh tịnh được tu chứng. Nhưng nếu chỉ bám vào sự câu thúc của thân thì ngoài thân ra lấy gì câu thúc? Giới là bám vào thân, giờ ngoài thân lấy gì mà câu thúc? Chỗ giải thoát chân thật đâu phải ở thân mà giữ thân, đó là chỗ khó cho người sơ tâm. Nếu không vượt qua chỗ này thì làm sao được viên thông tự tại cùng khắp? Cho nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Thần thông bởi túc tập từ trước,
Nào dính gì ý thức phân biệt;
Tưởng niệm không thoát ly sự vật,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Mục-kiền-liên tu về ý thức như đã trình ở trước. Do xoay ý niệm trở về tánh yên lặng nên tâm tánh sáng suốt, như lóng nước đục, lóng càng lâu thì nước càng trong sáng. Từ tâm lặng lẽ, tròn sáng nhiệm mầu phát ra các thần thông diệu dụng. Đây là do túc tập từ trước, không phải do pháp phân biệt của ý thức mà có được. Giải thoát không phải ở thần thông. Bởi vì ý thức phân biệt luôn đi đôi với căn và trần; nếu không có ý căn thì đâu thành ý thức, rồi không có pháp trần thì phân biệt cái gì! Cho nên, không có căn trần thì ý thức phân biệt cũng không thành, làm sao trong đó khiến được viên thông? Chẳng lẽ phải nương với căn trần mãi hay sao? Hàng sơ tâm cũng khó tu tập, cho nên Ngài Văn-thù lựa ra.
Kế là lựa ra bảy đại:
CHÁNH VĂN:
Nếu quán về tánh của địa đại,
Thì nó ngăn ngại không thông suốt,
Pháp hữu vi không phải chân tánh,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Trì Địa quán thông địa đại vượt lên thành viên thông. Nhưng đây Bồ-tát Văn-thù nói là người sơ tâm cũng không phải dễ tu tập. Địa đại thì tánh là ngăn ngại, không thông suốt. Nó thuộc về pháp hữu vi chớ không phải chân tánh. Người sơ tâm làm sao ở trong đó mà thành viên thông được? Làm sao vượt qua được ngăn ngại đó? Đó là chỗ khó cho hàng sơ tâm, nên Bồ-tát Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Nếu quán về tánh của thủy đại,
Quán tưởng đâu phải là chân thật;
Thể như như không do giác quán,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Đồng tử Nguyệt Quang quán tưởng về nước mà thành tựu Vô sanh nhẫn. Quán về nước được trùm khắp hết, cả căn phòng thành đầy nước. Nhưng Bồ-tát Văn-thù nói là thuộc về quán tưởng, mà quán tưởng thì không phải chân thật. Còn thể như như đó thì không thuộc về giác quán, tức giác quán không quán đến, không có tưởng đến trong đó được. Cái thể như như làm sao quán tưởng đến trong đó? Thành ra đó là chỗ khó cho hàng sơ tâm, làm sao vượt qua được chỗ quán tưởng đó? Cho nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Nếu quán hỏa đại, trừ dâm dục,
Chán cái có không phải thật ly;
Phương tiện không hợp với sơ tâm,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Ngài Ô-sô-sắt-ma quán về hơi ấm nơi thân tâm đều lưu thông không ngăn ngại, các lậu được tiêu, phát sanh ngọn lửa đại trí quý báu, lên bậc Vô thượng Giác. Do chán ghét lửa dâm dục, bỏ tướng hữu vi chuyển thành lửa trí tuệ, mới vượt lên thành Thánh đạo. Ngài Văn-thù nói đó là thuộc về ưa chán, lấy bỏ; chán lửa dâm dục mà chuyển thành lửa trí tuệ, thành ra có ưa chán. Mà ưa chán, lấy bỏ thì đó là thuộc về phương tiện, sơ tâm cũng khó khế hợp. Cho nên Ngài Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Nếu quán về tánh của phong đại,
Động tịnh đâu phải không đối đãi;
Đối đãi trái với Vô thượng Giác,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Lưu Ly Quang tu quán Phong đại. Từ quán tướng động của gió rồi phát minh ra tánh bất động, ngộ được thật tướng. Nhưng Bồ-tát Văn-thù cũng chỉ ra: Có động có tịnh cũng thuộc về pháp đối đãi, là trái với Vô thượng Giác. Hàng sơ tâm đâu dễ gì ở trong đó mà vượt qua để thành viên thông. Cho nên Bồ-tát Văn-thù cũng lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Nếu quán về tánh của không đại,
Hư không vô tri không hay biết;
Không biết khác hẳn với Bồ-đề,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Hư Không Tạng do quán thấu hư không không bờ mé, vào Tam-ma-địa, rồi sức nhiệm mầu được viên mãn sáng suốt. Đối với Bồ-tát Hư Không Tạng tu được thành tựu, nhưng với hàng sơ tâm cũng không phải dễ. Đây Bồ-tát Văn-thù nói rõ: Hư không vốn vô tri, không biết gì; còn Bồ-đề là giác, là rõ biết sáng suốt, nên hư không khác hẳn với Bồ-đề. Vậy thì người sơ tâm đâu dễ gì ở trong đó mà quán vượt lên hư không để thành viên thông. Đó cũng là chỗ khó cho hàng sơ tâm, nên Bồ-tát Văn-thù lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Nếu quán về tánh của thức đại,
Thức sanh diệt đâu phải thường trụ;
Để tâm trong phân biệt hư vọng,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Di-lặc tu về định Duy Tâm Thức mà thành tựu các Tam-muội diệu viên thức tâm, cho đến được Phật thọ ký. Đây Bồ-tát Văn-thù nói thức thuộc về sanh diệt. Giờ quán duy thức tức là không thấy có một pháp thật, tất cả đều là duy tâm. Nhưng nếu rời cảnh còn tâm thì chưa qua khỏi sanh diệt. Hàng sơ tâm làm sao ở trong đó để xoay về cho hợp với tánh giác, vượt qua cái sanh diệt? Đó cũng không phải dễ, nên Ngài Văn-thù lựa ra.
CHÁNH VĂN:
Tất cả hành đều vô thường,
Tưởng niệm vốn trong vòng sanh diệt,
Nhân và quả khác nhau như thế,
Thì làm sao được tánh viên thông?
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Đại Thế Chí tu về niệm Phật Tam-muội, thu nhiếp cả sáu căn cho niệm niệm được liên tục mà vào được Tam-ma-địa. Nhưng đây Bồ-tát Văn-thù nói các hành đều vô thường; hành tức là hành động tạo tác, đều thuộc vô thường, còn niệm thì cũng thuộc về sanh diệt. Cái nhân sanh diệt làm sao khế hợp với quả thường trụ. Vậy, làm sao vượt qua được cái đó để khế hợp? Đó là chỗ khó của người sơ tâm phải vượt qua, Bồ-tát Văn-thù cũng lựa ra.
Bồ-tát Văn-thù lựa ra hết căn, trần, thức, cho tới bảy đại trừ nhĩ căn. Đến sau cùng Ngài mới chọn ra nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Thế Âm là hợp với giáo thể cõi Ta-bà này.
CHÁNH VĂN:
Nay con kính bạch Đức Thế Tôn,
Phật ra đời nơi cõi Ta-bà,
Trong cõi này lối dạy chân thật,
Thanh tịnh do chỗ nói và nghe;
Nay muốn tu chứng Tam-ma-đề
Thật nên do cái nghe mà vào.
GIẢNG GIẢI:
Ngài Văn-thù phân tích rằng trong cõi này lối dạy chân thật, thanh tịnh là do chỗ nói và nghe. Cho nên nay muốn tu chứng Tam-ma-đề thì nên do cái nghe mà vào. Đó là hợp với giáo thể ở cõi này.
Trong nhà thiền, có vị tăng hỏi Hòa thượng Huyền Sa:
- Con mới vào tùng lâm, xin thầy chỉ cho con đường vào?
Ngài Huyền Sa bảo:
- Ông có nghe tiếng nước suối Yển chăng?
Ông tăng thưa:
- Dạ nghe.
Ngài Huyền Sa bảo:
- Hãy từ trong ấy mà vào.
Đó là Thiền sư chỉ thẳng từ cái nghe vào. Nhưng quan trọng là “biết vào”. Nếu kẹt ở trên cái nghe và âm thanh là không vào được.
Đây Ngài Văn-thù mới tán thán về pháp tu của Bồ-tát Quán Thế Âm:
CHÁNH VĂN:
Xa rời khổ não, được giải thoát,
Rất hay thay! Ngài Quán Thế Âm.
Trong nhiều kiếp như cát sông Hằng,
Vào cõi Phật như số vi trần.
Được sức tự tại rất rộng lớn,
Bố thí vô úy cho chúng sanh.
Ngài Quán Thế Âm tiếng nhiệm mầu.
Tiếng trong sạch và tiếng hải triều;
Cứu đời mọi việc thảy an lành,
Xuất thế gian được quả thường trụ.
GIẢNG GIẢI:
Hai câu đầu là khen ngợi Bồ-tát Quán Thế Âm được sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền, cho nên nói: “Xa rời khổ não được giải thoát. Rất hay thay! Ngài Quán Thế Âm”. Ngài xa hết những khổ não, dứt sạch được hai thứ tử: tức phần đoạn tử và biến dịch tử, mới giải thoát hết những khổ não. Nên Ngài Văn-thù nói hay thay đó là chỗ chúng sanh cần phải đạt đến.
Hai câu kế: “Trong nhiều kiếp như cát sông Hằng. Vào cõi Phật như số vi trần”, khen ngợi 32 ứng thân của Bồ-tát Quán Âm hiện khắp các cõi Phật, gọi là vào cõi Phật như số vi trần.
Tiếp đến: “Được sức tự tại rất rộng lớn. Bố thí vô úy cho chúng sanh”, là khen ngợi 14 món vô úy, Bồ-tát Quán Âm sẵn sàng thí khắp cho chúng sanh để trừ sợ hãi, qua nội dung 14 món vô úy Ngài trình bày ở trước.
Rồi: “Ngài Quán Thế Âm tiếng nhiệm mầu. Tiếng trong sạch và tiếng hải triều”. Đây là khen ngợi về đức tướng và danh hiệu cảm đến chúng sanh, tức là danh hiệu của Bồ-tát Quán Âm có công đức lớn lao, ai niệm danh hiệu của Ngài thì tương đương với niệm danh hiệu của các Bồ-tát khác bằng với số lượng 62 ức sông Hằng.
Hai câu cuối: “Cứu đời mọi việc thảy an lành. Xuất thế gian được quả thường trụ”. Khen ngợi về việc cứu đời của Bồ-tát Quán Thế Âm được thành tựu rốt ráo.
Bồ-tát Quán Âm tu đạt quả thường trụ xuất thế gian cũng khiến cho người cũng được thành tựu quả xuất thế gian thường trụ.
Trước khi chọn pháp nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Văn-thù tán thán công đức của Bồ-tát Quán Thế Âm.
CHÁNH VĂN:
Nay con kính bạch Đức Như Lai,
Như lời Ngài Quán Âm vừa nói:
Thí như có người ở chỗ vắng,
Chung quanh mười phương đều đánh trống
Mười chỗ đồng thời đều được nghe,
Như thế mới chân thật viên thông.
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Văn-thù xưng tán pháp tu nhĩ căn viên thông.
Như người ở nơi vắng vẻ, khi ấy mười phương đồng thời đánh trống, tuy mười chỗ đánh trống nhưng ngay đó đều nghe được hết, dù có vách tường ngăn cách cũng vẫn nghe. Để thấy rằng tánh nghe thông hết cả mười chỗ không có ngăn ngại trước sau hay xa gần, thành ra nhĩ căn có tánh viên thông. Ngài nói như thế mới là chân thật viên thông.
Người khéo thì có thể ngay nơi đó liền ngộ trở lại tánh nghe viên thông. Đây chính là chỗ đáng học, cần học cho thấu đáo. Kế Ngài mới chỉ ra nơi các căn không bằng:
CHÁNH VĂN:
Mắt bị ngăn che, không thấy được,
Thiệt căn, tỷ căn, cũng như vậy.
Thân căn lúc hợp mới biết xúc,
Ý căn lăng xăng không mối manh.
Cách vách nhĩ căn vẫn nghe tiếng,
Dầu xa dầu gần đều nghe được.
Năm căn so sánh thật không bằng,
Như thế mới chân thật viên thông.
GIẢNG GIẢI:
Năm căn kia đều có giới hạn không bằng nhĩ căn. Mắt bị ngăn che thấy trước không thấy sau; thiệt căn, tỷ căn có hợp thì mới biết; thân căn cũng vậy khi hợp thì mới có biết xúc, ly ra thì không. Ý căn thường lăng xăng, không rõ mối manh. Nhĩ căn thì dù xa dù gần dù ngăn bít nó cũng nghe, so với năm căn kia, nhĩ căn viên thông hơn. Ngài nói như thế mới chân thật viên thông. Đó là chỗ Bồ-tát Văn-thù so sánh để thấy rõ nhĩ căn này có ưu điểm viên thông.
CHÁNH VĂN:
Tánh thanh trần có động có tĩnh,
Trong tánh nghe thành có, thành không.
Khi không tiếng gọi là không nghe,
Đâu phải thật không còn tánh nghe;
Không tiếng tánh nghe đã không diệt,
Có tiếng tánh nghe đâu phải sanh;
Trọn rời cả hai thứ sanh diệt,
Như thế mới là thường chân thật.
GIẢNG GIẢI:
Tánh nghe nơi nhĩ căn không lệ thuộc thanh trần. Thanh trần thì có động có tịnh, khi phát ra hay nói lên thì nó động, nhưng khi để im thì nó lặng thành tịnh, mà có động có tịnh là có sanh có diệt, cũng là khi có khi không. Nhưng tánh nghe thì không phải theo đó mà thành có thành không.
Đây chỉ rõ: Khi không tiếng nhiều người gọi là không nghe, nhưng đâu phải thật là không có tánh nghe; không tiếng chỉ là thanh trần im lặng thôi, còn tánh nghe vẫn không thiếu vắng. Chúng ta quán kỹ sẽ cảm nhận rõ ràng tánh nghe viên thông, vượt cả sanh diệt. Thanh trần tức là tiếng, khi nghe tiếng thì tiếng có, qua rồi nó lặng thì tiếng thành không, nhưng tánh nghe vẫn không phải vì tiếng có tiếng không mà nó thành có thành không hay nó thành sanh thành diệt.
Tiếng thì có sanh có diệt, có động có tịnh nhưng tánh nghe vẫn không hai nên nó thường chân thật, không thiếu vắng. Vậy mà người ta lại không chịu xoay trở về tánh nghe thường chân thật này, lại lo chạy theo thanh trần để thành có thành không theo cái sanh diệt. Đó là chỗ mà Ngài muốn nhắc cho tất cả biết để xoay trở lại. Và cũng chính vì vậy mà Ngài chọn nhĩ căn viên thông.
CHÁNH VĂN:
Dẫu cho trong lúc đang ngủ mê,
Chẳng vì không nghĩ mà không nghe.
Tánh nghe ra ngoài sự suy nghĩ,
Thân, ý không thể so lường được.
GIẢNG GIẢI:
Đây là chỗ đặc biệt nữa. Tức là trong lúc ngủ mê không có suy nghĩ, mà cái nghe vẫn không mất. Để thấy tánh nghe còn vượt ngoài cái suy nghĩ, không phải do suy nghĩ mà có, suy nghĩ cũng không thể suy nghĩ đến được nó. Như ở trước, Phật dẫn chứng người ngủ mê nghe tiếng chày giã gạo thành như tiếng chuông tiếng trống. Lúc ngủ mê không suy nghĩ mà vẫn nghe được tiếng chày giã gạo, là tánh nghe không thiếu vắng; cũng chứng minh là nó vượt ngoài cái ý suy nghĩ. Đây như hồi chuông cảnh tỉnh cho những người có duyên được nghe những lời chân thật này phải khéo nhận trở lại tánh nghe thường hằng đó.
CHÁNH VĂN:
Hiện nay, trong cõi Ta-bà này,
Các thứ thanh luận được truyền bá,
Do chúng sanh quên mất tánh nghe,
Theo thanh trần nên bị lưu chuyển.
GIẢNG GIẢI:
Nói lên sự đua chen của người mê trong cõi Ta-bà. Quên mất tánh nghe mà chạy theo những lời nói, những luận bàn, bị ngôn ngữ chuyển nên đành phải đánh mất cái chân thật sâu xa nơi chính mình. Đó là theo thanh trần nên bị lưu chuyển, là đi theo đường chết mà xa với đạo chân thật.
CHÁNH VĂN:
A-nan tuy có tánh nhớ dai,
Vẫn không khỏi mắc các tà niệm;
Há không phải tùy chỗ đắm chìm,
Xoay ngược dòng thoát khỏi hư vọng.
GIẢNG GIẢI:
Đây dẫn lời Đức Phật trách Ngài A-nan nhớ dai nhưng vẫn không khỏi tà niệm là vướng vào nạn Ma-đăng-già. Đó cũng là nhắc chung cho những người khác, chớ không phải riêng Ngài A-nan. Tuy có sức thông minh lanh lợi nhớ dai nhưng mà cái nhớ đó đâu có qua khỏi các tà niệm, vì vậy phải thực tu.
Vết chân sai lầm đó nhắc người khác thấy rõ, để tránh không dẫm vào đó nữa. Cái hay nhất là “Há không phải tùy chỗ đắm chìm, Xoay ngược dòng thì thoát khỏi hư vọng”, là khéo ngay nơi chỗ đắm chìm đó mà xoay ngược dòng trở lại. Đó mới là con đường sống, là cá nhảy khỏi lưới. Ngay chỗ đắm chìm đó mà xoay ngược trở lại là vượt ra, còn theo đó là chìm luôn. Cho nên ai là người sáng suốt phải khéo xoay ngược lại, tức là buông chỗ mê đó mà xoay trở về thì đó là cái hay và cũng là không cô phụ lời chân thật của Như Lai. Đây là điều muốn nhắc cho tất cả.
CHÁNH VĂN:
Thanh luận vốn dùng chỉ tánh nghe
A-nan ông hãy chín chắn nghe,
Nay tôi nương oai lực của Phật,
Tuyên nói pháp Tam-muội chân thật,
Chắc như Kim Cương Vương Như Huyễn,
Không nghĩ bàn xuất sanh chư Phật.
GIẢNG GIẢI:
Đây muốn nhắc là hãy nhân nơi tiếng nói, lời dạy mà nhận rõ trở lại tánh nghe luôn có mặt. Thanh luận là những lời dạy, những ngôn ngữ luận bàn, dùng để chỉ rõ tánh nghe, chớ mắc kẹt theo đó. Chúng ta phải nhân đó để nhận trở lại tánh nghe, chớ đừng theo nó mà bị chìm.
Cho nên Ngài nhắc: “A-nan ông hãy chín chắn nghe, nay tôi nương oai lực của Phật, tuyên nói pháp Tam-muội chân thật, vững chắc như Kim Cương Vương Như Huyễn”. Kim Cương Vương Như Huyễn thì chém đứt tất cả những thứ hư vọng. Từ chỗ đó mà xuất sanh ra chư Phật. Người khéo xoay trở lại sẽ thấy được cái gốc mà chư Phật thành Phật, chớ không phải tầm thường.
CHÁNH VĂN:
Ông nghe tất cả pháp bí mật,
Của chư Phật số như vi trần,
Nếu trước hết không trừ dục lậu,
Chứa nghe nhiều chỉ thành lầm lỗi,
GIẢNG GIẢI:
Đó là những chỗ chúng ta cần kinh nghiệm, xét lại mình để thấy rõ đường đi. Dù có nghe nhiều mà không trừ dục lậu thì cũng không ra khỏi lỗi lầm. Cho nên, vị nào lanh lợi cũng phải cẩn thận, không có ỷ lại, đừng để cho những ham muốn đi trước mình. Dục lậu, chữ lậu tức là rơi rớt trở lại trong sanh tử, trong ba cõi, nó dẫn chúng ta đi vào trong lầm lỗi.
CHÁNH VĂN:
Dùng cái nghe thọ trì Phật pháp,
Sao ông không tự nghe cái nghe?
Tánh nghe không phải tự nhiên sanh,
Nhân thanh trần mà có danh hiệu.
Xoay cái nghe thoát ly thanh trần;
Cái hay thoát ấy gọi là gì?
GIẢNG GIẢI:
“Dùng cái nghe thọ trì Phật pháp, sao ông không tự nghe cái nghe?”. Tức nghe trở lại tánh nghe, thì tánh nghe không phải tự nhiên sanh, nó chỉ là nhân thanh trần mà có danh hiệu. Như vậy, nếu xoay cái nghe thoát ly thanh trần, thì cái hay thoát đó gọi là cái gì? Chỗ đó đó! Chỉ cần bao nhiêu đó mà quán kỹ là đủ tỏ ngộ thấy đường đi. Cái bí quyết mà Ngài Văn-thù chỉ ra đây quá rõ ràng, là hãy dùng cái nghe thọ trì Phật pháp mà tự nghe trở lại cái đang nghe đây. Thay vì nghe cái bên ngoài thì nghe trở lại tánh đang nghe, đó mới là quan trọng.
Nghe trở lại thì tánh nghe này không phải tự nhiên sanh hay bỗng nhiên mà có, nó nhân thanh trần mà có danh hiệu. Tức là tánh nghe vốn không có tên, nhưng nhân đối với thanh trần tạm lập tên. Khi xoay cái nghe trở lại nó thoát khỏi thanh trần rồi, tức nó không vướng trong thanh trần nữa, thì cái mà hay thoát đó muốn gọi nó là cái gì? Nó đã thoát khỏi thanh trần rồi thì đâu có dùng tiếng mà gán cho nó. Thấy được chỗ đó là thấy chỗ thoát luân hồi! Tức là do có thanh trần nên tạm mượn danh hiệu gọi nói là “tánh nghe”, đó là lúc còn đối đãi. Giờ nó thoát khỏi thanh trần rồi thì muốn gọi nó là cái gì đây? Ngay đó ngộ là tự biết liền. Còn mắc kẹt nơi chữ nghĩa, ngôn ngữ tức không rời khỏi thanh trần thì không thấy được.
Quả đúng là Ngài chỉ rất cặn kẽ, đây gọi là bí quyết.
Nhà thiền, có lần có vị tăng hỏi Thiền sư Quang Mục:
- Thế nào là cái chánh nghe?
Thiền sư Quang Mục đáp:
- Chẳng từ lỗ tai mà vào.
Cái chánh nghe đó là không phải từ lỗ tai vào, từ lỗ tai là còn đối với thanh trần, là không phải chánh nghe.
Ông tăng hỏi:
- Vậy thì làm thế nào?
Ngài Quang Mục đáp:
- Ông lại nghe chăng?
Hỏi: “Đã không từ lỗ tai vào thì làm thế nào?”, Ngài gạn trở lại: “Vậy ông lại nghe chăng?”. Cái này đâu phải lệ thuộc vào trong lỗ tai với căn trần. Chỉ thẳng như vậy! Chúng ta thấy được chỗ này là thấy được chỗ chân thật vượt căn trần. Đó cũng là con đường về của chúng ta.
Đoạn kinh này là đoạn kinh rất quan trọng, gọi là bí quyết.
CHÁNH VĂN:
Một căn đã trở về bản tánh,
Thì cả sáu căn thành giải thoát.
GIẢNG GIẢI:
Một căn đã trở về bản tánh tức là trở về nguồn, là nó đã được nhổ lên, thì sáu căn liền thành giải thoát. Bởi vì sáu căn cũng đồng một thể tinh minh, khi mê nó chia thành sáu, giờ một căn này nhổ lên rồi thì trở về bản tánh không hai, đâu còn chia cách ngăn ngại nữa. Mới thấy mê làm chi ở sáu căn này để cho khổ? Trong khi lẽ thật không hai, không phải lệ thuộc vào trong căn này. Đó là chỗ chúng ta phải khéo nhận để trở về.
CHÁNH VĂN:
Thấy nghe như bệnh lòa huyễn hóa,
Ba cõi tợ hoa đốm trong không.
Xoay cái nghe gốc lòa tiêu dứt,
Trần tướng tiêu tánh giác viên tịch.
GIẢNG GIẢI:
Đây là chỗ cần nên nhớ: Cái thấy nghe như bệnh lòa, không có thật, còn ba cõi giống như hoa đốm trong hư không, không có cái gì đáng để bám luyến. Tức là cái thấy-nghe-hiểu-biết ngay sáu căn, đây nói gọn là cái thấy-nghe này như bệnh lòa huyễn hóa từ một thể giác nguyên thủy không hai, chưa từng có sanh có diệt, do bất giác quên cái thể không hai đó, biến thành có thấy, nghe, hiểu, biết, rồi cột nó với các trần. Đó là điều đáng buồn, đáng tiếc! Từ một thể giác nguyên thủy không hai, chưa từng có sanh diệt, bây giờ sao bỗng nhiên bất giác quên nó đi rồi biến thành có thấy, nghe, hiểu, biết ngăn cách với nhau, cột với sáu trần. Đây nhắc lại cho mỗi người cần phải thức tỉnh, chớ có đắm mê trong đó nữa!
Rồi ba cõi giống như hoa đốm trong hư không, không có chắc thật gì hết. Thế gian này thì chỉ là một phần nhỏ trong ba cõi. Vậy có đáng gì để chúng ta mê trong đó? Cho nên cần phải dõng mãnh để xoay cái nghe trở lại tánh chân thật. Ngài muốn nhắc là nhắc chỗ đó.
Xoay cái nghe trở lại thì gốc bệnh lòa tiêu dứt. Gốc lòa tiêu dứt thì trần tướng hết chỗ để nương. Trần tướng tiêu thì tánh giác sẽ viên tịch. Bởi gốc lòa nơi sáu căn đã tiêu rồi thì trần tướng nương vào đâu? Trần tướng nương là nương mấy cái lòa của sáu căn này, tức cái thấy-nghe-hiểu-biết thành lòa này. Trần tướng hết sạch thì tánh giác thành lặng lẽ tròn đầy, đâu còn mắc kẹt kia đây nữa. Đây mới là chỗ trở về và cũng là niềm vui lớn nhất.
CHÁNH VĂN:
Tột thanh tịnh trí quang thông suốt,
Thể tịch chiếu cùng khắp hư không.
Trở lại xem các việc thế gian,
Thật giống như chiêm bao không khác.
GIẢNG GIẢI:
Đối với người giác ngộ, với người trí nói thì nghe rất thoải mái, trong khi chúng ta vẫn còn nặng nề ở trong chiêm bao. Nghĩa là khi đã trở về rồi, tánh giác được lặng lẽ tròn đầy, khi nó tột chỗ thanh tịnh, căn trần không còn che thì ánh sáng trí tuệ thông suốt không che mờ, cái thấy suốt xưa nay không còn mê lầm, trong đó nó chiếu khắp mà vẫn thường tịch, cho nên nó không có mê theo chỗ chiếu. Nó thường tịch mà hay chiếu khắp nên không có gì làm mờ được nó. Gọi là thể tịch chiếu rộng khắp, đầy đủ cả hai nghĩa tịch và chiếu. Chúng ta tu tập phải nhớ kỹ, nếu nó nghiêng một bên thì chưa phải.
Từ cái thể tịch chiếu đó nhìn trở lại các việc trong thế gian thì giống như trong chiêm bao có gì đâu, không đáng bận tâm!
Người giác ngộ, giống như thức tỉnh giấc mê từ vô thủy. Khi tỉnh giấc mê từ vô thủy rồi, nhìn trở lại thế gian này thấy như giấc mộng, do đó các Ngài hết còn gì để ham muốn, để tham luyến. Còn chúng ta thấy thật cho nên mới còn ham muốn, còn tham luyến này nọ! Đây là điểm nhắc nhở, mong mỗi người đều thấy được để thức tỉnh mở mắt ra xem! Mỗi người hãy tự xét lại xem mình còn ham muốn nhiều hay ít, liền biết được tâm của mình thế nào rồi tự sách tấn mình. Thấy được con đường, chúng ta phải đi như thế nào để tu tiến hơn nữa, chớ đừng có tự mãn.
CHÁNH VĂN:
Ma-đăng-già ở trong mộng kia,
Còn ai đâu bắt ông được nữa?
Như các huyễn sư khéo trong đời,
Làm trò hóa ra các trai gái;
Tuy thấy các căn đều cử động,
Cốt yếu do cái máy giựt dây,
Máy dừng tất cả đều yên lặng,
Các trò huyễn trở thành không tánh.
GIẢNG GIẢI:
Khi sức thanh tịnh đã tột, trí quang thông suốt, có thể chiếu khắp, rồi nhìn trở lại thế gian giống như chiêm bao không gì khác, thì lúc đó Ma-đăng-già trong mộng đâu còn bắt mình được nữa. Bởi vì trước kia Ngài A-nan thấy thật cho nên mới bắt được, giờ thấy như người trong mộng tức nhiên Ngài A-nan tự giải thoát.
Cũng giống như huyễn sư khéo làm trò hóa ra trai gái. Tuy thấy các căn có cử động nhưng do người máy ở trong giật dây chứ có gì đâu. Đây cốt yếu là do cái máy giật dây, nếu cái máy dừng thì tất cả đều yên lặng, các trò huyễn trở thành không tánh, có cái gì thật ở trong đó đâu?
Vậy thấy rằng thân này tuy có cử động, có tới lui hoặc là có vui buồn nhưng sự thật vốn không có thật ngã. Do có nghiệp thức gá ở trong nên tạm còn hoạt động, khi nghiệp thức đi rồi thì nằm cứng đơ thôi, lúc đó mặc tình cho ai chửi bới. Rõ ràng nó vốn không thật ngã, trống rỗng không có tự tánh, không thật có ai ở trong đó. Quán kỹ như vậy thì chúng ta sẽ bớt lầm chấp. Và như vậy tất cả chúng ta sống ở đây, nói là sống chứ sự thật nếu nhìn theo con mắt này thì là diễn trò với nhau thôi. Mỗi người là mỗi con rối có hình tướng khác, và mỗi con rối có vai diễn khác. Khi hạ màn thì đồng ra nghĩa địa như nhau.
Thấy được chỗ đó rồi mới thấy cuộc đời không có ý nghĩa gì! Chỉ còn một việc là làm sao sáng tỏ trở lại tự tánh chân thật của mình, là cái thể thật chiếu rộng khắp, để sống trở lại mới là có ý nghĩa. Nhưng vì chúng ta còn mang nó, tức là cũng còn lệ thuộc vào nó thì còn mượn nó tạm sống để tu. Khi hết hạn rồi thì buông chớ không có gì luyến tiếc. Nhớ kỹ như vậy để bớt tham luyến vào thân này. Đừng tham cái gì trong đó để rồi chìm đắm không ra khỏi. Có gì để mà tham đắm trong đó! Tham đắm một cái trống rỗng rồi phải đành chịu nô lệ, chịu khổ trầm luân. Có đau không? Quán kỹ sẽ có sức tỉnh giác rất lớn.
CHÁNH VĂN:
Cả sáu căn cũng giống như thế,
Vốn đều nương một tánh Tinh Minh,
Chia ra thành sáu thứ hòa hợp;
Một nơi đã rời bỏ quay về,
Thì cả sáu đều không thành lập;
Liền ngay đó trần cấu đều tiêu;
Chuyển thành tánh viên minh tịch diệu.
GIẢNG GIẢI:
Từ một tánh Tinh Minh sáng suốt không hai, nhưng mê chia thành ra sáu thứ hòa hợp, tức là thấy, nghe, hiểu, biết nơi sáu căn. Nếu ngộ trở lại, ngay một căn mà quay trở về tánh nhất Tinh Minh thì cả sáu nơi đều thành rỗng suốt, tức là không thành lập. Sáu nơi đều thành rỗng suốt tức căn đã không thì trần bám vào đâu mà khởi? Ngay đó căn trần đều tiêu thì chuyển thành giải thoát. Ngay đó chuyển thành tánh viên minh tịch diệu. Tức là tánh sáng tròn, lặng lẽ, nhiệm mầu, không có gì che mờ được, là ngay vọng chuyển thành chân.
Khi xưa ngay sáu căn thấy-nghe-hiểu-biết là vọng, giờ chuyển nó thành tánh viên minh tịch diệu, chứ không phải là có cái chân nào khác ngoài nó. Thấy hiểu như vậy, chúng ta càng có thêm niềm tin tiến tu. Bởi vì khi mê thì một Tinh Minh chuyển thành sáu hòa hợp, là “giống như” sáu chứ không phải thật thành sáu. Khi giác thì sáu hòa hợp chuyển thành một Tinh Minh. Nói chuyển trở lại chứ thật không chuyển gì hết, nó sẵn vậy rồi nhưng do mê vọng tưởng rồi quên vậy thôi. Như vậy, con đường mê-giác ngay trước mắt, chớ không có đâu xa!
Trong nhà thiền, Thiền sư Pháp Viễn - Ngũ Tổ nói về câu chuyện cái rạp hát có người gỗ. Câu chuyện này ai mà chịu lắng lòng quán kỹ sẽ có chỗ nhận rất lý thú và sáng tỏ.
Một hôm, Sư thượng đường bảo:
- Hôm qua Lão Tăng đi vào trong thành, thấy một rạp hát, bên trong là người gỗ múa rối (có người giật dây ở trong đó).
Thấy vậy, nên mới đến gần xem. Thấy nó đẹp đẽ lạ kỳ, hoặc thấy xấu xa vô kể (tức là xem thấy các con rối có con hình dáng đẹp đẽ, có con hình dáng xấu xa). Hoặc nó chuyển động đi ngồi, hoặc là xanh vàng, đỏ trắng, mỗi mỗi thấy rõ. Nhưng đến khi xem kỹ lại thì vốn là miếng vải xanh bọc lại, bên trong có người giật dây. Lão Tăng nhịn không được mới đến hỏi:
- Ông tên gì vậy?
Hỏi cái người giật dây bên trong thì làm sao nói? Đó là chuyện làm ăn của người ta mà hỏi làm bể mánh người ta sao? Cho nên khi hỏi ông tên gì thì kẻ kia liền nói:
- Cái ông Hòa thượng này! Xem thấy là xong rồi, hỏi tên làm gì nữa!
Xem thấy là biết rồi còn hỏi tên làm gì nữa? Bấy nhiêu đó là đủ cho mình ngộ rồi. Cho nên:
Sư bảo đại chúng:
- Lão Tăng bị kẻ kia nói một câu khiến không lời có thể đáp, không lý có thể bày. Lại có người vì Sơn Tăng nói được chăng?
Đây là chỗ cần lắng lòng, quán cho kỹ thì sáng tỏ. Thấy người cử động tới lui rõ ràng đó nhưng lại gần nhìn kỹ xem cho rõ thì bên ngoài chỉ là lớp vải bọc, bên trong có người giật dây. Ngài thấy người đó rồi, nhịn không được nên lại hỏi: “Ông tên gì vậy?’. Người kia nói rằng: “Ông thấy là được rồi, còn hỏi tên làm gì nữa!”. Thấy là xong, nhận ra là xong rồi, còn hỏi tên là bị ăn đòn. Rõ ràng vậy thôi, chuyện đó là như vậy.
CHÁNH VĂN:
Còn trần cấu tức còn học vị,
Sáng suốt cùng tột tức Như Lai.
GIẢNG GIẢI:
Rất đơn giản. Khi còn trần cấu là còn trụ nơi học vị, còn là hữu học. Nếu sáng suốt cùng tột tức Như Lai, hết còn gì để học. Như Lai không phải từ nơi nào khác đến. Đó là chỗ cần phải tỉnh, cũng là chỗ muốn nhắc cho tất cả, khuyên tất cả phải hết sức chú tâm nghe kỹ, thức tỉnh trở về, đừng quá đắm mê theo trò mộng huyễn. Đây Ngài Văn-thù kêu gọi:
CHÁNH VĂN:
Hỡi đại chúng và ông A-nan!
Hãy xoay lại cái nghe điên đảo,
Xoay cái nghe về nghe tự tánh,
Nhận tự tánh thành đạo Vô thượng;
Thật tánh Viên Thông là như thế.
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Văn-thù thiết tha kêu gọi mọi người hãy thức tỉnh trở lại, hãy xoay cái nghe điên đảo theo thanh trần mà nghe trở lại tự tánh. Cái nghe mà lâu nay theo thanh trần đó, gọi là cái nghe điên đảo. Giờ xoay trở lại để nghe trở về tự tánh, tức nghe trở lại cái đang nghe đây là vượt khỏi thanh trần.
Cần sáng tỏ, thanh trần là cái tiếng không biết nghe, lỗ tai là hai miếng thịt cũng đâu biết nghe. Vậy cái gì nghe? Phải xoay trở lại chỗ đó, chớ có lầm theo thanh trần, lầm theo lỗ tai! Nghe trở lại tự tánh là vậy, nhận ra tự tánh đó là chỗ thành đạo Vô thượng, là chỗ vượt thoát cả thế gian mộng ảo.
CHÁNH VĂN:
Đây chính là một đường thẳng tiến;
Vào Niết-bàn của vi trần Phật.
Các Đức Như Lai thuở quá khứ,
Đã thành tựu đều từ môn này;
Các vị Bồ-tát trong hiện tại,
Nay mỗi vị đều vào viên minh,
Cùng những người tu học đời sau,
Đều phải nương theo pháp môn đó,
Tôi cũng do pháp ấy mà chứng,
Không riêng gì Ngài Quán Thế Âm.
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Văn-thù tán thán: “Đây là con đường thẳng tiến vào Niết-bàn của vi trần chư Phật”, chứ không phải thường. “Chư Phật quá khứ, chư Bồ-tát hiện tại và người học về sau cũng đều nương theo đó mà tiến vào chứ không riêng gì Bồ-tát Quán Thế Âm”.
Vậy chúng ta còn chưa chịu tin sao? Chỉ ngay đó xoay trở lại, đó là con đường trở về chung cho tất cả.
CHÁNH VĂN:
Thật như lời Đức Phật Thế Tôn,
Đã hỏi con về các phương tiện,
Để cứu giúp trong đời mạt pháp,
Những người cầu ra khỏi thế gian,
Thành tựu được tâm tánh Niết-bàn,
Ngài Quán Âm chính là hơn cả.
Ngoài ra còn các phương tiện khác,
Đều là nhờ uy thần của Phật,
Từ sự tướng rời bỏ trần lao.
Không phải pháp tu học thường xuyên,
Cạn hay sâu cũng đồng nghe được.
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát Văn-thù chọn “Pháp môn Quán Âm” này là phương tiện tốt nhất cho chúng sanh trong đời mạt pháp cầu ra khỏi thế gian. Một số căn cơ thích hợp với pháp môn nào thì họ tu cũng có kết quả chứ không phải không, nhưng không phải chung cho đa số. Còn pháp nhĩ căn viên thông này là pháp thích hợp với nhiều người, cho nên Ngài tán thán.
CHÁNH VĂN:
Xin đảnh lễ tánh Như Lai Tạng,
Vô lậu không còn sự nghĩ bàn,
Nguyện gia bị cho đời vị lai,
Nơi pháp môn này không lầm lẫn.
Đây là phương tiện dễ thành tựu,
Nên đem dạy cho ông A-nan,
Và những kẻ trầm luân mạt kiếp;
Chỉ dùng nhĩ căn mà tu tập,
Thì viên thông chóng hơn pháp khác,
Tâm tánh chân thật là như thế.
GIẢNG GIẢI:
Đây Ngài không phải lễ bên ngoài mà lễ cái tánh Như Lai Tạng vô lậu. Bởi đây là chỗ xuất sanh ba đời chư Phật. Ngài đảnh lễ tánh này tức là cũng nhắc cho tất cả hãy nhớ để quay về tánh Như Lai Tạng. Đây vừa là chỗ xuất sanh ba đời chư Phật, mà cũng là chỗ tất cả chúng sanh chưa từng rời khỏi nhưng lại bỏ quên. Quay về tánh này mới là điều quan trọng, đừng để chìm trong văn tự rồi mê đắm trong các trần lao. Tâm tánh chân thật này vốn ở ngay đây, ai cũng có thể tự chứng nghiệm được tánh này, là lẽ thật nơi mỗi người, không phải nhọc nhằn tìm cầu đâu xa.
Học đây rồi chúng ta thấy mình được duyên lớn mà cũng nhớ ơn lớn của chư Phật, Bồ-tát. Tức là chúng ta không phải nhọc nhằn cầu tìm mà được Phật, Bồ-tát chỉ ra sẵn. Vậy mà chúng ta không biết quý trọng để tiến tu là sao? Cái đáng quý trọng vậy đó mà không quý trọng, lại thường quý trọng thân này, thích diễn trò rồi quý trọng tài sản, của cải, chùa chiền, vật chất, thế này thế kia v.v... để rồi cuối cùng đều thành trắng tay! Đó là chỗ điên đảo của thế gian, mà người tu nhiều khi cũng mắc kẹt. Cho nên, học kỹ chúng ta mới thấy được những lầm mê của mình để biết mà chuyển trở lại, mà chọn hướng đi và thấy được đường trở về.
Một hôm, Thiền sư Trí Bổn thượng đường, lớn tiếng gọi:
- Thị giả.
Vị thị giả:
- Dạ.
Sư hỏi:
- Đại chúng đã nhóm họp hay chưa?
Thị giả thưa:
- Đại chúng đã nhóm họp xong rồi.
Sư bảo:
- Còn một cái kia sao không đến dự tham?
Thị giả câm miệng không đáp được.
Vậy thì ai đáp được? Đại chúng nhóm họp hết rồi nhưng Ngài hỏi còn cái kia không đến dự. Cái kia là cái gì? Cái đó là cái để mỗi người cần phải thấy được. Mỗi người trả lời sao cho xứng đáng thì đó mới là chỗ quan trọng để trở về. Đó là Bồ-tát Văn-thù vâng lời Đức Phật, chọn ra căn viên thông thích hợp cho chúng sanh cõi này cũng như đời mạt pháp.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy, ông A-nan và đại chúng thân tâm tỏ rõ nhận được sự chỉ dạy rộng lớn, xem quả Bồ-đề và đại Niết-bàn của Phật cũng như người nhân có việc đi xa chưa trở về, song đã biết rõ con đường về nhà. Khắp trong hội chúng Thiên, Long, Bát Bộ cùng hàng Nhị thừa hữu học và tất cả các vị Bồ-tát mới phát tâm, số lượng bằng mười số cát sông Hằng đều nhận ra bản tâm, xa lìa trần cấu được pháp nhãn thanh tịnh. Bà Tánh Tỳ-kheo-ni nghe nói bài kệ xong thành quả A-la-hán, không lường chúng sanh đều phát tâm vô đẳng đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
GIẢNG GIẢI:
Xưa, một thời pháp của Phật là hằng sa người tỏ ngộ. Mới thấy công đức, năng lực của Phật quá hy hữu! Đến đây, Bồ-tát Văn-thù chọn căn viên thông đã xong, Ngài A-nan và đại chúng nhận sự chỉ dạy, được tỏ rõ đều được lợi ích rộng lớn, đã biết được con đường về, tin chắc không nghi, chỉ còn ứng dụng tu thôi. Để chúng ta thấy rõ là ngộ rồi còn phải tu, có tu mới đến nơi.
Rồi hằng sa chúng nhận ra được bản tâm, đây nói bằng mười số cát sông Hằng, là biết bao nhiêu người nhận ra được bản tâm của mình. Nhận ra được bản tâm tức là vượt qua bao nhiêu kiếp lầm mê. Cho nên mỗi vị phải khéo tin chắc rồi tu tập, để ngay đây sáng được bản tâm rồi thì thấy là một niềm vui lớn, là đã vượt qua không biết bao nhiêu kiếp lầm mê của mình. Cái đó mới gọi là công đức lớn lao hy hữu, là việc đáng quý mà không lo làm, lại lo những cái không quan trọng thì thật đáng tiếc!
Kế, Phật chỉ ra bốn nghĩa quyết định.
***
-
7. MỤC 18: CHỈ BÀY BỐN LỜI DẠY BẢO RÕ RÀNG VÀ QUYẾT ĐỊNH
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan sửa y phục chỉnh tề, ở trong đại chúng chắp tay đảnh lễ, tâm tích tròn sáng vừa mừng vừa tủi. Vì muốn làm lợi ích cho chúng sanh đời vị lai nên cúi đầu bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn đại bi! Nay con đã ngộ được pháp môn thành Phật, nên ở trong ấy tu hành không còn nghi lầm. Con thường nghe Như Lai dạy như sau: “Tự mình chưa được độ, trước muốn độ người là chỗ phát tâm của các vị Bồ-tát; tự mình giác ngộ viên mãn, mà hay giác ngộ cho người khác là sự ứng thế của Đức Như Lai”. Con tuy chưa được độ, song nguyện độ cho tất cả chúng sanh đời mạt pháp. Bạch Đức Thế Tôn! Các chúng sanh đó cách Phật dần xa, những tà sư nói pháp như cát sông Hằng, muốn nhiếp tâm kia vào Tam-ma-địa thì nên khiến họ dựng lập đạo tràng thế nào để xa lìa các ma sự, đối với tâm Bồ-đề không lui sụt?”.
Khi ấy, Đức Thế Tôn ở trong đại chúng khen ngợi ông A-nan: “Lành thay! Lành thay! Như ông đã hỏi phương pháp kiến lập đạo tràng để cứu độ chúng sanh trầm luân trong đời mạt pháp. Nay ông hãy nghe kỹ, Tôi sẽ vì ông nói”.
Ông A-nan và đại chúng kính vâng nghe lời Phật dạy.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây, Ngài A-nan thưa hỏi việc dựng lập đạo tràng, nhiếp tâm tu chánh định. Ngài nói là vì giúp chúng sanh đời vị lai, là đời mạt pháp tránh không rơi vào ma sự.
Trong đây, “Ngài tâm tích tròn sáng, vừa mừng vừa tủi” là sao? Ngài Hàm Thị giải thích: “Nói “tâm” tức là tâm đã tỏ ngộ. Chữ “tích” tức là dấu vết xác chứng, tâm tỏ ngộ rồi xác chứng”. Ngài xác chứng nhưng vì Ngài vẫn ở trong hàng hữu học chưa chứng đạo, do đó còn phải tu để thật sự sống với đạo được trọn vẹn. Đó cũng là nhắc chúng ta, là người tu nhất là tu thiền, khi tâm tỏ ngộ thấy được rõ ràng đường đi, không còn nghi ngờ; nhưng cũng còn phải tiến tu để sống cho được trọn vẹn chứ không phải ngay đó là xong.
Còn “vừa mừng vừa tủi” là vì lẽ thật đã sẵn có mà từ xưa lại mê lầm rồi quên không nhớ đến nó, cho nên tủi; nhưng mà mừng vì hôm nay được tỏ ngộ thấy được lẽ thật đó. Như vậy, Ngài đã sáng tỏ được tâm tánh xưa nay, không còn nghi ngờ, không còn cầu gì thêm, chỉ còn có bước đi thôi. Tới đây là không còn thối chuyển. Ngài A-nan nghĩ mình được như thế, lại nhớ nghĩ đến chúng sanh. Tâm của Ngài đúng là tâm Bồ-tát, chúng ta không thể nhìn trên hình thức bên ngoài rồi phán đoán theo cái hiểu của mình.
Ngài dẫn lời Phật nói: “Nếu tự mình chưa được độ mà trước muốn độ người đó là tâm của vị Bồ-tát”. Ở đây, do nghĩ nhớ đến chúng sanh nên Ngài mới thưa hỏi cầu Phật chỉ dạy. Bởi vì Ngài được trực tiếp gặp Phật, có nhân duyên hy hữu hơn chúng ta ngày nay. Thứ hai nữa là trực tiếp nghe lời Phật dạy. Được sanh ra trực tiếp gặp Phật, rồi trực tiếp nghe lời Phật dạy, nhờ đối diện trước Phật nên Ngài sẵn có cơ hội thưa hỏi, còn chúng sanh đời sau như chúng ta hiện nay làm sao thưa hỏi Phật! Nghĩ vậy, nên Ngài mới thay chúng ta thưa hỏi. Đúng là tâm Bồ-tát của Ngài suy nghĩ xa về sau. Lòng từ bi của Ngài đáng quý đáng kính! Ngày nay, chúng ta được nghe những lời Phật dạy phải hết sức biết ơn Ngài A-nan. Chính nhờ Ngài thưa hỏi nên Phật mới dạy, nếu không là qua mất cơ hội rồi.
Kế đó, Đức Phật khen ngợi lời thưa hỏi của Ngài A-nan và Đức Phật hứa chỉ dạy.
CHÁNH VĂN:
Phật bảo A-nan: “Ông thường nghe, Tôi ở trong Tỳ-nại-da tuyên nói ba nghĩa quyết định của sự tu hành, đó là nhiếp tâm làm Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ, ấy gọi là ba pháp Vô lậu học.
GIẢNG GIẢI:
Tỳ-nại-da, được giải thích là điều phục. Tức là điều luyện ba nghiệp, chế phục lỗi lầm. Phật nhắc lại trong đó có ba nghĩa quyết định mà Ngài thường dạy là giới, định, tuệ, gọi là ba pháp Vô lậu học. Vô lậu học là ba pháp học giải thoát sanh tử không còn rơi rớt trở lại trong ba cõi. Đó là nghĩa quyết định chắc chắn của chư Phật chỉ dạy.
Đây nói về giới.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Thế nào là thu nhiếp tâm, Ta gọi là Giới?
Nếu các lục đạo chúng sanh trong thế giới, chẳng khởi dâm dục, thì không theo đó mà tiếp nối sanh tử.
GIẢNG GIẢI:
Trước nói về thu nhiếp tâm tu giới thì tâm dâm dục phải trừ sạch. Đây là nghĩa quyết định thứ nhất. Đó là căn bản tu hành ra khỏi sanh tử.
Nghĩa quyết định tức là tánh quyết định chắc chắn như vậy. Bởi vì cả lục đạo chúng sanh tiếp nối trong sanh tử là do khởi tâm dâm dục. Thế nên, muốn nhiếp tâm tu hành ra khỏi sanh tử thì phải dứt tâm dâm dục, đây gọi là pháp Vô lậu học, người quyết ra sanh tử cần phải học. Mà học là để tu, không phải học để phân tích chữ nghĩa thêm kiến thức. Như vậy, học pháp Vô lậu trước là phải dứt tâm dâm dục, điều này rất quan trọng. Phật dạy để chúng ta nắm vững khi tu tập không có sai lầm.
Rồi Phật bảo:
CHÁNH VĂN:
Ông tu Tam-muội vốn để ra khỏi trần lao, tâm dâm dục nếu không trừ bỏ, thì không thể ra khỏi được. Dẫu có được nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền, nếu không đoạn tâm dâm, hẳn rơi vào đường ma, hạng trên làm Ma vương, hạng giữa làm ma dân, hạng dưới làm ma nữ. Các loài ma kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều tự xưng là thành đạo Vô thượng.
GIẢNG GIẢI:
Đây Phật xác định rõ, người tu Tam-muội ra khỏi trần lao sanh tử mà không trừ bỏ tâm dâm dục thì không thể được. Muốn ra khỏi trần lao sanh tử thì phải dứt trừ tâm dâm dục, đó là nghĩa quyết định. Còn tâm dục là còn hạt giống dâm dục, tức còn phải đi trong sanh tử dù khi tu vào được thiền định đi nữa, nhưng thiền định đó không phải là chánh định, sẽ rơi vào trong hạng ma. Cho nên, Phật bảo hạng trên là Ma vương, giữa là ma dân, dưới là ma nữ tức quyến thuộc của ma.
Đó là điều chúng ta phải hết sức sáng suốt, cẩn thận chớ lầm chỗ này. Đây Phật nói những hạng ma này cũng có đồ chúng rồi mỗi mỗi tự xưng thành đạo Vô thượng, nhưng là tự xưng thôi chứ không phải thật, người dễ tin thì dễ bị lầm. Đúng là Phật ân cần nhắc nhở khiến người thật tâm tu hành muốn ra khỏi sanh tử phải nhớ cho kỹ, để không lầm theo đường ma.
CHÁNH VĂN:
Sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp có nhiều bọn ma này thịnh hành trong thế gian gây nhiều việc tham dâm, lại giả làm người thiện tri thức khiến cho chúng sanh rơi vào hầm ái kiến mất con đường Bồ-đề. Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, trước hết “phải đoạn tâm dâm”, ấy là lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh quyết định thứ nhất của các Đức Như Lai, Tiên Phật, Thế Tôn.
Thế nên, A-nan! Nếu người không đoạn tâm dâm mà tu thiền định, cũng như người nấu cát, đá mà muốn thành cơm, dù trải qua nhiều kiếp, chỉ gọi là cát nóng, đá nóng. Vì sao? Vì đó là giống cát, giống đá không phải là bản nhân của cơm vậy.
Ông đem thân dâm cầu diệu quả Phật, dẫu cho có được diệu ngộ cũng chỉ là gốc dâm, cội gốc đã dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ ắt không ra khỏi, quả Niết-bàn của Như Lai do con đường nào mà tu chứng?
GIẢNG GIẢI:
Phật dạy rõ là tu thiền định mà không đoạn tâm dâm là trái với nhân chân chánh. Ngài cũng nhắc kỹ, sau khi Phật diệt độ, trong đời mạt pháp có nhiều bọn ma này thịnh hành trong thế gian, làm việc tham dâm, giả làm thiện tri thức dạy bảo khiến người dễ rơi vào con đường ma, mất con đường Bồ-đề, cần phải tránh.
Chỗ Phật dạy là, người muốn dạy pháp Tam-ma-địa cho người sau phải nhớ kỹ, trước là “phải đoạn tâm dâm”, đó là “lời dạy rõ ràng thanh tịnh quyết định thứ nhất của Phật”. Phật ví dụ, như nấu cát đá mà muốn thành cơm làm sao thành cơm được! Muốn thành cơm là phải nấu gạo. Còn đem cát đá nấu thành cơm là nhân trái với quả, không thể có được!
Cũng vậy, người đem tâm dâm dục mà tu thiền định cầu quả Phật Bồ đề là chuyện không thể được, là nhân quả trái nhau. Do đó “phải đoạn tâm dâm” là nghĩa quyết định vậy. Đó là lời dạy chân thật chắc chắn của Như Lai, mà đây Ngài gọi là của các Đức Như Lai, Tiên Phật, Thế Tôn. Tức là của chư Phật chứ không phải riêng của Phật Thích Ca. Chúng ta phải nhớ kỹ điều này, để ngăn ngừa không cho rơi vào con đường tà.
CHÁNH VĂN:
Hẳn phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống dâm, tánh biết đoạn cũng không còn, thì mới có thể trông mong đến quả Bồ-đề của Phật. Như lời Tôi nói đây gọi là lời của Phật, chẳng như lời đó là lời nói của Ma Ba-tuần.
GIẢNG GIẢI:
Phải quyết định cho thân tâm đoạn hết gốc dâm, đó là con đường ra khỏi sanh tử. Nhớ là cả thân và tâm, không phải chỉ có thân. Quan trọng là tâm. Cả thân tâm đoạn hết gốc dâm là khó rồi, nhưng Phật còn nói là tánh biết đoạn đó cũng phải không luôn. Mới thấy, Phật dạy rất kỹ, sạch tận gốc chứ không dây dưa.
Tức là thân tâm đã đoạn hết rồi nhưng còn cái tánh biết đoạn cũng phải sạch luôn mới giác ngộ Phật tánh rốt ráo chưa từng sanh diệt. Phải giác ngộ đến Phật tánh rốt ráo chưa từng sanh diệt, thoát cả nhơ và sạch thì còn chỗ nào để mà đoạn nữa! Được vậy, mới là sạch hết tánh biết đoạn. Đó là con đường Vô thượng Bồ-đề. Phật xác định rõ, đây là lời chân thật của Phật nói, còn nói khác đi là lời của ma. Người tu hành đúng đắn, tu đúng lời Phật dạy, đâu còn sợ lạc vào đường tà, đường ma nữa.
Đó gọi là nghĩa quyết định thứ nhất.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Lại các chúng sanh sáu đường các thế giới, nếu không tâm sát hại thì chẳng theo dòng sanh tử tiếp nối. Ông tu pháp Tam-muội, muốn ra khỏi trần lao, nếu không từ bỏ tâm giết hại, thì không thể nào ra khỏi trần lao được. Dầu có được nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền, nếu không đoạn tâm giết hại, ắt phải rơi vào thần đạo; người bậc trên thì thành Đại lực quỷ, bậc giữa làm phi hành Dạ-xoa, các quỷ soái v.v..., bậc dưới thì thành địa hành la sát. Các loài quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều tự nói là thành đạo Vô thượng.
GIẢNG GIẢI:
Nghĩa quyết định thứ hai là phải đoạn tâm sát. Nếu không dứt tâm sát hại, dù tu thiền định cũng rơi vào thần đạo, con đường của quỷ thần. Bậc trên làm Đại lực quỷ, quỷ có thế lực lớn; bậc giữa làm phi hành Dạ-xoa, là loài quỷ bay rất nhanh; bậc dưới làm địa hành La-sát, là loài hay ăn thịt. Đều còn nằm trong lục đạo luân hồi. Những loài này cũng có đồ chúng, tự nói thành đạo Vô thượng, nhưng không phải thật. Đức Phật chỉ rõ để chúng ta ngăn ngừa, đừng lầm lẫn.
CHÁNH VĂN:
Sau khi Tôi diệt độ, trong đời mạt pháp các loài quỷ thần đó phần nhiều thịnh hành ở thế gian, tự nói ăn thịt được đạo Bồ-đề. A-nan! Tôi cho các thầy Tỳ-kheo ăn năm thứ thịt thanh tịnh. Thịt đó đều do thần lực của Tôi hóa sanh ra, vốn không có mạng sống. Xứ Bà-la-môn các ông phần nhiều đất đai nóng ướt lại thêm sỏi cát, rau cỏ không sanh được, Tôi dùng thần lực đại bi gia bị. Nhân sức đại từ bi giả gọi là thịt, và các ông cũng nhận được cái vị như thịt. Tại sao, sau khi Đức Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sanh mà gọi là Phật tử?
GIẢNG GIẢI:
Trong thời mạt pháp, người nói ăn thịt được đạo Bồ-đề, đây không phải lời Phật dạy, chớ có lầm lẫn. Bất đắc dĩ Phật mới phương tiện cho ăn thịt, vì xứ Bà-la-môn đất đai khó trồng trọt, không đủ rau cải thực vật để ăn. Thịt mà Phật cho ăn là thần lực của Phật hóa ra, không phải thật là thịt chúng sanh. Và Phật chỉ cho ăn ngũ tịnh nhục, tức năm thứ thịt thanh tịnh. Một là không thấy người ta giết cho mình ăn, hai là không nghe người ta giết con vật cúng cho mình, ba là không nghi người ta giết vật cúng cho mình, bốn là con vật đã chết sẵn, năm là thịt thú ăn còn dư. Như vậy thuở xưa Phật cho ăn thịt chỉ là bất đắc dĩ, khi có điều kiện thuận lợi là Phật ngăn ăn thịt. Như chúng ta ngày nay điều kiện ăn chay rất thuận lợi, nên chúng ta ăn chay là thích hợp.
CHÁNH VĂN:
Các ông phải biết những người ăn thịt ấy, dầu tâm được khai ngộ, giống như chứng Tam-ma-địa, nhưng đều là loài đại La-sát, quả báo hết ắt chìm đắm trong biển khổ sanh tử, không phải là đệ tử của Phật. Những người như thế sát hại ăn nuốt lẫn nhau chưa thôi dứt, thì làm sao lại được ra khỏi ba cõi? Ông dạy người đời tu Tam-ma-địa, kế dạy dứt tâm sát hại chúng sanh. Ấy gọi là lời dạy rành rõ thanh tịnh quyết định thứ hai của các Đức Như Lai, Tiên Phật, Thế Tôn.
GIẢNG GIẢI:
Còn tâm sát hại ăn nuốt là còn đi trong sanh tử, vì còn vay trả. Nhân quả theo nhau, giết hại phải đền nợ, đâu thể được giải thoát. Vì vậy tâm sát phải dứt cho tận gốc. Chúng ta tu hành phải luôn kiểm soát tập khí sát của mình. Tuy chúng ta đã ăn chay nhưng tập khí sát vẫn còn, nên mấy con chim thấy mình nó sợ bay tuốt. Còn chư Phật, Bồ-tát đã dứt sạch tập khí sát, nên chim yêu mến, thích gần. Như câu chuyện con chim bị thợ săn rượt bắn, nó bay tới chỗ bóng của Phật liền cảm thấy an ổn. Chúng ta thì khác, bị ruồi muỗi cắn đau, nổi giận muốn lấy tay đập; hoặc xem ti-vi thấy thợ săn bắn thú, bắn một phát liền trúng, chúng ta vỗ tay khen hay v.v… Đó là tập khí sát trong tâm lộ ra. Rất nhiều và rất vi tế, chúng ta phải cẩn thận ngăn ngừa.
CHÁNH VĂN:
Vậy nên A-nan! Nếu người không dứt hết tâm giết hại mà tu Thiền định, thí như có người tự bịt lỗ tai kín lại rồi la to lên, mà muốn cho người khác không nghe, việc này gọi là muốn giấu thì càng lộ ra vậy.
GIẢNG GIẢI:
Bịt tai kín la to ra muốn cho người ta đừng nghe, đúng là trái ngược, gọi là nhân quả trái ngược nhau. Không dứt tâm sát hại mà tu thiền định cũng vậy. Cho nên muốn cầu chánh quả Vô thượng là không thể được.
CHÁNH VĂN:
Hàng Tỳ-kheo thanh tịnh và các vị Bồ-tát đi trên đường tẽ không đạp cỏ tươi, huống là lấy tay nhổ cỏ, vì lòng đại bi sao lại lấy máu thịt của chúng sanh để cho ăn ngon.
Nếu các hàng Tỳ-kheo không mặc những tơ lụa, nhiễu gấm phương đông và không dùng những giày dép, áo lông cừu, áo len, hay các thứ sữa, phó-mát, đề-hồ cõi này, thì những Tỳ-kheo như thế đối với thế gian thật là giải thoát, đền trả nợ cũ xong không vào trong ba cõi nữa. Vì sao? Vì dùng những bộ phận thân thể của chúng sanh thì đều bị ảnh hưởng của chúng sanh, cũng như con người ăn giống bách cốc trong đất, thì chân không rời khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm đối với thân thể hay bộ phận thân thể của chúng sanh đều không ăn không mặc, những người như thế Tôi mới gọi là thật giải thoát.
Như lời Tôi nói đây gọi là Phật nói, chẳng như lời Tôi nói đây gọi là lời nói của Ma Ba-tuần.
GIẢNG GIẢI:
Hàng Tỳ-kheo thanh tịnh và các vị Bồ-tát đi trên đường tẽ không đạp cỏ tươi, huống là giết hại chúng sanh. Tỳ-kheo không mặc tơ lụa vì tơ lụa phải giết hại những con tằm; không dùng những giày dép, áo lông làm từ thân phần chúng sanh. Ở những xứ lạnh tuy Phật có phương tiện cho, nhưng cũng rất hạn chế. Các vị Tỳ-kheo thanh tịnh, giữ giới trang nghiêm, sẽ không dùng những vật dụng làm từ thân phần chúng sanh, vì có ảnh hưởng đến chúng sanh, nghĩ đến chúng sanh bị giết lấy da làm dép cho mình mang, đâu có vui sướng gì mà ưa thích.
Ngài Hàm Thị dẫn trong kinh Ương Quật Ma La, Bồ-tát Văn-thù bạch Phật: “Như ngọc kha, sáp mật ong, da thuộc, lụa vẽ v.v... không phải có từ trong địa phương này thì có thể dùng không?”.
Phật bảo: “Nếu tập gần gũi vật thế gian thì đó là pháp phương tiện, nếu vật gián tiếp đưa đến, rời khỏi bàn tay giết hại, có thể tạm dùng”.
Ngài Văn-thù thưa: “Hôm nay trong thành này có ông thợ thuộc da làm giày bằng da thú. Hoặc con trâu bị chết, người chủ trâu giao cho nhà hàng thịt lấy da, giao lại cho thợ thuộc da đóng giày, đem giày ấy cúng dường cho người trì giới, thì đây là vật gián tiếp đưa đến, con nên nhận chăng?”.
Phật dạy: “Nên chẳng nhận là đúng pháp Tỳ-kheo, còn nếu nhận thì mất lòng từ bi, song không phải phá giới”.
Nhận tuy không phải phá giới, nhưng mất lòng từ bi, tức Phật không hoàn toàn ngăn, nhưng không nhận thì đúng pháp Tỳ-kheo hơn. Chúng ta đọc đến đây phải hiểu được ý của Phật. Hãy nhớ, sát hại là tạo sự vay trả nhau đời này đời kia, làm sao giải thoát được? Như câu chuyện tiền thân của Quốc sư Ngộ Đạt là Viên Án, vì giết oan Triệu Thố nên suốt mười kiếp Triệu Thố đều đi theo tìm cách báo thù, nhưng vì Viên Án mấy đời đều làm vị cao tăng giữ giới thanh tịnh nên Triệu Thố không có cơ hội. Đến đời này Ngài là Quốc sư được Vua quý kính, ban tòa trầm hương ngồi giảng kinh, Ngài sanh khởi niệm danh lợi nên Triệu Thố mới có cơ hội nhập vào thân Ngài làm thành mụt ghẻ mặt người khiến Ngài đau đớn khổ sở.
Hay như câu chuyện Hòa thượng Hàm Huy ở đời Thanh, Ngài tu hành miên mật, giữ giới kỹ lưỡng. Một hôm đi ngang hàng thịt chó, Ngài bỗng khởi niệm ngon, thế là oan gia liền đến làm thành mụt ghẻ mặt người, hành Ngài đau đớn, không thuốc gì trị hết. Ngài bèn chuyên tâm trì tụng kinh Kim Cang, sám hối tội nghiệp đời trước. Một buổi trưa Ngài đang mơ màng bỗng thấy 18 tên lính không đầu hiện ra bảo: “Thuở xưa, Ngài nguyên là vị tướng thống lãnh một toán quân đóng ở chân núi. Có hai tên lính xuống núi hãm hiếp cô gái nhà lành, người nhà cô thưa với Ngài, Ngài đem chém cả tiểu đội 20 người, 18 người vô tội cũng bị giết”. Những người bị chết oan đó theo đòi nợ Ngài, họ nói: “Do ông tu hành kỹ, siêng năng tụng kinh, chúng ta hoãn lại ba năm sau sẽ đến đòi”. Sau đó, mụt ghẻ không còn hành Ngài suốt ba năm, nhưng sau ba năm đó nó phát trở lại và Ngài qua đời.
Chúng ta thấy nhân quả của tâm sát hại rất đáng sợ. Đại sư Nguyện Vân đời Minh có làm bài kệ khuyên nhắc mọi người:
Thiên bách niên lai oản lý canh
Oán thâm tự hải hận nan bình
Dục tri thế thượng đao binh kiếp
Thả thính đồ môn dạ bán thanh
Dịch:
Trăm ngàn năm đấy trong bát canh!
Oán sâu tợ biển hận khó lành.
Muốn biết chiến tranh sao còn mãi,
Nửa đêm lò thịt đó nghe chăng?
Từ trăm ngàn năm nay ở trong một bát canh thôi, oán sâu như biển, cái hận đó khó mà yên, mà lành được. Muốn biết tại sao trên đời chiến tranh còn hoài không hết, thì hãy nghe nửa đêm tiếng con vật bị giết kêu la thảm thiết từ nhà hàng thịt thì biết.
Hãy nhìn trong một bát canh thôi sẽ cảm được bao nhiêu oán hận chất chứa trong đó sâu như biển, vì con vật bị giết oán hận. Do đó, trên thế giới này, hễ còn nghiệp sát là còn chiến tranh, cho nên muốn biết vì sao có chiến tranh, thì cứ lắng nghe tiếng con vật kêu la bị giết vào nửa đêm nơi nhà hàng thịt thì biết ngay. Ngài làm bài kệ này để nhắc nhở mọi người ngăn ngừa tâm mình, dứt hẳn tâm sát.
Thế nên, Phật dạy nếu tu thiền định mà còn giữ tâm sát thì làm sao giải thoát được?
CHÁNH VĂN:
A-nan! Lại sáu đường chúng sanh trong thế giới, tâm nếu không trộm cắp, thì không theo sanh tử tiếp nối. Ông tu pháp môn Tam-muội cốt ra khỏi trần lao, tâm trộm cắp nếu không diệt trừ thì không thể ra khỏi trần lao. Dẫu có nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền, nếu không dứt bỏ tâm trộm cắp, hẳn phải rơi vào đạo tà, hạng trên làm loài tinh linh, hạng giữa làm loài yêu mị, hạng dưới làm người tà, bị các quỷ mị nhập vào. Các bọn tà kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều tự nói là thành đạo Vô thượng.
GIẢNG GIẢI:
Ở trên là ma đạo, thần đạo, ở đây là tà đạo, tức đường tà. Hạng trên làm loài tinh linh, là những loài tinh dựa vào các loài cây cổ thụ lâu năm; hạng giữa làm loài yêu mị; hạng dưới làm người tà, bị quỷ mị nhập vào. Ngài Hàm Thị dạy: “Từ tâm danh lợi sanh ra cong vạy đều là tâm trộm cắp”. Tâm trộm cắp vi tế như vậy, không phải chỉ lấy đồ người ta mới là trộm cắp, tâm danh lợi sanh ra cong vạy, không ngay thẳng cũng thuộc về trộm cắp. Trộm cắp có nhiều hình thức, chúng ta phải biết để ngăn ngừa nội tâm mình. Như không phải dùng tay lấy đồ người, nhưng có tâm khéo léo nói thế này thế kia để lấy được vật của người, cũng là tâm trộm cắp.
CHÁNH VĂN:
Sau khi Tôi diệt độ, trong đời mạt pháp phần nhiều những hạng yêu mị, tà đạo thịnh hành trong thế gian, chúng ẩn núp dối gian, tự xưng là thiện hữu tri thức, mỗi người đều tự nói đã được pháp thượng nhân, lừa gạt người không biết, dọa dẫm khiến cho mất lòng chánh tín, chúng đi qua đến đâu, nhà người đều bị hao tổn tan nát.
GIẢNG GIẢI:
Trong thời mạt pháp, tà đạo thịnh hành, chúng ẩn núp trong Phật pháp, tự xưng là thiện hữu tri thức, cũng nói được pháp thượng nhân, lừa gạt người nhẹ dạ cả tin, hoặc dọa dẫm cho người sợ, làm họ mất lòng chánh tín. Chúng đi đến đâu là làm cho người nhà tan cửa nát. Thế nên người sáng suốt phải cẩn thận nhận định, chớ có làm theo chúng. Sở dĩ có người theo chúng là do lòng tham xui khiến. Chúng hứa ban cho cái này cái kia, ban cho chứng đạo v.v…, vì tham nên chạy theo rồi bị gạt. Chúng ta tu hành chân chánh thì phải cẩn thận, nhận định kỹ, đừng để bị lừa.
CHÁNH VĂN:
Tôi dạy các vị Tỳ-kheo, theo thứ lớp khất thực, khiến cho xả bỏ lòng tham để thành tựu đạo Bồ-đề. Các vị Tỳ-kheo không tự nấu ăn, gởi cái sống thừa ghé tạm bợ trong ba cõi, thị hiện chỉ đi về một phen, đã đi rồi không trở lại nữa. Tại sao làm kẻ giặc, mượn y phục của ta để mua bán Như Lai, tạo các thứ nghiệp đều nói là Phật pháp; lại còn chê bai các vị Tỳ-kheo đầy đủ giới luật xuất gia là đạo Tiểu thừa. Do đó làm cho vô lượng chúng sanh mắc phải nghi lầm, nên sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián.
GIẢNG GIẢI:
Pháp của Tỳ-kheo là khất thực theo thứ lớp, không chọn lựa nhà giàu nhà nghèo. Làm như vậy để Tỳ-kheo không đòi hỏi món ngon, không chê món dở, xả bỏ lòng tham mà yên tâm tu hành, đâu có để cho tâm trộm xen vào. Các vị Tỳ-kheo không tự nấu ăn, chỉ gởi cái sống thừa ghé tạm trong ba cõi, chỉ thị hiện một lần, đi qua rồi không trở lại nữa.
Tỳ-kheo thời Phật không tự nấu ăn, chỉ đi khất thực. Chúng ta tu ở Việt Nam điều kiện khác với Ấn Độ, Tăng Ni sống ở chùa tự nấu ăn, đó là chúng ta đã dùng pháp phương tiện, nên phải biết dừng lại bớt. Nếu để lòng tham tự do khởi, đòi hỏi ngon dở, chứa chấp riêng tư v.v… Như thế là càng đi xa thêm, tâm tham sanh khởi không dừng. Chúng ta phải luôn nhớ đúng ra làm Tỳ-kheo là phải đi khất thực, khi gặp món ăn không ngon thì nghĩ như mình khất thực, ai cho gì ăn nấy, đừng phân biệt kia đây. Thứ hai là phải luôn nhớ chúng ta chỉ sống ghé tạm trong ba cõi thôi, đi qua không trở lại nữa, tham làm gì cho nhọc. Tâm tham không có thì đâu có sanh tâm trộm.
Phật lại quở: “Tại sao làm kẻ giặc mua bán Như Lai?”. Chúng ta quán trở lại sẽ thấy thật đau lòng. Phật nói: “Mượn y phục của Ta để mua bán Như Lai”. Mặc áo cà-sa của Phật rồi mua bán Phật, tạo các sự nghiệp, sống trái với đạo rồi nói là Phật pháp. Người xuất gia là tu giải thoát, đã cởi được trói rồi, bây giờ vào chùa lại tạo những sự nghiệp thế gian trở lại, đó là mở trói rồi tự cột trở lại, và còn nói đó là Phật pháp, càng đi xa thêm. Lại còn chê bai các Tỳ-kheo giữ giới là đạo Tiểu thừa, cho mình tu cao tu Đại thừa, như vậy là làm nghi lầm người, tránh sao khỏi nhân quả sai lầm phải bị đọa lạc!
Đây Phật răn trách những hạng Tỳ-kheo tự làm việc có lỗi, còn mượn pháp Đại thừa để biện hộ cho mình, chê bai các Tỳ-kheo giữ giới là đạo Tiểu thừa, đó là điều cần phải ngừa tránh.
CHÁNH VĂN:
Sau khi Ta diệt độ, nếu có Tỳ-kheo phát tâm quyết định tu Tam-ma-địa, có thể đối trước hình tượng Đức Như Lai. Chính mình đốt một cây đèn, đốt một lóng tay, hay ở trên thân đốt một liều hương, Tôi nói người ấy những nợ đã vay từ vô thủy một lúc đã trả xong, xá dài thế gian, hằng giải thoát các lậu. Người ấy tuy chưa phát minh được con đường giác ngộ Vô thượng, nhưng đối với Phật pháp đã có tâm quyết định.
Nếu không vì nhân duyên xả thân chút ít này, dẫu thành tựu được pháp vô vi, hẳn cũng phải trở lại sanh làm người để đền trả nợ cũ, như quả báo mã mạch của Tôi, thật không sai khác. Ông dạy người tu pháp Tam-ma-địa, sau nữa phải đoạn tâm trộm cắp. Ấy gọi là lời dạy rành rõ thanh tịnh quyết định thứ ba của các Đức Như Lai, Tiên Phật, Thế Tôn.
GIẢNG GIẢI:
Ý chỉ tu thiền định là phải dám xả thân vì pháp. Vì pháp dám xả thân thì đâu còn có tâm tham để sanh trộm cắp. Đốt một cây đèn, một lóng tay hay ở trên thân đốt một liều hương là để biểu lộ tâm thí xả của mình, thân còn dám đốt, dám xả, thì tham cái gì nữa. Tuy nhiên, xả là xả ở tâm chớ không phải ở thân, đừng nghĩ đốt liều hương là xả được hết nợ. Thật ra, đốt thân mà tâm còn tham là chưa hiểu được ý của Phật. Phải xả tâm tham, tâm tham không còn thì đâu có trộm cắp.
Ngài Hàm Thị giải: “Đốt lóng tay, đốt hương thì nhân duyên xả chút ít thân phần liền trả hết nợ trước, đây là luận về tâm chớ chẳng phải luận về việc làm”. Phải hiểu được ý của Phật, quan trọng là phần tâm, đừng hiểu lầm tưởng đốt một chút thân phần liền trả được hết nợ.
Nếu không vì nhân duyên xả thân chút ít này, dẫu thành tựu được pháp vô vi, hẳn cũng phải trở lại sanh làm người để đền trả nợ cũ. Tức là tâm trộm, tâm tham còn thì vẫn còn trở lại. Phật dẫn câu chuyện quả báo mã mạch, trong kinh Hưng Khởi Hạnh viết: “Ở nước Kỳ Lan có Vua Bà-la-môn tên A-kỳ-đà thỉnh Phật và 500 vị Tỳ-kheo cúng dường ba tháng an cư, Phật nhận lời. Sau đó bị thiên ma làm mê hoặc khiến Vua về cung đam mê ngũ dục, vui chơi với cung nữ, chỉ cúng dường sáu ngày rồi không cúng nữa. Phật và các vị Tỳ-kheo không có thức ăn. Một vị mã sĩ nuôi 500 con ngựa, ngựa thường mỗi ngày ăn hai thăng, ngựa tốt mỗi ngày ăn bốn thăng, ông trích một nửa lúa ngựa cúng dường Phật và chúng Tăng. Vì Phật và chư Tỳ-kheo chia phần ăn của ngựa nên gọi là quả báo mã mạch.
Phật kể thuở quá khứ thời Phật Tỳ Bà Diệp, Ngài là một Bà-la-môn tên Nhân-địa-kỳ-lợi thông suốt bốn bộ Tứ Vi, có 500 đồng tử làm học trò. Một hôm Vua kết hội thỉnh Phật cúng dường, một Tỳ-kheo bị bệnh không đi được, chúng Tăng mới xin phần ăn đem về, khi đi ngang núi của Bà-la-môn này, ông ta nghe mùi thức ăn thơm ngon, khởi tâm đố kỵ, quát lên rằng: “Sa-môn trọc đầu! Ông nên ăn lúa ngựa chớ không nên ăn cơm này”. Các học trò cũng nói theo: “Sư chủ của bọn này cũng nên ăn lúa ngựa”.
Vị Bà-la-môn đó là tiền thân Phật, còn 500 học trò là 500 vị A-la-hán cùng ăn lúa ngựa với Phật, vị Tỳ-kheo bị bệnh là Bồ-tát Di-lặc. Do nhân duyên đó nên trải vô số kiếp phải chịu quả báo khổ. Ngày nay tuy chứng đạo nhưng cũng còn cái duyên dư thừa nên ở ấp Tỳ-niên chịu 90 ngày ăn lúa ngựa”.
Phật nói những điều này để chúng ta biết mà ngăn ngừa tội lỗi, ráng trừ tâm trộm cắp thì tu thiền định mới được rốt ráo, mới được quả chân chánh. Phật kết lại, người tu Tam-ma-địa phải đoạn tâm trộm cắp.
Đây là lời dạy rõ ràng thanh tịnh quyết định thứ ba.
CHÁNH VĂN:
Thế nên, A-nan! Nếu không đoạn tâm trộm cắp mà tu thiền định, thí như có người rót nước vào chén lủng mà muốn nước đầy, dù trải qua nhiều kiếp cũng không đầy được.
GIẢNG GIẢI:
Rót nước vào chén lủng mà muốn cho đầy, làm sao đầy được? Vì nhân quả trái nhau. Cũng vậy, tu thiền định muốn được quả Vô thượng Bồ-đề mà còn tâm trộm cắp là chuyện khó có được.
CHÁNH VĂN:
Nếu các hàng Tỳ-kheo ngoài y bát có dư ra, mảy may không tích trữ. Xin ăn có dư, thì bố thí cho chúng sanh đói, ở chỗ chúng Tăng hội họp đông người chắp tay lễ chúng, có người đánh mắng tưởng đồng như khen ngợi, quyết định rời bỏ cả thân và tâm, coi cả thân, thịt, xương, máu thành sở hữu chung của chúng sanh. Không đem lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai làm chỗ hiểu của mình, khiến cho kẻ sơ học lầm lạc, Phật ấn chứng cho người ấy được Tam-muội chân thật. Như lời Tôi nói đây gọi là lời của Phật nói, nếu không như lời nói đó tức là lời nói của Ma Ba-tuần.
GIẢNG GIẢI:
Các Tỳ-kheo ngoài y bát có dư thì phải cho, chớ không được tích trữ, tích trữ là phạm xả đọa. Xin ăn có dư thì bố thí cho chúng sanh đói để diệt trừ tâm tham chứa. Ở chỗ chúng Tăng nhóm họp thì chắp tay lễ bái, thấp mình tỏ lòng cung kính với chúng để xả bớt cái ngã của mình. Có người đánh mắng tưởng đồng như khen ngợi. Quyết định rời bỏ thân tâm, coi cả thân, thịt, xương, máu của mình thành sở hữu chung của chúng sanh, không còn là của riêng mình. Ý Phật muốn dạy chúng ta ngay cả thân tâm cũng xả bỏ, còn chỗ nào để sanh tâm tham, tâm trộm.
Chúng ta xét lại tâm mình, biết chỗ tu hành của mình có khế hợp hay chưa để tự tỉnh ngộ, tu tập kỹ hơn, không sanh lòng tự mãn. Nhiều khi ở chùa lâu rồi quên, tâm tham trộm sanh khởi lúc nào không hay, nó tế nhị và nhiều hình thức vi tế lắm, chớ không phải đợi tay lấy mới thành trộm. Nên nhớ, tâm tham trộm làm chúng ta mất đi chánh định, dần dần đi xa con đường giác ngộ của mình mà không hay, phải cẩn thận ngăn ngừa.
Phật lại dạy chúng ta cần thấu nghĩa chân thật, đừng chấp vào lời dạy chẳng liễu nghĩa mà làm ngại mình ngại người, đó chỉ là phương tiện Phật tạm dùng đối cơ trong một lúc mà thôi. Vậy nghĩa quyết định thứ ba là phải trừ tâm trộm cắp, thì tu thiền mới được chánh định.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Như chúng sanh sáu đường trong thế giới, tuy thân tâm không sát sanh, trộm cắp, dâm dục, ba hạnh đã tròn, nếu còn mắc phải đại vọng ngữ, thì Tam-ma-đề không được thanh tịnh, thành ma ái kiến, mất giống Như Lai. Nghĩa là chưa được nói đã được, chưa chứng nói đã chứng, hoặc cầu thế gian tôn trọng tột bậc, bảo người ở trước rằng: “Nay tôi đã được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, đạo A-la-hán, thừa Bích-chi Phật, hoặc các vị Bồ-tát trong Thập địa hay trước Thập địa”, trông mong người kia lễ sám, tham sự cúng dường.
Ấy là những kẻ nhất-điên-ca, tự tiêu diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây đa-la. Phật ấn chứng người ấy mất hẳn căn lành, không còn chánh tri kiến, chìm đắm trong ba biển khổ, không thành tựu pháp Tam-muội.
GIẢNG GIẢI:
Đây là một trong bốn tội của giới căn bản. Phật nói: “Vì tham danh lợi mong người lễ bái, cúng dường, chưa được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm v.v… mà nói đã được, đó là những kẻ nhất-điên-ca (tức người ngu si nhất-xiển-đề), tự tiêu diệt giống Phật. Như người lấy dao chặt ngọn cây đa-la”. Cây đa-la là một loại cây ở Ấn Độ, giống cây cau ở nước ta, bị chặt ngọn là chết luôn, chớ không thể nhảy mầm như những giống cây khác. Thế nên, tội đại vọng ngữ rất nặng, người thật tâm tu hành phải biết mà trừ, nếu không sẽ thành ma ái kiến, diệt mất căn lành, chìm trong khổ não.
CHÁNH VĂN:
Tôi bảo các Bồ-tát và A-la-hán, sau khi Tôi diệt độ ứng hiện thân sanh trong đời mạt pháp, hiện các hình tướng khác nhau, để độ những chúng sanh còn trong vòng luân hồi. Hoặc hiện làm Sa-môn, bạch y cư sĩ, vua chúa, quan lại, đồng nam, đồng nữ, như vậy cho đến người dâm nữ, người quả phụ, kẻ gian dối, trộm cắp, người hàng thịt, buôn bán, cùng làm một việc với họ để tán thán Phật thừa, khiến cho thân tâm của họ được vào Tam-ma-địa. Nhưng trọn không nói ta thật là Bồ-tát, A-la-hán, làm tiết lộ mật nhân của Phật, khinh thường nói với người chưa học; chỉ trừ khi lâm chung âm thầm có những lời di chúc. Làm sao người ấy lại còn có lừa gạt chúng sanh để thành tội đại vọng ngữ?
GIẢNG GIẢI:
Phật dạy cho chúng ta biết chỗ thật giả của Bồ-tát, Thánh nhân khi ứng hiện độ sanh. Các Ngài thị hiện đồng sự với chúng sanh để hóa độ họ, hoặc hiện làm Sa-môn, vua chúa, cho đến hiện làm dâm nữ, kẻ gian dối, trộm cắp, người hàng thịt v.v… Các Ngài thị hiện vào những cảnh nghịch, nhưng không tán thán hạnh nghịch, mà khen ngợi chánh pháp khiến họ bỏ nghề, không để họ tham đắm những nghề bất thiện.
Khác với những kẻ vọng ngữ để dối gạt người, chư vị Bồ-tát, Thánh nhân ứng hiện đồng sự mà thường tán thán Phật thừa, khiến những người kia được vào Tam-ma-địa, chuyển hóa nghiệp ác của họ. Hiện làm những việc lỗi lầm để khuyên răn người bỏ, chớ không phải tán thán việc làm đó. Còn những kẻ thông đồng với những người đó, hoặc làm lỗi lầm rồi biện hộ cho mình, như tự xưng là Bồ-tát v.v… là không phải thứ thiệt. Lại các Ngài khi thị hiện không tự xưng mình là Bồ-tát, Thánh nhân, không cần người cung kính. Chỉ trừ khi lâm chung, sắp tịch mới nói những lời di chúc cho người biết. Phật dạy rõ ràng để chúng ta phân biệt kỹ, đừng bị lầm lẫn.
Như hai vị Hàn Sơn, Thập Đắc, là hiện thân của Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền ở chùa Quốc Thanh, nhưng không ai biết. Các Ngài hiện thân sống trong chùa, gàn gàn dở dở, nói lời lạ nhưng rất đạo lý, thường nhân đó cảnh tỉnh chúng Tăng. Sau mỗi thời ăn của chúng Tăng, các Ngài đến chỗ rửa chén, gạn lọc lại những đồ cặn của chúng, đem rửa sạch rồi ăn, nhìn như điên điên gàn gàn. Sau ông Lư Khâu Dận nhân bệnh nặng, nằm mộng được Bồ-tát báo cho biết thuốc điều trị, và bảo muốn báo ân thì đến chùa Quốc Thanh lễ hai Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền đang thị hiện là Hàn Sơn, Thập Đắc. Ông đến chùa hỏi mới hay là hai ông tăng gàn gàn dở dở dưới bếp. Khi ông chắp tay làm lễ thì hai Ngài nắm tay nhau đi tuốt ra khỏi chùa, vào núi mất luôn, không còn trở lại chùa nữa, vì đã bị lộ.
Hay Bồ-tát Di Lặc thị hiện ở Trung Quốc, đương thời không ai biết, chỉ khi tịch Ngài để lại bài kệ “Di Lặc chân Di Lặc v.v…” thì người mới biết.
Hòa thượng Tuyên Hóa có kể câu chuyện về Hòa thượng Đỗ Thuận là Tổ tông Hoa Nghiêm. Ngài thường giảng kinh, thuyết pháp, dạy người tham thiền, niệm Phật v.v… Có một đệ tử xuất gia tu học với Ngài hơn mười năm, vị này luôn luôn để tâm đến những công hạnh, việc làm của thầy để cố tìm hiểu xem thầy mình là ai, có phải là Bồ-tát hay A-la-hán thị hiện không. Tìm hiểu kỹ lưỡng hơn mười năm, cuối cùng chú kết luận thầy mình chỉ là người thường thôi, không có gì khác lạ với người khác, hàng ngày cũng ăn mặc ngủ nghỉ như mọi người, cũng không có thần thông, phóng quang chi hết. Chú bèn đến lễ tạ thầy xin rời đi. Ngài Đỗ Thuận hỏi: “Ý định của chú là đi đâu?”.
Chú đáp: “Con định lên núi Ngũ Đài, con ở với thầy lâu quá mà không phát triển trí tuệ gì được, chắc con cũng thuộc loại ngu đần, cho nên con quyết định đi lễ bái Bồ-tát Văn Thù, hy vọng con sẽ được trí tuệ như Ngài”.
Ngài Đỗ Thuận bảo: “Được rồi! Con muốn đi Ngũ Đài lễ bái cũng được, nhưng thầy có hai phong thư, trên đường đi nhờ con trao giúp, một phong trao cho cô Thanh Lương, một phong trao cho Trư lão mẫu”.
Chú đệ tử đến Ngũ Đài, trước tìm đến địa chỉ nhà cô Thanh Lương, té ra đó là cô gái điếm. Chú đệ tử ngạc nhiên quá không hiểu vì sao thầy mình lại viết thư cho cô gái điếm, tuy thắc mắc nghi ngờ nhưng chú cũng đưa thư. Cô Thanh Lương đọc xong thư, nói: “Tốt! Ổng đi thì ta cũng đi”. Nói xong cô thị tịch ngay tại chỗ ngồi. Chú đệ tử thấy lạ cầm thư lên đọc mới hay cô Thanh Lương là Bồ-tát Quán Thế Âm thị hiện, vì trong thư ghi: “Quán Thế Âm! Tôi đã xong việc ở đây, giờ tôi sẽ đi, Ngài nên đi với tôi”. Chú đệ tử biết ra là Đức Quán Thế Âm thì đã muộn vì Ngài đã thị tịch, không biết hỏi ai.
Chú lại tìm đến chỗ Trư lão mẫu theo địa chỉ lá thư còn lại, đến nơi không thấy ai hết, nhưng khi đi ngang chuồng heo, bỗng có con heo nái già cất tiếng hỏi: “Chú tìm Trư lão mẫu có việc gì?”. Chú ngạc nhiên không biết mình gặp quái vật gì, nhưng cũng nói: “Thầy tôi bảo trao thư cho Trư lão mẫu”. Con heo nái nói: “Tốt lắm! Ta là Trư lão mẫu đây, chú có thể đưa cho ta”. Heo nái đọc thư xong, nói: “Ờ! Việc ông ấy xong thì ta cũng sẽ đi”. Rồi heo nái chết. Chú đệ tử lấy thư xem mới biết là Bồ-tát Phổ Hiền thị hiện.
Đến khi chú lên núi Ngũ Đài thì gặp một Lão Tăng hỏi: “Chú đến đây làm gì?”. Chú đáp: “Tôi đến lễ bái Bồ-tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi cầu mong được trí tuệ giác ngộ”. Lão Tăng bảo: “Chú này! Chú lên đây để lễ bái Bồ-tát Văn Thù, nhưng lễ bái thầy chú còn tốt hơn gấp ngàn lần”. Chú hỏi: “Tại sao?”. Lão Tăng bảo: “Thầy chú là Đức Phật A Di Đà thị hiện nơi cõi nhân gian để giáo hóa chúng sanh, chú là đệ tử Ngài hơn mười năm, sao không nhận ra?”. Chú đệ tử ngạc nhiên, nhìn lại thì vị Lão Tăng đã biến mất. Chú quay về để lễ thầy thì Ngài đã viên tịch mấy ngày trước.
Qua đó chúng ta thấy, chư vị Bồ-tát khi bị lộ rồi là đi, chớ không khoe khoang thế này thế kia, đó mới là thứ thiệt.
Có chỗ ghi câu chuyện này hơi khác một chút: Trước khi Hòa thượng Đỗ Thuận tịch, một đệ tử xin từ giã đi, Ngài hỏi: “Đi đâu?”. Đệ tử thưa: “Con muốn qua núi Ngũ Đài lễ Bồ-tát Văn Thù”. Ngài mỉm cười nói: “Ông muốn đi, ta có một bài kệ có thể giúp ông đi đường sẽ có tin tức”. Ngài bèn nói kệ:
Du tử mạn bôn ba
Đài Sơn lễ đỗ pha.
Văn Thù chỉ giả thị
Hà xứ mích Di Đà?
Nghĩa là:
Du tử chạy lăng xăng
Đài Sơn lễ vách núi
Văn Thù chỉ thế ấy
Chỗ nào tìm Di Đà?
Chú đệ tử nghe nhưng không hiểu ý bài kệ. Đến Ngũ Đài gặp một ông già hỏi: “Chú đi đâu?”. Chú đáp: “Đến lễ Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi”. Ông già bảo: “Văn Thù hôm nay đi vắng, chẳng có ở núi, ông đến đây có gì không, tôi sẽ nhắn lời”. Chú hỏi: “Ngài Văn Thù hôm nay ở đâu?”. Ông già đáp: “Ngài đi giáo hóa chúng sanh ở Trường An”. Chú hỏi: “Là vị nào ở Trường An?”. Ông già đáp: “Hòa thượng Đỗ Thuận chính là Văn Thù”. Chú phát la lên: “A! Hòa thượng Đỗ Thuận là thầy tôi”.
Ngay đó ông già biến mất. Chú đệ tử lật đật quay trở về chùa định gặp thầy lễ rồi hỏi lâu nay sao thầy không nói cho con biết. Nhưng về đến nơi thì thầy đã tịch.
Chúng ta thấy chư vị Bồ-tát, Thánh nhân khi ứng hiện độ sanh không nói mình là Bồ-tát, Thánh nhân, chỉ khi sắp tịch để di chúc lại mới biết. Cho nên ở đây Phật kết lại: “Những bậc như vậy sao có thể lừa gạt chúng sanh để thành tội đại vọng ngữ?”.
CHÁNH VĂN:
Ông dạy người đời tu Tam-ma-địa, sau nữa phải đoạn trừ các đại vọng ngữ. Ấy gọi là lời dạy rành rõ thanh tịnh quyết định thứ tư của các Đức Như Lai, Tiên Phật, Thế Tôn.
GIẢNG GIẢI:
Tu chánh định phải giữ gìn sự chân thật, đừng rơi vào tội đại vọng ngữ. Tội đại vọng ngữ rất nặng, khiến người tu hành không thành tựu được chánh định. Bình thường nói dối là đã bị ảnh hưởng, tâm luôn bất an, sợ người biết v.v... Khi ngồi thiền mà nhớ nghĩ mình phạm tội nói dối thì làm sao định được. Cho nên phải cẩn thận!
CHÁNH VĂN:
Thế nên, A-nan! Nếu người không đoạn trừ lòng đại vọng ngữ, thì cũng như khắc phân người làm thành hình cây chiên-đàn mà muốn cầu được hương thơm, thật không có lý vậy.
GIẢNG GIẢI:
Không đoạn trừ tâm đại vọng ngữ mà muốn thành tựu chánh định là chuyện khó có được. Vì nhân trái với quả. Như khắc phân người mà muốn thành hương chiên-đàn là không thể có, vì nhân quả trái nhau.
CHÁNH VĂN:
Tôi dạy các vị Tỳ-kheo lấy tâm ngay thẳng làm đạo tràng, tất cả mọi hành động trong bốn oai nghi còn không giả dối, làm sao có kẻ tự xưng là đã được pháp thượng nhân! Thí như người dân đen mà tự xưng là Đế Vương, thì tự chuốc lấy tội tru diệt, huống là vị Pháp Vương làm sao lại dám xưng càn! Nhân đã không chân chánh, thì phải chuốc lấy quả cong vạy; thế mà mong cầu quả Bồ-đề của Phật, như người muốn cắn cái rốn của mình, làm sao thành tựu cắn được. Nếu các Tỳ-kheo tâm như dây đờn thẳng, tất cả chân thật mà vào Tam-ma-địa, thì hẳn không có các ma sự, Tôi ấn chứng người ấy thành tựu quả Vô thượng Tri giác của các hàng Bồ-tát.
Như lời Tôi nói đây gọi là lời nói của Phật, chẳng như lời nói đó, tức là lời nói của Ma Ba-tuần.
GIẢNG GIẢI:
Như dân đen tự xưng Đế vương sẽ tự chuốc lấy quả khổ lớn. Người tu hành chân chánh luôn luôn phải giữ gìn tâm mình ngay thẳng chân thật, gọi là chân tâm. Thân tâm ngay thẳng là đạo tràng, thẳng là từ tâm ban đầu cho đến tâm rốt sau, được vậy bảo đảm con đường tu hành của mình sẽ đến nơi. Nghĩa là ban đầu có tâm như thế nào thì giữ vững cho đến rốt sau, khoảng giữa không cong queo, không quanh co. Ai ban đầu phát tâm tu cũng tốt, bỏ tất cả sự nghiệp thế gian để tu hành, cầu đi theo con đường xuất thế, con đường giải thoát. Điều đó rất quý báu. Nhưng do không khéo giữ gìn, khoảng giữa bị những tập khí thế gian cũ lôi kéo trở lại thành cong queo. Thế nên phải hết sức cẩn thận!
Lại, tâm thẳng như dây đờn, bốn oai nghi cũng không dối trá, đi đứng nằm ngồi luôn luôn giữ gìn đàng hoàng chân thật không dối, không làm dáng, làm bộ, nhìn giống như tu nhưng không phải tu. Tâm ngay thẳng chân thật như vậy thì bảo đảm không lạc đường tà, các ma không chen vào được. Chúng ta tu mà có ma sự là do có tâm tà, khởi tâm tà, tà mới chen vào được. Như Ngài Ngộ Đạt v.v…, lỡ có chút động niệm là ma chướng chen vào liền. Thế nên phải hết sức giữ gìn tâm mình!
Phật dạy: “Người tu được vậy thì Phật ấn chứng cho người đó sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Tri giác của Bồ-tát. Nói những lời như đây là Phật nói, nói khác đi là Ma nói”.
Trên đây là bốn lời dạy thanh tịnh quyết định sáng suốt. Tỳ-kheo tu hành muốn dựng lập đạo tràng, nhiếp tâm tu thiền định, phải lấy đó làm nghĩa quyết định, gìn giữ không trái, không để ma sự chen vào làm chướng ngại. Bốn giới này là bốn giới căn bản, cũng gọi là tánh giới. Giữ được tánh giới thì tâm chánh, tâm chánh tức quả chánh.
Đây không phải chỉ giữ bên ngoài mà phải trừ tận vào trong tâm. Phật từng bảo: “Dâm tâm bất trừ, trần bất khả xuất”, còn một chút niệm dâm dục là chưa giải thoát được. Cũng vậy, còn một chút niệm sát, niệm trộm, niệm đại vọng ngữ thì cũng không thành tựu được, cho nên phải trừ tận gốc. Chúng ta phải nhớ rõ, giữ kỹ trên đường tu hành của mình, tránh không rơi vào đường tà làm uổng công phu tu tập thì rất đáng tiếc.
Lời Phật dạy có lý có sự đầy đủ. Trước Phật khai thị tánh thấy, tánh nghe để chúng ta ngộ được chân tâm thường trụ không sanh diệt, đó là lý thật. Ngộ được chân tâm thường trụ sẵn có nơi mình, vốn là thanh tịnh, nhưng như thế không có nghĩa là không cần phải tu. Phật lại dạy giữ giới đàng hoàng, tức dạy phương pháp nhiếp tâm tu hành, chuyển hóa những tập khí mê lầm, tập khí sanh tử. Nhờ vậy, người sơ tâm nắm vững, tu hành kỹ, không bị lầm lạc. Nếu không khéo, chỉ khen ngợi lý Tối thượng thừa, cho rằng không cần giữ giới tu hành, nghĩ mình tu Tối thượng thừa rồi coi thường, vỗ ngực xưng ta, sống tội lỗi lúc nào không hay, tạo nhân đọa đường dữ cũng không biết. Do đó, chúng ta phải học cho kỹ, tu cho đàng hoàng, có căn bản vững vàng mới được.
***
-
8. MỤC 19 : PHẬT KHAI THỊ VỀ MẬT GIÁO THẦM GIÚP NHỮNG NGƯỜI TU HÀNH
CHÁNH VĂN:
A-nan! Ông hỏi phương pháp nhiếp giữ tâm niệm. Như Tôi đã nói: “Người muốn vào Tam-ma-địa tu học pháp môn nhiệm mầu cầu đạo Bồ-tát, trước hết cần phải giữ gìn bốn món luật nghi đó cho trong sạch như băng tuyết, tự không thể sanh ra tất cả cành lá; ba nghiệp ác của ý, bốn nghiệp ác của khẩu ắt không còn nhân mà sanh được”. A-nan! Nếu giữ bốn việc như vậy không thiếu sót, tâm còn không duyên sắc, thanh, hương, vị, xúc thì tất cả việc ma làm sao phát sanh.
GIẢNG GIẢI:
Muốn nhiếp giữ tâm niệm, an lập đạo tràng để tu chánh định, trừ các ma sự, trước phải giữ gìn bốn giới căn bản này trong sạch như băng tuyết. Giới căn bản đã thanh tịnh, những giới phụ thuộc không có chỗ sanh, chúng ta có thể an tâm vào định. Song muốn giữ giới thật trong sạch thì giữ thân, khẩu không chưa đủ, phải trừ sạch tận trong tâm. Nếu tâm còn mầm mống, khi gặp cơ hội nó sẽ phát. Thế nên Phật dạy đoạn đến cái tánh biết đoạn cũng không còn mới là rốt ráo.
Lại tâm không duyên theo khách trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, thì ma sự bám vào đâu để sanh? Sở dĩ ma sự sanh được là do tâm phóng ra ngoài, trong có nội ứng, giặc ngoài mới vào được. Hay nói cách khác, có tâm ma thì ma sự mới vào. Như khi nhập thất tu hành, nếu không giữ tâm chân chánh, khởi vọng tưởng lăng xăng là dễ bị ma sự. Khi tu mà trông mong mau đắc đạo, vọng tưởng được thần thông, hoặc nghĩ về danh lợi v.v…, chính những thứ đó là chỗ cho ma vào, tức ma thấy tâm mà vào. Thế nên, chúng ta phải biết mà cẩn thận khi tu hành.
CHÁNH VĂN:
Nhưng nếu có những tập khí đời trước không thể dứt trừ, ông dạy người ấy nhất tâm tụng thần chú “Vô Thượng Phật Đảnh Quang Minh Ma-ha Tát-đát-đa Bát-đát-ra” của Tôi. Đó là tâm chú của tâm Phật vô vi, tướng đảnh Như Lai vô kiến, từ nơi đảnh hiện ra, ngồi trên hoa sen báu mà nói.
GIẢNG GIẢI:
Để dứt trừ những tập khí đời trước khó trừ, Phật dạy tụng tâm chú. Đây là tâm chú của tâm Phật vô vi, không phải chú thường theo chữ nghĩa, là bặt con đường tâm nghĩ ngợi, vì chỗ tâm Phật vô vi, làm sao nghĩ ngợi được? Chỗ đó là bặt đường tâm, bặt nghĩ ngợi, thông đến tâm Phật vô vi. Nó vượt ngoài những tâm niệm sanh diệt, đâu còn dấu vết cho tập khí bám vào. Thế nên Phật nói đây là tâm chú trừ những tập khí nhiều đời trước là vậy. Tụng tâm chú này là phải tụng thấu đến đó, vì là tâm chú, thì không phải tụng trên chữ nghĩa suông, không phải dừng trên câu chữ mà tụng, tụng được vậy mới bảo đảm kết quả.
Tên chú là Vô Thượng Phật Đảnh Quang Minh, tức là chỗ Phật đảnh sáng rỡ Vô thượng, không gì trên nữa, đó là chỗ vượt qua tất cả, không gì hơn. Chỗ đó mắt người không sao thấu được. Bởi nó phát xuất từ tâm Phật vô vi, chúng ta tụng thấu được chỗ đó bảo đảm sẽ chuyển hóa những tập khí.
Ma-ha Tát-đát-đa Bát-đát-ra dịch là Đại Bạch Tán Cái, tức là Tàn Lọng Trắng To Lớn. Chỉ cho tâm Phật sáng suốt, không ô nhiễm như tàn lọng trắng, nó che khắp thế gian không sót một ai, nên gọi là đại.
Chú này do hóa Phật hiện nơi tướng đảnh Vô kiến của Như Lai nói ra. Đảnh Vô kiến là chỉ Nhục kế trên đỉnh đầu Đức Phật, chỗ đó mắt người không thấy được, ngầm chỉ cho Pháp thân. Pháp thân thì không nói, nên hiện ra hóa Phật nói. Tức là từ chỗ không lời, phương tiện nói ra lời. Tuy nói mà lìa tướng nói, tức ngay cái nói đó cũng vốn lặng lẽ. Khi tụng chú, chúng ta phải thấu được ý đó, lặng lòng thầm thông trở lại chỗ không lời, chỗ bặt lời mới thông với tâm Phật vô vi. Tụng như thế thì kết quả không thể nghĩ bàn, thầm khế hợp trở lại Pháp thân, vượt qua những tâm niệm lăng xăng sanh diệt. Tụng như vậy thì sẽ chuyển hóa được tập khí nhiều đời không nghi ngờ.
CHÁNH VĂN:
Vả lại đời trước ông cùng nàng Ma-đăng-già có nhân duyên trải qua nhiều kiếp, thành tập khí ân ái không phải một đời hay một kiếp. Song một phen Tôi tuyên dương thần chú thì nàng Ma-đăng-già thoát hẳn dâm ái thành quả A-la-hán. Nàng kia là kẻ dâm nữ không có tâm tu hành, do nhờ sức thần chú của Tôi thầm giúp mà còn mau chứng bậc Vô học. Thế thì các ông những hàng Thanh Văn trong hội này cầu Tối thượng thừa quyết định thành Phật, ví như bụi bay gặp gió thuận, vậy có gì là khó khăn?
GIẢNG GIẢI:
Đoạn này Phật khuyến khích tu. Việc Ngài A-nan gặp Ma-đăng-già là có nhân duyên ân ái nhiều đời chớ không phải mới. Lại Ma-đăng-già là dâm nữ, không phải người tu hành, không có tâm thật tu, mà nghe Phật giáo hóa, nghe được thần chú của Phật cũng chứng được quả Vô học. Còn chúng ta là người phát tâm xuất gia, có chí tu hành đàng hoàng, gặp duyên thuận lợi hơn nàng Ma-đăng-già nhiều, tại sao còn nghi ngờ không quyết tâm tiến tu để thành tựu đạo giác ngộ? Phật nói người tu chúng ta giống như bụi bay thuận gió, sao lại không đủ niềm tin để tiến tu. Chúng ta đã có gieo chủng duyên nhiều đời mới được duyên tốt như ngày hôm nay, tại sao còn chần chừ không chịu tiến tới? Đó là lời Phật cảnh tỉnh tất cả chúng ta!
CHÁNH VĂN:
Nếu có người trong đời mạt pháp muốn ngồi đạo tràng tu hành, trước cần giữ gìn giới cấm thanh tịnh của Tỳ-kheo. Cốt phải lựa một vị Sa-môn giữ giới thanh tịnh bậc nhất, để làm thầy mình. Nếu tìm không gặp được Tăng chúng thật thanh tịnh, thì giới thể luật nghi của người ấy chắc không được thành tựu. Sau khi giới thành tựu, người đó đắp y mới sạch sẽ, đốt hương ở một mình tụng thần chú do tâm Phật nói đây một trăm linh tám biến, sau đó mới kiết giới, dựng lập đạo tràng cầu mười phương các Đức Vô thượng Như Lai, hiện ở trong các cõi nước mười phương phóng hào quang đại bi đến rọi nơi đảnh đầu mình.
A-nan! Như thế, trong đời mạt pháp có hàng Tỳ-kheo thanh tịnh, hoặc Tỳ-kheo-ni, bạch y, đàn-việt dứt tâm tham, giữ gìn giới cấm thanh tịnh của Phật, ở nơi đạo tràng phát nguyện Bồ-tát, khi ra vào, tắm gội, cả trong sáu thời hành đạo như vậy, chẳng ngủ nghỉ, trải qua hai mươi mốt ngày, Tôi tự hiện thân đến trước người ấy, xoa đảnh an ủi, khiến họ khai ngộ.
GIẢNG GIẢI:
Phật dạy vào đạo tràng phải giữ giới trang nghiêm thanh tịnh, cầu thầy thanh tịnh, trang nghiêm đạo tràng, nhiếp tâm tụng chú cầu cảm thông được với mười phương Như Lai. Như vậy thì tạp niệm không xen vào được, không có tạp niệm mới thành tựu được chánh định. Chúng ta học phải hiểu kỹ, không một bề ỷ lại vào thần chú, vào tha lực, cho rằng chỉ nhờ đọc thần chú mà được mười phương chư Phật gia bị rồi được khai ngộ. Đọc chú suông thì khai ngộ nỗi gì? Phải hiểu đúng ý Phật, nhờ tha lực gia bị, nhờ giữ giới trang nghiêm thanh tịnh, đàn tràng thanh tịnh, nhất là phải nhiếp tâm tụng chú. Tức là nhờ tha lực gia bị, mà cũng phải tự lực, là nhất tâm thanh tịnh, trừ các tạp niệm không để ma sự xen vào, đó mới là quan trọng. Do nhiếp tâm thanh tịnh, không có tạp niệm, ma không xen vào được, nhờ vậy mới sớm được khai ngộ.
Đây nói thêm, ở trong đạo tràng chuyên tâm tu hành, phát nguyện Bồ-tát, mở rộng tâm mình hướng về Phật đạo. Trải qua 21 ngày thì Phật hiện thân ở trước. Số 21 chỉ là thời gian phương tiện ước định, quan trọng là tâm khai ngộ. Không phải ước định đúng 21 ngày tâm phải khai ngộ, đặt trước thời gian mong cho sớm thành, làm như vậy là động niệm, mà động niệm là ma sự xen vào. Thế nên phải cẩn thận! Ý Phật là phải trải qua thời gian chuyên tâm hành đạo thanh tịnh, tạp niệm không xen vào cho đến tâm chuyên nhất. Khi ấy tâm mình khế hợp tâm Phật thì tự nhiên thấy Phật ở trước mắt, tâm được khai ngộ sáng tỏ, đó là lẽ thật. Vậy trọng yếu là nhất tâm không xen tạp, có nhờ tha lực gia bị, nhưng tự lực mới là chính. Chúng ta tu phải thấy, phải hiểu được ý đó.
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, con nhờ lời từ bi dạy bảo vô thượng của Đức Như Lai, mà tâm đã khai ngộ, tự biết con đường tu chứng thành quả Vô học. Song đối với những người tu hành trong đời mạt pháp muốn kiến lập đạo tràng phải kiết giới thế nào để phù hợp với quy tắc thanh tịnh của chư Phật Thế Tôn?”.
Phật bảo ông A-nan: “Nếu ở trong đời mạt pháp, người muốn lập đạo tràng, trước phải dùng phân con bạch ngưu có sức mạnh ở núi Tuyết. Con trâu trắng này ăn cỏ thơm ngon tốt ở trong núi Tuyết và chỉ uống nước trong ở Tuyết sơn, nên phân nó rất mịn nhuyễn, nên lấy phân bạch ngưu hòa hợp với hương chiên-đàn để quét trên mặt đất. Nếu không phải bạch ngưu ở núi Tuyết thì phân nó hôi nhơ không thể tô quét trên đất được. Phải riêng ở nơi bình nguyên đào bỏ các lớp đất trên mặt, đào lấy thứ đất màu vàng từ năm thước trở xuống. Rồi lấy mười thứ hương là chiên-đàn, trầm thủy, tô diệp, huân lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, cam tùng và kê thiệt nghiền nhỏ thành bột trộn với đất ấy thành bùn, dùng để tô lên trên mặt đất nơi đạo tràng, mỗi bề một trượng sáu thành cái đàn bát giác.
Chính giữa đàn tràng nên đặt một cái hoa sen làm bằng vàng, bạc, đồng, gỗ. Giữa hoa sen để cái bát, trong bát trước đựng đầy nước mù sương tháng tám và trong nước ấy tùy ý cắm hoa lá hiện có. Rồi lấy tám mặt gương tròn, mỗi cái để một phía xung quanh hoa sen và bát hoa. Bên ngoài những gương ấy để mười sáu hoa sen và giữa các hoa sen để mười sáu lư hương cho trang nghiêm. Trong lư hương đốt thuần hương trầm thủy không cho thấy lửa. Lấy sữa bạch ngưu để trong mười sáu cái chén; lấy sữa làm bánh nướng các thứ với đường cát, bánh rán bột sữa, tô hiệp, mật gừng, bơ tốt, mật tốt mỗi thứ mười sáu cái chén đặt ở ngoài vòng quanh hoa sen để cúng dường chư Phật và chư vị Đại Bồ-tát.
Trong mỗi thời ăn cơm và lúc giữa đêm, lấy nửa thăng mật và ba cáp bơ, trước đàn để riêng một lò lửa nhỏ, dùng hương đâu-lâu-bà, nấu lấy nước thơm rửa than cho sạch rồi đốt than đỏ hồng trong lư và rót mật, bơ vào đốt đến hết khói để cúng dường chư Phật, Bồ-tát.
Bốn phía bên ngoài treo khắp phan và hoa, trong phòng đàn tràng an trí hình tượng hiện có của mười phương Như Lai và chư Bồ-tát nơi bốn phía vách. Giữa đàn để hình tượng Phật Lô Xá Na, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Phật A Súc, Phật Di Đà và hình tượng đại biến hóa của Đức Quán Thế Âm, lại thêm các vị Bồ-tát Kim Cang Tạng để hai bên; những tượng của Đế-thích, Phạm Vương, Ô-sô-sắt-ma, Lam-địa-ca, Quân-trà-lợi, Tỳ-cu-chi và Tứ Thiên Vương, Tần-na, Dạ-ca v.v... treo ở hai bên cửa. Lại lấy tám tấm gương treo úp trên hư không. Mặt gương đối chiếu với tám gương trước đã đặt trong đàn, làm cho các hình ảnh lớp lớp lồng nhau.
GIẢNG GIẢI:
Có ai lập đàn tràng như vậy chưa? Thật tình ít ai làm được. Vì không dễ tìm đủ các vật theo nhu cầu đã nói. Như làm sao kiếm cho đủ mười thứ hương chiên-đàn, trầm thủy ở xứ Ấn Độ; và làm sao treo hết hình tượng của Phật, chư Bồ-tát, các vị Đế-thích, thần Kim Cang, Phạm Vương, Ô-sô-sắt-ma v.v... cho đến Tứ Thiên Vương, rồi Tần-na, Dạ-ca v.v... tức những Quỷ vương. Cho nên, người không khá giả thì không thể kiến lập đàn tràng để tu.
Đây nói có sự có lý. Là người thiết lập đó phải hết sức thành tâm trang nghiêm đạo tràng, mượn cảnh giúp cho tâm được tương ứng. Đạo tràng trang nghiêm, nhờ vậy, khi bước vào trong đạo tràng, không có chỗ để tạp niệm xen vào.
Về lý, là mỗi thứ đều xoay về tự tâm. Như Ngài Hàm Thị giải thích: “Kinh này dạy an trí đạo tràng, trước hết dùng phân bạch ngưu ở núi Tuyết, nó ăn thì dùng cỏ thơm ngon tốt, uống thì nước suối trong sạch, phân nó tiết ra dùng hòa chung với các thứ hương để trang trí đàn tràng. Là dụ dùng nước cỏ lý trí hay nuôi dưỡng Pháp thân bạch ngưu, dùng trí sai biệt đào đất năm uẩn, xuất sanh đất bản giác hòa với diệu hương Thập độ, cộng thành một đàn tràng Tịch diệt Vô thượng”. Như vậy, mỗi thứ chúng ta làm đều xoay trở về nơi tự tâm bản tánh của mình, nên nhìn qua ngó lại chỗ nào cũng là biểu hiện của tâm tánh sáng suốt không thể nghĩ bàn, nên tạp niệm đâu có chỗ nào xen vào.
Cho đến nhìn chung quanh, đâu đâu cũng thấy Phật, thấy thần Kim Cang v.v..., mà nhìn thấy chư vị thần thì đâu dám khởi niệm xấu. Chính chỗ không có tạp niệm xen vào là chỗ thành tựu. Ngay đó nhiếp tâm chuyên chú, bất chợt niệm lặng, thì hiện tiền thấy nghe là cái gì? Liền đó tâm sáng tỏ khai ngộ, thầm hợp ý Phật không thể nghĩ bàn chứ gì!
Chúng ta hiểu được ý nghĩa việc thành lập đàn tràng là như vậy. Còn hiểu theo chữ nghĩa thì dễ mắc kẹt trên hình tướng cũng thành có ngại.
CHÁNH VĂN:
Trong bảy ngày đầu chí thành đảnh lễ danh hiệu mười phương Như Lai, chư vị Đại Bồ-tát và A-la-hán, thường trong sáu thời tụng chú đi quanh đàn, chí tâm hành đạo, mỗi thời thường tụng một trăm linh tám biến. Trong bảy ngày thứ hai, một bề chuyên tâm phát nguyện Bồ-tát, tâm không gián đoạn, Tôi khi trước ở Tỳ-nại-da có dạy phát nguyện. Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời một bề trì chú Bát-đát-ra của Phật, đến ngày thứ bảy thì mười phương Như Lai đồng thời xuất hiện trong chỗ ánh sáng các mặt gương giao xen và được Phật xoa đảnh.
GIẢNG GIẢI:
Tuần trai đầu chí thành đảnh lễ danh hiệu mười phương Như Lai và chư vị Bồ-tát, A-la-hán, rồi tụng chú đi nhiễu quanh đàn, chí tâm hành đạo.
Bảy ngày thứ hai, một bề chuyên tâm phát nguyện trước Bồ-tát, tâm không gián đoạn. Bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời trì chú Bát-đát-ra của Phật, tức là trì tâm chú này. Đến ngày thứ bảy cuối tức là 21 ngày thì mười phương Như Lai đồng thời xuất hiện, trong chỗ ánh sáng các mặt gương giao xen và được Phật xoa đảnh.
Đây là nói 21 ngày, nếu đơn giản thì bảy ngày tâm chuyên nhất không gián đoạn, không có tạp niệm nào xen vào thì bảo đảm có tin tức tốt. Nếu chỉ chừng mười lăm phút chuyên nhất không niệm gì xen vào cũng khó rồi. Đây bảy ngày như vậy là quá hay, còn đến 21 ngày thì chư Phật Như Lai xuất hiện trong ánh sáng các mặt gương, được Phật xoa đảnh, là thầm cảm thông với Phật.
CHÁNH VĂN:
Liền ở nơi đạo tràng đó tu pháp Tam-ma-địa, có thể khiến cho người tu học như vậy trong đời mạt pháp, thân tâm được sáng suốt, trong sạch như ngọc lưu ly.
A-nan! Nếu trong các thầy truyền giới cho vị Tỳ-kheo đó hay trong mười vị Tỳ-kheo đồng hội, trong ấy có một người giới hạnh không được thanh tịnh, thì những đạo tràng như thế phần nhiều là không thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Được ở nơi đạo tràng như vậy mà tu tập đúng là trợ duyên lớn, giúp thân tâm sáng suốt trong sạch, thì dễ thành tựu thiền định. Nhưng đây Phật lại ngăn ngừa, nếu có thầy truyền giới không thanh tịnh thì phần nhiều là không thành tựu. Cho nên, về giới pháp cũng phải kỹ lưỡng.
CHÁNH VĂN:
Từ hai mươi mốt ngày về sau ngồi nghiêm trang an cư trải qua một trăm ngày, nếu người lợi căn không rời khỏi chỗ ngồi liền được quả Tu-đà-hoàn. Mặc dù thân tâm người ấy đối với quả Thánh chưa được thành tựu, nhưng đã quyết định tự biết sẽ thành Phật không sai chạy.
Ông hỏi phương pháp kiến lập đạo tràng là như vậy”.
GIẢNG GIẢI:
Được đạo tràng trang nghiêm, tu hành miên mật, rồi nhất tâm xuyên suốt thì kết quả vào đạo thành tựu không nghi. Đây gọi là từ 21 ngày về sau được ngồi nghiêm trang an cư trong đó, trãi qua 100 ngày tu tập miên mật nhất tâm, nhờ vậy, người lợi căn không rời chỗ ngồi liền được quả Tu-đà-hoàn. Ngài Hàm Thị có giải về quả Tu-đà-hoàn: “Tu-đà-hoàn là Sơ quả của Tiểu thừa, đồng với Sơ địa của Biệt giáo, và Sơ trụ của Viên giáo thuộc Đại thừa”.
Đây nói thêm, mặc dù thân tâm người ấy chưa được thành tựu quả Thánh, nhưng đã quyết định tự biết sẽ thành Phật không sai. Tức được lòng tin không còn thoái chuyển, thẳng đó tiến tu đến viên mãn công đức thành Phật.
Chỗ quan trọng ở đây là chuyên tâm nhất ý không gián đoạn. Chúng ta tu tập thiền định, giữ chánh niệm, tâm luôn chuyên nhất, không có tạp niệm xen vào, thì đó là chỗ thành tựu.
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Đức Phật rằng: “Từ khi xuất gia con ỷ lại lòng thương yêu của Phật, chỉ lo học nhiều nên không chứng được pháp vô vi mới gặp tà thuật của Phạm Thiên kia bắt giữ. Tâm con tuy sáng suốt rõ ràng, nhưng đạo lực chưa được tự do, nhờ Ngài Văn-thù khiến con được giải thoát. Tuy con thầm nhờ sức thần chú Phật Đảnh của Như Lai, nhưng chính mình chưa được nghe, cúi mong Phật mở lòng đại từ, nói lại thần chú ấy, để cứu giúp những người tu hành trong hội này và đời mạt pháp ở trong tương lai còn trong luân hồi, nhờ mật âm của Phật mà thân ý được giải thoát”. Khi ấy tất cả đại chúng trong hội thảy đều làm lễ chờ nghe những câu chú bí mật của Như Lai.
GIẢNG GIẢI:
Ngài A-nan thuật lại là thời gian trước Ngài luôn ỷ lại lòng thương yêu của Phật cho nên lo học nhiều, không chứng được pháp vô vi, tức pháp A-la-hán giải thoát. Đến khi bị tà thuật bắt giữ, gặp nạn Ma-đăng-già, lúc đó tâm tuy sáng suốt, nhưng đạo lực không mạnh, phải nhờ thần chú của Ngài Văn-thù đến giải cứu. Vì chưa trực tiếp được nghe, nên giờ thỉnh Phật nói lại cho Ngài và tất cả được nghe. Đó là Ngài vì chúng sanh hiện tại và đời sau mà thưa thỉnh Phật nói chú.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy, từ trên nhục kế của Đức Thế Tôn phóng ra hào quang trăm báu, trong hào quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh có hóa thân Đức Như Lai ngồi trong hoa sen báu, trên đảnh phóng ra mười đạo hào quang trăm báu, mỗi mỗi đạo hào quang đều hiện ra những vị Kim Cang mật tích, số lượng bằng mười số cát sông Hằng, bưng núi, cầm chày khắp cả hư không. Đại chúng ngước lên xem trong lòng vừa mừng vừa sợ, cầu xin Phật thương xót che chở, một lòng lắng nghe Đức phóng quang Như Lai nơi Vô kiến đảnh tướng của Phật tuyên nói thần chú.
GIẢNG GIẢI:
Bấy giờ, từ trên nhục kế của Phật phóng hào quang, trong hào quang có hoa sen báu, rồi có hóa thân Đức Như Lai ngồi trên hoa sen đó, trên đảnh của Phật cũng lại phóng hào quang, trên mỗi mỗi hào quang lại hiện những vị thần Kim Cang, số lượng người bằng mười số cát sông Hằng.
Trên nhục kế tức là trên đảnh tướng của Như Lai. Đó là chỉ cho Pháp thân, là chỗ mắt không thể thấy, tâm không thể quán.
Đây là từ Pháp thân mà hiện ra hóa Phật, hóa Phật nói chú chứ Pháp thân đâu có nói. Nhưng hóa Phật cũng từ đảnh tướng của Phật hiện ra tức từ thể mà khởi dụng. Pháp thân là thể, hóa Phật là dụng. Do từ thể khởi dụng nên dụng cũng chẳng rời thể, tức là hóa Phật cũng không rời Pháp thân Phật. Ý là từ chỗ không nói mà nói, và nói cũng không rời chỗ không nói. Do đó, người nghe cũng phải hết lòng nhiếp niệm để khi nghe được thầm hợp trở về với Pháp thân.
Đúng là hội chúng lúc ấy không còn dám nghĩ ngợi lung tung, bởi vì nhìn lên là các thần Kim Cang mật tích cầm chày đứng khắp hư không, phát sợ rồi! Cho nên đây nói là vừa mừng vừa sợ, không dám khởi niệm. Chúng ta mà ở trong cảnh đó thì tâm cũng phải thanh tịnh không dám khởi niệm, nên tất cả chúng hội khi ấy đều một lòng lắng nghe.
Kế, mới tuyên đọc thần chú. Đây là nói ra năm hội của chú Lăng Nghiêm, vì là chú nên không dịch và cũng không giảng. Nghe chú là phải bặt nghĩ ngợi, suy tư, chỉ thầm cảm ứng trong chỗ không thể nghĩ bàn, chính tâm tập trung, không lăng xăng đó mới có hiệu lực, có sức cảm ứng với chú, mới có những thần lực gia trì không thể nghĩ bàn. Khi đọc chú xong, Phật mới bảo:
CHÁNH VĂN:
“A-nan! Những câu nhiệm mầu, những kệ bí mật “Tát Đát Đa, Bát Đát Ra” của hóa thân nơi hào quang trên đảnh Phật đó, vốn sanh ra tất cả mười phương chư Phật. Mười phương Như Lai nhân chú tâm này được thành Vô thượng Chánh Biến Tri Giác. Mười phương Như Lai trì chú tâm này uốn dẹp các ma, chế phục ngoại đạo. Mười phương Như Lai vận chú tâm này ngồi hoa sen báu ứng hiện trong cõi nước như số vi trần. Mười phương Như Lai ngậm chú tâm này ở trong các cõi nước như số vi trần chuyển đại pháp luân. Mười phương Như Lai trì chú tâm này hay ở trong mười phương xoa đảnh thọ ký, tự mình chưa thành quả vị cũng có thể nơi mười phương nhờ Phật thọ ký. Mười phương Như Lai nương chú tâm này, có thể ở trong mười phương cứu vớt các khổ như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đui, điếc, câm, ngọng, các khổ về oán hờn gặp gỡ, các khổ về yêu thích chia lìa, các khổ về cầu không được toại nguyện, khổ về năm ấm xí thạnh; những tai nạn hoặc lớn hoặc nhỏ đồng thời giải thoát. Nạn giặc, nạn bệnh, nạn vua, nạn tù giam, nạn gió, lửa, nước, cho đến đói, khát, nghèo thiếu liền được tiêu tan. Mười phương Như Lai tùy theo chú tâm này, có thể ở trong mười phương phụng sự thiện tri thức, trong bốn oai nghi cúng dường đều được như ý. Ở trong pháp hội hằng sa Như Lai được suy tôn làm vị Đại Pháp Vương tử. Mười phương Như Lai thực hành chú tâm này, hay ở trong mười phương nhiếp thọ các thân nhân khiến cho các Tiểu thừa nghe tạng bí mật không sanh kinh sợ. Mười phương Như Lai tụng chú tâm này thành đạo Vô thượng Giác ngồi dưới cây Bồ-đề vào đại Niết-bàn. Mười phương Như Lai truyền chú tâm này, sau khi diệt độ rồi phó chúc Pháp sự của Phật được trụ trì rốt ráo, giới luật nghiêm tịnh thảy đều trong sạch.
GIẢNG GIẢI:
Đây Phật nói rõ những câu kệ bí mật khó hiểu của chú tâm này rất nhiệm mầu, khó nghĩ bàn. Từ đó mà xuất sanh ra chư Như Lai, rồi làm Phật sự, hàng ma, gia bị cho người tu hành Bồ-đề, diệu dụng không thể nghĩ bàn.
Quan trọng là ở “chú tâm này”, và cái gì là chú tâm này? Chính từ chú tâm này mà xuất sanh ra mười phương Như Lai, mới đầy đủ những công đức diệu dụng, nên điều cần thiết là phải thấy được, rõ được chú tâm này mới thấu được chỗ dụng kia, chỗ dụng kia thuộc về phần ngọn, còn chú tâm này mới là gốc.
Rồi làm sao nghe được chú tâm này mới là chỗ thiết yếu. Bình thường ai cũng hiểu chú tâm này tức là năm hội trong chú Lăng Nghiêm. Nếu vậy, chẳng lẽ từ những câu, những chữ đó mà xuất sanh ra cả mười phương chư Như Lai sao? Nếu không phải chỗ đó vậy là chỗ nào? Đây mới là chỗ sâu xa, không thể hiểu hời hợt trên chữ nghĩa được.
“Chú tâm này” ngầm chỉ cho Như Lai Tạng, hay ở trước gọi là tâm Phật vô vi, tức từ tâm Phật vô vi nói ra. Chính tâm Như Lai Tạng hay tâm Phật vô vi mới xuất sanh mười phương chư Như Lai, nên tâm này sâu xa, khó thấy, khó hiểu, bí mật, thức tình không thể hiểu được, suy nghĩ không tới, do đó phải bặt niệm thầm chứng biết. Vậy mới đúng nghĩa là “chú”. Tâm này, cũng là chỗ chư Phật và chúng sanh đều đủ, nhưng chúng sanh không biết mới làm chúng sanh do đó phải nhờ chư Phật thầm gia bị.
Cho nên, nếu mà bặt niệm là thầm hợp trở lại tâm này, liền rõ mười phương chư Như Lai đều từ đó lưu xuất không có nghi ngờ. Chỗ đó là chỗ chúng ta cần phải hiểu kỹ đừng mắc kẹt trên những câu, những chữ. Đây Phật mới nói thêm:
CHÁNH VĂN:
Nếu Tôi nói chú “Phật Đảnh Quang Tụ Bát Đát Ra” từ sáng đến tối, các tiếng nối nhau, trong đó những chữ, những câu cũng không trùng lặp, trải qua kiếp số như cát sông Hằng trọn không thể hết, chú này gọi tên là Như Lai Đảnh.
GIẢNG GIẢI:
Chỗ này nếu căn cứ theo chữ nghĩa là khó hiểu. Phật nói rằng Ngài nói chú này từ sáng đến chiều, trải qua kiếp số như cát sông Hằng, nói hoài cũng không trùng lặp, cũng không thể hết. Còn chúng ta nếu căn cứ trên những câu chữ trong năm hội này, như các chùa tụng công phu khuya chỉ một tiếng đồng hồ là xong. Vậy mà ở đây Phật nói là đọc tụng suốt ngày từ kiếp này qua kiếp khác cũng không hết, phải hiểu thế nào đây?
Rõ ràng ý nghĩa trọng yếu không phải nằm trên những câu chữ đó. Chúng ta không thể nghe hiểu trên những câu chữ đó, mà phải nghe thấu đến chỗ không nghe kia, chỗ tâm Phật vô vi, chỗ bặt niệm không lời mà từ đó phát ra lời, nghe đến chỗ đó mới hiểu được chỗ này.
Chỗ đó chỉ thầm hợp chứ đâu nói ra được. Khi đến được chỗ thầm hợp rồi thì sao? Thì lúc nào cũng thấy hiện tiền không thiếu vắng, từ kiếp này qua kiếp khác không còn mất nữa. Hiểu vậy, mới thầm hiểu được ý sâu của Phật nói trong đây, cho nên chú này gọi là Như Lai Đảnh. Như Lai Đảnh không phải là chỗ hai con mắt này có thể thấy đến được, mà phải thấy bằng mắt trí tuệ. Thấy như vậy thì mới không ngăn ngại, còn nhằm trên câu chữ mà hiểu thì sẽ thấy có chỗ ngăn ngại.
CHÁNH VĂN:
Các ông là hàng hữu học, chưa hết luân hồi mà phát tâm chí thành tu chứng quả A-la-hán, nếu không trì chú tâm này, khi ngồi đạo tràng khiến cho thân tâm xa rời các ma sự, thì không thể được.
GIẢNG GIẢI:
Người muốn tu hành để dứt hết lậu hoặc, cần trì tâm chú này mới tránh khỏi các ma sự. Trì tâm chú này là khéo giữ tâm không nghĩ ngợi lăng xăng, trì đến chỗ bặt nghĩ ngợi thì ma làm sao thấy được! Là tránh được ma sự thôi. Sở dĩ có ma sự là do chúng ta loạn tâm, tâm có kẽ hở, nên ma mới thấy mà xen vào thành có ma sự, ý là chỗ đó. Học kinh này rồi thì chúng ta biết để cẩn thận giữ gìn tâm niệm của mình, giữ tâm chú của mình. Không phải đọc năm hội Lăng Nghiêm đó là giữ tâm chú, mà giữ tâm chú như đã nói là giữ tâm Phật vô vi, tâm Như Lai Tạng, tức luôn giữ tâm thanh tịnh, bặt nghĩ ngợi suy tư, không cho những tà niệm sanh khởi khiến ma thấy được.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Nếu các thế giới có những chúng sanh tùy chỗ những cõi nước mình sanh ra có các thứ như cỏ cây, hoa lá, cây bối, giấy trắng, bạch điệp dùng để chép viết chú này đựng trong đãy thơm. Nếu người ấy tối tăm chưa thể nhớ tụng được, thì hoặc đeo trên thân, hoặc viết trong nhà ở, phải biết người ấy trọn đời tất cả các thứ độc không thể hại được.
GIẢNG GIẢI:
Đây nói về sức oai lực của chú hay trừ các thứ độc, độc không thể hại được tâm chú kia. Độc chỉ hại thân này, chứ làm sao hại được chỗ tâm chú đó. Chỗ nghĩ ngợi không tới thì độc đâu thể hại, người học phải thấu được chỗ này.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Nay Tôi vì ông tuyên lại chú này để cứu giúp trong thế gian, được đại vô úy và thành tựu trí tuệ xuất thế gian cho chúng sanh.
GIẢNG GIẢI:
Sức chú này trừ hết các sợ hãi, được đại vô úy và thành tựu trí tuệ xuất thế gian. Khi vọng niệm bặt thì trí tuệ xuất thế gian hiện; nếu vọng niệm không bặt, làm sao thành tựu trí tuệ xuất thế gian?
CHÁNH VĂN:
Nếu sau khi Tôi diệt độ, chúng sanh đời mạt pháp, có người hay tự mình tụng, hoặc dạy người khác tụng chú này, phải biết những chúng sanh trì tụng chú như vậy, lửa không thể đốt cháy, nước không thể nhận chìm, các thứ độc lớn, độc nhỏ đều không thể hại được. Như thế cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh kỳ, ma mị, có những thú dữ đều không thể nhập. Nếu tâm người ấy được chính thọ thì tất cả thần chú nguyền rủa, yếm cổ, thuốc độc, kim độc, ngân độc và độc khí muôn vật, như cỏ cây sâu rắn khi vào miệng người đó đều thành vị cam lồ, tất cả sao dữ và các quỷ thần lòng dữ hại người đối với người ấy cũng không thể khởi tâm ác được. Tần-na, Dạ-ca các Quỷ vương dữ khác cùng với quyến thuộc đều nhận lãnh ân sâu thường giữ gìn ủng hộ.
GIẢNG GIẢI:
Người trì chỗ tâm chú này là vượt qua những thứ tà mị, độc hại, nhưng trong đây cần chú ý thêm câu: “Nếu tâm người ấy được chánh thọ (chánh định) thì những thứ thần chú nguyền rủa, thuốc độc hại, v.v… cho đến quỷ, thần, sao dữ ác tâm... đối với người đó đều không có khởi tâm ác được”. Quan trọng là chỗ “tâm được chánh định”, tâm mà được chánh định là vượt qua tất cả.
Chữ “tinh kỳ” là chỉ cho những loài tinh linh. Những loài được sức linh của trời thì gọi là tinh, còn được sức linh của đất gọi là kỳ. Đây nói những loài đó cũng không thể hại được.
Từ Tần-na, Dạ-ca là tên của hai vị sứ giả Đại quỷ vương. Hai vị Quỷ vương này đối với người được chánh thọ cũng không khởi tâm ác, lại thường theo giữ gìn, ủng hộ.
CHÁNH VĂN:
A-nan nên biết, chú này thường có 84.000 na-do-tha hằng sa câu-chi chủng tộc Kim Cang Tạng Vương Bồ-tát. Mỗi mỗi đều có những chúng Kim Cang làm quyến thuộc ngày đêm theo hầu. Giả sử có chúng sanh với tâm tán loạn chưa được vào Tam-ma-đề, tâm ghi nhớ, miệng trì tụng chú này, thì Kim Cang Vương đó thường tùy theo bên thiện nam tử kia, huống nữa là người có tâm Bồ-đề quyết định thì đối với những người này Kim Cang Tạng Vương Bồ-tát đó dùng tịnh tâm thầm xúc tiến, phát huy thần thức họ, người ấy liền khi đó tâm nhớ lại được 84.000 hằng hà sa kiếp, rõ biết cùng khắp không nghi lầm.
GIẢNG GIẢI:
Người trì chú này sẽ được Kim Cang Tạng Vương gia bị và được túc mạng. Nhưng nhớ là tâm người này phải thường ghi nhớ, miệng trì tụng chú chuyên nhất không để tạp niệm xen vào, thêm được tâm Bồ-đề quyết định, kết quả mới được sâu xa.
CHÁNH VĂN:
Từ kiếp thứ nhất cho đến thân cuối cùng, trong mỗi đời người ấy không sanh trong loài Dược-xoa, La-sát và Phú-đơn-na, Ca-trá-phú-đơn-na, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-giá v.v…và các loại ngạ quỷ có hình, không hình, có tưởng, không tưởng, cả thảy những chỗ dữ như thế, thiện nam tử hoặc tụng, hoặc đọc, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoặc giữ, hoặc cúng dường nhiều cách chú này thì kiếp kiếp không sanh vào những nơi bần cùng hạ tiện, chỗ không thể ưa thích.
GIẢNG GIẢI:
Lại được không sanh vào các đường dữ, những chỗ thấp kém không như ý. Như vậy, người khéo trì chú tâm này được khế hợp, kết quả được nhiều lợi ích lớn lao.
CHÁNH VĂN:
Các chúng sanh này dẫu tự thân không tạo phước nghiệp, mười phương Như Lai có các công đức thảy đều cho họ hết. Do đó họ được ở trong những kiếp hằng hà sa số không thể nói, không thể nói hết, thường cùng với chư Phật đồng sanh một chỗ, không lường công đức nhóm lại như trái ác xoa, đồng chỗ huân tu, hằng không phân tán.
GIẢNG GIẢI:
Đây nói lên sức mạnh của việc trì chú khiến đồng sanh một chỗ với chư Phật, các thứ công đức cùng nhóm họp.
CHÁNH VĂN:
Vậy nên, có thể khiến người phá giới, giới căn được thanh tịnh; người chưa được giới, khiến cho được giới; người chưa tinh tấn khiến cho tinh tấn; người không trí tuệ khiến được trí tuệ; người không thanh tịnh khiến mau thanh tịnh; người không trì trai giới, tự thành có trai giới.
A-nan! Thiện nam tử ấy, khi trì chú này giả sử có phạm cấm giới đối với lúc chưa thọ giới, khi trì chú về sau các tội phá giới không luận nhẹ hay nặng một thời đều tiêu diệt. Dù đã uống rượu, ăn năm thứ cay hôi các thứ không sạch, tất cả chư Phật, Bồ-tát, Kim Cang, thiên tiên, quỷ thần không cho là có lỗi. Dù mặc y phục rách nát không sạch, thì một cái đi một cái đứng thảy đồng như thanh tịnh. Dẫu không lập đàn, không vào đạo tràng, cũng không hành đạo, thì tụng chú này lại đồng như vào đạo tràng hành đạo, công đức không khác. Dù tạo những tội trọng ngũ nghịch vô gián và tội “tứ khí”, “bát khí” của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, tụng chú này rồi cũng như gió mạnh thổi tan đống cát, những nghiệp nặng như vậy đều diệt trừ không còn sót một mảy may.
A-nan! Nếu có chúng sanh, từ vô lượng vô số kiếp đến nay, có tất cả các tội chướng hoặc nặng hoặc nhẹ từ đời trước đến giờ chưa kịp sám hối, nếu hay đọc tụng biên chép chú này đeo trên thân, hoặc để chỗ ở như trang trại nhà vườn, quán thì những nghiệp chứa nhóm từ trước, cũng như nước nóng tiêu băng không bao lâu đều được ngộ Vô sanh pháp nhẫn.
GIẢNG GIẢI:
Nhờ chú này gia trì thành tựu được giới tuệ, tinh tấn, tiêu trừ được những nghiệp chướng cho đến ngộ Vô sanh pháp nhẫn. Rõ ràng như vậy. Nếu chúng ta tụng đến chỗ bặt niệm, thấu đến chỗ tâm chú sâu kín không thể nghĩ bàn, thì thành tựu được những công đức không thể nghĩ bàn, đó là ý nghĩa chân thật.
CHÁNH VĂN:
Lại nữa, A-nan! Như có người nữ chưa sanh con trai con gái, muốn cầu mang thai, nếu hay chí tâm nhớ niệm hoặc đeo chú Tát Đát Đa Bát Đát Ra này trên thân, thì liền sanh những con trai con gái có phước đức trí tuệ; hoặc cầu sống lâu thì được sống lâu; cầu quả báo mau viên mãn, thì được mau viên mãn, cho đến thân mạng sắc lực cũng lại như thế, sau khi mạng chung tùy nguyện vãng sanh trong mười phương quốc độ, chắc chắn không sanh nơi biên địa hạ tiện, huống nữa là các tạp hình.
GIẢNG GIẢI:
Cũng lại được thành tựu sự mong cầu như ý, cho đến sanh nơi tốt lành, chỗ như ý. Đó là những ý nghĩa công đức thù thắng của tâm chú này.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Nếu các quốc độ như các châu, huyện, làng, xóm có những tai nạn như đói khát, dịch lệ, hoặc ở những nơi có nạn giặc cướp đao binh, đấu tranh cùng tất cả những chỗ có ách nạn khác, nên viết thần chú này để nơi bốn cửa thành và các tháp hoặc trên các Thoát-xà (đài cao) để cho các chúng sanh hiện có trong cõi nước kính thờ chú này lễ bái, cung kính nhất tâm cúng dường, lại khiến trong nhân dân mỗi người đều đeo chú trên thân, hoặc mỗi người đều để nơi chỗ mình ở, thì tất cả những tai ách thảy đều tiêu diệt.
A-nan! Chúng sanh trong nước, tùy chỗ nào có thần chú này, thì thiên, long hoan hỷ, mưa gió thuận thời tiết, ngũ cốc trúng mùa, dân chúng đều an vui. Lại cũng hay trấn giữ tất cả các thứ ác tinh nó tùy nơi biến ra những điều kỳ lạ, tai chướng không khởi lên, người không hoạnh tử. Gông cùm, xiềng xích không dính vào thân được, ngày đêm ngủ yên, được thường không có mộng dữ.
A-nan! Cõi Ta-bà này có 84000 tai biến ác tinh, hai mươi tám đại ác tinh làm thượng thủ, lại có tám đại ác tinh làm chủ, khi hiện ra trong đời với nhiều hình trạng có thể sanh ra các thứ tai nạn khác lạ cho chúng sanh. Nếu chỗ nào có thần chú này, thì tất cả đều tiêu diệt. Lấy mười hai do-tuần làm vòng kiết giới, các tai biến hung dữ hẳn không thể vào được.
GIẢNG GIẢI:
Sức chú này hay trừ các tai ách, nạn dữ và thường được an lành. Như đã nói, chúng ta phải nhớ đến tâm chú, nhất tâm chuyên chú không tạp niệm mới được những kết quả, lợi ích lớn.
CHÁNH VĂN:
Vậy nên, Như Lai tuyên dạy chú này, vì để bảo hộ hàng sơ học tu hành đời vị lai được vào Tam-ma-địa. Thân tâm thơ thới, được rất an ổn, lại không bị tất cả các ma, quỷ thần và những oan khiên đời trước, nghiệp cũ nợ xưa từ vô thủy tới nay đến khuấy hại nhau. Ông và các người hữu học trong chúng cùng các người tu hành đời vị lai y như lời dạy của Tôi mà lập đàn tràng đúng theo pháp trì giới, gặp được tăng thanh tịnh chủ trì trong việc thọ giới, đối với chú tâm này không sanh lòng nghi hối, thì những thiện nam tử ấy, chính nơi thân cha mẹ sanh ra đây, không được tâm thông thì mười phương Như Lai bèn là nói vọng.
GIẢNG GIẢI:
Cuối cùng, Phật mới lộ ra ý chính, trước Phật nói về sức thần chú trừ những tai ách, hoạn nạn v.v… nhưng đó chưa phải là ý chính, đây mới là ý chính. Cho nên đây mới kết lại: “Vậy nên, Như Lai tuyên dạy chú này vì để bảo hộ hàng sơ học tu hành đời vị lai được vào Tam-ma-địa”. Tức là chú này giúp người sơ học tu hành được tâm thông, vào được Tam-ma-địa và để trừ các ma sự. Vì người nhất tâm thanh tịnh trì tâm chú này thì bặt niệm kia đây lăng xăng, không để những niệm khác xen vào, lại thêm sức thầm gia bị của Như Lai, thì vào chánh định, được tâm thông là dễ tin thôi! Điểm quan trọng là phải biết chỗ “trì”, trì chú đến chỗ nhất tâm thanh tịnh.
CHÁNH VĂN:
Phật dạy lời nói ấy rồi, vô lượng trăm ngàn Kim Cang trong hội, một lúc đứng trước Phật chắp tay đảnh lễ mà bạch Phật rằng: “Như lời Phật dạy, chúng con sẽ thành tâm bảo hộ người tu đạo Bồ-đề như vậy”.
Lúc bấy giờ, Trời Phạm Vương và Trời Đế-thích, Tứ Thiên Vương cũng đối trước Phật đồng thời đảnh lễ mà bạch Phật rằng: “Xét có người lành tu học như vậy, chúng con phải hết lòng chí thành bảo hộ, khiến cho trong một đời tu hành được như nguyện”.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây, các vị Trời Phạm Vương, Đế-thích, Tứ Thiên Vương đồng phát nguyện hộ trì người tu hành.
CHÁNH VĂN:
Lại có vô lượng đại tướng Dược-xoa, các Vua La-sát, Vua Phú-đơn-na, Vua Cưu-bàn-trà, Vua Tỳ-xá-giá, các Đại quỷ vương như Tần-na, Dạ-ca và các quỷ soái cũng đối trước Phật chắp tay đảnh lễ mà bạch Phật: “Chúng con cũng thệ nguyện hộ trì người ấy, khiến cho tâm Bồ-đề mau được viên mãn”.
GIẢNG GIẢI:
Các vị Đại quỷ vương cũng phát nguyện hộ trì cho người trì chú.
CHÁNH VĂN:
Lại có vô lượng nhật nguyệt thiên tử, phong sư, vũ sư, vân sư, lôi sư, điện bá và các viên tuế tuần quan, chư tinh cùng quyến thuộc v.v…. cùng ở trong hội chắp tay đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng: “Chúng con nguyện bảo hộ người tu hành ấy an lập đạo tràng, đều không sợ sệt”.
GIẢNG GIẢI:
Các vị thần nhật nguyệt, phong sư, vũ sư, v.v… cũng phát nguyện hộ trì người tu hành trì chú.
CHÁNH VĂN:
Lại có vô lượng sơn thần, hải thần, tất cả tinh kỳ đất đai muôn vật, thủy, lục, không, hành, với phong thần vương và chư Thiên Vô sắc giới ở trước Đức Như Lai đồng thời cúi đầu mà bạch Phật rằng: “Chúng con nguyện bảo hộ người tu hành ấy được thành tựu Bồ-đề, hằng không có ma sự”.
GIẢNG GIẢI:
Các vị sơn thần, hải thần v.v… cùng chư Thiên Vô sắc giới cũng phát nguyện hộ trì những người tu hành.
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, tám vạn bốn ngàn na-do-tha, hằng hà sa câu-chi Kim Cang Tạng Vương Bồ-tát, ở trong đại hội liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Như bọn chúng con công đức và sự nghiệp tu hành thành đạo Bồ-đề đã lâu, mà không nhận lấy Niết-bàn, thường theo chú này để cứu hộ người chân chánh tu hành pháp Tam-ma-đề trong đời mạt pháp. Bạch Thế Tôn! Những người tu tâm cầu vào chánh định như thế; nếu ở tại trong đạo tràng hay những lúc đi kinh hành cho đến tâm tán loạn dạo chơi nơi xóm làng, chúng con và đồ chúng sẽ thường đi theo để hộ vệ người ấy. Dẫu cho Ma vương Đại Tự Tại Thiên muốn có phương tiện khuấy phá trọn không thể được. Các quỷ thần nhỏ đi cách xa người ấy mười do-tuần, trừ khi họ phát tâm thích người tu thiền. Bạch Thế Tôn! Những ác quỷ như thế, hoặc các quyến thuộc muốn đến xâm phạm và nhiễu hại người lành ấy, thì con dùng bảo xử đập nát đầu như bụi nhỏ, thường khiến cho người tu hành ấy được như nguyện”.
GIẢNG GIẢI:
Đây, các vị thần Kim Cang mật tích cũng phát nguyện hộ trì người tu hành. Như đây đã nói, các vị này đáng lẽ là tu hành đã thành đạo Bồ-đề rồi, nhưng do nguyện hộ trì người tu hành, cho nên không nhận lấy Niết-bàn, là thực hành hạnh Bồ-tát chớ không phải tầm thường.
***
-
9. MỤC 20: KHAI THỊ VỊ TRÍ TU CHỨNG TRƯỚC VÀ SAU
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Bọn chúng con ngu độn chỉ ưa thích nghe nhiều, đối với các tâm hữu lậu chưa cầu ra khỏi, nhờ lời từ bi chỉ dạy của Phật mới được lối huân tu Chân chánh, thân tâm thư thái, được lợi ích lớn. Bạch Thế Tôn! Người tu chứng Tam-muội của Phật như thế, khi chưa đến Niết-bàn, thế nào gọi là Càn Tuệ địa, trong bốn mươi bốn tâm đến thứ bậc nào mới được danh mục tu hành, đến phương sở nào mới gọi là nhập địa, thế nào gọi là Bồ-tát Đẳng Giác?”. Thưa thỉnh lời ấy rồi năm vóc gieo xuống đất, trong đại chúng nhất tâm chăm chú trông đợi từ âm của Phật.
GIẢNG GIẢI:
Ngài A-nan nghĩ cho người tu hành đời mạt pháp, lo học hiểu mà thiếu thực tu, nên lấy cái gương của bản thân để nhắc nhở: “Chỉ lo nghe nhiều, lo học hiểu mà không có thực tu thì không thắng được phiền não, không hết hữu lậu”. Ngài lại thưa hỏi về thứ lớp tu chứng, tức là từ Càn Tuệ địa là nhân ban đầu cho đến Đẳng Giác, Diệu Giác là chỗ tột, thứ lớp danh mục như thế nào đều thỉnh Phật chỉ dạy.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ông A-nan rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông lại biết vì cả đại chúng và tất cả chúng sanh tu Tam-ma-địa cầu pháp Đại thừa trong đời mạt pháp, xin Tôi xa chỉ cho con đường tu hành vô thượng Chân chánh, từ phàm phu đến Niết-bàn. Nay ông hãy nghe kỹ, Tôi sẽ vì ông nói”.
Ông A-nan và đại chúng chắp tay sạch lòng im lặng nhận nghe lời Phật dạy.
GIẢNG GIẢI:
Phật khen ngợi chỗ thưa hỏi của Ngài A-nan vì lợi ích cho người tu đạo Bồ-đề sau này, và hứa chỉ dạy. Chỗ quan trọng ở đây là Ngài A-nan và đại chúng chắp tay sạch lòng im lặng nghe lời Phật dạy. Phải sạch lòng thanh tịnh nghe chứ không phải nghe một cách hời hợt. Đây Phật mới dạy:
CHÁNH VĂN:
Phật bảo: “A-nan phải biết, diệu tánh vốn viên minh rời các danh tướng, xưa nay không có thế giới và chúng sanh. Nhân vọng mà có sanh, nhân sanh mà có diệt, sanh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân, ấy gọi là hai hiệu Chuyển y Vô thượng Bồ-đề và Niết-bàn của Như Lai.
GIẢNG GIẢI:
Trước khi chỉ ra danh tướng thứ lớp tu hành như lời Ngài A-nan thưa thỉnh, Đức Phật chỉ thẳng cội nguồn chân thật xưa nay. Chỗ này cần lưu ý! Phật dạy rằng: “Diệu tánh vốn là viên minh rời các danh tướng, xưa nay không có thế giới và chúng sanh thì làm gì có thứ lớp!”.
Chúng ta phải thấy được ý sâu của Phật. Diệu tánh vốn là viên minh, là tròn sáng sẵn vậy, không có thêm bớt gì trong đó thì đâu có thứ lớp. Trong kinh Pháp Hoa gọi là “chỉ một việc này thật, có hai thì chẳng phải chân”, vậy còn thứ lớp gì nữa. Vì thế, trước khi chúng ta học đến phần thứ lớp đó thì phải hiểu được, thấu được chỗ chân thật này, mới không mắc kẹt trên thứ lớp. Phật dạy rất kỹ giúp chúng ta không mắc kẹt, ngừa niệm chứng đắc về sau.
Nói có thứ lớp thế này thế kia, quả này quả nọ, Phật sợ chúng ta lại mắc kẹt trên những chứng đắc đó, nên dạy cho thấu được chỗ này thì những cái kia chỉ là phương tiện, không mắc kẹt trên đó. Bởi diệu tánh vốn không hai nhưng do bất giác vọng động mới có niệm khởi, đây nói là nhân vọng mà có sanh, nhân sanh có diệt. Như vậy, cái sanh diệt là vọng, diệt cái vọng gọi là chân, đó là hai pháp Chuyển y Vô thượng Bồ-đề và Niết-bàn của Như Lai.
Do bất giác nên vọng động mà có niệm khởi, đó là đi theo chiều luân hồi, có khởi có diệt đều là vọng, rồi ngay cái vọng đó ngộ trở lại tức là chân. Bởi vì niệm khởi đó là do cái bất giác vọng động, là vọng sanh, nên khi diệt cũng là vọng diệt. Do chúng sanh mê nên thấy thật có khởi có diệt, mới theo đó mà luân hồi. Nếu ngay đó ngộ trở lại suốt cái vọng, không theo sanh diệt, tức là chân. Và nếu ngay nơi vọng, ngộ thấy chân rồi thì nó đâu phải có thêm thể thứ hai, ngoài cái vọng mà riêng có “thể chân”! Mà đây là ngay vọng tức là chân, thể vẫn là một, không có cái vọng riêng, đó gọi là chuyển mê thành giác, chuyển sanh tử thành Niết-bàn.
Và chuyển như vậy là chuyển cái gì? Đó là chuyển cái tên thôi, chuyển tên mê thành tên giác mà không phải chuyển cái thể, vì thể đâu có hai. Cũng như chuyển sanh tử thành Niết-bàn đó cũng là chuyển cái tên chứ không phải là chuyển cái thể. Cái thể là ngay trong sanh tử tức Niết-bàn rồi. Thành ra nói chuyển mà không có gì để chuyển, không cho thấy có sở đắc, không thấy có được cái gì khác. Như vậy, do có vọng nên mới lập có chân, cũng như có mê nên mới chuyển mê thành giác, có phương tiện để trở về. Và những thứ lớp trở về đó cũng là phương tiện, không có thật thể. Thế nên, chúng ta không vì đó mà mắc kẹt.
Trong quyển Truyền Tâm Pháp Yếu, Ngài Hoàng Bá có khai thị rằng: “Chứng tâm này thì có nhanh, có chậm, có người nghe pháp một niệm liền được vô tâm, có người đến Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng mới được vô tâm. Dài hay ngắn, được vô tâm mới là trụ. Lại không có thể tu, không có thể chứng, thật không có sở đắc, chân thật không dối. Người chỉ một niệm mà được cùng với người đến Thập Địa mới được, công dụng tương đương, không có sâu cạn, chỉ là nhiều kiếp luống chịu khổ nhọc vậy thôi”.
Ý nói là tuy có Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng cho đến Thập Địa, cũng là phương tiện cho người mê trên đường trở về, nhưng gốc chân thật thì vẫn không hai. Ngài Hoàng Bá nói rõ: “Người ngay một niệm được cùng với người đến Thập Địa mới được thì công dụng tương đương, chỉ do nhiều kiếp luống khổ nhọc vậy thôi’.
Do công phu nhiều kiếp, gạn lọc tình mê, cuối cùng cũng được cái sẵn có không hai như nhau, không phải có được thêm cái gì khác; không phải do mình tu hành nhọc nhằn nhiều kiếp được cái lớn hơn, còn người ngay một niệm nhận thì được cái nhỏ hơn, không phải vậy. Hiểu được chỗ này thì mới thấu được nghĩa chân thật.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Nay ông muốn tu chân Tam-ma-địa thẳng đến đại Niết-bàn của Như Lai, thì trước phải biết hai nhân điên đảo của thế giới và chúng sanh này. Nếu điên đảo không sanh đó là chân thật Tam-ma-địa của Như Lai.
GIẢNG GIẢI:
Phật dạy rất rõ, điên đảo không sanh tức là chân thật Tam-ma-địa của Như Lai. Vậy muốn tu Tam-ma-địa chân thật (chánh định) trước cần phải rõ hai thứ nhân điên đảo của thế giới và chúng sanh để không lầm. Không có điên đảo tức là vào chánh định chân thật rồi. Đó là con đường thẳng.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Thế nào gọi là chúng sanh điên đảo? A-nan! do cái tâm bản tánh là minh, và tánh minh ấy viên mãn cùng khắp, nên nhân tánh minh phát ra hình như có tánh, vọng kiến nhận là có tánh sanh ra, từ chỗ rốt ráo là không, lại thành rốt ráo là có.
GIẢNG GIẢI:
Chúng ta học kỹ để quán cho thấu chỗ này sẽ phá tan tình mê điên đảo. Phật chỉ thế nào là chúng sanh điên đảo? Bản tánh của tâm vốn sẵn là sáng, là tròn khắp không thêm bớt. Nhưng do bất giác không giữ tự tánh, theo cái sáng đó mà phát ra thành vọng thấy như là có cái tánh sanh, ở trước gọi là đem cái minh mà minh trở lại nó. Bản tánh vốn là minh, là sáng rồi nhưng vì bất giác tưởng đâu nó không sáng, nên mới theo cái sáng đó mà soi sáng trở lại nó, biến nó thành cái được soi sáng. Nó vốn sẵn là gốc của sự soi sáng mà bây giờ biến nó thành cái ngọn, giống như là có cái tánh thứ hai. Mê là chỗ đó. Đó gọi là trên đầu lại thêm đầu.
Vì thế, vọng thấy thêm có tánh để nhận, để thấy, thành có năng kiến sở kiến. Tức là từ chỗ rốt ráo không mà thành ra rốt ráo có là chỗ đó; có này có kia, có năng có sở rồi mắc kẹt trong đó, dính trong đó, và cứ theo đó đi mãi quên mất cả đường về. Trong khi lẽ thật nó vốn là không, vì nó từ nơi rốt ráo không mà thành có, nghĩa là thành ra cái có đó cũng vốn là không, không có thật tánh, gọi là tánh không. Phật dạy điên đảo là chỗ đó.
Như vậy, tuy tùy duyên theo cái mê rồi sanh đủ thứ sai biệt, điên đảo nhưng vẫn không rời cái thể bất biến. Tức là diệu tánh không hai vẫn không mất, nếu ngay chỗ điên đảo đó mà ngộ trở lại thì tức chân, cái thể bất biến vẫn sẵn đó. Vì thể bất biến vẫn không mất cho nên chúng ta còn có hy vọng tu để giác ngộ trở lại thành Phật. Đó là một ưu điểm.
Ở đây, chúng ta cần quán cho thấu tột cái rốt ráo có này vốn là không, đó là chuyển vọng thành chân, là con đường chuyển trở về. Học hiểu rồi, chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa Bát-nhã nói không, hay nói tánh không là thế nào.
Bởi vì thường người ta hiểu nghĩa “không” tức là đối với cái “có”, hay “không” là dẹp cái “có” mà thành cái “không”, hoại cái “có” mà thành cái “không”, còn cái không mà Bát-nhã nói đây là ngay cái có mà thấy tột nó là không, không cần phải phá hoại nó mới thành không. Ngay có mà thấy không thì nó có mà cũng đâu thành vấn đề gì, đâu có ngăn ngại gì. Nên khi tu hành giác ngộ rồi, thì ngay những cái có dẫy đầy nhưng vẫn sáng được tự tánh như thường; cái có không làm ngăn ngại gì hết, thành ra không sợ rơi vào không. Do người học không thấu thành mắc kẹt, rồi cho là Bát-nhã chấp không, thì đó là cái hiểu chưa tới.
CHÁNH VĂN:
Cái năng hữu và sở hữu này, chẳng phải năng nhân sở nhân và những tướng năng trụ, sở trụ rốt ráo không có cội gốc. Từ gốc vô trụ đó mà kiến lập ra thế giới và chúng sanh.
GIẢNG GIẢI:
Quán thấu tột cái rốt ráo có đó nó cũng từ cái vọng thấy mà thành, nhớ kỹ! Mà nó đã từ cái vọng thấy tức là nó cũng là vọng thôi. Cái hay thấy và cái được thấy, cả hai cũng đều là vọng hết. Cho nên đây nói cái năng hữu và sở hữu này nó cũng không thật; đến cái năng nhân, sở nhân và cái năng trụ, sở trụ cũng rốt ráo không có cội gốc, tức đều không thật luôn. Bởi cái vọng thấy kia đã là vọng, rồi lấy cái vọng làm nhân thì cái nhân đó cũng vọng luôn, nên gọi năng nhân, sở nhân cũng là vọng, rồi năng trụ, sở trụ cũng là vọng, cuối cùng thật không có cội gốc gì có thể nương, nên gọi là từ gốc vô trụ mà lập.
Vậy cả thế giới và chúng sanh đều từ cái gốc vô trụ được kiến lập, lập là lập ở trên cái gốc vô trụ, thì cuộc sống chúng ta sẽ ra sao? Cuộc sống bấp bênh. Vậy mà chưa mấy ai tỉnh ngộ! Chính chỗ này gọi là chỗ đặc ân để chúng ta tu hành. Nghĩa là chính từ cái gốc vô trụ, nên chúng ta tu hành có thể nhổ nó lên bất cứ lúc nào! Bởi nó là gốc vô trụ mà!
Tuy nó là điên đảo, tuy nó là tập khí sanh tử lâu dài thế này thế kia, nhưng cũng đều từ cái gốc vô trụ lập, chúng ta có thể nhổ lên bất cứ lúc nào cũng được. Ngay đây, nếu giác trở lại liền nhổ gốc nó lên thôi. Cổ đức thường thí dụ một căn nhà tối để cả mấy ngàn năm, nhưng một phen đem đèn sáng vào thì nhà tối liền sáng chứ đâu phải đợi mấy ngàn năm nữa nó mới sáng! Đây cũng vậy, tuy bị vô minh nhiều tập khí điên đảo che mờ hằng vô lượng kiếp, nhưng nếu ngay đây chúng ta ngộ trở lại tự tánh chân thật của mình xưa nay chưa từng sanh diệt là vượt qua vô lượng kiếp lầm mê. Đó là chỗ quan trọng để tất cả có đầy đủ niềm tin tiến lên.
CHÁNH VĂN:
Do mê không nhận được tánh viên minh sẵn có, nên sanh ra hư vọng, tánh hư vọng không có tự thể, không phải thật có chỗ nương. Toan muốn trở lại chân tánh, thì cái muốn chân đó đã chẳng phải tánh chân như chân thật. Cầu trở lại không đúng chân lý, thì liền thành ra những phi tướng; không phải sanh gọi rằng sanh, không phải trụ gọi rằng trụ, không phải tâm gọi rằng tâm, không phải pháp gọi rằng pháp.
GIẢNG GIẢI:
Đây nói về tướng chúng sanh điên đảo.
Phật dạy rõ, do tánh viên minh là tròn sáng sẵn có như vậy, mà mê nó cho nên sanh ra hư vọng; mà đã là hư vọng thì không tự thể có thể nương, tức không có tự ngã.
Đã khởi hư vọng, rồi muốn bỏ vọng trở về chân, thành ra cái muốn đó cũng chưa rời khỏi vọng. Nên ở đây nói rõ “toan muốn trở lại chân tánh, thì cái muốn chân đó đã chẳng phải là tánh chân như chân thật”. Bởi cái chân ở đâu mà trở về? Rõ là lẩn quẩn.
Chẳng lẽ ngoài cái vọng riêng có cái chân hay sao mà bỏ vọng để trở về chân? Chính cái thấy này đã ở trong vọng rồi, nên đây Phật chỉ thẳng: “Cầu trở lại đã không đúng với chân lý thì mới thành ra những cái phi tướng, sanh không phải sanh, trụ không không phải trụ, không phải tâm gọi rằng tâm, không phải pháp gọi rằng pháp”.
Ngay đó thấy được sự hư dối điên đảo, không phải sanh mà gọi là sanh, hay nói ngược lại, sanh là không thật sanh, tức ngay sanh liền thấu vô sanh. Đó là trở về chứ không phải trở về đâu hết. Ngay cái điên đảo tức là phi điên đảo, ngộ trở lại liền xong.
Do đó, chân lý giác ngộ vẫn sờ sờ trước mắt chớ không đâu xa, không có cái chân nào riêng khác ở ngoài cái vọng. Phật chỉ rõ tướng chúng sanh điên đảo cũng từ trong cái chân do mê thành vọng vậy thôi.
CHÁNH VĂN:
Xoay vần phát sanh, sanh lực phát huy huân thành ra nghiệp báo. Đồng nghiệp thì cảm với nhau. Nhân đó lại cảm ra các nghiệp diệt nhau sanh nhau, do đây mà có chúng sanh điên đảo.
GIẢNG GIẢI:
Nếu theo cái điên đảo đó xoay vần và phát sanh, mà xoay vần phát sanh là cũng phát sanh trong cái điên đảo, rồi huân thành nghiệp báo. Mà đã có nghiệp báo thì sẽ có chiêu cảm với nhau, cột nhau ở trong vòng điên đảo. Thí dụ, chúng ta tạo nhân rồi có nghiệp báo thì nghiệp báo đó là đáp lại cái nhân, do đó mà sẽ kết hợp với nhau trong vòng điên đảo, cho nên ở đây nói “nhân đó mà cảm ra có các nghiệp diệt nhau, sanh nhau”. Nghĩa là vì ghét nhau cho nên cảm đến diệt nhau, rồi vì yêu cho nên cảm đến sanh nhau, thành ra cứ xoay vần điên đảo trong cái sanh diệt với nhau không dứt.
Như vậy, quán chiếu thấy rõ cuộc sống của chúng sanh không có ý nghĩa gì! Nên đâu có cái gì vui mà tham luyến hay mê mãi ở trong đó lại còn chưa chịu tỉnh! Chúng ta phải khéo thức tỉnh, đừng để tạo nghiệp rồi trả nghiệp, cứ vậy xoay vần lẩn quẩn với nhau chịu khổ toàn là ở trong cái hư vọng điên đảo. Trong khi đang sống trong cái chân tức là tánh viên minh sẵn có thì lại bỏ quên không ngó ngàng đến nó, đó là chỗ cần thức tỉnh trở lại. Đó là nói về chúng sanh điên đảo.
Đến tướng thế giới điên đảo.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Thế nào gọi là điên đảo về thế giới? Do cái năng hữu sở hữu từng phần, từng phần, từng đoạn giả dối sanh ra, vì thế mà không gian được thành lập; do phi nhân làm nhân (tức là không phải cái nhân mà làm ra cái nhân) không có năng trụ sở trụ, nên dời đổi không dừng, vì thế mà thời gian được thành lập. Ba đời, bốn phương, hòa hợp xen lẫn với nhau, chúng sanh biến hóa thành mười hai loài.
GIẢNG GIẢI:
Ở trước, nói là từ cái vọng thấy mà có cái vọng “hay có” và cái vọng “được có”, tức là cái vọng năng hữu, sở hữu. Mà đã có cái được có sanh ra tức là có không gian thành lập. Nhưng thành lập trong cái không phải nhân mà thành nhân chứ không phải cái nhân chân thật, do đó có cái vọng nhân, vọng quả.
Nhân quả đã là vọng rồi thì chỗ trụ cũng là vọng luôn; mà chỗ trụ đã là vọng thì phải dời đổi không dừng, là thời gian được thành lập. Nhưng cũng thành lập từ trong chỗ hư vọng. Như vậy ba đời, bốn phương (ba đời thuộc về thời gian, bốn phương thuộc không gian) hai thứ này lại giao xen lẫn với nhau biến hóa thành ra có mười hai loài.
Ngài Hàm Thị giải thích thêm là cái vọng kiến của chúng sanh bị cái giới (không gian) làm hạn cuộc. Tức cái chân thật thì thấy rỗng suốt, trùm khắp nhưng cái vọng thấy này của chúng sanh lại bị không gian làm hạn cuộc, rồi vọng niệm luôn đổi dời, do đó chỗ cảm của các loài chia thành mười hai. Tức là thế giới chúng sanh cứ xoay vần, biến hóa, bị hạn cuộc trong không gian và thời gian này.
CHÁNH VĂN:
Vậy nên trong thế giới nhân động mà có tiếng, nhân tiếng mà có sắc, nhân sắc mà có hương, nhân hương mà có xúc, nhân xúc mà có vị, nhân vị mà biết pháp, sáu thứ vọng tưởng rối loạn tạo thành nghiệp tánh, nên phân chia thành mười hai, do đây mà xoay vần mãi mãi. Vậy nên, trong thế gian những thứ: thanh, hương, vị, xúc biến đổi cùng tột đến mười hai lần thì xoay trở lại.
GIẢNG GIẢI:
Ý nói là lẩn quẩn trong vòng mười hai: Tức sáu căn, sáu trần cứ nương nhau mà thành. Đây trước lấy cái tiếng, bởi vì cái tiếng từ tướng động mà khởi, chúng sanh lại do vọng động mới thành các thứ, cho nên lấy cái tiếng là tướng động làm trước.
Còn nói nhân động mà có tiếng, nhân tiếng mà có sắc, nhân sắc mà có hương, đó chỉ cho sáu trần nương nhau thành. Sáu trần xen dính với sáu căn trôi dần biến hóa không cùng, nên tột cùng đến mười hai lần thì trôi trở lại, lẩn quẩn trong vòng sáu căn, sáu trần đó. Đây nói thêm là sáu thứ vọng tưởng tức sáu thức phân biệt rối loạn nên tạo thành các thứ nghiệp, đó gọi là cái nhân có nghiệp tánh xoay vần. Nếu khéo thức tỉnh, ngay đó xoay trở lại mới là cái hay.
CHÁNH VĂN:
Dựa trên những tướng điên đảo xoay vần đó, nên trong thế giới có những loài sanh bằng trứng, loài sanh bằng thai, loài sanh nơi ẩm ướt, loài hóa sanh, loài có sắc, loài không sắc, loài có tưởng, loài không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, hoặc chẳng phải không tưởng.
GIẢNG GIẢI:
Đây nói là nương trên những tướng điên đảo xoay vần đó thành ra trong thế giới có các loài sanh ra (mười hai loài sanh). Kể tổng quát là: Loài sanh bằng trứng, bằng thai, thấp sanh, hóa sanh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng. Đó là nói chung, kế đây mới giải thích ra từng loài.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Nhân trong thế giới “hư vọng” luân hồi, điên đảo về động, nên hòa hợp với khí thành ra có tám muôn bốn ngàn loạn tưởng bay lặn, vì vậy nên có yết-la-lam trôi lăn trong cõi nước, các loài cá, chim, rùa, rắn đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Yết-la-lam (tức mầm trứng) là vị trí phôi thai ban đầu. Loài noãn sanh thuộc về hư vọng luân hồi, nghiệp chính về noãn là tưởng hư vọng, thuộc cái điên đảo về động. Loài này thuộc về tưởng sanh, mà tưởng thì nhẹ, cho nên động, động thành ra những loài loạn tưởng bay lặn như là cá, chim, rùa, rắn v.v...
CHÁNH VĂN:
Còn loài thai sanh là nhân trong thế giới “tạp nhiễm” luân hồi, điên đảo về dục, nên hòa hợp với tư thành ra tám muôn bốn ngàn loạn tưởng đi ngang đi thẳng. Vì vậy, nên có yết-bồ-đàm xoay lăn trong cõi nước, các loài người, súc, rồng, tiên đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Yết-bồ-đàm (tức bào thai), thai sanh thuộc về “tạp nhiễm” luân hồi, điên đảo về dục sanh. Vì dục nên nó thuộc tình, do đó mà có tạp nhiễm. Loài này gồm những loài đi ngang đi thẳng, chúng ta là người, đi thẳng, còn những loài như rồng, súc thì đi ngang; cũng nằm trong điên đảo, hư vọng.
CHÁNH VĂN:
Loài thấp sanh là nhân trong thế giới “chấp trước” luân hồi, điên đảo về đến nên hòa hợp với noãn thành ra tám muôn bốn ngàn loạn tưởng nghiêng ngửa. Vì vậy, nên có tế thi thấp sanh trôi lăn trong cõi nước, các loài lúc nhúc quậy động đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Noãn tức là hơi ấm. Những loài thấp sanh, những loài lúc nhúc thuộc về “chấp trước” luân hồi, điên đảo về cái đến (hướng đến). Tức là nó thuộc về gá hợp sanh, do thấy chỗ ẩm ướt rồi đến gá hợp mà sanh.
CHÁNH VĂN:
Loài hóa sanh là nhân trong thế giới “biến dịch” luân hồi, điên đảo về giả, nên hòa hợp với xúc thành ra tám muôn bốn ngàn loạn tưởng mới cũ. Vì vậy, nên có tướng yết-nam hóa sanh trôi lăn trong cõi nước, các loài lột xác bay đi đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Yết-nam tức là thịt cứng. Hóa sanh thuộc về “biến dịch” luân hồi, nó biến hóa dời đổi, giống như loài lột xác chán cái cũ thích cái mới. Nó điên đảo giả hòa hợp với xúc tưởng. Do chán cái cũ thích cái mới nên nó hòa hợp biến đổi thành.
CHÁNH VĂN:
Loài có sắc là nhân trong thế giới “lưu ngại” luân hồi, điên đảo về chướng, nên hòa hợp với trước thành tám muôn bốn ngàn loạn tưởng tinh diệu, vì vậy, nên có yết-nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước, các loài hưu cữu, tinh minh đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Loài này thuộc về “lưu ngại” luân hồi, nó điên đảo về chướng. Chướng là ngăn ngại bởi có sắc, nó hòa hợp với trước mà thành. Trước là hiện rõ có thể thấy, tức thành sắc. Ngài Hàm Thị dạy thêm, do chấp cứng cái vọng tưởng tinh minh đó mà thành có hiển trước, như những loài tinh tú trên trời, loài gá vào linh vật để báo điềm tốt, xấu ở đời đều gọi là loài có sắc.
CHÁNH VĂN:
Loài không sắc là nhân trong thế giới “tiêu tán” luân hồi, điên đảo về hoặc, nên hòa hợp với ám thành tám muôn bốn ngàn loạn tưởng thầm ẩn, vì thế, nên có yết-nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước, các loài không tán, tiêu, trầm đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Loài này thuộc về “tiêu tán” luân hồi, điên đảo về hoặc tức là mê mờ, nó hòa hợp với ám (mờ tối) mà thành, cho nên gọi là vô sắc, không rõ ràng. Ngài Hàm Thị gọi là nhàm chán cái có để trở về cái không, rồi chẻ cái sắc làm không thành tối tăm bất giác. Ở trên là cõi Vô sắc, giữa là chủ thần kỳ, còn ở dưới là những quỷ mị u ẩn.
CHÁNH VĂN:
Loài có tưởng, nhân trong thế giới “võng tượng” luân hồi, điên đảo về ảnh, nên hòa hợp với ức thành tám muôn bốn ngàn loạn tưởng tiềm kết vì thế có yết-nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước, các loài thần quỷ, tinh linh đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Loài này thuộc về “võng tượng” luân hồi, võng tượng tức là từ xa mà tưởng tượng thôi chứ không có thật. Điên đảo về ảnh (bóng dáng), tức là những bóng dáng hòa hợp với ức (nhớ tưởng) thành loạn tưởng tiềm kết (ngầm ẩn) không thật, chỉ là tưởng thôi. Ngài Hàm Thị gọi là mờ tối, không có chủ, không có tưởng nhớ, dường như sáng dường như tối, cho nên nó không rõ ràng. Có mà không, giống như chợt có chợt không, ham mộ sự linh thông tùy theo chỗ nhớ tưởng mà hiện ra các thứ quỷ u ám.
CHÁNH VĂN:
Loài không tưởng là nhân trong thế giới “ngu độn” luân hồi, điên đảo về si, nên hòa hợp với ngoan thành tám muôn bốn ngàn loạn tưởng khô cảo, vì thế có yết-nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước, các loài tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Những tinh chất của các thứ đất, cây, vàng, đá thuộc “ngu độn” luân hồi, điên đảo về si, hòa hợp với ngoan (tức vô tri) mà thành. Ngài Hàm Thị giải có hai loại: “Một là do sự huân tập ngu độn đời trước, hai là do pháp tu tập giống như diệt tâm, diệt trí, như cây, đá không biết gì. Trên tột là trời Vô tưởng, sức định đến tám muôn kiếp nhưng rốt sau cũng đọa xuống; còn dưới là những tinh thần hóa làm cây, làm vàng, làm đá đều thuộc về loài không tưởng”.
CHÁNH VĂN:
Chẳng phải có sắc tức là nhân trong thế giới “tương đối” luân hồi, điên đảo về ngụy nên hòa hợp với nhiễm thành tám muôn bốn ngàn loạn tưởng nhân y, vì thế có yết-nam chẳng phải có sắc tướng mà có sắc, trôi lăn trong cõi nước, các loài thủy mẫu v.v…. lấy con tôm làm mắt đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Loài chẳng phải có sắc này thuộc về “tương đối” luân hồi, điên đảo về ngụy (tức dối trá) rồi hòa hợp với cái nhiễm mà thành. Ngài Hàm Thị gọi là “nhân nương nơi kẻ khác để lợi ích cho mình”. Đây là những người tu tập hạnh nghiệp nương nơi kẻ khác để lợi ích cho mình, khéo mượn cái hư dối như là con thủy mẫu mượn con tôm làm mắt, rồi nắm lấy vật thành thân thể ăn nhờ mà gá mạng sống vào, một phen đổi như vậy là mê mất cái thiên chân.
CHÁNH VĂN:
Loài chẳng phải không sắc là nhân trong thế giới “tương dẫn” luân hồi, điên đảo về tánh, nên hòa hợp với chú mà thành ra tám muôn bốn ngàn loạn tưởng hô triệu, vì vậy thành có yết-nam chẳng phải không sắc tướng mà không sắc trôi lăn trong cõi nước, chú trớ, yểm sanh các loài đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Loài này là thuộc về “tương dẫn” luân hồi (hấp dẫn lẫn nhau), điên đảo về tánh hòa hợp với chú (tức là chú trớ) mà thành, vốn tự không có sắc, nhân nơi chú trớ hô triệu mà thành tinh mị. Đây là do tự nó không có chủ, chỉ theo bóng, gá với tiếng, thậm chí tiếng dâm, lời bi xen lẫn nhau mà dẫn đến có cử động. Do có thói quen thành tánh, nghe tiếng vang mà đến, sống mất chủ, chỉ nhờ nghe chú trớ hô triệu thì hiện, hay nghe tiếng vang mà đến.
CHÁNH VĂN:
Loài chẳng phải có tưởng là nhân trong thế giới “hợp vọng” luân hồi, điên đảo về vọng, nên hòa hợp với dị mà thành ra tám muôn bốn ngàn loạn tưởng hồi hỗ. Vì vậy, có yết-nam chẳng phải có tướng tưởng mà thành tưởng trôi lăn trong cõi nước, những giống tò vò mượn chất khác thành cái thân của mình đầy dẫy.
GIẢNG GIẢI:
Dị tức là khác, hồi hỗ tức là xen lẫn qua lại với nhau. Loài chẳng phải có tưởng này thuộc về “hợp vọng” luân hồi, nó hợp với cái vọng, điên đảo về vọng, hòa hợp với cái khác mà thành. Ngài Hàm Thị luận: “Về nhân là xả bỏ cái nặng làm cái nhẹ, chấp lấy cái đơn sơ làm cái sâu kín. Cái ân không gì lớn hơn mà thế gian lại quên đi”. Tức là những kẻ quên ân, tình cờ đồng một nghĩa nên phải chịu quả báo sống giống như con tò vò mượn chất khác mà thành thân mình.
CHÁNH VĂN:
Loài chẳng phải không tưởng là nhân trong thế giới “oán hại” luân hồi, điên đảo về sát, nên hòa hợp với quái thành tám muôn bốn ngàn tư tưởng ăn thịt cha mẹ, vì vậy có yết-nam không phải tướng tưởng mà không tưởng, trôi lăn trong cõi nước, như chim thổ cưu ấp khối đất làm con và chim phá kính ấp trái cây độc làm con, con lớn lên thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loại ấy đầy dẫy. Ấy gọi là mười hai loài chúng sanh vậy.
GIẢNG GIẢI:
Loài này là thuộc về loài “oán hại” luân hồi, tạo những nhân oán hại với nhau, điên đảo về giết hại, hòa hợp với quái mà thành. Ngài Hàm Thị gọi là từ oán hại mà sanh ra ân ái. Ân ái là có tưởng, oán hại thì không tưởng, suy tìm cái nhân thì sẽ thấy từ trong nghĩa thương mến nhau mà khởi ra cái tưởng sân hận giết hại; từ trong nghĩa thương mến tự không thể xa lìa mà sân hận và sát hại cũng là chỗ hẳn phải lộ ra. Như chim thổ cưu ăn thịt mẹ, chim phá kính ăn thịt cha, đều do nghiệp cũ tạo thành; mặc tình theo nghiệp yêu ghét mà dùng lẫn lộn với nhau. Tức là yêu mà không được thì giết, kết thành những oán hại. Mới thấy thế giới chúng sanh đủ thứ điên đảo.
Học tới đây rồi, chúng ta thấy đâu có cái gì đáng để tham đắm trong thế giới điên đảo như vậy. Sanh vào đây là do sự mê lầm bất giác nào có vui sướng gì! Biết rồi phải tu để ra khỏi luân hồi, đó là việc quan trọng. Như vậy, gốc là từ diệu tánh tròn sáng sẵn có mà không chịu sống, lại bất giác theo cái sáng mà vọng khởi ra có thế giới chúng sanh điên đảo hiện bày. Tức là từ chỗ không có danh tướng mà thành có danh tướng sai biệt đầy dẫy.
Tuy nhiên, ngay trong chỗ thế giới chúng sanh hiện có đây, nó vẫn không rời diệu tánh tròn sáng, đó là điểm đặc biệt, cũng là cái ân lớn để chúng ta tu tập trở về. Ngay khi sống trong thế giới chúng sanh điên đảo này, dẫy đầy những thứ hư dối sai biệt, nhưng vẫn không rời diệu tánh tròn sáng. Cho nên nói vọng không rời cái chân, bởi vì cái có này cũng là “điên đảo có” chứ không phải thật có nên tánh nó vẫn là không, có nhưng mà tánh vẫn là không. Như vậy, nó có mà cũng không thật có, tức là nó cũng không rời chân tánh, người khéo ngay đó ngộ trở lại thì diệu tánh vốn tròn sáng sẵn có từ bao giờ không mất.
Trong kinh Kim Cang, Phật bảo rõ: “Thế giới tức chẳng phải thế giới, chúng sanh tức là chẳng phải chúng sanh”. Đó là nhắc cho tất cả chớ có lầm mê trong đây mãi mà quên cội nguồn chân thật sẵn có của mình, là cái quý báu mà lại bỏ quên.
Thiền sư Sở Nam khi đến tham vấn Ngài Hoàng Bá, Ngài Hoàng Bá hỏi:
- Thế nào là trước khi ông chưa hiện hình bóng ở trong ba cõi?
Câu này với người thường cũng khó trả lời.
Ngài Sở Nam thưa:
- Hiện nay đâu phải có.
Ngài Hoàng Bá bảo:
- Có, không hãy gác lại, tánh hiện nay là thế nào?
Sở Nam thưa:
- Chẳng phải xưa nay.
Ngài Hoàng Bá bảo:
- Pháp nhãn của ta chính ở nơi ông.
Đó là chỗ khai thị để người thấy trở về. Hỏi cái gì là trước khi hiện hình bóng trong ba cõi? Nghe qua liền tưởng tượng xa xôi thuở nào, lúc chúng ta chưa có vào trong tam giới này. Đó là sống theo tưởng tượng.
Ngài Sở Nam nói thẳng, ngay cái tức hiện nay cũng đâu phải có, nói gì xa xôi. Ngay đây nó cũng không phải thật nhưng tại người chấp thôi. Ngay đây cũng đâu rời cái vốn sẵn kia, thấy suốt qua không có gì ngăn ngại; đâu phải là bỏ đây mà hướng về cái kia. Khi các Ngài mở sáng mắt đạo rồi, chỗ thấy thông suốt cả xưa nay. Không phải bỏ cái này tìm cái khác. Ngay cái vọng, cái mê lầm điên đảo đây, khéo tỉnh trở lại là đầy đủ sẵn hết, nên nói là “tức hiện nay đâu phải có”. Ngộ thì ngay đây không rời cái đó, nào phải suy tưởng xa xôi. Đây là chỗ mỗi người chúng ta cần phải tin nhận trở về, đừng quá tin vào cái điên đảo hư vọng này, lầm đi trong luân hồi xoay vần không có ngày ra. Đó là nói về thế giới chúng sanh điên đảo.
Đây Phật mới trách lại:
CHÁNH VĂN:
A-nan! Như vậy trong mỗi mỗi loài chúng sanh cũng đều có đầy đủ mười hai thứ điên đảo, cũng như ấn con mắt thì thấy hoa đốm lăng xăng phát sanh. Chân tâm diệu viên thanh tịnh sáng suốt mà điên đảo thì đầy đủ những thứ tư tưởng càn loạn giả dối như vậy. Nay ông tu chứng Tam-ma-địa của Phật, đối với những tư tưởng càn loạn làm nguyên nhân cội gốc của các thứ điên đảo, nên lập ra ba tiệm thứ mới trừ diệt được, như trong cái bình sạch trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và các thứ tro, chất thơm rửa sạch cái bình kia, rồi sau mới đựng được nước cam lộ.
GIẢNG GIẢI:
Đây Phật trách: “Trong mỗi mỗi loài chúng sanh đều có đủ mười hai thứ điên đảo như thế”, cuộc sống của con người chúng ta sống toàn trong điên đảo, nhưng điên đảo này cũng không rời cái thật.
Đây Phật nhắc lại cho rõ: “Cái chân tâm diệu viên thanh tịnh sáng suốt lại không nhận ra, mà ở trong đó điên đảo thành ra đầy đủ những thứ tư tưởng càn loạn giả dối như vậy”. Đó là ở trong cái vô sanh mà đành nhận lấy cái có sanh, mà cái có sanh này là vọng sanh, rồi lẩn quẩn trong sanh tử hư vọng, điên đảo trôi lăn, quên mất đường về. Nếu ngay đó ngộ trở lại, liền thấy rõ mình vốn tự vô sanh từ thuở nào. Cái quý báu như vậy mà chúng ta không khéo nhận trở lại, mãi lo tham đắm trong cái vọng sanh này, rồi trôi lăn lẩn quẩn trên cái hư vọng. Thấy có đau không?
Ở đây, trước khi chỉ ra thứ lớp tu tập trở về, Phật chỉ thẳng lẽ thật đó.
Kế, Phật mới chỉ ra ba thứ tiệm tạm lập để trừ sạch những thứ điên đảo, mà sống trở về với chân tâm diệu viên. Cái điên đảo vốn không có thật, nên nói “trừ” đây là cũng không có cái thật trừ, chỉ là phương tiện tạm lập. Do đó, Phật ngừa trước để chúng ta không mắc kẹt trong thứ lớp tu chứng này kia. Đây Phật mới chỉ ra ba món tiệm thứ.
CHÁNH VĂN:
Thế nào gọi là ba món tiệm thứ? Một là tu tập trừ bỏ trợ nhân; hai là tu chân để gột sạch chánh tánh; ba là tăng tấn trái lại với hiện nghiệp.
GIẢNG GIẢI:
Đây nêu tên ba món tiệm thứ tu tập:
Thứ nhất là tu tập để trừ bỏ trợ nhân, trợ nhân tức là trừ những thứ giúp cho phiền não phát sanh. Nó chưa phải là cái chánh nhưng nó giúp phiền não phát sanh.
Thứ hai là tu chân để gột sạch chánh tánh, tức là gột sạch gốc rễ. Đây mới là căn bản, không để cho có chỗ sanh trở lại.
Thứ ba là tăng tấn hay tăng tiến trái với những hiện nghiệp, là ngược dòng hiện nghiệp để trở về gốc chân thật.
CHÁNH VĂN:
Thế nào là trợ nhân? A-nan! Mười hai loài chúng sanh trong thế giới như thế, không thể tự an toàn mà phải nương bốn cách ăn mới sống còn. Nghĩa là nương theo đoạn thực, xúc thực, tư thực và thức thực. Thế nên Phật nói, tất cả chúng sanh đều nương nơi cái ăn mà sống còn.
GIẢNG GIẢI:
Chúng ta sống là nhờ vào cái ăn, tùy theo nghiệp báo của mỗi loài mà cách ăn có thô có tế.
Thứ nhất là đoạn thực (có chỗ gọi là đoàn thực). Tức lấy ba thứ trần là hương, vị và xúc làm thể, cách ăn này là ăn từng phần, từng miếng, như cách ăn ở nhân gian của chúng ta.
Thứ hai là xúc thực, tức là xúc chạm với cảnh mà sanh vui thích thành no, đó cũng là một cách ăn.
Thứ ba là tư thực, là lấy việc mong mỏi, nghĩ nhớ làm cách ăn. Thí dụ như mong mỏi cảnh đáng ưa thích thì cũng thành ra việc ăn. Như các cõi trời hoặc là cõi thiền tư thì dùng thiền tư (hay thiền duyệt) làm việc ăn.
Thứ tư là thức thực, tức là lấy cái thức làm thể để duy trì mạng sống. Như chúng sanh ở cõi Vô sắc thì chỉ dùng thức để sống, và chúng sanh ở địa ngục cũng vậy.
Đó là bốn cách ăn của chúng sanh. Ở cõi Dục thì có đủ bốn thứ, cõi Sắc thì có hai thứ là tư thực và thức thực. Còn cõi Vô sắc và cõi địa ngục thì chỉ có thức thực.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Tất cả chúng sanh ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết. Vậy chúng sanh cầu Tam-ma-địa, nên dứt bỏ năm thứ rau cay trong thế gian.
GIẢNG GIẢI:
Phật chỉ khi ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết. Biết vậy, chúng ta ăn thức lành chứ đừng ăn thức độc. Rồi tu hành Tam-ma-địa cũng vậy, chúng sanh cầu Tam-ma-địa thì nên dứt bỏ năm thứ rau cay trong thế gian.
CHÁNH VĂN:
Năm thứ rau cay đó ăn chín thì phát lòng dâm, ăn sống thì thân sanh lòng giận. Những người ăn các thứ rau cay đó trên thế gian dẫu giảng nói được mười hai bộ kinh, Thiên tiên trong mười phương ghét mùi hôi đó đều tránh xa cả, các loài quỷ v.v…. nhân trong lúc người kia ăn rau cay đó đến liếm môi mép người đó; người ấy cùng ở chung với quỷ một chỗ, phước đức ngày càng tiêu mòn, hằng lâu không được lợi ích. Người ăn rau cay đó tu Tam-ma-địa, Bồ-tát, Thiên tiên, thiện thần không đến giữ gìn ủng hộ; Đại lực quỷ vương được phương tiện ấy hiện thân Phật nói pháp cho người kia nghe, khiến chê bai phá giới cấm, khen ngợi dâm dục, nóng giận và si mê, khi mạng chung tự làm quyến thuộc với Ma vương. Khi hưởng phước ma hết rồi đọa vào địa ngục vô gián. A-nan! Người tu đạo Bồ-đề, thường phải đoạn hẳn năm thứ rau cay, ấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.
GIẢNG GIẢI:
Thứ nhất là trừ năm thứ cay hôi (ngũ vị tân), đó là trợ nhân giúp cho những phiền não sanh khởi. Năm thứ chất cay, chất hôi này ăn chín thì phát lòng dâm, còn ăn sống sanh lòng giận, tức kích thích lòng dâm và lòng nóng giận. Lại có mùi hôi nên thiện thần xa lánh, do đó cần phải ngừa tránh, nhờ vậy khi tu tập thiền định mới dễ thành tựu. Còn không thì những thứ này làm hao tổn lợi ích của chúng ta.
Thứ hai là nói về gột sạch chánh tánh.
CHÁNH VĂN:
Thế nào là chánh tánh? A-nan! Chúng sanh tu Tam-ma-địa như vậy, trước hết cần yếu phải nghiêm trì giới luật cho thanh tịnh, đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-nan! Người tu hành đó, nếu không đoạn dâm dục và sát sanh mà muốn ra khỏi ba cõi, thì thật không có lẽ ấy. Phải quán sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù.
GIẢNG GIẢI:
Phần gột sạch chánh tánh này là phải nghiêm trì giới luật thanh tịnh. Trước nêu là phải đoạn hai thứ dâm và sát, kế sau nói đủ về tứ khí, bát khí. Tức muốn ra khỏi ba cõi mà không đoạn dâm, sát thì không thể được, cho nên đây Phật nói rõ là phải nghiêm trì giới luật cho thanh tịnh và đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt. Bởi dâm dục là cái nhân kéo dài trong sanh tử, còn sát thì phải đền trả lẫn nhau trong sanh tử.
CHÁNH VĂN:
Trước hết giữ gìn giới tứ khí, bát khí của Thanh Văn, giữ thân không lay động. Sau hành trì luật nghi thanh tịnh của Bồ-tát, giữ tâm không dấy khởi.
GIẢNG GIẢI:
Nêu rõ giữ gìn bốn giới trọng của Tỳ-kheo, còn Tỳ-kheo-ni là tám giới trọng, gọi là bát khí, tứ khí. Người tu phạm giới đây rồi giống như chết bỏ đi. Đây Phật nói trước đối với giới Thanh Văn giữ thân không động, sau mới hành trì luật nghi thanh tịnh của Bồ-tát, giữ tâm không dấy khởi.
Bởi vì giới Thanh Văn thân có phạm mới thành tội, còn giới Bồ-tát thì vừa khởi tâm là phạm rồi, tế nhị hơn. Đó là nói về sự sai biệt đại, tiểu, còn chỗ sâu xa, thật ra không phải là Thanh Văn chỉ giữ giới nơi thân, nếu giữ nơi thân thì làm sao giải thoát. Quan trọng là ở nơi tâm, người học phải thầm hiểu, không phải nghe vậy rồi cứ lo giữ nơi thân không lo giữ tâm.
CHÁNH VĂN:
Cấm giới đã thành tựu, thì đối với thế gian hẳn không có những nghiệp sanh sát lẫn nhau. Không làm việc trộm cắp, thì không vay nợ lẫn nhau, đối với thế gian khỏi phải đền trả lại nợ trước. Người thanh tịnh ấy tu Tam-ma-địa liền chính nơi thân thịt của cha mẹ sanh ra, không cần thiên nhãn mà tự nhiên xem thấy mười phương thế giới, gặp Phật, nghe Pháp, chính mình vâng lãnh thánh chỉ của Phật, được pháp đại thần thông, dạo đi trong mười phương cõi nước; túc mạng thanh tịnh không còn những điều khó khăn hiểm trở; ấy gọi là tiệm thứ tu hành tinh tiến thứ hai.
GIẢNG GIẢI:
Giữ cấm giới thanh tịnh, đoạn tâm dâm, không có dâm dục là dứt mầm sanh với nhau. Còn đoạn tâm sát thì dứt mầm giết hại đền trả với nhau. Đoạn tâm trộm thì dứt mầm vay, trả nợ với nhau, là cởi bỏ trói cột với nhau để tiến đến giải thoát.
Được như vậy thì tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh thì tu chánh định dễ thành tựu viên thông. Tâm thanh tịnh rồi tu dễ định, vượt qua những chướng ngại của thân tâm hư dối mà đạt được tâm thông. Cho nên đây gọi là ngay nơi thân thịt này không cần thiên nhãn mà xem thấy suốt mười phương, gặp Phật, nghe pháp, được đại thần thông, nhớ túc mạng. Đó là lợi ích của thành tựu chánh định, tâm thông.
CHÁNH VĂN:
Thế nào gọi là hiện nghiệp? A-nan! Người trì giới thanh tịnh như vậy, tâm không tham dâm, đối với sáu trần bên ngoài không hay dong ruổi, nhân không dong ruổi, nên tự xoay trở về tánh bản nguyên. Trần đã không duyên theo, thì căn không ngẫu hợp nơi đâu nữa. Trở ngược dòng về chỗ toàn nhất, sáu cái dụng không khởi hiện hạnh, cõi nước mười phương sáng suốt trong sạch, ví như trong ngọc lưu ly có treo mặt trăng sáng.
GIẢNG GIẢI:
Người trì giới thanh tịnh rồi tâm không tham dâm, không dong ruổi theo sáu trần bên ngoài, tự xoay trở về tánh bản nguyên là cội nguồn chân thật. Với trần không duyên theo thì căn không có hợp, là xoay sáu căn trở về nguồn chân thật. Sở dĩ trần sanh được là do căn duyên theo, trần mới có chỗ bám, còn căn xoay trở lại rồi thì trần mất chỗ bám, là hết chỗ sanh. Tức thấy, nghe, hiểu, biết tự hợp trở về thể chân thật sáng suốt xưa nay (chỗ không hai). Căn trần hết che mờ gọi là như viên ngọc lưu ly ngậm ánh trăng, trong ngoài đều sáng; đó gọi là trái với hiện nghiệp trở về gốc chân thật, là chỗ thân chứng, người tu tập sẽ thầm cảm nhận được.
CHÁNH VĂN:
Thân tâm khoan khoái tánh diệu viên bình đẳng, được đại an ổn; tất cả mật viên thanh tịnh nhiệm mầu của Như Lai đều hiện trong đó; người ấy tức chứng được pháp Vô sanh nhẫn. Từ đó lần lượt tu tập tùy theo các hạnh phát ra mà an lập Thánh vị, đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.
GIẢNG GIẢI:
Tâm trong sáng rồi, ngay nơi niệm hiện tiền đây thông suốt đến chỗ nhiệm mầu thanh tịnh của Như Lai, không phải tìm đâu xa, ngay đây cảm thông đến Như Lai, được pháp Vô sanh nhẫn. Tức là có sức làm chủ đối với các pháp, lấy đó làm căn bản, chỗ sống được an ổn, rồi lần lượt trở về cho đến rốt ráo viên mãn. Những thứ lớp về sau này chỉ ra cũng để sống trở về viên mãn chỗ chân thật đây, không phải có thêm cái gì khác.
Ở đây, Ngài Hàm Thị gọi là được cái thể của Càn Tuệ, đó là bước đầu. Nhưng bước đầu cũng là cuối, cuối rồi thì cũng hợp trở về gốc thôi. Vì chúng ta chưa hoàn toàn sống trọn vẹn, nên còn phải có thứ lớp để trở về, nhưng cái thứ lớp trở về đó cũng trở về sống trọn vẹn trong đây thôi chứ không phải thêm cái thứ hai, nhớ như vậy để không mắc kẹt trên thứ lớp.
Tóm lại, ba loại tiệm thứ tu tập căn bản này, trước là phải trừ trợ nhân, tức là tránh ăn năm thứ cay hôi là ngũ vị tân, là trợ nhân kích thích thêm lòng dâm, lòng sân. Thứ hai là gột sạch chánh tánh, là nghiêm trì giới luật, giữ bốn giới trọng thanh tịnh, gạn lọc thân tâm, đoạn cái nhân kéo dài sanh tử. Thứ ba là trái với hiện nghiệp, tức sáu căn xoay trở về gốc chân thật, không theo trần để trần không có chỗ hợp với căn thì thấy, nghe, hiểu, biết sẽ sáng suốt khế hợp trở về với chân tâm thường trụ; tức ngay nơi niệm hiện tiền sẽ cảm thông đến chỗ sâu xa thanh tịnh nhiệm mầu của Như Lai. Và đây là gốc căn bản để chúng ta tiến lên sống trở về viên mãn Vô thượng Bồ-đề. Đó là những điều cần phải nắm vững.
Kế đây là phần an lập các Thánh vị, là phần sâu xa thuộc về tu chứng, nên phải hết sức chú tâm, lắng lòng nghe mới có cảm được sâu.
1. Càn Tuệ Địa
CHÁNH VĂN:
A-nan! Thiện nam tử ấy ái dục đã khô cạn, căn và cảnh không phối hợp, thân tâm hiện tiền không còn tiếp tục sanh nữa. Do chấp tâm vô minh, tức cái tâm chấp đó rỗng sáng, thuần là trí tuệ, tánh trí tuệ được sáng suốt cùng khắp soi thấu mười phương cõi nước, chỉ có cái tuệ khô khan ấy, nên gọi là “Càn Tuệ địa”, tập khí ngũ dục mới khô cạn, chưa tiếp giáp với dòng nước pháp của Đức Như Lai.
GIẢNG GIẢI:
Vị Càn Tuệ này mới được cái tuệ khô. Ngài Hàm Thị có giải vị Càn Tuệ địa này là con mắt của Căn bản trí, là bước đầu rất quan trọng. Do ái dục khô cạn, căn và cảnh không còn phối hợp với nhau, thân tâm không còn chỗ tiếp tục sanh, nên cái tâm chấp thủ được rỗng sáng, thuần là trí tuệ soi thấu cả mười phương, không bị các pháp làm ngăn ngại. Tuy nhiên, tập khí ngũ dục mới khô cạn, chưa phải là sạch hết, còn phải tiến tu lên các vị Thập Tín, Thập Trụ v.v… song bước này là bước quan trọng.
Đã được lên Càn Tuệ địa rồi lấy đây làm căn bản tiến tu, dù trải qua các vị sau nhưng mỗi vị cũng không rời Càn Tuệ địa này tức là Căn bản trí; luôn luôn Căn bản trí phải đi theo đó không thiếu sót. Được Càn Tuệ địa này như là nền tảng vững để tiến tới, cho nên vị này rất là quan trọng.
2. Thập Tín
CHÁNH VĂN:
Tức lấy cái tâm ấy đúng ngay nơi chính giữa lần vào, tánh diệu viên khai mở, từ chỗ chân diệu viên lại phát ra chân diệu. Tánh diệu tín thường trụ, tất cả vọng tưởng diệt hết không còn, trung đạo được thuần chân, gọi là Tín Tâm Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Lấy cái tâm ấy đúng ngay nơi chính giữa mà vào, tâm ấy tức là tâm Càn Tuệ trước. Ngay đúng giữa lần vào, tức không rơi bên này bên kia. Vị này được tín tâm chân thật thẳng vào bản giác trung đạo, là không kẹt hai bên, vọng tưởng không sanh, đây gọi là tánh diệu tín thường trụ; tất cả vọng tưởng đều diệt hết không còn, trung đạo được thuần chân, là được Tín Tâm Trụ. Tức tin và trụ được nơi tâm.
CHÁNH VĂN:
Chân tín sáng tỏ, tất cả đều viên thông, cả ba thứ là ấm, xứ, giới, không thể làm ngại. Như thế cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai xả thân, thọ thân, tất cả tập khí đều hiện trước mắt, thiện nam tử ấy thường hay nhớ nghĩ được không quên mất điều gì thì gọi là Niệm Tâm Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Chữ Niệm là trí nhớ không quên, gọi là chân tín sáng tỏ. Là tín tâm ở trước được sáng tỏ, tất cả đều được viên thông, nên ba thứ ấm, xứ, giới không làm ngăn ngại. Nghĩa là khi tâm chân tín được sáng tỏ thấu qua ấm, xứ, giới không còn ngại, tất cả những tập khí xưa nay hiện ra trước mắt nhưng tâm chân tín ấy vẫn không mất, tức được tâm chuyên nhớ không quên, nên gọi là Niệm Tâm Trụ. Ngài Hàm Thị gọi là như người mới thức giấc, tất cả những cảnh trong mộng rõ ràng như đang thấy.
CHÁNH VĂN:
Tánh diệu viên thuần chân, chân tinh phát hóa ra các tập khí từ vô thủy đều thông vào một tánh tinh minh. Chỉ dùng cái tinh minh ấy mà tiến đến chỗ chân tịnh, gọi là Tinh Tấn Tâm.
GIẢNG GIẢI:
Tánh diệu viên thuần chân phát hóa ra các tập khí từ vô thủy đều thông vào một tánh tinh minh, nên chỉ dùng cái sáng suốt tinh minh ấy mà tiến đến chỗ chân tịnh là chỗ thanh tịnh chân thật, gọi là Tinh Tấn Tâm. Nghĩa là Căn bản trí càng sáng, tuy tập khí chưa thật hết nhưng đều thông vào một tánh tinh minh, không làm ngăn ngại. Do đó mà cứ thẳng tiến, được tâm tinh tiến thẳng đến chỗ chân tịnh.
CHÁNH VĂN:
Tâm tinh hiện tiền thuần dùng trí tuệ, gọi là Tuệ Tâm Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Tức là tâm ấy hiện tiền, trí tuệ càng được thuần thục, nên gọi là Tuệ Tâm Trụ.
CHÁNH VĂN:
Giữ gìn trí tuệ sáng suốt lặng trong cùng khắp, tánh tịch diệu thường đứng lặng, gọi là Định Tâm Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Trí càng vững nhờ lý tánh tịch diệu thường đứng lặng, đây gọi là giữ gìn trí tuệ sáng suốt lặng trong cùng khắp không động, nên gọi là Định Tâm Trụ.
CHÁNH VĂN:
Định quang phát sáng đi sâu vào tánh sáng suốt, chỉ tiến không có lùi, gọi là Bất Thối Tâm.
GIẢNG GIẢI:
Bất thối tâm là không có lui sụt, chỉ có tiến mà không có lùi, định và tuệ càng vững. Định mà phát sáng tức là định có tuệ, do đó đi sâu vào tánh sáng suốt, vững tiến không có lùi.
CHÁNH VĂN:
Tâm an nhiên mà tiến tới giữ gìn không cho mất, giao tiếp với khí phần mười phương Như Lai, gọi là Hộ Pháp Tâm.
GIẢNG GIẢI:
Tâm an nhiên tiến tới giữ gìn không mất, giao tiếp được khí phần của mười phương Như Lai, tức tâm bất thối ở trước cứ như thế mà thuận dòng tiến lên thầm hợp với khí phần của mười phương Như Lai.
CHÁNH VĂN:
Giữ gìn tánh Giác Minh, có thể dùng diệu lực xoay từ quang của Phật về nơi mình, hướng về Phật mà an trụ, cũng như hai mặt gương ánh sáng đối nhau, trong đó các bóng nhiệm mầu ấy, lớp lớp lồng nhau, gọi là Hồi Hướng Tâm.
GIẢNG GIẢI:
Tức là xoay ánh sáng của Phật về tự tâm chính mình, nên tâm tâm thường sáng không lầm các bóng trong đó, đây gọi là giữ gìn tánh giác minh diệu lực mà xoay từ quang của Phật về nơi mình, rồi hướng về Phật mà an trụ. Giống như hai mặt gương, ánh sáng gương này ánh sáng gương kia đối nhau, ở trong đó hiện từng lớp lồng nhau nhưng không có sai lầm gì. Bởi xoay ánh sáng của Phật về nơi tự tâm, nên tâm tâm thường sáng, ở trong những tâm niệm đó có bóng gì hiện ra đều rõ ràng không lầm.
CHÁNH VĂN:
Tâm quang thầm xoay trở về được vô thượng diệu tịnh thường trụ của Phật, an trụ nơi vô vi không bị sót mất, gọi là Giới Tâm Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Đến vị này, ánh sáng Phật ở nơi tự tâm của mình thầm cảm ứng trong chỗ thanh tịnh nhiệm mầu. Vì nó luôn an trụ trong chỗ vô vi không sanh diệt, mà nó không rơi vào trong hữu vi, là được Giới Tâm Trụ.
CHÁNH VĂN:
Tự tại an trụ nơi giới, có thể dạo khắp mười phương tùy theo nguyện mà đi, gọi là Nguyện Tâm Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây tâm trụ trong giới vô vi không cần cố gắng, tự tại an trụ nơi giới, tùy nguyện dạo khắp mười phương, nhưng vẫn không rơi vào hữu vi, tức vẫn an trụ trong vô vi. Đó là được vị thứ mười trong Thập Tín.
Mười vị Thập Tín này, tức là mười cái tâm tiến lên từ tâm Càn Tuệ địa, tiến dần lên càng đi sâu vào, nhưng cũng không ngoài tâm Càn Tuệ địa.
3. Thập Trụ
CHÁNH VĂN:
A-nan! Thiện nam tử đó dùng phương tiện chân chánh phát mười thứ tâm ấy, tâm tinh đã phát sáng, mười cái dụng ấy xen lẫn với nhau viên thành một tâm, gọi là Phát Tâm Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Mười thứ tâm ấy là mười tâm Thập Tín ở trước, nhân mười thứ tâm Thập Tín đó làm phương tiện để lìa vọng và hiển bày cái chân thật. Do tự tâm sáng tỏ xen lẫn với nhau không rời một niệm hiện tiền, gọi là viên thành một tâm, tức thuần là một tâm, đây gọi là Phát Tâm Trụ, là vị thứ nhất trong Thập Trụ.
CHÁNH VĂN:
Trong tâm phát ra sáng suốt như ngọc lưu ly trong sạch, bên trong hiện ra vàng ròng, dùng cái diệu tâm trước kia sửa sang thành chỗ nương đứng, gọi là Trị Địa Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Trị địa, chữ trị là sửa sang, tức là cái tâm đã phát sáng, chân trí hiện ở trong đó, cho nên khéo dùng mười thứ diệu tâm ở chỗ Thập Tín mà tu hành chân thật đạp lên trên đất Phật, gọi là sửa sang thành chỗ nương đứng, là Trị Địa Trụ.
CHÁNH VĂN:
Tâm địa biết khắp đều được rõ ràng, dạo đi cả mười phương không có gì ngăn ngại, gọi là Tu Hành Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Tâm địa biết khắp không mê, đi qua tất cả mà không bị cái gì làm mê, cho nên gọi là Tu Hành Trụ.
CHÁNH VĂN:
Hạnh đồng với Phật, nhận khí phần của Phật, như thân trung ấm tự tìm cầu cha mẹ, ấm tin thầm thông vào giống Như Lai, gọi là Sanh Quý Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây hạnh đồng với Phật, thầm hợp với Chánh giác, thông tin tức với hạt giống của Như Lai. Đây nói là giống như thân trung ấm tự tìm cầu cha mẹ, rồi ấm tin đó được thầm thông để vào thai sanh; gọi là thầm thông với hạt giống của Như Lai, nên gọi là Sanh Quý Trụ.
CHÁNH VĂN:
Đã vào thai đạo, chính mình được nối theo dòng Giác, như cái thai đã thành, tướng người không thiếu khuyết, gọi là Phương Tiện Cụ Túc Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Đây chính thức vào được dòng Chánh giác như cái thai đã thành, nhưng diệu dụng chưa đủ. Giống như thai đã thành, tướng người không thiếu khuyết, nhưng chưa có hoạt động được, tức là chưa được sanh ra ngoài, chưa đầy đủ diệu dụng như người lớn. Đây gọi là Phương Tiện Cụ Túc Trụ.
CHÁNH VĂN:
Dung mạo như Phật, tâm tướng cũng đồng, gọi là Chánh Tâm Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Tâm tướng cũng đồng tức là quyền trí và thật trí, hai trí giúp nhau, lý và trí đầy đủ, dung mạo cũng như Phật, gọi là Chánh Tâm Trụ.
CHÁNH VĂN:
Thân tâm hợp thành, mỗi ngày càng tăng trưởng, gọi là Bất Thối Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Quyền trí và thật trí, hai thứ đều đầy đủ, càng ngày càng tăng tiến đến chỗ viên mãn, được gọi là Bất Thối Trụ.
CHÁNH VĂN:
Linh tướng mười thân một thời đầy đủ, gọi là Đồng Chân Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Cái trí thể đã đủ, chỉ cần các chướng hết là nó hiện bày. Ở đây gọi là linh tướng của mười thân một thời đầy đủ, mười thân là chỉ cho: 1- Thân Bồ-đề; 2- Thân nguyện; 3- Thân hóa; 4- Thân trụ trì (thân Xá-lợi hay giữ gìn Phật pháp); 5- Thân tướng hảo trang nghiêm, 6- Thân vi tế; 7- Thân ý sanh (tùy ý sanh); 8- Thân phước đức; 9- Thân pháp (Pháp thân); 10- Thân trí tuệ.
Mười thân này, trong đó ba thân Bồ-đề thân, Pháp thân và Vi tế thân thuộc về thật trí. Còn năm thân là Nguyện thân, Hóa thân, Trụ trì thân, Ý sanh thân và Phước đức thân thuộc về quyền trí. Hai thân Tướng hảo trang nghiêm thân và Trí tuệ thân thì thông cả quyền lẫn thật.
CHÁNH VĂN:
Hình đã thành ra khỏi bào thai, chính mình làm Phật tử, gọi là Pháp Vương Tử Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Bấy giờ, giống như là đã ra khỏi thai thành người, chính mình là Phật tử. Ở trước là còn ở trong thai, giờ ra khỏi thai rồi nên kham nhận tiếp nối được dòng giống của Phật. Ngài Ôn Lăng giải: Từ “Phát Tâm Trụ” đến “Sanh Quí Trụ” thuộc về nhập Thánh thai; từ “Phương Tiện Cụ Túc Trụ” đến “Đồng Chân Trụ” là nuôi lớn Thánh thai; trong đó Thánh thai được nuôi lớn, công phu nuôi lớn đã thành tựu gọi là ra khỏi Thánh thai, nên đây gọi là ra khỏi Thánh thai thành Pháp Vương Tử.
CHÁNH VĂN:
Nghi biểu đã thành người lớn, như khi một Quốc vương đem các việc nước giao phó cho Thái tử kia lúc Thái tử trưởng thành, bày ra lễ quán đảnh, gọi là Quán Đảnh Trụ.
GIẢNG GIẢI:
Giống như là Thái tử được lớn lên, trưởng thành, được Vua cha làm lễ quán đảnh để nhận ngôi vua. Như Bồ-tát đủ sức thay Phật độ chúng sanh, nhận chức vị Đại trí; giống như Thái tử con Vua Chuyển Luân, trưởng thành rồi được Vua cha cầm cái bình bằng vàng, trong bình đựng nước bốn biển rưới lên trên đảnh thọ chức vị ngôi vua.
Đây là trải qua mười vị thuộc trong Thập Trụ.
4. Thập Hạnh
CHÁNH VĂN:
A-nan! Thiện nam tử ấy đã thành Phật tử rồi, đầy đủ vô lượng diệu đức của Như Lai và tùy thuận mười phương, gọi là Hoan Hỷ Hạnh.
GIẢNG GIẢI:
Bồ-tát tu tập đến đây đầy đủ vô lượng công đức của Như Lai rồi khởi hạnh, tùy thuận làm lợi ích chúng sanh và xả bỏ ý riêng của mình, gọi là Hoan Hỷ Hạnh.
CHÁNH VĂN:
Khéo làm lợi ích cho chúng sanh, gọi là Nhiêu Ích Hạnh.
GIẢNG GIẢI:
Trên là hoan hỷ khéo làm lợi ích cho chúng sanh, rồi giúp chúng sanh trừ cái khổ phiền não phát khởi cái vui Bồ-đề, được nhiều lợi lành chân thật, không làm tổn hại chúng sanh nên gọi là Nhiêu Ích Hạnh.
CHÁNH VĂN:
Tự giác và giác tha được không chống trái, gọi là Vô Sân Hận Hạnh.
GIẢNG GIẢI:
Nhờ làm lợi ích chúng sanh mà được sức nhẫn tùy thuận không sân hận, tự giác và giác tha được không chống trái nhau nên được Vô Sân Hận Hạnh.
CHÁNH VĂN:
Theo chủng loại mà hiện ra sắc thân, tột mé vị lai, ba đời bình đẳng, mười phương đều thông suốt, gọi là Vô Tận Hạnh.
GIẢNG GIẢI:
Tùy thuận chúng sanh hiện thân hình để làm lợi ích rộng lớn không ngưng nghỉ, nên đây gọi là Vô Tận Hạnh. Nghĩa là hiện ra sắc thân làm lợi ích chúng sanh suốt cả ba đời, mười phương không có ngưng nghỉ, nên gọi là Vô Tận Hạnh.
CHÁNH VĂN:
Tất cả đều hợp về đồng, trong mỗi mỗi pháp môn được không sai lầm, gọi là Ly Si Loạn Hạnh.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây, thấu suốt các pháp sai biệt không rời trí tuệ chân thật, nên không bị cái nhiều làm loạn, do đó tất cả đều hợp về đồng; rồi trong mỗi mỗi pháp môn được không sai lầm. Đó gọi là Ly Si Loạn Hạnh.
CHÁNH VĂN:
Ở trong cái đồng hiện ra các cái khác, nơi mỗi mỗi tướng khác, mỗi mỗi đều thấy là đồng, nên gọi là Thiện Hiện Hạnh.
GIẢNG GIẢI:
Thiện hiện là khéo hiện. Ở trong cái đồng mà hiện ra các cái khác, rồi mỗi mỗi tướng khác lại thấy là đồng; không kẹt nơi đồng nơi khác nên gọi là thiện hiện. Đây tức đồng tức khác, xóa tan ranh giới giữa đồng và khác, sự lý được viên thông, tự tại vô ngại; không bị cái đồng cái khác làm ngăn che, gọi là Thiện Hiện Hạnh.
CHÁNH VĂN:
Như vậy, cho đến mười phương hư không đầy khắp vi trần, và trong mỗi mỗi vi trần hiện ra mười phương cõi nước. Hiện vi trần hay hiện cõi nước không ngăn ngại nhau. Đó gọi là Vô Trước Hạnh.
GIẢNG GIẢI:
Vô trước là không dính mắc. Hiện vi trần, hiện cõi nước nhưng không dính mắc. Tức hiện nhỏ hiện lớn đều vô ngại, không bị cái ngã và ngã sở che mờ. Chúng ta không được như vậy là bởi cái ngã và ngã sở che mờ, ngăn ngại nên hiện vào đâu là dính mắc ở đó.
CHÁNH VĂN:
Các thứ hiện tiền đều là đệ nhất Ba-la-mật, gọi là Tôn Trọng Hạnh.
GIẢNG GIẢI:
Các thứ hiện tiền đều là đệ nhất Ba-la-mật, tức không gì ra ngoài Ba-la-mật. Ngay các thứ hiện tiền đều hiển bày nghĩa chân thật nên không thêm bớt gì trong đó thì đâu có mê nữa. Đây được gọi là Tôn Trọng Hạnh.
CHÁNH VĂN:
Viên dung như thế, có thể thành khuôn phép của chư Phật trong mười phương, gọi là Thiện Pháp Hạnh.
GIẢNG GIẢI:
Thiện pháp là pháp lành, tức là làm tất cả hạnh đều vô ngại, có thể khế hợp với khuôn phép của mười phương Như Lai. Nghĩa là thực hành, làm tất cả những hạnh lợi ích cho chúng sanh nhưng đều vô ngại. Đó gọi là Thiện Pháp Hạnh.
CHÁNH VĂN:
Mỗi mỗi đều là nhất chân Vô vi thanh tịnh vô lậu, vì tánh bản nhiên là như vậy, gọi là Chân Thật Hạnh.
GIẢNG GIẢI:
Mỗi mỗi hạnh đều là nhất chân Vô vi thanh tịnh vô lậu, không rời cái vô lậu, vì tánh bản nhiên như vậy chứ không phải là cố gắng. Bởi nó hiện tất cả đều là diệu dụng của tự tánh nên không có gì ngăn ngại, do đó làm mà không có mê. Đến đây được hạnh chân thật, mỗi mỗi đều là nhất chân Vô vi thanh tịnh, đều là diệu dụng của tự tánh nên gọi là Chân Thật Hạnh.
5. Thập Hồi Hướng
CHÁNH VĂN:
A-nan! Thiện nam tử ấy đầy đủ thần thông, Phật sự đã thành tựu toàn là một tinh chân thuần khiết, xa lìa các lỗi lầm, chính khi hóa độ chúng sanh mà diệt các năng độ, sở độ. Xoay tâm Vô vi hướng về đường Niết-bàn, gọi là Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sanh, Ly Chúng Sanh Tướng Hồi Hướng.
GIẢNG GIẢI:
Chính khi hóa độ chúng sanh mà diệt các tướng năng độ và sở độ, không thấy có mình độ, người độ; do đó, xoay cái tâm Vô vi hướng về đường Niết-bàn. Ngài Hàm Thị giải: “Còn phải lấy cái hạnh để thành lý. Tâm tự lợi thù thắng, là tâm còn chút thù thắng về tự lợi, cho nên đối với vị Hồi hướng thứ nhất này riêng hồi hướng về tâm khiến phát sanh rộng lớn, độ chúng sanh mà không thấy có tướng độ, trí năng độ đều quên, gọi là Vô vi chân thật. Cái lý được độ cũng dứt, đó là chân Niết-bàn”.
Bồ-tát do trí, bi bình đẳng mới có thể cứu độ chúng sanh mà lìa tướng chúng sanh. Tức là làm mà không thấy có tướng làm, thì đó gọi là Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sanh mà Lìa Tướng Chúng Sanh Hồi Hướng.
CHÁNH VĂN:
Diệt hoại cái gì có thể diệt hoại, xa lìa các thứ có thể xa lìa, gọi là Bất Hoại Hồi Hướng.
GIẢNG GIẢI:
Ở đây, chứng được thật tướng để làm lợi ích chúng sanh rộng lớn, tột các tướng hư huyễn, cho nên diệt hoại cái gì có thể diệt hoại, xa lìa cái gì có thể xa lìa. Ngài Hàm Thị giải rõ thêm là trên tự tánh khởi một niệm trước tướng đều là cái có thể hoại diệt, còn trên pháp tánh mà khởi một tướng xa lìa là còn có chỗ để xa lìa. Ở đây, diệt hoại hết những cái gì có thể diệt hoại, xa lìa hết những gì có thể xa lìa, đó gọi là Bất Hoại Hồi Hướng.
CHÁNH VĂN:
Tánh bản giác đứng lặng, giác ngộ bằng với Phật, gọi là Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.
GIẢNG GIẢI:
Tâm giác ngộ rõ biết không có hai, lấy đây hồi hướng về Phật đạo, thấu suốt qua chúng sanh và chư Phật. Không thấy tâm giác của mình và tâm giác của Phật thành hai cái riêng biệt, gọi là giác ngộ bằng với Phật, nhưng không phải ngay đây đã đồng với Phật. Đó gọi là Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.
CHÁNH VĂN:
Tinh chân phát ra sáng suốt, địa đồng như Phật địa, gọi là Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng.
GIẢNG GIẢI:
Tinh chân tức là cái chân thật tinh thuần không tạp loạn. Tinh chân là thể, phát sáng là dụng, thể dụng đầy đủ, khiến lý và sự được dung thông, thì cái giác đồng như Phật nhưng mà chưa phải Phật. Rồi địa cũng đồng như Phật, không sai khác. Ngay tại chỗ mà biến khắp mười phương ứng hiện không cùng, gọi là Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng.
CHÁNH VĂN:
Thế giới và Như Lai xen lẫn vào nhau không ngăn ngại, gọi là Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng.
GIẢNG GIẢI:
Là có thể là ứng thân ở nơi Thế giới mà không có gì ngăn ngại, phát sanh tất cả các công đức không cùng tận, nên gọi là Thế giới và Như Lai xen lẫn vào nhau không ngăn ngại. Phần này Kinh Hoa Nghiêm nói là người mà trụ nơi vị Hồi Hướng này thì được mười thứ Vô Tận Tạng, là mười cái kho vô tận: 1- Thấy Phật 2- Vào pháp 3- Nhớ giữ 4- Tuệ quyết định 5- Hiểu rõ nghĩa thú 6- Ngộ không có bờ mé 7- Được phước đức 8- Trí giác dõng mãnh 9- Được biện tài 10- Sức không có gì sợ sệt. Gọi là Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng.
CHÁNH VĂN:
Nơi đồng với Phật địa, trong ấy phát sanh ra các nhân thanh tịnh, nương nhân ấy mà phát huy đi đến đạo Niết-bàn, gọi là Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi Hướng.
GIẢNG GIẢI:
Đây là từ nơi đồng Phật địa ở trên, từ đó phát huy thành cái nhân thanh tịnh, lấy nhân thanh tịnh đó mà tiến đến chứng quả Niết-bàn. Như vậy, quả này cũng là cái quả đủ ở trong cái nhân chứ không phải là ở ngoài cái nhân mà riêng có. Ngài Hàm Thị gọi là thuận theo dòng mà đến, chứng sâu căn lành bình đẳng giữa Phật và chúng sanh. Dùng đây để hồi hướng, đó gọi là Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi Hướng.
CHÁNH VĂN:
Gốc chân thật đã thành tựu, thì chúng sanh trong mười phương đều là bản tánh của mình, tánh ấy thành tựu viên mãn, không bỏ sót chúng sanh, gọi là Tùy Thuận Đẳng Quán Nhất Thiết Chúng Sanh Hồi Hướng.
GIẢNG GIẢI:
Đây tiếp ở vị trước là cái gốc chân thật thiện căn bình đẳng đã thành tựu, rồi từ đó mới phát khởi đồng thể đại bi, là đối với tất cả chúng sanh bình đẳng thương xót. Bởi xem thấy mười phương chúng sanh đều là bản tánh của mình, không phải riêng; ngoài tánh ấy không thật có chúng sanh nào riêng có, nên mới khởi được đồng thể đại bi, không bỏ sót chúng sanh nào.
Thấy đến như thế, là thấy mười phương chúng sanh đều là bản tánh của mình, không ngoài bản tánh mà thật có chúng sanh nào riêng, mới có thể độ tận chúng sanh. Đây mới gọi là Tùy Thuận Đẳng Quán Nhất Thiết Chúng sanh Hồi Hướng. Còn chúng ta vì còn có ngã nên thấy mình khác, chúng sanh khác; chúng sanh ngoài mình, do đó mà sự tu hành còn phải xóa bỏ ranh giới đó.
CHÁNH VĂN:
Tức tất cả pháp ly tất cả tướng, cả tức và ly hai thứ đều không dính mắc, gọi là Chân Như Tướng Hồi Hướng.
GIẢNG GIẢI:
Ngay nơi tất cả pháp mà lìa tất cả pháp, rồi dứt cả hai tức và ly, không còn có cái tâm lấy bỏ kia đây, cao thấp, được tùy chỗ đều khế hợp với chân như. Đây gọi là Chân Như Tướng Hồi Hướng.
CHÁNH VĂN:
Thật được như như, mười phương vô ngại, gọi là Vô Phược Giải Thoát Hồi Hướng.
GIẢNG GIẢI:
Vô phược tức là không còn trói buộc. Khi thật được như như rồi thì mười phương đều không ngăn ngại. Nghĩa là dứt tất cả cái “tức” và cái “ly”, không còn gì “tức” và “lìa” nữa, mặc tình vào khắp mười phương, thể hiện tâm đại bi tự tại, không còn ngăn ngại. Chúng ta tuy qua được cái “ly” nhưng còn kẹt cái “tức” cũng chưa phải là rốt ráo. Còn thấy tức cũng là còn thấy có hai, cái này tức cái kia, là vẫn còn dấu vết cái hai, đó là chỗ vi tế.
CHÁNH VĂN:
Tánh đức thành tựu viên mãn, lượng của pháp giới dứt, gọi là Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng.
GIẢNG GIẢI:
Đây là dứt luôn cả lượng của pháp giới. Nghĩa là tánh đức được thành tựu viên mãn, tột cùng chân như nên mất cái lượng pháp giới, bình đẳng như hư không. Lấy đây mà hồi hướng thì vô lượng nguyện hạnh đều được thành tựu, cho nên gọi là Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng.
Đó là mười thứ Hồi Hướng. Qua Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng rồi, còn phải qua Tứ Gia Hạnh rồi mới vào hàng Thập Địa. Tứ Gia Hạnh là bốn hạnh do hành giả gia công tu hành vươn lên vào Thập Địa.
6. Tứ Gia Hạnh
CHÁNH VĂN:
A-nan! Thiện nam tử ấy tu hết bốn mươi mốt tâm thanh tịnh ấy rồi, kế đến thành tựu bốn thứ gia hạnh diệu viên. Tức là lấy Phật giác dùng làm tâm mình, như ra nhưng chưa ra, cũng như dùi cây ra lửa mà đốt lại cây, gọi là Noãn Địa.
GIẢNG GIẢI:
Noãn là hơi nóng. Ở trước đã diệu ngộ được diệu tánh viên thông hay Căn bản trí, đó là được cái thể nhưng dụng chưa đầy đủ. Nên hành giả không dừng ở chỗ diệu ngộ đó mà tiếp tục hướng thượng tiến lên tu hành trải qua bốn mươi mốt tâm, từ Càn Tuệ Địa cho đến Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng. Tuy là có thứ lớp trải qua nhưng cũng không rời Căn bản trí chân thật ban đầu, nên trải qua mọi địa đều mang Căn bản trí theo. Thế nên, chúng ta thấy ngộ Căn bản trí rất là quan trọng, tuy trải qua thứ lớp nhưng từ ban đầu cũng không rời ngoài Căn bản trí chân thật; chỉ phát huy để thành tựu thể dụng viên thông mà quân bình định tuệ.
Đến đây có gia công dụng hạnh nhưng cũng không rời diệu tánh viên thông ban đầu là Căn bản trí. Thành ra cái diệu viên tức cái tròn đầy nhiệm mầu, khi gia công dụng hạnh là khéo được tròn đầy Căn bản trí chứ không phải là riêng có thêm cái gì khác. Cái gia hạnh đầu lấy giác của Phật làm tâm mình nhưng chưa quên được tâm. Đây chỉ là hướng tâm xoay Phật giác, nhưng chưa thành được Phật giác, nên nói rằng giống như ra mà chưa ra, chỉ được hơi ấm, là được tiến thêm bước nữa về gia công dụng hạnh.
CHÁNH VĂN:
Lại lấy cái tâm mình làm chỗ đứng của Phật, hình như nương gá nhưng không phải nương, như lên chót núi cao thân đã vào hư không, nhưng ở dưới còn chút ngăn ngại, gọi là Đảnh Địa.
GIẢNG GIẢI:
Đảnh giống như còn có chỗ đứng, tức lấy tâm mình làm chỗ đứng của Phật, nhưng chưa quên được chỗ đứng của tâm, như lên chót núi cao, thân đã vào hư không mà ở dưới còn có chút ngăn ngại, nên chưa vào được Thập Địa.
CHÁNH VĂN:
Tâm và Phật đồng, khéo được trung đạo, ví như người biết nhẫn không phải ôm vào chẳng phải cho ra, gọi là Nhẫn Địa.
GIẢNG GIẢI:
Tâm và Phật đồng, khéo vào nơi Trung đạo không hai. Tức là tâm và Phật không phân chia. Giống như người biết nhẫn, không phải ôm vào cũng không phải cho ra, đây chỉ là thầm hợp, gọi là Nhẫn Địa.
CHÁNH VĂN:
Số lượng đều tiêu diệt, mê-giác và trung đạo cả hai đều không có gì để gọi, gọi là Thế Đệ Nhất Địa.
GIẢNG GIẢI:
Vượt qua hết số lượng, mê-giác và trung đạo cũng không còn, tức là không còn thấy chia ra đây là mê, đây là giác, hay là trung đạo nữa. Giống như Chuyển Luân Thánh Vương, phước bằng với chư Thiên nhưng vẫn chưa rời khỏi nhân gian, chỗ này rất vi tế. Đây cũng vậy, mê-giác và trung đạo quên hết, không còn gì để gọi, nhưng vẫn còn có chút gì đó chưa sạch, nên chỉ gọi là Thế Đệ Nhất Địa. Chúng ta thấy việc tu hành vi tế lắm chứ không phải như tưởng tượng. Phải nhảy cho qua các tầng chứng này rồi mới vào được Thập Địa. Thập Địa tức là thân chứng.
7. Thập Địa
CHÁNH VĂN:
A-nan! Thiện nam tử ấy đối với đại Bồ-đề khéo được thông đạt, chỗ giác ngộ thông suốt với Như Lai, cùng tột cảnh giới của Phật, gọi là Hoan Hỷ Địa.
GIẢNG GIẢI:
Trong Lăng Nghiêm Chỉ Chưởng giải: “Vị này ngay đó lìa niệm, chân như hiện tiền, nên đối với đại Bồ-đề khéo được thông đạt” và “bởi do trí năng giác sâu xa, thông với trí Như Lai, lý sở giác gồm tột cả cảnh giới Phật, nên kết gọi Hoan Hỷ Địa”. Đây là Địa thứ nhất, là chỗ giác ngộ thông suốt với Như Lai, cùng tột được cảnh giới của Phật.
CHÁNH VĂN:
Tánh khác nhập với đồng, tánh đồng cũng diệt luôn, gọi là Ly Cấu Địa.
GIẢNG GIẢI:
Tánh khác nhập với đồng, tánh đồng cũng diệt, tức mất luôn cái tánh đồng, là Ly Cấu Địa.
Ở vị trước, Hoan Hỷ Địa là chỗ giác ngộ thông suốt, cùng tột cảnh giới của Phật, đó là đạt sâu được tánh đồng. Đến Địa thứ hai này, tánh đồng diệt mất luôn. Kia là còn có tánh đồng, tức còn có chỗ đồng để mà đồng, đến đây là sạch hết luôn không còn có chỗ đồng để mà đồng, chỉ là một thể trí tuệ thanh tịnh, không có gì có thể làm nhơ, nên gọi là Ly Cấu Địa. Không phải là còn có cái nhơ để mà lìa nữa. Đây là hết còn chỗ nào để làm nhơ được nữa mới thật sự là ly cấu.
CHÁNH VĂN:
Thanh tịnh cùng tột sáng suốt phát sanh, gọi là Phát Quang Địa.
GIẢNG GIẢI:
Tức là từ một thể thanh tịnh cùng tột mà phát sáng suốt chớ không phải từ bên ngoài vào. Ngài Hàm Thị giải là “Cái sáng suốt đó từ tánh thanh tịnh mà được chớ không phải do nơi định phát ra”, đây gọi là Phát Quang Địa.
CHÁNH VĂN:
Sáng cùng tột, thì giác viên mãn, gọi là Diệm Tuệ Địa.
GIẢNG GIẢI:
Nghĩa là từ chỗ sáng suốt cùng tột ở trước tiến lên, tâm giác ngộ được viên mãn, vượt qua hết các chướng, thành trí tuệ sáng rực. Ngài Hàm Thị giải rõ “Không bị cái hiện chướng ràng buộc, giác tâm được sáng sạch, bền chắc và bén nhạy”. Đây gọi là Diệm Tuệ Địa.
CHÁNH VĂN:
Tất cả đồng-khác không thể đến được, gọi là Nan Thắng Địa.
GIẢNG GIẢI:
Khác là chỉ cho chúng sanh, chúng sanh là tướng khác, mà Phật là đồng. Giờ đây không vướng vào hai tướng chúng sanh và Phật nữa, nên được đại tự tại, gọi là Nan Thắng Địa.
CHÁNH VĂN:
Bản tánh vô vi chân như thanh tịnh tỏ lộ, gọi là Hiện Tiền Địa.
GIẢNG GIẢI:
Nghĩa là vượt qua được tánh đồng và khác, bản tánh vô vi chân như thanh tịnh tùy chỗ được hiển bày không ngăn ngại. Đây không còn nói tịnh nói nhiễm nữa, cho nên chân như hiện tiền tỏ lộ, gọi là Hiện Tiền Địa.
CHÁNH VĂN:
Tột bờ mé chân như, gọi là Viễn Hành Địa.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây, được cùng tột nơi bờ mé chân như, xa hẳn những công dụng gia hạnh ở trước, gần đến vô công dụng tức là vô tác, đó gọi là Viễn Hành Địa, giống như là đi xa.
CHÁNH VĂN:
Một tâm chân như, gọi là Bất Động Địa.
GIẢNG GIẢI:
Đây chỉ là một tâm chân như không thêm bớt. Công dụng gia hạnh cũng hết, thành tựu vô tác. Kinh Hoa Nghiêm gọi là: “Vào tất cả pháp xưa nay không sanh”.
CHÁNH VĂN:
Phát dụng chân như, gọi là Thiện Tuệ Địa.
GIẢNG GIẢI:
Ở trước là tột bờ mé chỉ còn một tâm chân như, giờ phát được cái dụng chân như. Kinh Lăng Nghiêm Chánh Mạch có giải: “Ở vị trước là được toàn thể chân như, còn vị này là phát đại dụng chân như, tức xứng với thể mà khởi dụng, đó là lý tự nhiên”.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Các vị Bồ-tát ấy từ đây về trước công hạnh tu tập đã xong, công đức được viên mãn, cũng gọi địa này là tu tập vị, bóng từ mây diệu trùm che biển Niết-bàn, gọi là Pháp Vân Địa.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây là trải qua những công hạnh tu tập đoạn mê lầm để chứng chân thật đã thành tựu. Nên nói là công đức được viên mãn, bi và trí đầy đủ, che khắp pháp giới chúng sanh, trùm cả biển Niết-bàn, gọi là Pháp Vân Địa. Là Địa thứ mười.
8. Đẳng Giác và Diệu Giác
CHÁNH VĂN:
Như Lai ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới giác ngộ vào chỗ giao tiếp với nhau, gọi là Đẳng Giác.
GIẢNG GIẢI:
Như Lai ngược dòng từ nơi mé giác đi ra, còn Bồ-tát là thuận dòng để vào mé giác. Đến đây là giao tiếp với nhau nên gọi là Đẳng Giác. Đúng ra, chỗ này chúng ta tu chưa tới nhưng học biết qua, để khi tới liền biết.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Từ tâm Càn Tuệ đến Đẳng Giác rồi, giác đó mới được Sơ càn tuệ địa trong tâm kim cang. Như vậy, lớp lớp tu đơn, tu kép mười hai vị mới cùng tột Diệu Giác, thành đạo Vô thượng.
GIẢNG GIẢI:
Từ nơi Càn Tuệ đến Đẳng Giác là từ cạn tiến sâu vào, trải qua mỗi vị đều không rời tâm Càn Tuệ trước, nhưng càng ngày càng đi sâu vào, càng ngày càng hiển bày công dụng đầy đủ cho đến viên mãn. Tu chứng đến Đẳng Giác mới thật sự thân chứng đầy đủ tâm Càn Tuệ, công đức viên mãn. Và chứng đó cũng là chứng tâm Càn Tuệ ban đầu hay Căn bản trí, nhưng sau đó là phát khởi đại dụng đầy đủ. Như vậy, chứng đó cũng là chứng tột cái tâm ban đầu kia chứ không phải là có cái thứ hai, phải nhớ kỹ điều đó.
Lại từ Càn Tuệ trải qua Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, đó là mười hai vị có tu đơn, tu kép. Nghĩa là một vị thì có một vị gọi là đơn, còn một vị mà gồm cả mười hai gọi là kép. Tu đến Diệu Giác mới là cùng tột, gọi là thành đạo Vô thượng, không còn có gì trên nữa.
CHÁNH VĂN:
Các thứ Địa ấy đều do trí tuệ Kim Cang quán sát mười thứ thí dụ như huyễn sâu xa trong Xa-ma-tha (chỉ), dùng các pháp Tỳ-bà-xá-na (quán) của Như Lai mà thanh tịnh tu chứng, lần lượt đi sâu vào.
GIẢNG GIẢI:
Mười thí dụ như huyễn:
1- Người huyễn 2- Sóng nắng, giống như trời nắng đi xa nhìn trong cát thấy dợn như dợn sóng, đi tới không có gì 3- Trăng dưới nước, xa thấy như dưới nước có trăng, đến gần không có gì. 4- Hoa đốm hư không, tức là mắt mỏi thấy trong hư không có đốm đốm giống như hoa nhưng sự thật không có gì 5- Tiếng vang trong hang. 6- Thành Càn-thát-bà, như người đi biển thấy xa xa có cái thành hiện, nhưng đến gần thì không có gì. 7- Chiêm bao 8- Bóng 9- Hình tượng 10- Hóa. Đó là mười thí dụ như huyễn.
Các thứ Địa ấy đều do trí tuệ Kim Cang quán sát mười thí dụ như huyễn sâu xa, là dùng trí tuệ Kim Cang Như Huyễn chặt đứt tất cả những tình chấp, không thấy cái gì thật thì mới sạch được. Phương tiện thực hành cả hai pháp là Chỉ và Quán, lần lượt tiến vào cho đến viên mãn. Tức là Định-Tuệ đồng tu, cân bằng chớ không nghiêng lệch.
Do không thấy có một pháp thật ở ngoài tâm thì còn chỗ nào để mà bám, chỗ nào để mà duyên?
CHÁNH VĂN:
A-nan! Như thế đều do ba thứ tiệm thứ tăng tiến, nên khéo thành tựu năm mươi lăm vị trong đường Bồ-đề Chân Thật. Quán xét như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán.
GIẢNG GIẢI:
Kết lại, do ba thứ tiệm thứ đó mà tăng tiến đến rốt ráo con đường Bồ-đề chân thật. Tuy nói có các Địa vị trải qua thứ lớp nhưng rốt lại cũng chỉ là một tâm giác từ cạn đến sâu. Không phải trải qua hết các Địa vị đó là thành có năm mươi mấy con người riêng, mỗi lần như vậy thì được một con người khác, được một tâm khác. Coi chừng lầm! Ban đầu được thể mà cái dụng chưa đầy đủ, dần dần cái dụng phát khởi, cho đến viên mãn thể dụng đầy đủ, viên thông trọn vẹn, là thành công. Nghĩa là không có cái gì riêng khác ngoài tâm thể Diệu giác, thành ra nói là chứng mà thật không có gì khác để chứng. Nói trừ mà thật không có cái để trừ, rốt ráo là sạch hết dấu vết được-mất. Nếu còn thấy có cái để trừ thì chưa thật trừ.
Như vậy, tuy nói thứ lớp mà không kẹt nơi thứ lớp, không phải là được Địa vị này, Địa vị kia rồi mắc kẹt vào nó, đó chẳng qua là những phương tiện để đi sâu vào vậy thôi. Cũng như nghe nói viên dung nhưng không kẹt nơi lý suông, không phải viên dung là sẵn vậy rồi không cần tu hành nữa. Tức không mắc kẹt nơi viên dung, không mắc kẹt nơi thứ lớp, mới tiến thẳng trên đường Bồ-đề không ngăn ngại.
Vì đây là phần tu chứng chúng ta chưa trải qua, nhưng biết được đường đi rồi chúng ta không có tự mãn, cũng không dám buông lung giải đãi. Nhiều khi học qua lý suông nghe nói tự tánh đầy đủ rồi không cần tu gì nữa, thành giải đãi buông lung. Hoặc là nghe nói tu thứ lớp trải qua lâu xa không biết bao giờ mới thành Phật rồi chán. Cả hai điều đó đều là mắc kẹt. Hiểu rõ rồi chúng ta có được niềm tin vững chắc nơi chính mình, từ đó tiến tu cho đến khi sống trọn vẹn với tâm diệu dụng viên dung là xong. Đó là khéo tu.
Mục lục
- 1. MỤC 12 ĐÁNH CHUÔNG NGHIỆM TÁNH THƯỜNG
- 2. MỤC 13 NÊU RA CĂN ĐỂ CHỈ CHỖ MÊ
- 3. MỤC 14 CỘT KHĂN ĐỂ CHỈ ĐẦU GÚT
- 4. MỤC 15: CHỈ MỞ GÚT TRƯỚC SAU
- 5. MỤC 16: GẠN HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ CHỖ VIÊN THÔNG
- 6. MỤC 17: CHỈ CHÍNH CHỖ VIÊN TU
- 7. MỤC 18: CHỈ BÀY BỐN LỜI DẠY BẢO RÕ RÀNG VÀ QUYẾT ĐỊNH
- 8. MỤC 19 : PHẬT KHAI THỊ VỀ MẬT GIÁO THẦM GIÚP NHỮNG NGƯỜI TU HÀNH
- 9. MỤC 20: KHAI THỊ VỊ TRÍ TU CHỨNG TRƯỚC VÀ SAU
Tìm kiếm
Tác giả
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 00002
- Online: 16