Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký (tập 4)

06/06/2018 | Lượt xem: 12

Danh mục: Kinh - Luật

Lời Tựa

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Giảng Ký này do chúng tôi giảng cho chư Tăng tại Thiền viện Trúc Lâm, rồi được quý Sư cô hợp tác với Phật tử ghi chép lại, xong gửi về chúng tôi chỉnh sửa; sau đó một số Tăng Ni và Phật tử phát tâm ấn hành để làm lợi ích rộng rãi đến nhiều người. Nhân duyên hội tụ đầy đủ, Bộ Lăng Nghiêm Giảng Ký này được hình thành và đến tay người đọc.

Tuy nhiên, nghĩa lý kinh Lăng Nghiêm rất sâu, rất rộng, rất nhiệm mầu, vượt ngoài thức tình suy nghĩ hay ngôn ngữ luận bàn, vậy làm sao có thể giảng, có thể ghi chép được? Song nếu một bề im lặng mãi thì ai biết được đây?

Do đó, Đức Phật cũng từ chỗ không thể nói mà phương tiện nói. Và nay đây cũng từ chỗ khó nói mà phương tiện giảng nói, từ chỗ không thể ghi chép mà phương tiện ghi chép. Những mong người đọc khéo hiểu được, đây chỉ là phương tiện, mà cần phải đạt sâu ý ngoài lời thì cũng không đến nỗi uổng phí vô ích.

Ôi, chân tâm sáng suốt nhiệm mầu ai ai cũng sẵn đủ, nhưng vì sao phải làm chúng sanh vô minh, sống trong vòng hư vọng lưu chuyển không dừng thế ấy? Chỉ vì một niệm bất giác ban đầu, quên mất cái sẵn chân thật sáng suốt nhiệm mầu ấy mà vọng khởi thành sai biệt có nhiều thứ, đến nỗi che mất cả cội nguồn chân thật xưa nay ấy!

Thanh tịnh bản nhiên bỗng sanh núi sông, quả đất! Như Diễn-nhã-đạt-đa từ chỗ không cuồng mà phát cuồng bỏ chạy. Cái đầu vẫn sẵn đó, mà bảo là mất đầu rồi đi tìm đầu?!

Có Ai thấy chăng cái cuồng của chính mình đó?

Không cuồng, tại sao vẫn làm chúng sanh điên đảo đây?

Thật cuồng, thì còn Ai có biết để chạy tìm?

Mong sao mỗi người ngay đây thức tỉnh trở lại xem!

Mới hay, Ân Phật quá lớn lao không thể nghĩ bàn! Dù tán nhỏ thân này như vi trần mà phụng thờ Phật trong vô số kiếp cũng khó đáp đền!

Một chút công đức này có thấm là bao !

Tuy nhiên, một chút ánh sáng soi đường cho nhau trong đêm tối vô minh sao bảo là không cần thiết?

Cuối cùng, nguyện đem công đức này, hồi hướng chia đều cho tất cả chúng sanh trong pháp giới đều được thấm nhuần lợi ích không phân chia xa gần, đây kia ngăn cách.

  Này nhé !

  Nguồn tâm chân thật sẵn đây rồi,

  Sao phải khởi thêm cái chiếu soi?

  Giác minh, minh giác lầm ngay đó !

  Hỡi ai ! Có thấy, Thấy chăng, ôi !

          Thấy chăng, ôi !

  Đáng tiếc cho kìa, một kiếp người !

 

Thiền viện Trúc Lâm

Mùa xuân Đinh Dậu 2017

THÍCH THÔNG PHƯƠNG

 

  • 2. MỤC 22 KHAI THỊ PHẦN TRONG, PHẦN NGOÀI CỦA CHÚNG SANH

    CHÁNH VĂN:

    Phật bảo A-nan: “Hay thay! Lời hỏi đó khiến cho các chúng sanh chẳng mắc vào tà kiến, nay ông hãy nghe kỹ, tôi sẽ vì ông nói.

    A-nan! Tất cả chúng sanh thật vốn là chân tánh thanh tịnh, nhân những vọng kiến kia mà có tập khí hư vọng sanh ra, vì thế mà chia ra có phần trong và phần ngoài.

    GIẢNG GIẢI:

    Phật chỉ rõ là tất cả chúng sanh vốn không rời chân tánh thanh tịnh, nhưng do vọng kiến, tức cái thấy hư vọng mà thành có các thứ tập khí hư vọng sanh khởi. Sanh khởi đó là vọng sanh. Nhớ kỹ! Chúng sanh vì lầm chấp vào chỗ vọng sanh đó cho là thật có, từ đó mà lưu chuyển luân hồi.

    Đây ngầm chỉ cho chúng ta hiểu thấu được đó là chỗ vọng sanh, để không chấp vào đó mà thấu suốt trở về tánh nguyên chân. Đồng thời cũng là nhắc nhở người đừng một bề chấp vào tánh nguyên chân mà bỏ đi thế giới vọng sanh cho là không có địa ngục. Bởi vì còn mê thì còn có thế giới vọng sanh, có địa ngục, có luân hồi. Mà đã có vọng sanh thì có trong có ngoài, cho nên đây nói có phần trong, phần ngoài. Đó là chỗ ý sâu xa của Phật, không phải nghe nói có phần trong phần ngoài rồi chấp vào đó cho là thật thì cũng mắc kẹt. Chúng ta học phải quán cho thấu đến nghĩa sâu kín chớ không chết cứng ở trên chữ nghĩa.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Phần trong tức là trong phần của chúng sanh. Nhân các thứ ái nhiễm phát khởi ra vọng tình, vọng tình tích chứa mãi không thôi, nên hay ra nước ái. Thế cho nên, trong tâm của chúng sanh nghĩ nhớ đến thức ăn ngon, thì trong miệng chảy nước bọt; trong tâm nghĩ đến người trước hoặc thương, hoặc giận thì nước mắt trào ra; tham cầu của báu, thì tâm phát ra nước ái trên thân đều trong sáng; tâm đắm trước hành dâm, thì hai căn của nam nữ tự nhiên dịch khí chảy ra. A-nan! Các thứ ái tuy có khác, nhưng kết quả chảy nước là đồng, thấm ướt không bay lên được thì tự nhiên theo đó mà rơi xuống, ấy gọi là phần trong.

    GIẢNG GIẢI:

    Phần trong thuộc về vọng tình. Bởi chúng sanh chấp vào chỗ này, vọng tình mới cảm hay sanh ra nước ái. Thí dụ như trong tâm nghĩ nhớ đến thức ăn ngon miệng liền chảy nước miếng; nghĩ nhớ đến người thương thì nước mắt trào ra v.v... Nước ái là nặng nên chảy xuống chứ không đi lên, người nào sống với tình nhiều thì chìm xuống.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Phần ngoài tức là ngoài phần của chúng sanh. Nhân cái lòng khát ngưỡng mà phát ra những hư tưởng, tưởng chất chứa mãi không thôi, có thể sanh ra các thắng khí. Thế nên, trong tâm chúng sanh, nếu trì giới cấm, thì toàn thân đều nhẹ nhàng thanh tịnh; tâm trì ấn chú, thì mắt nhìn hùng dũng, nghiêm nghị; tâm muốn sanh lên cõi trời, thì chiêm bao thấy bay lên; để tâm nơi cõi Phật, thì cảnh Phật thầm hiện; phụng thờ thiện tri thức, thì tự xem thường thân mạng. A-nan! Các tưởng đó tuy khác nhưng nhẹ nhàng cất lên thì đồng nhau, cất bay không chìm xuống tự nhiên vượt lên ấy là phần ngoài.

    GIẢNG GIẢI:

    Phần ngoài là thuộc về hư tưởng, đây gọi là nhân lòng khát ngưỡng phát ra những hư tưởng, mà tưởng thì nhẹ nên sanh ra thắng khí cất lên. Vậy người nặng về tưởng thì bay lên. Thí dụ trong tâm chúng sanh mà chuyên trì giới cấm, toàn thân nhẹ nhàng thanh tịnh. Tâm trì ấn chú, mắt nhìn hùng dũng, tâm mong muốn sanh lên cõi trời, chiêm bao liền thấy bay lên. Là tưởng nhẹ nên cất lên.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Tất cả thế gian sống chết tiếp nối nhau, là do thuận theo tập quán, chết thì đổi sang dòng khác; khi gần mạng chung chưa hết hơi nóng, việc lành việc dữ trong một đời đồng thời hiện đủ. Cái nghịch của chết cái thuận của sống, hai tập khí giao xen lẫn nhau.

    Thuần là tưởng thì bay lên, sanh trên các cõi trời. Nếu khi bay lên mà trong tâm gồm có đủ phước đức trí tuệ và nguyện thanh tịnh thì tự nhiên tâm được khai ngộ, thấy tất cả Tịnh độ mười phương chư Phật theo nguyện mà vãng sanh.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây nói thuần về tưởng thì đi lên. Tất cả thế gian đều đi theo chiều sống chết, chết sống cứ vậy mà tiếp nối nhau không dừng. Rồi do chấp vào thân tâm này là “Ta” nên ai cũng thích sống và ghét chết. Vì vậy, sống là thuận theo tập quán thích đó, còn chết thì trái ý tập quán.

    Khi người gần mạng chung chưa hết hơi nóng, chuẩn bị chuyển qua thân trung ấm và hậu ấm. Lúc đó, những việc lành việc dữ đã tạo trong một đời hiện ra giống như cuộn phim rồi theo đó nó dẫn đi. Cho nên, nếu chúng ta tu hành không kỹ, không có đạo lực thì lúc đó thấy những cảnh đã tạo hiện ra, tâm liền rối loạn, mà rối loạn thì đi đường xấu. Do đó, cần phải biết mà ráng tu tập cho kỹ, huân tập tích lũy nghiệp giác ngộ mạnh để lúc đó có sức sáng suốt mà tự chủ.

    Cái nghịch của chết, cái thuận của sống, tức tâm tránh chết cầu sống, hai tập khí giao xen lẫn nhau mà có đi lên hay chìm xuống. Nghĩa là theo nghiệp thiện thì nó dẫn đi lên, còn theo nghiệp ác thì nó dẫn đi xuống. Đây nói về chỗ thuần tưởng thì nhẹ cho nên nó bay lên sanh trên các cõi trời, nếu thêm có đủ phước đức trí tuệ cộng với nguyện lực thanh tịnh nữa thì tâm khai ngộ và được thấy cõi Tịnh độ vãng sanh theo chỗ nguyện. Do đó nguyện lực cũng rất trọng yếu.

    CHÁNH VĂN:

    Tình ít tưởng nhiều thì cất lên không xa, liền làm phi tiên, Đại lực quỷ vương, phi hành Dạ-xoa, địa hành La-sát, đi khắp bốn cõi trời không bị ngăn ngại. Trong những vị ấy, nếu có tâm tốt, nguyện lành, ủng hộ Phật pháp, hoặc ủng hộ giới cấm theo người trì giới, hoặc ủng hộ thần chú theo người trì chú, hoặc ủng hộ thiền định giữ yên pháp nhẫn, thì các hạng đó chính mình được ở dưới pháp tòa của Như Lai.

    GIẢNG GIẢI:

    Ở trên là thuần tưởng, đây thì có xen chút tình, nên bay lên mà không được xa vì có tình nên nặng kéo trì xuống bớt. Như những loài phi tiên, Đại lực quỷ vương, phi hành Dạ-xoa v.v... là những loài cũng được đi lên khắp bốn cõi trời nhưng vì còn kẹt chút tình, không được sanh lên cõi trời. Nếu thêm có tâm tốt nguyện lành ủng hộ Phật pháp, hoặc ủng hộ người trì giới, như vậy sẽ được ở dưới pháp tòa của Như Lai, là có phước đức hơn.

    CHÁNH VĂN:

    Tình tưởng đồng nhau, không bay lên cũng không rơi xuống, thì sanh ở cõi người, tưởng sáng suốt nên thông minh, tình tối tăm nên ngu độn.

    GIẢNG GIẢI:

    Cõi người thuộc về tình tưởng ngang nhau, nên không đi lên cũng không đi xuống mà sanh vào cõi người. Do có tưởng nên có phần suy nghĩ sáng suốt thông minh, do có tình nên có phần ngu độn tối tăm.

    CHÁNH VĂN:

    Tình nhiều tưởng ít, thì trôi vào các loài hoành sanh; nặng thì làm loài có lông, nhẹ thì làm loài có cánh.

    GIẢNG GIẢI:

    Tình nhiều tưởng ít, nặng cho nên kéo đi xuống. Tuy nhiên, còn có chút tưởng nên sanh trong những loài đi ngang. Trong đó nặng thì làm loài có lông, nhẹ thì làm loài có cánh, là cũng có sai biệt nữa.

    CHÁNH VĂN:

    Bảy phần tình, ba phần tưởng, thì chìm xuống dưới thủy luân, sanh nơi mé hỏa luân chịu khí phần của lửa mạnh, thân làm ngạ quỷ, thường bị đốt cháy, vì nước có thể hại mình, nên trải qua trăm ngàn kiếp không ăn không uống.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây thì bảy phần tình, ba phần tưởng, cho nên chìm xuống dưới thủy luân, sanh nơi mé hỏa luân. Hỏa luân tức là gần địa ngục, loài này đã chìm sâu rồi. Làm thân ngạ quỷ nên thường chịu đói khát khổ sở, thấy nước tới uống thì nước hóa lửa hoặc là hóa thành nước đồng sôi uống không được, vì do nghiệp nặng trải qua trăm ngàn kiếp đói khát rất khổ sở.

    CHÁNH VĂN:

    Chín phần tình một phần tưởng, chìm xuống thấu qua hỏa luân, và giữa giao với phong luân và hỏa luân, nhẹ thì sanh vào địa ngục hữu gián, nặng thì sanh vào địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây thì chín phần tình chỉ có chút tưởng thôi, nên sanh vào địa ngục. Tuy ở địa ngục nhưng cũng chia ra hai phần: Phần nhẹ là ngục hữu gián, nặng thì sanh vào địa ngục vô gián. Vô gián thì khổ sở liên tục vì tình quá nặng.

    CHÁNH VĂN:

    Thuần tình thì chìm sâu vào địa ngục A-tỳ. Nếu trong tâm chìm sâu đó lại có chê bai Đại thừa, phá cấm giới của Phật, cuồng vọng thuyết pháp để tham cầu của tín thí, lạm nhận lòng cung kính của người, hoặc phạm ngũ nghịch thập trọng, thì lại sanh vào địa ngục A-tỳ trong mười phương.

    GIẢNG GIẢI:

    Đến trường hợp này là quá nặng, thuần tình thì rơi vào địa ngục A-tỳ chịu khổ lâu dài, cộng thêm tội phỉ báng Đại thừa, phá giới cấm, thì lại sanh vào địa ngục A-tỳ trong khắp mười phương, cái khổ không nói hết được. Phật kết lại:

     

    CHÁNH VĂN:

    Theo nghiệp ác gây ra, tuy tự chuốc lấy quả báo, nhưng trong chúng đồng phận, vẫn có chỗ sẵn.

    GIẢNG GIẢI:

    Tùy theo nghiệp của mỗi chúng sanh đã tạo ác mà riêng chuốc lấy quả báo địa ngục. Mỗi người tự tạo thì mỗi người tự chịu, những chúng sanh cùng tạo chung một nghiệp thì có sẵn chỗ đó để cùng sanh đến.

    Bởi chúng sanh mê lầm chấp có ngã này là thật, mà chấp có ngã thật nên cảnh cũng thật, do đó mà thấy có cảnh thật hiện ra. Còn nếu ngược vọng trở về chân, không thấy có cái ta thật thì cảnh bám vào đâu? Đó là con đường giải thoát, rõ ràng. Thấy rõ hai con đường đó rồi, chúng ta biết lối đi và cũng không một bề chấp là có hay chấp không. Nếu thấy có mình thật thì cũng có cảnh thật, địa ngục thật hiện ra. Ngược lại, ta không có thì cảnh bám chỗ nào để có, tức con đường giải thoát ngay trước mắt. Đó là con đường luân hồi hay giải thoát, chúng ta phải thấy rõ để biết đường đi.

    ***

  • 3. MỤC 23 CHỈ RA MƯỜI TẬP NHÂN, SÁU ĐƯỜNG GIAO BÁO

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Những điều như thế đều do nghiệp báo, các chúng sanh kia tự chiêu cảm lấy, như gây mười tập nhân thì chịu sáu giao báo là những điều như thế.

    GIẢNG GIẢI:

    Sở dĩ có những tình tưởng sai biệt cảm khiến đi lên đi xuống như đã nói ở trước, không phải là ai đem đến mà do nghiệp chúng sanh tự tạo rồi chiêu cảm. Nếu chúng sanh gây mười tập nhân thì sẽ chịu sáu giao báo, tức tạo cái nhân thì sẽ có nghiệp báo đáp lại. Đây nói về mười tập nhân.

     

    CHÁNH VĂN:

    Thế nào là mười tập nhân?

    * A-nan! Một là, tập quán dâm dục cùng giao tiếp nhau phát sanh cọ xát lẫn nhau, cọ xát mãi không thôi; như thế, nên trong ấy có ngọn lửa hồng lớn nổi lên, như người lấy hai bàn tay cọ xát với nhau, thì có cảm giác nóng hiện ra. Hai cái tập khí đốt nhau, nên có những việc giường sắt, trụ đồng. Thế nên, tất cả mười phương các Như Lai, nhận xét dâm dục đồng gọi là lửa dục, Bồ-tát đối với dâm dục tránh xa như tránh hầm lửa.

    GIẢNG GIẢI:

    Thứ nhất tập quán dâm dục. Do tâm dâm dục chứa thành thói quen nhiều đời gọi là tập quán, từ đó giao tiếp cọ xát lẫn nhau thành có ngọn lửa lớn; rồi hai tập khí dâm dục đó đốt nhau cảm đến có nằm giường sắt, có ôm trụ đồng phải chịu khổ nơi địa ngục. Người dâm dục bị lửa dục thiêu đốt, Bồ-tát thì tránh xa như tránh hầm lửa. Từ đó, nhắc chúng sanh tránh chớ theo tập nhân dâm dục rồi phải chịu khổ báo.

    CHÁNH VĂN:

    * Hai là, tập quán tham lam so đo hơn thiệt, phát sanh hấp thụ lẫn nhau, hấp thụ ôm ấp mãi không thôi, vì thế nên tích tụ hơi lạnh bên trong thành băng cứng làm cho nứt nẻ; ví như có người hút hơi gió vào sanh ra cảm giác lạnh. Hai tập lấn át nhau, nên có những sự tra tra, ba ba, la la, thanh liên, xích liên, bạch liên, hàn băng v.v... thế nên, mười phương Như Lai nhận xét, tham cầu quá nhiều, đồng gọi là nước tham, Bồ-tát đối với lòng tham, tránh như tránh biển độc.

    GIẢNG GIẢI:

    Tập quán về tham là so đo tính toán tìm cầu, nên cảm đến có địa ngục Hàn băng. Hàn băng là băng lạnh, tội nhân chịu lạnh rên xiết thành những tiếng “tra tra”, “ba ba”, “la la” v.v... Còn hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng là màu băng lạnh của những địa ngục này. Chư Như Lai gọi nó là nước tham, Bồ-tát thì tránh như tránh biển độc.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Ba là, tập quán ngã mạn lấn lướt lẫn nhau, phát sanh ỷ thế với nhau, dong ruổi mãi không dừng, vì thế nên có bôn ba, sôi nổi, chứa sóng lại thành nước, ví như có người miệng lưỡi tự chép làm cho nước bọt chảy ra. Hai tập khí chọi nhau, nên có các việc: sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, bắt uống nước đồng chảy v.v... Thế nên, tất cả Như Lai ở mười phương nhận xét, lòng ngã mạn gọi là uống nước si mê, Bồ-tát đối với tâm ngã mạn, như tránh vực thẳm.

    GIẢNG GIẢI:

    Tập quán ngã mạn, như ỷ thế lấn lướt người, do đó cảm đến các tướng ở địa ngục sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, bắt uống nước đồng chảy. Chư Như Lai thường gọi tập quán ngã mạn đó là uống nước si mê, Bồ-tát tránh như tránh vực thẳm.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Bốn là, tập quán nóng giận xung đột lẫn nhau, phát sanh chống đối lẫn nhau, chống đối mãi không thôi, tâm nổi nóng phát ra lửa, nên cái khí đúc thành kim thuộc. Vì thế nên có núi đao, đòn sắt, cây gươm, bánh xe gươm, búa, rìu, thương, cưa. Ví như người bị hàm oan thì sát khí nổi lên. Hai tập khí chống chọi nhau, nên có các việc thiến, cắt, chém, chặt, dùi, đâm, đập, đánh. Thế nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét sự nóng giận gọi là dao gươm bén, Bồ-tát đối với lòng nóng giận, tránh như tránh chém giết.

    GIẢNG GIẢI:

    Tập quán về nóng giận xung đột chống đối lẫn nhau, nên cảm đến địa ngục núi đao, đòn sắt, cây gươm v.v... Có thiến, cắt, chém, chặt v.v... là những việc trong địa ngục. Chư Như Lai gọi đó là dao gươm bén. Bồ-tát tránh như tránh chém giết.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Năm là, tập quán về giả dối dụ dỗ theo nhau phát sanh lôi kéo lẫn nhau, dẫn dắt mãi không thôi; như vậy, nên có dây, cây, thòng lọng, căng nọc, ví như nước thấm vào ruộng, cỏ cây sanh trưởng. Hai tập khí kéo dài với nhau, nên có các việc gông, cùm, xiềng xích, roi gậy, qua bảng. Vậy nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét giả dối đồng là sàm tặc, Bồ-tát thấy giả dối sợ như beo sói.

    GIẢNG GIẢI:

    Tập quán về giả dối dụ dỗ lôi kéo lẫn nhau do đó mà cảm đến địa ngục có những thứ như là dây, cây, thòng lọng, căng nọc tội nhân, rồi các việc gông, cùm, xiềng xích v.v... Bởi vậy, chư Như Lai gọi giả dối đó là giặc sàm tặc, Bồ-tát tránh như sợ beo sói.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Sáu là, tập quán về lừa gạt lừa dối với nhau, phát sanh phỉnh gạt lẫn nhau. Phỉnh gạt mãi không thôi, phóng tâm tạo những điều gian dối như vậy, cho nên có đất bụi, đại tiện, tiểu tiện, các đồ nhơ nhớp không sạch, như bụi theo gió mỗi cái không thấy lẫn nhau. Hai tập khí dìm hại lẫn nhau, nên có các việc chìm đắm, nhảy ném, bay rơi, trôi lăn. Thế nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét sự lừa dối đồng gọi là cướp giết, Bồ-tát đối với sự dối gạt như đạp nhằm rắn rết.

    GIẢNG GIẢI:

    Tập quán về lừa gạt lẫn nhau, nên cảm đến địa ngục có đất bụi, đại tiện, tiểu tiện, các đồ nhơ và các việc như là chìm đắm, nhảy ném, hoặc bay rơi, hoặc là trôi lăn để hành hạ tội nhân. Chư Như Lai gọi lừa gạt như là cướp giết, Bồ-tát tránh như đạp nhằm rắn rết.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Bảy là, tập khí thù oán hiềm khích lẫn nhau, phát sanh ôm lòng giận hờn, như thế cho nên có quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, xe cũi, bình đựng, đãy bọc, như người hiểm độc ôm ấp điều dữ. Hai tập khí nuốt nhau nên có những sự ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, gieo ôm. Vậy nên tất cả các Đức Như Lai thập phương nhận xét sự thù oán gọi là quỷ Vi Hại, Bồ-tát đối với sự thù oán như uống rượu độc.

    GIẢNG GIẢI:

    Tập quán thù oán hiềm khích cảm đến địa ngục có quăng đá, có ném gạch, có hộp nhốt, hoặc xe cũi, bình đựng, đãy bọc, hoặc những việc ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, gieo ôm, hành hạ tội nhân. Chư Như Lai gọi là quỷ Vi Hại hại người, Bồ-tát tránh như tránh uống rượu độc.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Tám là, tập quán ác kiến tranh cãi với nhau như ngã kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và các nghiệp tà ngộ, phát sanh ra chống trái lẫn nhau, như thế nên có sứ vua chủ lại nắm giữ giấy tờ làm chứng, như người đi đường qua lại gặp nhau. Hai tập khí giao nhau, nên có các việc khám hỏi mưu mẹo, khảo tấn, hạch hỏi, gạn xét cứu tra soi sáng và những đồng tử thiện ác, tay cầm sổ sách biện bạch cãi vã. Thế nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét ác kiến đồng gọi là hầm kiến chấp, Bồ-tát đối với các thứ thiên chấp hư dối như đến bên hố độc.

    GIẢNG GIẢI:

    Tập quán về ác kiến tức những kiến chấp tà thành tranh cãi có chống trái lẫn nhau. Do đó cảm đến địa ngục có sứ vua, có chủ lại, có các việc khám hỏi, mưu mẹo, khảo tấn, hạch hỏi, gạn xét cứu tra soi sáng v.v... Bởi vậy, chư Như Lai gọi tập quán về ác kiến là hầm kiến chấp, Bồ-tát tránh như đến bên hố độc.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Chín là, là tập quán về vu vạ, làm hại lẫn nhau, phát sanh vu báng. Như thế nên có núi ép, đá ép, cối xay, cối nghiền, cày bừa, ví như kẻ sàm tặc áp bức vu oan cho người lành. Hai tập khí ấy bài xích lẫn nhau, nên có các việc áp giải, đè dập, ép huyết tuốt mình. Thế nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét việc vu vạ đồng gọi là sàm hổ, Bồ-tát đối với vu vạ như bị sấm sét.

    GIẢNG GIẢI:

    Tập quán về vu vạ hay vu báng, cảm đến địa ngục có núi ép, đá ép cối xay, cối nghiền, cày bừa; rồi những việc như áp giải, đè dập, ép huyết tuốt mình. Bởi vậy chư Như Lai gọi là sàm hổ là những con cọp hại người, Bồ-tát tránh như bị sấm sét.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Mười là, tập quán kiện thưa cãi vã lẫn nhau phát sanh sự che đậy. Như thế nên có gương soi, đuốc chiếu, như ở giữa ban ngày không thể giấu bóng được. Hai tập khí phô bày lẫn nhau, nên có các việc bạn ác, gương nghiệp, hỏa châu phơi bày nghiệp xưa để đối nghiệm. Thế nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét sự che đậy đồng gọi là giặc ngầm, Bồ-tát đối với sự che đậy như đội núi cao, lội trong biển lớn.

    GIẢNG GIẢI:

    Tập quán về kiện thưa có che đậy nên cảm đến địa ngục có gương soi, có đuốc chiếu, và các việc bạn ác, gương nghiệp, hỏa châu phơi bày nghiệp xưa. Tức đứng trước gương nghiệp đó sẽ lộ ra hết những việc làm của mình từ trước, không còn chối cãi. Chư Như Lai gọi tập quán kiện thưa như giặc ngầm, Bồ-tát tránh như đội núi cao, như lội trong biển lớn, tức là đủ để tự nhàm chán.

    Đó là 10 tập nhân, là cái nhân huân tập nơi tâm luôn tương tục, rồi cảm đến các tướng địa ngục hiện mà chịu khổ. Tất cả cũng không phải ngoài tâm riêng có.

    Hiểu vậy rồi chúng ta phải khéo chuyển tự tâm thì bên ngoài sẽ chuyển theo. Kế nói đến sáu giao báo.

     

    CHÁNH VĂN:

    Thế nào gọi là sáu giao báo? A-nan! Tất cả chúng sanh do sáu thức tạo nghiệp, nên chiêu cảm ác báo, đều từ sáu căn mà ra.

    GIẢNG GIẢI:

    Sáu thức tạo nghiệp cũng từ sáu căn mà ra. Rồi nó chiêu cảm tới ác báo thì cũng từ sáu căn mà chịu. Một căn tạo nghiệp đồng cảm đến sáu căn cùng thọ báo, cho nên gọi là giao báo. Ở trước, Phật chỉ từ sáu căn chứng viên thông, đây chỉ ra từ sáu căn tạo nghiệp chịu khổ. Mới thấy, nơi sáu căn này là căn bản đi lên đi xuống, cũng chứng minh cho thấy sáu căn là gốc sanh tử luân hồi, cũng chính sáu căn là gốc Bồ-đề Niết-bàn. Mê ngộ cũng ngay đây chia đường khỏi phải tìm đâu xa, cho nên tu là tu ngay sáu căn này đây. Người tu hành nếu không nắm vững đường lối tu, lo tìm xa xôi mà quên mất ngay sáu căn này là đủ hết.

     

    CHÁNH VĂN:

    Các báo dữ từ sáu căn như thế nào?

    * Một là, giao báo về thấy chiêu cảm quả báo dữ. Khi nghiệp thấy ấy giao báo, thì khi lâm chung, trước hết thấy lửa dữ đầy cả mười phương, thần thức người chết bay rơi theo khói vào địa ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là thấy sáng: khắp thấy các vật dữ sanh ra khiếp sợ không lường; hai là thấy tối: lặng im không thấy gì sanh ra hoảng hốt vô hạn. Lửa thấy như thế, nó đốt cái nghe có thể làm vạc dầu sôi, làm nước đồng chảy. Đốt hơi thở, thì hay làm khói đen, lửa đỏ; đốt cái nếm, thì hay làm viên tròn hung đỏ, làm cơm sắt; đốt cảm xúc, thì hay làm tro nóng, lò than; đốt tâm ý, thì hay sanh ra sao lửa rưới khắp làm rung động cả cõi hư không.

    GIẢNG GIẢI:

    Khi lâm chung nghiệp thấy giao báo trước thấy lửa dữ đầy cả mười phương, thần thức người chết bay theo khói vào địa ngục vô gián, trong đó phát ra hai tướng: Thấy sáng: khắp thấy các vật dữ ghê rợn cho nên sanh ra khiếp sợ bất an. Còn nếu thấy tối: lặng im không thấy gì cả, thành ra hoảng hốt, cả hai đều khiến khổ sở.

    Từ lửa thấy mới đốt đến cái nghe, đốt hơi thở, đốt cái nếm, đốt cái xúc, đốt tâm ý, lúc đó đâu còn nhớ biết gì đến tánh chân, nguy hiểm vậy đó!

     

    CHÁNH VĂN:

    * Hai là, giao báo về nghe chiêu cảm quả dữ. Khi nghiệp nghe này giao báo thì khi lâm chung trước là thấy sóng cuộn chìm ngập trời đất, thần thức người chết sa xuống theo dòng nước vào ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là nghe rõ, nghe tất cả các thứ ồn náo, tinh thần rối loạn; hai là lại điếc hẳn lặng lẽ không nghe gì, thần thức chìm lịm. Sóng nghe như thế rót vào cái nghe, thì hay làm trách làm hỏi; rót vào cái thấy, thì hay làm sấm, làm rống, làm hơi độc dữ; rót vào hơi thở, thì hay làm mưa làm mù, rưới các sâu độc đầy khắp cả thân thể; rót vào vị, thì hay làm mủ làm máu, các thứ nhơ bẩn; rót vào cảm xúc, thì hay làm súc sanh, làm quỷ, làm phân, làm nước tiểu; rót vào ý nghĩ, thì hay làm chớp, làm mưa đá đập nát tâm thức.

    GIẢNG GIẢI:

    Giao báo về cái nghe, cảm đến sóng nghe ngập trời đưa vào địa ngục. Khi lâm chung thấy sóng cuộn chìm ngập trời đất, thần thức sa xuống theo dòng nước vào địa ngục, trong đó phát ra hai tướng: một là nghe rõ tất cả các thứ ồn náo, nghe tiếng này tiếng kia làm cho tinh thần rối loạn bất an, khổ sở. Hai là lại điếc hẳn không nghe gì, thành ra thần thức chìm lịm, hai cái đều khổ hết.

    Sóng nghe đó mới rót vào cái thấy, rót vào hơi thở, rót vào vị, rót vào xúc, rót vào ý làm cho quên mất cả tánh chân không còn nhớ biết gì. Đó là để chúng ta biết mà chuyển nhớ trở lại tánh nghe, tánh thấy sáng suốt, đừng theo đó mà tạo nghiệp rồi cảm đến những giao báo nguy hiểm!

     

    CHÁNH VĂN:

    * Ba là, giao báo về ngửi chiêu cảm quả dữ, nghiệp ngửi ấy giao báo, thì khi lâm chung trước thấy hơi độc đầy dẫy xa gần, thần thức người chết từ dưới đất vọt lên, vào ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là ngửi thông, bị các hơi độc xông tột bực làm cho tâm rối loạn; hai là ngạt mũi, hơi ngạt không thông nằm chết giấc dưới đất. Hơi ngửi như thế xông vào hơi thở, thì làm thông làm ngạt; xông vào cái thấy, thì có thể làm lửa làm đuốc; xông vào cái nghe, thì có thể làm chìm ngập làm chết đuối, làm nước lớn, làm nước sôi; xông vào vị, thì có thể làm đói, làm ngấy; xông vào cảm xúc, thì có thể làm xấu làm nát, làm núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt, bị ăn hút không lường; xông vào ý, thì có thể làm tro, làm chướng khí, làm gạch, cát, đá bay lên đánh nát thân thể.

    GIẢNG GIẢI:

    Về nghiệp ngửi chiêu cảm hơi độc đầy dẫy, rồi thần thức theo đó vào địa ngục cũng phát ra hai tướng: một là ngửi thông, bị các hơi độc xông nên tâm rối loạn; hai là ngạt mũi, không thông cho nên nằm chết giấc dưới đất. Hơi ngửi đó xông vào hơi thở, xông vào cái thấy, xông vào cái nghe, xông vào vị, xông vào xúc, xông vào ý, làm cho quên mất tánh chân.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Bốn là, giao báo về vị chiêu cảm quả dữ. Khi nghiệp vị đó giao báo, thì lúc lâm chung trước thấy lưới sắt nung đỏ, che khắp cả thế giới; thần thức của người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo đầu lộn ngược xuống vào ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là ướp hơi vào kết thành giá lạnh, thịt trong thân bị nứt nẻ; hai là phun hơi bay ra làm lửa hồng, đốt cháy rụi xương tủy. Vị nếm như thế qua cái nếm, thì có thể làm nhận làm chịu; qua cái thấy, thì có thể làm các thứ kim thạch đốt cháy; qua cái nghe, thì có thể làm binh khí sắc bén; qua hơi thở, thì có thể làm lồng sắt lớn che trùm cõi nước; qua cái cảm xúc, thì có thể làm cung, làm tên, làm nỏ, làm bắn; qua cái ý, thì có thể làm sắt nóng bay từ trên không rưới xuống.

    GIẢNG GIẢI:

    Giao báo về vị sẽ chiêu cảm lúc chết thấy lưới sắt nung đỏ, che khắp thế giới, thần thức của người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo đầu lộn ngược xuống mà vào địa ngục chịu khổ, cũng phát ra hai tướng: một là ướp hơi vào kết thành giá lạnh, cho nên thịt trong thân bị nứt nẻ, khổ sở; hai là phun hơi bay ra làm lửa hồng, đốt cháy rụi xương tủy. Rồi vị báo đó mới đi qua cái thấy, đi qua cái nghe, đi qua hơi thở, đi qua cái cảm xúc, đi qua cái ý, cũng làm rối loạn quên mất tánh chân.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Năm là, giao báo về xúc chiêu cảm quả dữ. Khi nghiệp xúc đó giao báo, thì lúc lâm chung trước thấy núi lớn bốn mặt đến hợp lại không còn đường ra, thần thức người chết thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp, sói, sư tử, ngục tốt đầu trâu, La-sát đầu ngựa, tay cầm cây thương, xóc, lùa vào cửa thành, hướng về ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là hợp xúc, thì núi ép kẹp mình xương thịt nát ra máu; hai là ly xúc, thì dao gươm chạm vào mình, tim gan cắt xẻ. Xúc báo như vậy, qua cái xúc, thì có thể làm đạo, làm quán, làm sảnh, làm án; qua cái thấy, thì có thể làm đốt, làm nung; qua cái nghe, thì có thể làm đập, làm đánh, làm đâm, làm bắn; qua hơi thở, thì làm trùm làm đẫy, làm tra làm trói; qua cái nếm vị, thì có thể làm cày, làm kềm, làm chém, làm chặt; qua cái ý, thì có thể làm rơi, làm bay, làm nấu, làm nướng.

    GIẢNG GIẢI:

    Về xúc thì cảm giao báo khi chết thấy núi lớn bốn mặt hợp lại không còn đường ra, thần thức thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa v.v...; những ngục tốt đầu trâu, La-sát đầu ngựa, tay cầm thương, xóc, lùa vào thành, rơi vào địa ngục, trong đó phát ra hai tướng: khi cái xúc hợp thì thành núi ép kẹp mình xương thịt nát nhừ ra máu; hai là ly xúc, thành ra dao gươm chạm vào mình, tim gan cắt xẻ. Xúc đó nó qua cái thấy, qua cái nghe, qua hơi thở, qua cái vị, qua ý, cũng làm quên mất không còn biết đâu là tánh chân thật nữa.

     

    CHÁNH VĂN:

    * Sáu là, giao báo về suy nghĩ chiêu cảm quả dữ. Khi nghiệp ý giao báo, thì lúc lâm chung trước thấy gió dữ thổi tiêu hoại cõi nước, thần thức của người chết bị gió thổi bay trên không, xoay rơi trên gió, sa xuống địa ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là không biết mê muội cùng tột, hoang mang bỏ chạy không thôi; hai là không mê, tỉnh biết thì khổ bị thiêu đốt không cùng, đau đớn thống thiết khó nhẫn chịu. Như thế kết vào ý nghĩ, thì có thể làm phương, làm sở; kết vào cái thấy, thì có thể làm gương soi, làm chứng cớ; kết vào cái nghe, thì có thể làm đại hợp thạch, làm giá, làm sương, làm đất, làm mù; kết vào hơi thở, thì có thể làm xe lửa lớn, làm thuyền lửa, làm cũi lửa; kết vào cái nếm vị, thì có thể làm kêu la to, làm hối hận, làm khóc lóc; kết vào xúc, thì có thể làm lớn, nhỏ, làm cho một ngày muôn lần sống, muôn lần chết, làm nghiêng làm ngửa”.

    GIẢNG GIẢI:

    Giao báo về ý, đến lúc lâm chung cảm đến gió dữ thổi tiêu hoại cõi nước, thần thức của người chết bị gió thổi bay trên không, xoay rơi trên gió, sa xuống địa ngục, phát ra hai tướng: một là mê muội không biết gì, hoang mang bỏ chạy; hai là không mê thì tỉnh biết, do tỉnh biết bị khổ thiêu đốt đau đớn khó chịu không cùng. Giao báo đó kết vào cái thấy, kết vào cái nghe, kết vào hơi thở, kết vào cái nếm vị, kết vào xúc, làm cho quên không còn biết đâu là tánh chân thật nữa.

    Đó là những cái khổ của con đường bất giác vô minh. Chúng ta được may mắn học Phật, phải khéo biết để tu tập xoay trở về giác ngộ, ngay sáu căn đó mà trở lại tánh chân thật.

    Kết luận về tập nhân giao báo:

     

    CHÁNH VĂN:

    Phật bảo: “A-nan! Ấy gọi là mười nhân và sáu quả của địa ngục đều do chúng sanh mê vọng mà tạo ra.

    Nếu các chúng sanh sáu căn đồng tạo nghiệp dữ, thì vào ngục A-tỳ chịu khổ không lường, trải qua vô lượng kiếp. Nếu từng mỗi căn tạo ra và nghiệp dữ đã làm, gồm cả cảnh và căn, thì người ấy vào tám địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Trước là tổng kết mười tập nhân và sáu quả giao báo do mê vọng tạo ra. Chúng sanh lại lầm cho là thật, theo đó tạo nghiệp rồi chịu khổ. Đau đớn là chỗ đó!

    Do sáu căn của chúng sanh đồng tạo nghiệp dữ cực ác, đủ cả mười tập nhân thì vào địa ngục A-tỳ, trải qua vô lượng kiếp chịu khổ không lường. Nếu từng mỗi căn tạo nghiệp dữ gồm có căn và cảnh thì vào tám địa ngục vô gián, nhẹ hơn. Địa ngục vô gián là ngục quyến thuộc của ngục A-tỳ. A-tỳ là đại ngục nặng nhất, còn tám ngục vô gián này thì cũng nặng nhưng còn nhẹ hơn ngục A-tỳ.

     

    CHÁNH VĂN:

    Nếu cả thân, khẩu, ý làm việc sát, đạo, dâm, thì người ấy vào mười tám địa ngục; không đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý, hoặc trong ấy chỉ làm việc sát, hoặc việc đạo (trộm) người ấy vào ba mươi sáu địa ngục. Chỉ có một căn riêng làm một việc, thì người ấy vào một trăm lẻ tám địa ngục.

    GIẢNG GIẢI:

    Nếu cả thân, khẩu, ý làm việc sát, đạo, dâm, không tạo đủ mười tập nhân nên tội nhẹ hơn phải vào mười tám địa ngục. Nếu chỉ làm việc sát sanh hoặc việc trộm cắp, hoặc không tạo đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý thì vào ba mươi sáu địa ngục; là những địa ngục ở trên, thuộc nhẹ.

    Nếu chỉ có một căn riêng làm một việc, thì vào một trăm lẻ tám địa ngục chịu khổ nhưng nhẹ hơn các địa ngục đã nói trên.

     

    CHÁNH VĂN:

    Do những chúng sanh ấy riêng gây ra nghiệp, nên vào chỗ đồng phần ấy, đó đều do vọng tưởng phát sanh chẳng phải bản lai tự có.

    GIẢNG GIẢI:

    Ngài Hàm Thị giải rõ thêm: “Mỗi chúng sanh riêng tạo nghiệp thì có chỗ thọ khổ riêng tùy theo tội của người tạo, nhưng các cái riêng đó chung lại thành chỗ đồng phần”, là có chỗ để cùng đến. Ở trước nói, chỗ đồng phần có sẵn nhưng rốt ráo cũng không ngoài vọng tưởng phát sanh, như trong mộng thấy rõ hết, còn tỉnh dậy thì đâu có. Thế nên, tuy nói vọng tưởng tạo rồi phát sanh, nhưng do chúng sanh mê lầm thấy cái gì cũng chấp là thật, khổ cũng thật mà vui cũng thật, cho nên địa ngục cũng thật.

    Giống như trong mộng, tuy mộng không thật nhưng ngủ mê nên thấy mộng là thật. Như trong mộng gặp việc vui thì cũng vui, gặp khổ cũng khổ, gặp cọp rượt cũng chạy v.v... Đây cũng vậy, còn mê thấy mọi việc đều thật nên mới tạo nghiệp chịu khổ. Mỗi người tạo nghiệp đều có chỗ riêng của người đó ứng với nghiệp mình đã tạo. Do mỗi người tạo nhiều cái riêng đi chung lại thành chỗ đồng phần. Như ở thế gian, người tạo tội ác có chỗ để giam theo nghiệp riêng của người đó, khi nhiều người tạo cùng nghiệp thì có ngục tù cùng vào chung.

    Để thấy tất cả việc ấy, rốt ráo cũng không ngoài vọng tưởng phát sanh. Do chúng sanh lầm chấp là thật, rồi tạo nghiệp phải chịu khổ cho nên có địa ngục để chúng sanh ấy thọ lãnh những quả báo của mình đã làm.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại nữa, A-nan! Các chúng sanh ấy chê bai phá hoại luật nghi, phạm giới cấm Bồ-tát, hủy báng Niết-bàn của Phật và các nghiệp phức tạp khác, sau khi bị đốt cháy trải qua nhiều kiếp đền tội hết rồi thì chịu các hình quỷ.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây nói dư báo của tội ở địa ngục. Sau khi thọ khổ ở địa ngục xong, liền sanh vào các loài quỷ, gọi là dư báo của địa ngục.

     

    CHÁNH VĂN:

    Nếu ở nơi bản nhân do tham vật mà làm ra tội, người ấy đền tội xong gặp vật thành hình, tên là Quái quỷ; do tham sắc mà làm ra tội, người ấy đền tội xong gặp gió thành hình gọi là Bạt quỷ; tham mê hoặc dối trá mà làm ra tội, người ấy đền tội xong, gặp giống súc thành hình gọi là Mỵ quỷ; do tham nóng giận mà làm ra tội, người ấy chịu tội xong, gặp con sâu thành hình gọi là Cổ độc quỷ; do tham thù oán mà làm ra tội, người ấy đền tội xong gặp vận suy thành hình, gọi là Lệ quỷ; do tham ngã mạn mà làm ra tội, người ấy đền tội xong, gặp khí thành hình, gọi là Ngạ quỷ; do tham lừa gạt làm ra tội, người ấy chịu tội xong, gặp u ẩn thành hình, gọi là Áp quỷ; do tham ác kiến làm ra tội, người ấy khi đền tội xong, gặp tinh hoa thành hình gọi là Võng lượng quỷ; do tham vu vạ làm ra tội, người ấy khi đền tội xong, gặp linh hiển thành hình, gọi là Dịch sử quỷ; do tham bè phái che giấu làm ra tội, người ấy khi đền tội xong, gặp con người thành hình gọi là Truyền tống quỷ.

    GIẢNG GIẢI:

    Dư báo sanh vào loài quỷ thứ nhất là Quái quỷ. Quái quỷ do gá vào vật khác mà hiện hình để làm yêu quái. Đây gốc do tham vật thành ra tội.

    Còn gốc tham sắc làm ra tội thì sanh làm Bạt quỷ, nương theo gió mà thành hình.

    Tham mê hoặc dối trá làm ra tội, xong rồi gặp giống súc sanh thành hình gọi là Mỵ quỷ, là loài quỷ gá vào những giống súc sanh làm mê hoặc người, như hồ ly hay hiện hình nam nữ đẹp để mê hoặc người, gọi là Mỵ quỷ.

    Gốc do tham nóng giận hại người làm ra tội, xong rồi gặp con sâu độc thành hình gọi là Cổ độc quỷ.

    Rồi do thù oán làm ra tội, khi xong thành hình gặp những lúc thời vận suy gá vào đó làm thành những bệnh ôn, bệnh dịch gọi là Lệ quỷ.

    Do tham ngã mạn làm ra tội, khi tội xong gặp khí thành hình, gọi là Ngạ quỷ, thường tự đói khát, khổ sở.

    Còn tham lừa gạt làm ra tội, tội xong gặp những khi tối tăm, u ẩn thành hình, gọi là Áp quỷ, quỷ này thừa lúc người ta ngủ mê đè người nên gọi là ma đè.

    Do tham ác kiến làm ra tội, xong rồi gặp tinh hoa thành hình gọi là Võng lượng quỷ, hay gá vào những tinh hoa của mặt trời, mặt trăng và núi sông rồi thành hình.

    Do tham vu vạ tức là vu khống người ta, khi hết tội ở địa ngục, gặp những cái sáng thành hình, gọi là Dịch sử quỷ, loài quỷ bị phù chú gá vào thành hình, nghe theo sự sai sử để làm họa phúc.

    Do tham bè phái che giấu làm ra tội, xong rồi gặp con người thành hình gọi là Truyền tống quỷ, hay gá vào người như là đồng bóng thường nói về tốt xấu.

    Chúng ta học kinh này nghe Phật dạy rồi mới thấy sợ hãi, chỉ vì một chút bất giác vọng tưởng tạo nghiệp mà thành chịu khổ như vậy.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Những người ấy đều do thuần tình phải đọa lạc, bị lửa nghiệp đốt khô, thì lên làm quỷ. Những loài như thế là từ nghiệp vọng tưởng mà chiêu cảm. Nếu chứng ngộ Bồ-đề, thì tánh Diệu Viên Minh vốn không thật có.

    GIẢNG GIẢI:

    Kết lại, đây là do sống theo thuần tình nên phải đọa lạc, song tất cả cũng từ nghiệp vọng tưởng chiêu cảm thôi. Khi chứng ngộ Bồ-đề, thì tánh Diệu Viên Minh vốn không có những việc này. Học đây cũng là giúp chúng ta biết rõ nó không có thật thể, vốn là tánh nguyên chân, nên cần phải khéo giác ngộ trở lại đừng theo đó mà càng đi thì càng xa mất gốc.

    Kế nói về Súc sanh báo.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại nữa A-nan! Khi nghiệp quỷ đã hết thì tình và tưởng cả hai đều thành không, mới ở thế gian cùng với những người mình đã thiếu nợ cũ oán đối gặp nhau, thân làm súc sanh để trả nợ trước.

    GIẢNG GIẢI:

    Khi nghiệp quỷ hết thì sao? Nghiệp quỷ hết thì ở thế gian cùng với người mà trước mình đã thiếu nợ lại tìm gặp nhau, làm súc sanh để trả nợ cũ. Đó là còn dư báo để trả cho hết những nợ trước. Là tiếp tục đi vào loài súc sanh.

     

    CHÁNH VĂN:

    Quái quỷ theo vật, vật tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim kiêu. Quỷ theo gió, gió tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm các loài kỳ dị (báo điềm xấu). Mỵ quỷ theo súc, súc chết báo hết, sanh nơi thế gian phần nhiều làm loài chồn. Cổ quỷ theo sâu, sâu diệt báo hết, phần nhiều sanh nơi thế gian làm loài có độc. Lệ quỷ theo vận suy, suy tột báo hết sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun. Ngạ quỷ theo khí, khí tiêu báo hết, sanh nơi thế gian làm loài cung cấp thịt ăn. Áp quỷ theo u ẩn, u ẩn tiêu báo đã hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài đồ mặc. Võng lượng quỷ theo tinh hoa, tinh hoa báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cảm ứng. Dịch sử quỷ theo sự linh hiển, linh hiển diệt báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm tất cả loài hưu trưng (báo điềm tốt). Truyền tống quỷ theo người, người chết báo hết, sanh nơi thế gian phần nhiều làm các loài quấn quít bên người.

    GIẢNG GIẢI:

    Những loài Quái quỷ gá vào vật thành hình, khi vật tiêu báo hết, sanh nơi thế gian làm loại chim kiêu cũng ôm cục đất.

    Nghiệp báo của loài Bạt quỷ hết, thường sanh vào loại chim báo điềm xấu. Ngài Hàm Thị giải như chuột, chim sẻ, nó báo những điềm mất mùa, hoặc là chim hạc múa thì nó ứng với điềm hạn hán, đó là những loài báo việc xấu.

    Nghiệp báo của loài Mỵ quỷ hết, thường sanh vào loài chồn.

    Nghiệp báo của loài Cổ độc quỷ hết, thường sanh vào loài có độc như rắn rết loại độc.

    Nghiệp báo của loài Lệ quỷ hết, thường sanh vào loài giun nhỏ nhoi.

    Nghiệp báo của loài Ngạ quỷ hết, sanh vào loài cung cấp thức ăn cho người.

    Nghiệp báo của loài Áp quỷ theo u ẩn, u ẩn tiêu, báo đã hết, sanh vào loài phần nhiều làm loài đồ mặc.

    Nghiệp báo của loài Võng lượng quỷ hết, thường sanh vào loài cảm ứng như những loại chim hồng, chim yến ứng theo thời tiết mà nó đến.

    Nghiệp báo của loài Dịch sử quỷ hết, thường sanh vào loài báo điềm tốt, như loài lân, loài phụng.

    Nghiệp báo của loài Truyền tống quỷ hết, thường sanh vào những loài quấn quýt bên người như là chó, mèo.

    Phật kết luận:

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Bọn ấy đều do lửa nghiệp đốt khô sanh ra loài súc đền trả nợ trước. Như thế, đều do vọng nghiệp của tự mình chuốc lấy. Nếu ngộ tánh Bồ-đề, thì vọng duyên đó vốn không thật có.

    GIẢNG GIẢI:

    Kết lại cũng do vọng nghiệp mà tự chuốc lấy quả xấu. Nếu ngộ tánh Bồ-đề thì vọng duyên vốn không thật có. Cho nên, tuy vậy nhưng tất cả không có cái thật ngã. Nhớ kỹ! Đều không có cái thật ngã! Chính vì vậy nên còn có đường trở về.

     

    CHÁNH VĂN:

    Như lời ông nói, bọn Bảo Liên Hương, Vua Lưu Ly, Tỳ-kheo Thiện Tinh đều vốn tự tạo nghiệp dữ như thế. Nghiệp ấy không phải từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất vọt lên, cũng không phải người khác đưa tới, mà chính do vọng tưởng của tự mình gây ra rồi trở lại tự mình thọ báo, đối với tâm Bồ-đề, đó chỉ là sự kết động của vọng tưởng giả dối.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây Phật nói về việc của Tỳ-kheo-ni Bảo Liên Hương v.v... cũng do vọng tưởng tự mình gây ra, rồi tự mình phải thọ lấy quả báo chứ không phải ai đem đến. Nhưng đối với tâm Bồ-đề, đó chỉ là sự kết động của vọng tưởng giả dối, không phải thật, không ngoài tâm riêng có, nếu tu tập ngộ trở lại tự tâm thì mở đường giải thoát trở về.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại nữa, A-nan! Từ các súc sanh ấy đã đền trả nợ trước, nếu khi trả nợ mà trả quá nợ cũ, thì các chúng sanh này trở lại làm người đòi lại chỗ thừa kia. Nếu như người ấy có thế lực, lại có cả phước đức, thì ở trong loài người, không xả thân người mà hoàn lại chỗ thừa đó; còn nếu không có phước đức thì phải làm súc sanh để trả nợ đền lại chỗ thừa.

    GIẢNG GIẢI:

    Nghĩa là trong lúc chúng sanh đó sanh ra làm con trâu, con bò v.v... cày bừa, chuyên chở để trả nợ; nếu người chủ đòi nợ nhiều khi đòi quá số nợ đã thiếu thì người chủ ấy phải thiếu trở lại trâu, bò kia. Như khi đền nợ đủ rồi lại làm thịt trâu bò ăn luôn, đó là trâu bò kia trả dư nợ, nên chủ của nó phải trả lại, nhân quả đâu đó rõ ràng. Có hai trường hợp: Nếu người kia có phước đức thì ngay trong hiện đời trả luôn, còn nếu không có phước đức thì phải sanh trở lại đời sau làm súc mà trả nợ. Cho nên, người giàu có đôi khi trở thành kẻ thiếu nợ là như vậy. Mình là người chủ súc sanh kia, nó đến trả nợ cho mình, nhưng đòi nợ nhiều thành thiếu nợ trở lại nó, trở thành kẻ thiếu nợ.

    Bởi người thế gian không hiểu đạo lý, sống mê lầm nhân quả, tạo những nghiệp lầm lẫn như vậy rồi phải chịu khổ, đó cũng đều do vọng tưởng điên đảo mà ra. Khi đã rơi vào trong những cái khổ này rồi mong ra được làm người không phải dễ. Thí dụ vào loài súc sanh như con heo, con chó, con bò v.v... là loài ngu si nên luôn tạo thêm nghiệp, hoặc con mèo thì thường giết chuột v.v... Thấy hiểu rồi chúng ta thấy ghê sợ mà lo tiến tu để giác ngộ trở lại nguồn chân.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Phải biết, nếu dùng tiền của hoặc sai sử sức của chúng, đền đủ thì xong, còn như trong ấy có giết thân mạng hoặc ăn thịt của chúng, như thế cho đến ăn nhau giết nhau trải qua nhiều kiếp như số vi trần cũng như bánh xe xoay vần thay đổi bên cao bên thấp không có dừng nghỉ, trừ người được pháp thiền định, hoặc Phật ra đời, thì không thể dừng được.

    GIẢNG GIẢI:

    Quả là ghê gớm! Nghĩa là ở trong đó nếu dùng tiền của hoặc sai sử sức của con nợ đền đủ thì xong, còn như trong ấy có giết thêm thân mạng hoặc ăn thịt thì kết thêm cái nợ ăn nhau giết nhau trải qua đời này đời khác, nhiều kiếp thành oan trái. Tức là đời này ăn nhau giết nhau, rồi đời sau trở lại ăn nhau giết nhau nữa cứ vậy mà lẩn quẩn trải qua nhiều kiếp như số vi trần cũng như bánh xe xoay vần thay đổi bên cao bên thấp, hễ bên này trả bên kia nhận thì bên kia cao hơn; rồi trở lại bên kia trả bên này thì bên này cao hơn, cứ xoay vần như thế.

    Trong kinh, Phật kể câu chuyện: Có một người con trai nhà nghèo cha chết sống với mẹ. Nhiều lần mẹ định cưới vợ cho nhưng anh không chịu, cuối cùng vì thương mẹ nên anh kia chìu theo. Cưới vợ nhiều năm nhưng người vợ ấy lại không sanh được con, lâu ngày bà mẹ nóng lòng bàn cưới thêm vợ lẽ. Anh không chịu nhưng bà mẹ nói mãi, cô vợ nghe vậy nghĩ là tự mình cưới vợ nhỏ cho chồng thì mình có được quyền hơn.

    Cô tìm được một cô gái hiền lành dễ dạy cưới cho chồng. Sau cô này có thai, mới báo cho cô biết. Cô vợ lớn nghe rồi sợ sau này cô ấy có con trai nối dõi gia đình thì cô phải mất phần, nên cô tìm cách bỏ thuốc phá thai cho người vợ nhỏ uống đến ba lần.

    Nhưng đến lần thứ ba khi cô vợ nhỏ có thai, những cô bạn hàng xóm nghe biết dặn cô vợ nhỏ kia rằng: “Đừng cho người vợ lớn biết!”. Cô này giấu, nhưng khi cái thai lớn dần, cô vợ cả cũng biết lại tìm cách phá thai tiếp. Do thai đã lớn nên cuối cùng cả mẹ và con cùng chết. Khi sắp chết, cô vợ nhỏ hận mới thề kiếp sau phải trả nợ này. Cô chết đầu thai làm con mèo trong nhà chồng.

    Lúc đó, chồng của hai cô biết chuyện mới giận đánh đập cô vợ cả, cô buồn khổ cũng chết theo tiếp tục đầu thai vào nhà chồng làm con gà mái. Mỗi lần gà mái đẻ trứng là bị con mèo đến ăn, lần thứ ba nó ăn luôn gà mẹ.

    Khi gà mái chết, nó hận mới sanh làm con beo. Còn con mèo sanh làm con nai cái. Mỗi lần con nai cái sanh đều bị con beo đến ăn con của nó. Lần thứ ba, con beo ăn luôn nai mẹ.

    Khi đó, oán hận càng chồng chất, nai mẹ chết sanh làm quỷ Dạ-xoa nữ. Còn con beo chết sanh làm cô gái, lập gia đình tương đối khá giả. Và cứ đến mỗi lần sanh con thì Dạ-xoa này hóa hình thành những người chị em bạn đến thăm hỏi vuốt ve đứa bé, rồi bồng bắt ăn thịt luôn.

    Lần thứ nhất, lần thứ hai sang đến lần thứ ba thì cô này mới bàn với chồng là phải đi về nhà cha mẹ, nhờ xa như vậy mới tránh nạn Dạ-xoa bắt con ăn thịt. Bấy giờ, vợ chồng bồng con về đến quê của vợ. Sở dĩ đi được xa như vậy là do trong thời gian đó quỷ Dạ-xoa này chịu quyền sai khiến của một trong Tứ Thiên Vương phải đi công tác chỗ khác, nhưng cũng đâu tránh khỏi, vì nó có thần thông. Khi Dạ-xoa trở về thì không gặp kẻ thù, nên đi tìm.

    Bấy giờ, hai vợ chồng kia thấy thời gian qua lâu, đứa con cũng lớn, nghĩ rằng mọi việc xấu cũng qua đi nên bồng đứa con trở về. Trên đường gần đến Tinh xá Kỳ Viên, do trời nóng nực, hai vợ chồng thay phiên giữ con rồi xuống ao tắm. Ngay lúc đó, quỷ Dạ-xoa tìm tới, cô vợ mới bồng đứa con chạy thẳng vào trong Tinh xá gặp lúc Phật đang thuyết pháp. Lúc đó, không biết sao cô mới đặt đứa con xuống xin cúng dường cho Phật, mong Phật cứu cho. Còn quỷ Dạ-xoa đuổi theo đến cổng Tinh xá thì bị chư Thiên, chư thần ngăn không cho vào. Phật biết bảo Ngài A-nan gọi vào. Sau đó, Phật thuyết pháp cho hai bên tỉnh giác, mới giải tỏa được oan trái này.

    Phật nói: “Các ngươi nếu không gặp Như Lai thì oan trái này không biết đến bao giờ mới dừng”.

    Trong đây Phật cũng nói: “Trừ người được pháp thiền định, hoặc Phật ra đời, thì không thể dừng được oan trái”. Do đó, chúng ta phải cẩn thận tránh không kết thành những việc oan trái từ đời này đến nhiều đời sau. Đời nay sống kết oan trái, đời sau lại gặp nhau trong oan trái.

    Kế nói đến dư báo trong nhân đạo.

     

    CHÁNH VĂN:

    Nay ông nên biết, loài chim kiêu kia khi đền nợ đủ trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hàng ngoan cố. Giống cửu trưng kia, khi đền nợ đủ, trở lại thân người, sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng quái dị. Những loài hồ kia, khi đền nợ đủ trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng ngu dại. Những loài có độc kia, khi đền nợ đủ, trở lại thân người, sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng nham hiểm. Những loài giun kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng nhỏ nhoi. Những loài cung cấp thịt ăn kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng nhu nhược. Những loài cung cấp đồ mặc kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng lao lụy. Những loài chim mùa kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng văn hoa. Những loài hưu trưng kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng thông minh. Những loài quấn quít theo người kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng thông đạt.

    GIẢNG GIẢI:

    Nghĩa là các loài chim kiêu khi sanh trở lại làm người, do tập khí trước nên thành hạng ngoan cố, khó dạy. Giống cửu trưng tức là loài báo điềm xấu khi sanh trở lại thân người thành ra những hạng quái dị. Những loài chồn kia, khi sanh trở lại thân người do tập khí mà thành hạng ngu dại. Những loài cổ độc khi sanh trở lại thân người thành những hạng nham hiểm ứng với tập khí hiểm độc. Những loài giun khi sanh trở lại thân người thành hạng có tâm nhỏ nhoi. Còn loại cung cấp thịt ăn khi sanh trở lại thân người thành hạng nhu nhược, yếu đuối. Còn loài cung cấp đồ mặc khi sanh trở lại thân người thành hạng lao lụy tức phải bôn ba khổ nhọc thân xác. Những loài cảm ứng khi sanh trở lại thân người thành ra hạng văn hoa tức là thông chữ nghĩa, hiểu âm dương. Còn loại báo điềm tốt khi sanh trở lại thân người thành hạng thông minh gọi là thế trí biện thông. Những loài quấn quít theo người kia, khi sanh trở lại thân người thành ra hạng thông đạt hiểu thấu được nhân tình.

    Đây Phật kết luận:

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Bọn ấy nợ cũ trả xong, trở lại thân người đều do từ vô thủy đến nay điên đảo gây nghiệp mà sanh nhau, sát hại lẫn nhau, nếu không gặp Như Lai, không nghe chánh pháp, thì ở trong trần lao cứ thế xoay vần mãi mãi. Bọn ấy gọi là thật đáng thương xót vậy!

    GIẢNG GIẢI:

    Thật đáng thương! Kết lại đều do từ vô thủy đến nay điên đảo gây nghiệp mà sanh nhau, sát nhau, xoay vần lẩn quẩn trong luân hồi, sống như vậy có gì đáng vui thích! Chúng ta cũng vậy, sanh ra đây cũng là đáp lại nghiệp cũ đã tạo từ trước. Hoặc là thông minh, hoặc là chậm lụt thì cũng do nghiệp trước đã tạo. Cho nên, ngày nay được duyên tu hành quả là rất hy hữu, nếu không lo tu thì không biết nói sao, nên đây Phật nói là thật đáng thương xót là vậy.

    Đây là những điều nhắc cho tất cả, hiện nay phải nhớ mình được làm người, được gặp Phật pháp mà chẳng lo tu tiến trên đường giải thoát thì thật là đáng tiếc! Mỗi người chúng ta cần thức tỉnh lo tu để giải quyết cái mê sanh tử này, gọi là việc lớn sanh tử. Đây mới là việc lớn, mới là việc quan trọng. Còn những việc hơn thua, buồn vui, giận ghét hoặc là tham cầu được cái này được cái kia v.v... đó là chuyện nhỏ. Những người không biết tu hoặc là không biết xét sâu, lại lấy những cái đó cho là quan trọng. Đó là sống trong điên đảo.

     

    * Mười loại tiên

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Lại có chúng sanh từ loài người không nương theo Chánh Giác tu pháp Tam-ma-địa, lại riêng tu theo vọng niệm để tâm củng cố hình hài vào trong rừng núi, chỗ người ta không đến được, thành mười thứ tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây thuộc về Tiên đạo, tuy được hơn người một chút, nhưng cũng còn lẩn quẩn trong luân hồi. Không nương theo Chánh giác tu Tam-ma-địa để giải thoát, lại theo vọng niệm để tâm củng cố hình hài này. Tức là tu luyện để sống lâu, muốn kéo dài thân xác này, đó cũng là một hình thức chấp ngã. Như ông tiên Lữ Đồng Tân khi gặp Thiền sư Phổ Am cảnh tỉnh: “Dù cho ông được trường sanh thì cũng chỉ là quỷ giữ thây ma”. Giữ cái thây này cho lâu thôi chứ có gì, lời đó để cảnh tỉnh cho tất cả mọi người.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Các chúng sanh kia, kiên cố dùng đồ bổ không dừng nghỉ, khi đạo thực được thành tựu, gọi là Địa Hành Tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Hạng này là nấu luyện các thứ thuốc thành viên bổ dùng, để cố giữ cho thân này sống lâu. Như nấu luyện những cây cỏ quý trên rừng núi thành cao uống để sống lâu. Lâu ngày, thân được nhẹ nhàng nhanh nhẹn, nhưng chưa bay lên được, nên gọi Địa Hành Tiên.

    CHÁNH VĂN:

    Kiên cố dùng cỏ cây không dừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành tựu, thì gọi là Phi Hành Tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Hạng này dùng những cỏ cây sống lâu năm như rễ sâm, ăn uống thường ngày rồi tu luyện tư tưởng giữ cho thân này kiên cố lâu dài. Khi thành tựu, thân được nhẹ thăng lên gọi là Phi Hành Tiên, nhưng thời gian sau quả báo hết cũng phải chết.

    CHÁNH VĂN:

    Kiên cố dùng kim thạch không dừng nghỉ, khi đạo dùng hóa chất được thành tựu, thì gọi là Du Hành Tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Các ông tiên đây luyện linh đơn, luyện chu sa dùng uống lâu ngày được thành công thì thành Du Hành Tiên, có thể bay đi.

    CHÁNH VĂN:

    Kiên cố làm những động tác không dừng nghỉ, khi khí tinh được thành tựu, thì gọi là Không Hành Tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Không Hành Tiên này dùng những động tác luyện để dẫn đường tinh khí trong người. Khi thành tựu có thể nương mây cỡi rồng bay đi.

    CHÁNH VĂN:

    Kiên cố luyện nước bọt không dừng nghỉ, khi nhuận đức được thành tựu, thì gọi là Thiên Hành Tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Hạng này luyện uống nước bọt, cứ nhép nhép cho nó ra nước bọt rồi nuốt, lâu ngày thành tựu gọi là Thiên Hành Tiên. Cho nên, những người tu bên đạo Tiên rất quý nước bọt.

    CHÁNH VĂN:

    Kiên cố hợp thu tinh hoa không dừng nghỉ, khi hấp thụ được thành tựu, thì gọi là Thông Hành Tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Hạng này hấp thụ tinh hoa của mặt trời, mặt trăng lâu ngày được thành tựu. Đây tuy nhờ tinh hoa của mặt trời mặt trăng bên ngoài, nhưng cũng có pháp phù hợp với bên trong mới được thành tựu. Nếu không như thế sẽ thành bệnh tà, có khi phát điên.

    CHÁNH VĂN:

    Kiên cố làm thuật phù chú không dừng nghỉ, khi thuật pháp được thành tựu, thì gọi là Đạo Hành Tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Hạng này dùng thuật luyện phù chú. Luyện lâu ngày thành tựu được thành Đạo Hành Tiên.

    CHÁNH VĂN:

    Kiên cố chuyên chú tâm niệm không dừng nghỉ, khi chuyên niệm được thành tựu, thì gọi là Chiếu Hành Tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là tu giữ niệm lâu nên gọi là chuyên chú. Có những loài tiên phải chuyên chú giữ cái tưởng ở nơi đảnh này để được mở đảnh xuất thần. Hoặc buộc tâm ở nơi đan điền mà giữ khí, luyện lâu ngày thành tựu là Chiếu Hành Tiên.

    CHÁNH VĂN:

    Kiên cố về thủy hỏa giao cấu không dừng nghỉ, khi cảm ứng được thành tựu, thì gọi là Tinh Hành Tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Loại này do cái thuật luyện cấu tinh nam nữ mà thành. Thuật này nhiều khi lạm dụng mà thành dâm dục quá độ.

    CHÁNH VĂN:

    Kiên cố tập luyện biến hóa không dừng nghỉ, khi giác ngộ được thành tựu, thì gọi là Tuyệt Hành Tiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Là dùng thuật tập luyện biến hóa lâu ngày được thành tựu có thể tùy ý biến hóa tự tại, làm những huyễn thuật biến hóa người này người kia, đây gọi là Tuyệt Hành Tiên.

    Phật kết lại:

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Những bọn ấy trong loài người mà luyện tâm, không tu Chánh Giác chỉ riêng được lẽ sống lâu ngàn vạn năm ở ẩn trong núi sâu, hoặc trên đảo giữa biển cả, cách tuyệt chỗ người ở; đó cũng là vọng tưởng luân hồi, lưu chuyển. Nếu không tu pháp Tam-muội, thì khi quả báo hết, trở lại sanh vào trong lục đạo.

    GIẢNG GIẢI:

    Kết lại, những vị tiên kể trên cũng nằm trong vọng tưởng luân hồi. Những hạng này tu bằng tư tưởng. Tưởng củng cố cái thân hoặc luyện khí để mong thân này được sống lâu có thần thông. Dùng tưởng tu tức là dùng cái sanh diệt nên sẽ được quả sanh diệt. Những người không khéo, ngồi tu mà bị vọng tưởng mãi thành ra ma chen vào thành điên loạn. Hoặc có tu luyện sống lâu được ngàn vạn năm nhưng khi quả báo hết cũng trở lại sanh tử luân hồi, rốt cuộc cũng uổng công vô ích. Dưới đây là câu chuyện ông tiên Lữ Đồng Tân gặp Thiền sư Phổ Am được Ngài cảm hóa.

    Một hôm, vào buổi sáng sớm Sư thượng đường, ông Lữ Đồng Tân đến gặp Sư. Trước đó, ông cũng có đến gặp một lần rồi, nhưng ông không lễ bái, lần này lại đến hỏi:

        Chớ trách đạo nhân chẳng lễ bái,

        Vốn do Thích, Đạo khác gia phong.

    Ông nói đừng trách đạo nhân gặp thầy không lễ bái, bởi thầy thuộc đạo Phật, còn tôi về đạo Lão, gia phong khác nhau nên không lễ bái.

    Rồi ông hỏi:

    - Chưa biết Đạo và Phật là đồng ư, là khác ư?

    Thiền sư Phổ Am đáp:

         Đầu bịt khăn trùm lìa các tướng

         Áo vuông đầu tròn là người nào?

         Một vầng tự tại chẳng vật khác

         Phật, Đạo như không một Pháp thân.

    Tức là Phật hay Đạo cũng đồng một Pháp thân.

    Ông Lữ Đồng Tân hỏi tiếp:

         Chín chuyển đan sa,

         Giúp các bệnh khổ!

         Chín năm ngó vách

         Phải chăng nói rỗng?

    Ông nói chín lần luyện đan sa để giúp người trừ những bệnh khổ là có lợi ích. Còn nhà thiền, Ngài Đạt-ma ngồi chín năm ngó vách có phải nói rỗng chăng?

    Thiền sư Phổ Am bảo:

    - Ông cũng chưa biết đan sa, luống nhọc chín chuyển, còn tôi chính là ngàn vạn kiếp chuyên ngồi đạo tràng. Ông ra động luyện thuốc nấu đan, rơi ở đạo ngoại không (không thuộc cái chân). Vọng tưởng điên đảo, say rượu, tập dâm, nói càn cái vọng thuật. Rồi tâm chẳng giới thịt, dục nuôi sắc thân, trải nhiều kiếp tập khí trói buộc, không gốc có thể tựa. Coi giữ ra vào, nói là cốc thần. Chỉ biết mang cái thây chết nổi mây bủa sương, dù cho ông ngay ban ngày bay lên trời, rốt ráo thật về chỗ nào?

    Ông Lữ Đồng Tân nói:

        Năm hồ khách mây nước

        Khói sóng là nhà ta.

    Vì trên Thiền sư hỏi rốt ráo thật về chỗ nào? Ông mới đáp là như khách mây nước khắp cả năm hồ, đâu đâu cũng là nhà.

    Thiền sư Phổ Am bảo:

         Mây nước năm hồ ai biết có?

         Ở trong khói sóng việc thế nào?

    Ngay đó ông im luôn. Thiền sư Phổ Am quát bảo:

    - Thế nào là đạo?

    Ông Lữ Đồng Tân nói:

    - Đạo vốn không lời.

    Thiền sư Phổ Am bảo:

    - Ông chưa đạt gốc, lại nói không lời. Tôi rõ nhất tâm, đại dụng hiện tiền, đâu nệ gật đầu. Chân thường thuyết giáo, ta theo dòng trọn ngày, nói mà chưa từng nói, chẳng dính nơi ngậm miệng, dọc ngang diệu dụng, há kẹt cơ luân đấy ư!

    Ông Lữ Đồng Tân tới đó bèn gõ răng rồi đi.

    Thiền sư Phổ Am bảo:

        Bước yên đường mây xanh,

        Áo du mang ráng chiều.

    Áo du tức là áo bằng cây du.

    Xong, Thiền sư hỏi trong chúng:

    - Biết người này chăng?

    Trong chúng thưa:

    - Không biết!

    Thiền sư Phổ Am mới bảo:

       Ngàn năm quỷ bất tử

       Bay qua hồ Động Đình.

    Đó là quỷ bất tử sống ngàn năm vậy thôi.

    Để thấy một ông tiên tu luyện thành tiên, nhưng nếu chưa ngộ được đạo lý chân thật, đối với Thiền sư dù cho ông có nói gì đi nữa, nhưng cũng chỉ là mang cái thây chết kéo dài trong sanh tử thôi, cuối cùng có được gì? Theo thế gian nhìn thấy tu được thành tiên như thế cũng rất hay nên nhiều người cũng thích tu Tiên. Người thấu rõ sẽ thấy tu như thế cũng là còn lầm chấp ngã muốn giữ thân này cho lâu. Do đó dù tu lâu đến đâu nhưng cái ngã vẫn còn, nên đâu được giải thoát.

    Điều căn bản Phật dạy là, tu phải sạch cái ngã. Tu mà còn cái ngã là còn luân hồi, dù cho tu đạt đến cõi trời Phi phi tưởng thì cũng còn cái ngã, nên cũng còn trong luân hồi. Cho nên phải biết, thân đây là tạm mượn để tu tiến chứ không phải nắm bắt nó, quý nó rồi bị kẹt vào nó, vì nó mà sanh phiền não. Người nào nhẹ chấp ngã thì nhẹ phiền não, còn nặng chấp ngã thì nhiều phiền não. Lẽ thật là như vậy. Mà nhẹ chấp ngã thì dễ tu tiến và gần với Đạo.

    ***

  • 4. MỤC 24 CÁC CÕI TRỜI SAI KHÁC

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Những người trong thế gian không cầu đạo thường trụ, chưa có thể xả bỏ việc ân ái với vợ của mình, nhưng tâm không buông lung trong việc tà dâm, do tâm đứng lặng sanh ra sáng suốt, sau khi mạng chung ở gần mặt trời mặt trăng, một hạng như vậy, gọi là Tứ Thiên Vương Thiên.


    GIẢNG GIẢI:

    Những người không có tâm ra khỏi thế gian, nhưng lòng dục nhẹ, không buông lung theo việc tà dâm, cộng thêm tâm sáng suốt không thô động như ở thế gian, nên được sanh vào cõi Tứ Thiên Vương. Vị trí của Tứ Thiên Vương ở lưng chừng núi Tu-di, gần mặt trời mặt trăng. Tuổi thọ là 500 tuổi, một ngày một đêm ở đây bằng 50 năm ở nhân gian.

    Tứ Thiên Vương có bốn vị trấn giữ bốn góc:

    1- Trì Quốc Thiên Vương thống lãnh hai bộ quỷ thần là Càn-thát-bà và Tỳ-xá-xà. Tỳ-xá-xà là quỷ hút tinh khí.

    2- Tăng Trưởng Thiên Vương thống lãnh hai bộ quỷ thần Cưu-bàn-trà và Ngạ quỷ. Cưu-bàn-trà là Yểm mị quỷ.

    3- Quảng Mục Thiên Vương thống lãnh loài rồng và quỷ Phú-đơn-na.

    4- Đa Văn Thiên Vương thống lãnh hai nhóm quỷ Dạ-xoa và La-sát.

     

    CHÁNH VĂN:

    Đối với vợ mình, dâm ái ít ỏi, trong lúc tịnh cư không được toàn vị, thì sau khi mạng chung vượt khỏi ánh sáng mặt trời, mặt trăng ở trên chóp nhân gian; một loài như vậy, gọi là Đao-lợi Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Chư Thiên ở cõi trời này lòng dâm ái nhẹ hơn trước, nhưng tịnh tâm cũng chẳng được thuần, có lúc khởi niệm. Nên đây nói lúc tịnh cư không được toàn vị, thì vượt khỏi Tứ Thiên Vương, sanh ở chóp núi Tu-di. Vị trí cõi trời Đao-lợi ở trên chóp đỉnh núi Tu-di, bốn góc có 32 cõi trời vây quanh, ở giữa có thành Thiện Kiến, cộng lại là 33 cõi trời (Tam Thập Tam Thiên). Trời Đế-thích làm Thiên chủ, thọ là 1000 tuổi, một ngày đêm bằng 100 năm ở nhân gian.

     

    CHÁNH VĂN:

    Gặp cảnh dục tạm theo, qua rồi không nhớ nghĩ, ở trong nhân gian động ít, tịnh nhiều, thì sau khi mạng chung sáng rở ở yên trong cõi hư không, ánh sáng mặt trời mặt trăng không có soi đến được, những người thế ấy tự mình có ánh sáng, một hạng như thế gọi là Tu-diệm-ma Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Cũng gọi là trời Dạ-ma. Chư Thiên ở cõi trời này gặp cảnh dục tạm theo, qua rồi không nhớ nghĩ, tức cũng dễ buông. Do động ít tịnh nhiều nên rất nhẹ, do đó được ở trong cõi hư không vượt lên trời Địa Cư ở trước. Trời Đao-lợi còn nằm trên chóp đảnh Tu-di, còn cõi trời này vượt lên hư không, thọ 2000 tuổi, một ngày đêm ở trên đó bằng 200 năm ở nhân gian. Mỗi lần hoa sen nở ra khép lại là một ngày một đêm. Ánh sáng mặt trời không tới được cõi trời này, ở đây không có mặt trời mọc lặn như ở nhân gian.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm xúc đến bên mình cũng chưa chống đối được, thì sau khi mạng chung lên trên chỗ tinh vi không tiếp với những cảnh nhân thiên cõi dưới cho đến gặp kiếp hoại, tam tai cũng không đến được; một loài như thế, gọi là Đẩu-suất-đà Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Chư Thiên ở cõi này lúc nào cũng thường tịch tĩnh, gặp cảnh dục cũng chẳng giao tiếp, nhưng khi cảm xúc đến cũng chưa chống đối được cho nên cõi này cũng nằm trong cõi dục, nhưng đã lên chỗ tinh vi không giao tiếp với nhân thiên ở cõi dưới. Cõi này thường có các vị Bồ-tát Nhất Sanh Bổ Xứ ở, lại có nội viện và ngoại viện. Tuổi thọ là 4000 tuổi, một ngày một đêm bằng 400 năm ở nhân gian. Nếu ở nội viện thì kiếp hoại tam tai cũng không lên tới.

    Như câu chuyện Bồ-tát Vô Trước, Thế Thân với Ngài Sư Tử Quang tu hành hẹn nhau ai sanh lên cõi Đẩu-xuất trước hãy về báo tin.

    Ngài Sư Tử Quang sanh về đó trước, nhưng lâu quá không thấy về báo tin. Kế Ngài Thế Thân tịch nhưng thời gian lâu cũng không thấy báo tin. Một hôm, Ngài Thế Thân xuống báo tin cho Ngài Vô Trước. Ngài Vô Trước hỏi:

    - Còn Sư Tử Quang sao không thấy về báo tin? Có sanh về đó không?

    Ngài Thế Thân nói:

     - Khi vừa sanh lên đó thì có gặp Bồ-tát Di-lặc, Ngài gọi: “Tốt lắm thay! Quảng Tuệ hãy đến đây!”. Còn Sư Tử Quang cũng được sanh lên đó nhưng vẫn còn ở ngoại viện, mãi thích nghe nhạc trời nên không có thời giờ xuống báo tin.

    Chúng ta thấy, sanh cõi trời vẫn còn nguy hiểm, lo nghe nhạc trời là tâm còn vui thích âm thanh. Còn Ngài Thế Thân chuyên tâm hơn nên được vào trong nội viện. Ngài nói vừa gặp Bồ-tát Di-lặc xong, liền xuống đây báo tin, như vậy mà ở thế gian đã trải qua mười mấy năm trời.

     

    CHÁNH VĂN:

    Chính mình không có tâm dâm dục chỉ đáp ứng với người khác mà làm, trong lúc phô bày, vô vị như ăn sáp, thì sau khi mạng chung vượt lên, sanh vào cảnh biến hóa; một loài như thế gọi là Lạc Biến Hóa Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Ở cõi trời Đẩu-suất thì cảm xúc đến cũng còn tùy thuận, còn cõi này thì chỉ đáp ứng người khác mà làm, nhưng thấy vô vị chớ không thích thú, cho nên vượt lên vào cõi Lạc Biến Hóa. Cõi này tự hóa ra năm trần để tự vui. Thọ 8000 tuổi, một ngày một đêm bằng 800 năm ở nhân gian.

    Nếu đứng trên các cõi trời này nhìn xuống nhân gian, thấy đời người rất ngắn ngủi không có gì đáng kể.

    CHÁNH VĂN:

    Không có tâm thế gian, chỉ đồng như thế gian làm việc ngũ dục, trong khi làm việc ấy rõ ràng siêu thoát, thì sau khi mạng chung vượt trên cảnh biến hóa và không biến hóa; một loài như thế gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Chư Thiên cõi trời này không có tâm nghĩ đến ngũ dục, chỉ tùy thuận thế gian mà làm, nhưng tâm siêu thoát. Cõi này thọ một vạn sáu ngàn tuổi, một ngày một đêm ở trên đó bằng 1600 năm ở nhân gian. Đây là ở trên đỉnh của cõi Dục, tột Dục giới.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Sáu cõi trời như thế, hình thức tuy ra khỏi động, nhưng tâm thích còn có dính dấp; từ các cõi ấy trở xuống, gọi là Dục giới.

    GIẢNG GIẢI:

    Chư Thiên các cõi trời này tâm dục nhẹ, hình thức tuy ra khỏi động, nhưng tâm thích cũng còn tức là chưa khỏi. Cái thích tuy nhẹ nhưng chưa khỏi hết tâm dục, nên vẫn còn ở cõi Dục.

    Kế là đến Sắc giới.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Tất cả người tu tâm trong thế gian, nếu không nhờ Thiền-na, thì không có trí tuệ.

    Người nào giữ được thân không làm việc dâm dục, hoặc trong lúc đi lúc ngồi cũng không nghĩ nhớ, lòng ái nhiễm không sanh, thì không còn ở trong cõi Dục, ứng niệm thì liền đó thân được làm Phạm lữ; một loài như thế, gọi là Phạm Chúng Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Chư Thiên cõi này có tu phước nhưng cũng có tu Thiền định nên vượt lên đến cõi Sắc giới. Cõi này tu từ Sơ thiền cho đến Tứ thiền. Tâm lìa nghĩ đến dục mà được sanh hỷ lạc đó là Sơ thiền. Trong cõi Sơ thiền, thân không làm việc dục, lúc đi lúc ngồi cũng không nghĩ nhớ. Thân không làm mà tâm cũng không nghĩ, lòng ái nhiễm không sanh nên vượt qua Dục giới mà lên Sắc giới, thân được làm Phạm lữ thanh tịnh, cõi này thuộc Phạm Chúng Thiên.

    Phạm Chúng Thiên là dân ở cõi Phạm Thế, có tuổi thọ là nửa kiếp.

     

    CHÁNH VĂN:

    Tập quán ngũ dục đã trừ, tâm ly dục hiện ra, vui vẻ thuận theo luật nghi, thì người ấy ứng thời liền có thể thực hành Phạm đức; một loài như thế, gọi là Phạm Phụ Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Tức là thói quen dâm dục đã trừ, trừ đây là trừ tập quán dâm dục ở Dục giới, tâm thanh tịnh lìa dục đã hiện bày, vui vẻ tùy thuận theo luật nghi không phải gắng gượng. Có thể thực hành Phạm đức, là đức tu thanh tịnh Phạm hạnh không có dục nhiễm. Khi Phạm hạnh thành tựu, vượt lên Phạm Chúng làm Phạm Phụ Thiên.

    Phạm Phụ Thiên giống như quan ở cõi trời, thọ một kiếp.

     

    CHÁNH VĂN:

    Thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, oai nghi không thiếu, cấm giới trong sạch, lại có thêm trí sáng, thì người ấy liền thống lãnh Phạm Chúng, làm Đại Phạm Vương; một loại người như thế, gọi là Đại Phạm Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Phạm tức là thanh tịnh. Do thân tâm thanh tịnh lìa dục, oai nghi đầy đủ, giữ giới trong sạch có thêm trí sáng cho nên thống lãnh cả Phạm Chúng giống như Vua, gọi là Đại Phạm Vương, cõi này là Đại Phạm Thiên thọ một kiếp rưỡi.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Ba loài tốt đó, tất cả khổ não không thể bức bách, tuy không phải chân chánh tu Tam-ma-địa của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc của Dục giới không lay động được, nên gọi là Sơ Thiền.

    GIẢNG GIẢI:

    Ba cõi vừa nêu trên tuy không tu chân Tam-ma-địa vô lậu xuất thế gian, còn thuộc phàm phu thiền, nhưng nhờ lìa dục, có tâm thiền định mà tất cả những khổ não không thể bức bách được. Tuy vậy, chưa phải là hết khổ. Đó là tầng thiền thứ nhất trong Tứ thiền.

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Thứ nữa là các hàng Phạm Thiên thống lãnh Phạm Chúng lại tu tập Phạm hạnh được viên mãn, tâm đứng lặng không lay động, và do sự đứng lặng ấy mà phát sanh sáng suốt; một loài như thế gọi là Thiểu Quang Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Thiểu Quang tức là có ánh sáng nhưng còn ít. Các vị Phạm Thiên thống lãnh chúng tinh tấn tu tập phạm hạnh thêm nữa, nhân đó được sức định sáng suốt, nhưng do mới phát cho nên còn yếu, chỉ thuộc Thiểu Quang Thiên. Cõi này thọ hai kiếp.

     

    CHÁNH VĂN:

    Hào quang sáng suốt thêm nhiều, chói sáng không cùng, ánh vào mười phương thế giới đều thành ngọc lưu ly; một loài như thế, gọi là Vô Lượng Quang Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Vô Lượng Quang tức là ánh sáng rộng rãi thành ra vô lượng. Ở trước chỉ mới có ánh sáng yếu ớt, đến đây ánh sáng càng tăng, gọi là ánh ra mười phương khiến cho khắp nơi đều trong sáng như ngọc lưu ly, nên gọi là Vô Lượng Quang Thiên. Mười phương ở đây là chỉ cho thế giới này thôi chứ không phải nói về mười phương thế giới. Vì cõi trời cũng còn giới hạn, chỉ có Phật mới là thấu suốt mười phương thế giới. Cõi này thọ bốn kiếp.

    CHÁNH VĂN:

    Nắm giữ ánh sáng viên mãn tạo thành giáo thể, phát ra sự giáo hóa thanh tịnh, ứng dụng không cùng; một loài như thế, gọi là Quang Âm Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây dùng ánh sáng tuyên bày nghĩa lý cảm hóa gọi là nắm giữ ánh sáng tạo thành giáo thể. Nghĩa là không cần phải dùng ngôn ngữ mà dùng ánh sáng. Dùng ngôn ngữ là còn có giới hạn, còn đây dùng ánh sáng, chỗ ứng dụng lại càng rộng lớn cho nên gọi là không cùng. Cõi này gọi là Quang Âm Thiên, thọ tám kiếp. Muốn tiếp xúc những cõi này phải nhập Nhị thiền, chứ không thể dùng ngôn ngữ.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Ba loài tốt đó, tất cả lo buồn xa xôi không bức bách được, tuy không phải chân chánh tu Tam-ma-địa của Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh; những lầm lạc thô động đã dẹp xuống, nên gọi là Nhị Thiền.

    GIẢNG GIẢI:

    Ở trước, Sơ thiền chỉ là ly dục mà được sanh hỷ lạc, còn đến đây là được định sanh hỷ lạc. Cõi này không còn những cái lo buồn, bởi tâm đã được định rồi. Như vậy do định mà được sanh hỷ lạc thì cái vui này là cái vui do định mà được nên nó sâu hơn cái vui Sơ thiền ở trước, vậy nên lo buồn không đến được trong đây. Cõi Nhị Thiền này tâm giác quán dứt, hàng phục được những lầm lạc thô thiển nhưng chưa phải là chân Tam-ma-địa của Phật, nên cũng còn thuộc trong ba cõi.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Loài Trời như thế khi dùng hào quang viên mãn để làm âm thanh giáo hóa, do âm thanh giáo hóa càng lộ rõ lẽ nhiệm mầu, phát ra hạnh tinh tiến thông với cái vui yên lặng; một loài như thế, gọi là Thiểu Tịnh Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Thiểu Tịnh là được thanh tịnh nhưng còn ít. Trước đó ở cõi Nhị Thiền dùng ánh sáng bày rõ lý, đến đây lý và hạnh phù hợp với nhau, nên càng tinh thêm. Rồi nghiệp định càng sâu nên vượt lên cái vui thô ở trước mà thông với cái vui vắng lặng, tức là diệu lạc. Cõi này thọ 16 kiếp. Cõi trời này chán cái vui ở trước bởi do định sanh hỷ lạc, nhưng cái hỷ lạc đó còn có tướng vui mừng là thô. Vì thấy vậy mà chán, mới tiến lên đến đây được cái vui ly hỷ diệu lạc. Cái vui của cõi Tam Thiền là cái vui tràn khắp, nên thường nói cái vui được vi diệu giống như cái vui cõi trời Tam Thiền.

     

    CHÁNH VĂN:

    Cảnh thanh tịnh rỗng rang hiện tiền dẫn phát không có bờ bến, thân tâm khinh an thành tựu được cái vui vắng lặng; một loài như thế, gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Trước là mới phát cho nên cái tịnh còn ít, ở đây nó thênh thang không bờ mé, nên thân tâm được khinh an vắng lặng. Đến đây được cái vui nhẹ nhàng, vắng lặng, không thô động. Ở trước là mới thông với cái vui vắng lặng, ở đây được thành tựu cái vui vắng lặng, nên cái tịnh cũng thành vô lượng, thọ 32 kiếp.

     

    CHÁNH VĂN:

    Thế giới và thân tâm tất cả đều thanh tịnh viên mãn, công đức thanh tịnh thành tựu, cảnh giới thù thắng gá nơi hiện tiền, trở về với cái vui tịch diệt; một loài như thế, gọi là Biến Tịnh Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Biến Tịnh tức thanh tịnh biến khắp. Đến đây cái đức tịnh biến khắp cả thân tâm rồi rộng ra cả thế giới, tức là trong ngoài hợp nhất thanh tịnh. Tâm tràn ngập sự thanh tịnh nên cái vui cũng tràn ngập, nhưng không thô động. Cảnh thiền định này nếu hành giả không khéo thấy vui thích, thường tham đắm trong đó không muốn bỏ, đó là mắc kẹt. Cho nên các vị muốn tu chứng Tứ thiền thì phải bỏ cái vui này để vượt lên Tứ thiền gọi là xả khổ xả vui.

    Đến đây, cảnh thù thắng gá nơi hiện tiền, tức là tạm hiện nhưng mà chưa phải thật, ý nói là nó vượt hơn cái cảnh ở trước, rồi trở về cái vui tịch diệt, là vào được cái vui tịch diệt. Nhưng tịch diệt ở đây cũng thuộc về tâm hữu lậu chứ không phải là tịch diệt của Niết-bàn, đó gọi là cõi Biến Tịnh Thiên, thọ 64 kiếp.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Ba loại tốt đó đầy đủ công hạnh đại tùy thuận, thân tâm yên lặng được cái vui không lường, tuy không phải chân chánh được pháp Tam-ma-địa của Phật, nhưng trong tâm an ổn hoan hỷ đầy đủ, gọi là Tam Thiền.

    GIẢNG GIẢI:

    Đến đây được cái vui vắng lặng tràn khắp, nó vượt hơn những cái vui thô động ở trước, được gọi là đại tùy thuận, tức là tâm được an ổn, không bị khuấy động vào được Tam thiền. Nhưng cũng chưa phải là thật cũng thuộc về hữu lậu. Cõi này khi kiếp hoại đến, hai thứ nước và lửa không tới được nhưng phong tai lại thổi tới.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Lại nữa, loài Trời đó thân tâm không bị bức bách, nguyên nhân của khổ đã hết, lại xét cái vui không được thường trụ, lâu cũng phải tiêu tan, nên cả hai tâm khổ vui đồng thời đều buông bỏ, những tướng thô trọng đã diệt, thì phước thanh tịnh sanh ra; một loài như thế, gọi là Phước Sanh Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Từ Sơ thiền đến Tam thiền được lìa khổ ưu, lên đây tâm được vào các thiền định, cho nên không bị bức bách bởi các khổ ở dưới. Nhập Tam thiền rồi thì những lo buồn không đến được. Do đó, các thứ lậu thuộc về phần thô được khắc phục, nên nói nhân của khổ đã hết nhưng cũng chưa thật sạch, vì thật sạch thì đã chứng Niết-bàn. Rồi tiến lên, xét cái vui này cũng thuộc về cái vui đối với khổ, tức do bỏ khổ được vui, thì nó cũng thuộc về vô thường, bởi vậy tiến lên bước nữa cũng phải buông luôn cả hai tâm khổ vui. Tức là tu đến đó rồi cũng phải buông, cho nên lối tu trong Thiền Tông là đi thẳng vào tâm để xả tất cả; còn đây đi từng bước từng bước, được cái vui thô, bỏ; theo cái vui tế, rồi cái vui tế này cũng bỏ luôn, vì đó là phương tiện tạm được thôi.

    Nhờ thấy được lối tu, chúng ta càng vững tâm tiến tu. Vì dù có được vui diệu lạc đi nữa nhưng cũng phải buông mới tiến lên được, còn không là bị mắc kẹt. Nếu bỏ được cả hai tâm khổ vui thì vượt lên Tứ thiền, vì Tứ thiền gọi là xả niệm khổ niệm vui. Do cái phước thanh tịnh xả khổ vui và vì mới sanh nên gọi là Phước Sanh Thiên. Cõi này thọ thời gian rất dài, là 125 kiếp. Khi hết sức thiền định rồi nếu không tu thêm nữa cũng rớt lại trong ba cõi luân hồi. Nếu khéo chuyển qua tu chánh đạo là vào Niết-bàn.

     

    CHÁNH VĂN:

    Tâm buông bỏ được viên dung, sự nhận hiểu cao xa càng thanh tịnh, trong cái phước không gì trở ngại đó, được sự tùy thuận nhiệm mầu cùng tột mé vị lai; một loài như thế, gọi là Phước Ái Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Cái tâm xả đó được viên dung. Trên là mới phát, đây thì tâm xả được viên dung, nhưng cũng không trụ nơi cái tâm xả đó mà được diệu tùy thuận tột mé vị lai, tức là chỗ thế gian khó xét biết hết được. Chỗ này cần phải hiểu cho kỹ! Cái gọi là diệu tùy thuận tột mé vị lai này, là chỗ ở thế gian khó xét biết hết, chớ không phải là công phu tu chứng đến tột mé vị lai. Nhớ kỹ! Vì đây vẫn còn trong hữu hạn thế gian, là chỗ thế gian đáng ưa thích, cho nên gọi là Phước Ái Thiên, cõi này thọ 250 kiếp.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Từ cõi trời đó có hai con đường tẽ; nếu dùng cái tâm sáng suốt thanh tịnh vô lượng trước kia mà tu chứng thì an trụ nơi phước đức viên mãn sáng suốt; một loài như thế, gọi là Quảng Quả Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Từ cõi Phước Ái này lại chia hai đường, tức là có đường tẽ. Nếu dùng tâm sáng suốt thanh tịnh vô lượng ở trước mà tu chứng thì gọi là an trụ cái tịnh phước xả được viên mãn sáng suốt. Nhớ! Là trụ nơi tịnh phước, tức là cái phước thanh tịnh xả khổ xả vui viên mãn sáng suốt thì được vào cõi Quảng Quả Thiên, thọ 500 kiếp.

     

    CHÁNH VĂN:

    Nếu đối với tâm trước kia nhàm chán cả cái khổ cái vui, tinh cần nghiên cứu tâm buông bỏ tương tục không gián đoạn, đi đến cùng tột sự buông bỏ, thân tâm đều diệt, ý nghĩ bặt mất trải qua năm trăm kiếp. Song người ấy đã lấy cái sanh diệt làm nhân, thì không thể phát minh tánh bất sanh bất diệt, nên nửa kiếp ban đầu diệt, nửa kiếp sau lại sanh; một loài như thế, gọi là Vô Tưởng Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Nghĩa là cứ một bề theo cái tâm xả đó rồi buông cho đến diệt cả thân tâm, bặt ý nghĩ; nhưng đây không phải là chỗ thật diệt mà do đè ép, giống như đá đè cỏ. Do sức định rồi buông, đè để diệt thân tâm, bặt ý nghĩ trong 500 kiếp. Tuy có sức định nhưng khi hết định thì phải sanh trở lại nhân gian nên cũng nằm trong sanh diệt.

    Đây nói rõ là, do sự buông bỏ liên tục, buông bỏ cho đến thân tâm đều diệt, ý nghĩ bặt mất trải qua 500 kiếp. Song do người ấy đã lấy cái sanh diệt làm nhân, tức diệt cái này được cái kia, thành ra nó cũng nằm trong cái sanh diệt, không thể phát minh tánh bất sanh bất diệt. Như nửa kiếp ban đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sanh, cũng nằm trong sanh diệt, cõi này gọi là Vô Tưởng Thiên. Vô Tưởng với cõi Quảng Quả cũng thọ 500 kiếp.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Bốn loại tốt đó, tất cả các cảnh khổ vui trong thế gian không thể làm lay động được. Tuy không phải là chỗ chân thật bất động của đạo vô vi, song nơi tâm có sở đắc, công dụng đã thuần thục, nên gọi là Tứ Thiền.

    GIẢNG GIẢI:

    Cõi này khổ vui của thế gian không thể tới được. Bởi vì đây là xả khổ xả vui nhưng cũng là công phu tạo tác chứ không phải đạo chân thật, nên cũng nằm trong sanh diệt, thuộc ba cõi luân hồi. Ở đây, Phật nói rõ tuy không phải chỗ chân thật bất động của đạo vô vi, song nơi tâm có sở đắc, công dụng đã thuần thục, gọi là Tứ Thiền.

    Đó cũng thuộc về thiền của thế gian là phàm phu thiền.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Trong đây lại có năm tầng Bất Hoàn Thiên, các vị này đã diệt hết tập khí chín phẩm trong cõi dưới, khổ vui đều hết, ở bên dưới không có chỗ ở nên an lập chỗ ở nơi chúng đồng phần của tâm buông bỏ.

    GIẢNG GIẢI:

    Cõi Tứ Thiền lại có riêng cõi Ngũ Tịnh Cư Thiên là Ngũ Bất Hoàn.

    Đây là chỗ ở của những vị chứng quả A-na-hàm, các vị ấy ở đây tu hành rồi nhập vào Niết-bàn không còn trở lại Dục giới, gọi là Bất Lai. Do diệt hết tập khí chín phẩm ở cõi dưới, khổ vui đều hết, không còn chỗ ở bên dưới, nhưng chưa vào Niết-bàn nên lập chỗ ở nơi chúng đồng phần từ tâm buông bỏ của Tứ thiền này.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Khổ vui cả hai đều diệt, không còn tâm niệm đấu tranh; một loài như thế, gọi là Vô Phiền Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là diệt cái tâm khổ vui, mà cũng quên cái tâm-diệt-luôn-đấu-tranh nữa mà vào cõi Vô Phiền Thiên, thọ 1000 kiếp.

    CHÁNH VĂN:

    Tự tại buông xả, không còn năng xả, sở xả; một loài như thế gọi là Vô Nhiệt Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Vô Nhiệt Thiên thì buông xả tự tại, chỉ còn nhất niệm, tức tâm cơ không còn đối đãi với chỗ xả, thọ 2000 kiếp.

    CHÁNH VĂN:

    Khéo thấy mười phương thế giới thảy đều đứng yên, lại không còn tất cả những cấu nhiễm trầm trọng của trần cảnh; một loài như thế gọi là Thiện Kiến Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Thiện Kiến Thiên định rất sâu. Đến đây rồi là định sâu xả tột nên thấy rộng khắp không ngại, mười phương thế giới thảy đều đứng yên, cõi này thọ 4000 kiếp.

    CHÁNH VĂN:

    Tri kiến thanh tịnh hiện tiền, nhồi nắn hun đúc không ngại; một loài như thế, gọi là Thiện Hiện Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Thiện Hiện Thiên thì cái thấy tinh diệu được hiện tiền, rồi khắp hiện thần túc vô ngại. Cõi này trùm khắp những thần túc vô ngại, là biến hiện nhỏ lớn đều tự tại, thọ 8000 kiếp.

    CHÁNH VĂN:

    Quán sát rốt ráo các cực vi cùng tột tánh của sắc pháp vào tánh không bờ bến; một loài như thế, gọi là Sắc Cứu Cánh Thiên.

    GIẢNG GIẢI:

    Sắc Cứu Cánh gọi là tột sắc tánh, đến mé không, là tột đảnh của Sắc giới. Sắc Cứu Cánh cũng gọi là cõi Hữu Đảnh, tột mé của Sắc giới, nhưng chưa qua được sắc, tiến bước nữa là vào Không giới. Cõi này thọ 16000 kiếp, ở trên đảnh của Sắc giới.

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Những bậc Bất Hoàn Thiên đó bốn vị Tứ Thiên Vương, Tứ Thiền chỉ được kính nghe, nhưng không thể thấy biết. Như hiện nay có các đạo tràng của chư Thánh nơi rừng sâu đồng rộng ở thế gian đều là nơi trụ trì của các vị A-la-hán, nhưng những người thô thiển ở thế gian không thể thấy được.

    GIẢNG GIẢI:

    Những cõi Ngũ Bất Hoàn Thiên này ở trong Tứ Thiền nhưng mà Tứ Thiền chỉ nghe mà chẳng thấy được. Cũng như các vị A-la-hán ở những nơi rừng sâu đồng vắng mà chúng ta không thấy được.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Mười tám cõi trời đó tâm thường ở trong định, không dính dáng với trần cảnh, song chưa hết cái lụy của hình hài. Từ đây trở lại gọi là Sắc giới.

    GIẢNG GIẢI:

    Nói chung mười tám cõi trời Sắc giới này đã vượt qua cảnh ngũ dục ở dục giới, tâm được vào thiền định, khổ vui không thể đến đây, nhưng chưa qua được sắc chất, cũng còn thuộc trong ba cõi. Do đó, chúng ta cần phải hết sức tu tập tinh cần, kỹ lưỡng, vì không khéo cũng sẽ lẫn quẩn không ra khỏi ba cõi.

    Tiến lên vào Vô Sắc Giới.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại nữa, A-nan! Từ trong bờ mé sắc của trời Hữu Đảnh lại có hai đường tẽ. Nếu nơi tâm buông bỏ phát minh trí tuệ, trí tuệ sáng suốt được viên thông bèn ra khỏi cõi trần, thành A-la-hán vào Bồ-tát thừa; một loài như thế, gọi là Hồi Tâm Đại A-la-hán.

    GIẢNG GIẢI:

    Trời Hữu Đảnh là trời Sắc Cứu Cánh, có hai đường tẽ:

    - Đường tẽ thứ nhất là nếu tu trí tuệ thành tựu được viên thông, vượt cõi trần lao, đoạn sạch mê lầm trong ba cõi thì thành A-la-hán. Nếu trong đó không tự cho là đủ, lại chuyển lên Bồ-tát thừa là thuộc về Hồi Tâm Đại A-la-hán, đó là đường tẽ ra khỏi luân hồi. Trong Lăng Nghiêm Chỉ Chưởng, có giải thêm lợi và độn A-la-hán: “Bậc A-la-hán lợi căn ở cõi trời Vô Phiền đoạn tư hoặc ở Tứ Thiền; rồi cõi Vô Nhiệt cho đến Sắc Cứu Cánh đoạn tư hoặc ở cõi Tứ Không. Từ Sắc Cứu Cánh mới chóng vượt lên Tứ Không mà chứng A-la-hán. Còn hạng độn căn là ở trong cõi trời Ngũ Bất Hoàn chỉ đoạn tư hoặc tàn dư của Tứ Thiền, còn lại 36 tư hoặc phải đợi đến Tứ Không mới đoạn. Tức là từ Sắc Cứu Cánh thì dần dần vượt đến cùng tột Tứ Không mà đoạn bốn địa tư hoặc mới thành A-la-hán”.

    - Kế là đường tẽ thứ hai.

    CHÁNH VĂN:

    Nếu nơi tâm buông bỏ thành tựu được sự chán bỏ rồi lại cảm thấy cái thân là ngại, và tiêu cái ngăn ngại vào hư không; một loài như thế, gọi là Không Xứ.

    GIẢNG GIẢI:

    Tâm xả đã thành tựu, đến tột mé sắc rồi nhưng chưa qua khỏi sắc vẫn còn có thân nhưng vi tế, nên cũng còn thấy có ngại. Vì còn có sắc là còn có ngại. Do đó muốn tiêu luôn cái ngại để vào không, là theo nơi không mà bỏ cái sắc thì cũng nằm trong cái lấy bỏ nên thuộc vào Không Vô Biên Xứ. Kinh Hoa Nghiêm gọi là “Vượt lên tất cả sắc tưởng, diệt cái tưởng có đối, chẳng niệm mỗi thứ tưởng, vào hư không vô biên mà trụ nơi Không Vô Biên Xứ”. Ở đây thọ 20000 đại kiếp.

    Nhưng chỗ này có một điểm hơi khó hiểu là từ cõi trời Hữu Đảnh tức là Sắc Cứu Cánh trong Ngũ Tịnh Cư Thiên thuộc về cõi trời Ngũ Bất Hoàn của những bậc A-na-hàm, sao lại có đi tẽ vào Không Vô Biên Xứ này? Đây là gợi ý cho người sau, ai thấy được sâu hơn nữa thì giải thích thêm chỗ này.

    Cõi kế là Thức Vô Biên Xứ.

    CHÁNH VĂN:

    Các chất ngại đã tiêu trừ, cái không của không ngại cũng diệt, trong ấy chỉ còn lại thức A-lại-da và còn nguyên vẹn phân nửa vi tế của thức Mạt-na; một loài như thế gọi là Thức Xứ.

    GIẢNG GIẢI:

    Cõi này thọ 40000 đại kiếp. Thức Xứ tức Thức Vô Biên Xứ, cần hiểu kỹ chỗ này. Các ngại đã tiêu, rồi cái không của không ngại cũng diệt, chỉ còn lại thức, tức là vượt qua cái sắc ngại và luôn cả cái không của Không Vô Biên Xứ nhưng vẫn còn có thức. Lăng Nghiêm Chỉ Chưởng có giải thêm: “Thức Mạt-na lấy A-lại-da làm thể, chỉ có A-lại-da đây mới hay bảo toàn. Nay chỗ được lưu lại chính là chỗ Mạt-na được A-lại-da bảo toàn. Nói nửa phần vi tế là do thức Mạt-na bên ngoài duyên nơi thức thứ sáu có hành tướng thô. Còn bên trong duyên nơi thức thứ tám thì có hành tướng vi tế. Nay thức thứ sáu đã diệt thì thô hiển duyên bên ngoài với thức thứ sáu đã diệt, chỉ còn lại nửa phần vi tế duyên bên trong thức thứ tám”.

    Đây gọi là còn nửa phần vi tế thức Mạt-na là chỗ đó. Tức nửa phần nó duyên theo ở trong thức thứ tám, còn nửa phần duyên theo thức thứ sáu bên ngoài bị diệt rồi. Đến định này, nó vượt qua Sắc giới vào Không giới nên không có duyên theo thức thứ sáu để phân biệt bên ngoài. Cho nên nửa phần duyên thức thứ sáu thì diệt, nhưng còn nửa phần vi tế duyên theo thức thức thứ tám vẫn còn, chúng ta mới thấy rất là vi tế.

    Tuy chúng ta học nhưng thật sự cũng chưa biết tới, chỉ có những bậc có mức định sâu mới thấy được hết chỗ này. Cho nên, tâm thức chúng ta vi tế vô cùng chứ không phải tầm thường. Nhiều vị ngồi thiền được chút yên lặng, tưởng đâu tâm mình lặng rồi. Chưa đâu! Chỉ là tạm dừng phần thô, nhưng phần tế vẫn còn mà chưa thấy thấu tột thôi.

    Kế đến Vô Sở Hữu Xứ.

     

    CHÁNH VĂN:

    Sắc và không đã hết, thức tâm đã diệt trừ, mười phương vắng lặng không còn gì nữa; một loài như thế, gọi là Vô Sở Hữu Xứ.

    GIẢNG GIẢI:

    Đến đây sắc và không đều quên, thức cũng diệt. Tức ở cõi trời Không Vô Biên Xứ thì tiêu cái ngại của sắc, nhưng còn cái không; đến cõi Thức Xứ là cái không cũng quên luôn, chỉ còn cái thức. Đến đây thức cũng đã diệt. Vậy là phân nửa phần vi tế Mạt-na ở Thức Xứ đến đây cũng diệt. Nhưng diệt đây là do sức định nên được nép phục chứ không phải là chỗ thật đoạn. Nhớ kỹ! Đây cũng như lấy đá đè cỏ, nó bị nép phục tạm thời vậy thôi.

    Đến đây chỉ còn là mười phương vắng lặng mênh mang không có gì, nhưng trí tuệ chưa có. Chính đây là chỗ ngoại đạo lầm chấp là Minh đế. Vì thấy đến đó là không còn biết gì nữa, nên chấp đó là chỗ ban đầu, chỉ dừng ngang đó.

    Chỉ có Phật mới thấy thấu chỗ đó, Ngài suốt tột đến được chỗ chân tâm diệu viên minh. Bởi vậy, chúng ta mới thấy đúng là mình có phước duyên lớn mới được học Phật. Phật ra đời chỉ ra những chỗ sâu xa vi tế, nếu không có trí tuệ Phật chỉ ra đúng là tất cả cũng phải mù luôn, vì tu tới đây không biết gì nữa rồi. Đó là chỗ đắc ý của những vị này, nếu như các vị đó khéo chuyển lại, buông ngay chỗ đó, ngộ trở lại tự tánh là quá hay! Còn nếu dừng chỗ đó sẽ thế nào? Thì ở đây thọ 60000 đại kiếp rồi cũng trở lại luân hồi, công phu nhọc nhằn rốt cuộc cũng tan hết, thật rất đáng tiếc!

    Kế là Phi Phi Tưởng Xứ.

     

    CHÁNH VĂN:

    Thức tánh vốn không lay động, lại dùng cái diệt mà diệt đến cùng, trong chỗ không thể hết mà phát minh nhận cho là hết, nên hình như còn mà chẳng phải còn, hình như hết mà chẳng phải hết; một loài như thế, gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

    GIẢNG GIẢI:

    Đến đây xem như tột thế gian mà chưa qua khỏi thế gian, hình như còn mà không phải còn, hình như hết mà không phải hết! Nếu thật hết là giải thoát rồi. Bởi thức tánh vốn chẳng lay động, vậy mà còn muốn dùng cái diệt để mà diệt thì sao? Thì thành động rồi! Đó là chỗ lầm mà không thấy được.

    Hơn nữa, ở trước còn nửa phần Mạt-na vi tế duyên theo A-lại-da đã diệt nhưng A-lại-da thì có diệt được không? Chẳng lẽ muốn diệt A-lại-da nữa hay sao? Cho nên, đây muốn dùng cái diệt để diệt đến tận cùng nhưng mà tàng thức A-lại-da là căn bản thức, nó là thể của các thức thì sao phải diệt nó?

    Vì muốn diệt mà diệt không được nên hình như hết mà không phải hết, hình như còn mà không phải còn, đó là chỗ lầm không qua khỏi được. Bởi vì nó cũng nằm trong công phu tạo tác. Còn trong Thiền tông, các Ngài chỉ ngay cái chỗ bất sanh bất diệt, xưa nay chưa từng sanh thì đâu có diệt, thành ra mới ngộ sanh diệt tức vô sanh. Khi Phật gặp ông Uất-đầu-lam-phất dạy đến chỗ này, Phật gạn hỏi tới cùng, thì thấy cũng còn cái ngã vi tế, nên chưa qua khỏi sanh tử luân hồi, Ngài mới từ giã đi. Đến đây, thọ 80000 đại kiếp, thời gian không biết bao nhiêu năm. Khi hết tuổi thọ này, sức định hết rồi cũng rớt vào luân hồi, uổng công phu!

    Phật kết lại:

     

    CHÁNH VĂN:

    Những loài này đã xét cùng tột cái không nhưng không tột lý không; nếu từ Thánh đạo cõi trời Bất Hoàn mà xét cùng tột thì một loài như thế, gọi là Bất Hồi Tâm Độn A-la-hán. Nếu từ cõi trời Vô Tưởng và ngoại đạo mà xét cùng tột cái không, không biết trở về, mê lầm không nghe chánh pháp thì sẽ vào đường trầm luân”.

    GIẢNG GIẢI:

    Kết lại là đã xét cùng tột cái không nhưng không tột được lý, chỉ thuộc về công phu tạo tác lấy bỏ, tức là còn nằm trong sanh diệt không ra khỏi ba cõi. Còn nếu khéo thì từ cõi trời Bất Hoàn theo Thánh đạo mà xét cho cùng tột thì thành Bất Hồi Tâm Độn A-la-hán cũng thành giải thoát, là đi con đường chánh.

    Nếu từ cõi trời Vô Tưởng chỉ nghiêng về một bên, xét đến cùng tột cái không mà không biết trở về, là nghiêng về bên cái không thì cũng đi vào đường luân hồi chịu trầm luân. Đó là chỗ cảnh tỉnh cho người tu cẩn thận để không phải rơi vào con đường tẽ nguy hiểm. Chúng ta tu theo đạo Phật, Phật dạy trung đạo là vậy; còn nhà thiền gọi là vượt qua có và không. Ngài Triệu Châu bảo: “Chỗ có Phật hãy chạy nhanh qua, chỗ không Phật cũng không dừng ở”.

    Quả là phước duyên của chúng ta rất lớn lao mới được học Phật, được từ trí tuệ của Phật chỉ ra cho thấy được lối đi rõ ràng, vậy mà còn không chịu tu! Người tu không tinh tấn làm sao thấu hết những điều này để qua khỏi ba cõi. Như từ xưa đến nay đọc kỹ hành trạng của những vị tu hành chứng đạo, đâu có ai tu chơi chơi? Các vị đều phải hành công phu rất gian nan đâu có dễ dàng. Nói lý thì dễ như ngay sanh tử tức là Niết-bàn, nhưng tập khí sanh tử lâu đời từ vô thủy kiếp huân tập đến nay đã ăn sâu, nay muốn gạn lọc sạch đâu phải một hai ngày mà được.

    Lại xét thêm một ưu điểm nữa là chúng ta đã bớt được thời gian nhọc nhằn tìm đạo. Khi xưa, vì trước Đức Phật chưa ai chứng đạo, chưa thấy được con đường đạo chân chánh, nên Phật phải dò dẫm mất nhiều thời gian. Như Ngài tu học theo các vị tiên v.v..., rồi khổ hạnh phải mất đến sáu năm, còn chúng ta hiện nay được qua hết những cái khó đó. Nói để cho tất cả thấy được duyên lành hi hữu của mình mà trân trọng!

    Kết luận chung về chư Thiên.

     

    CHÁNH VĂN:

    Phật bảo: “A-nan! Các cõi trời ấy mỗi mỗi đều là những phàm phu hưởng sự báo đáp của nghiệp quả, và khi sự báo đáp hết thì trở vào trong luân hồi. Thiên Vương các cõi kia thường là Bồ-tát dùng pháp Tam-ma-đề lần lượt tiến lên hồi hướng về đường tu hành của Phật đạo.

    GIẢNG GIẢI:

    Nói chung, các cõi trời dù có phước sống lâu nhưng cũng nằm trong luân hồi, nên thuộc về phàm phu chưa được giải thoát; chỉ hưởng sự báo đáp của nghiệp quả. Tức là do đã tạo nhân rồi hưởng cái quả đó, và khi sự báo đáp hết là trở lại luân hồi. Tuy có những cõi trời Tứ Thiền hoặc là Tứ Không là cõi có công phu tu thiền định nhưng chưa đúng với Thánh đạo, được hưởng phước trời thời gian lâu rồi cũng trở lại luân hồi. Cho nên, quan trọng là hiểu rõ con đường Thánh đạo rồi tiến tu để ra khỏi sanh tử luân hồi. Đây nói thêm, phần nhiều những vị Thiên Vương vua các cõi trời ấy là những vị Bồ-tát gá vào báo thân đó mà lần lượt tiến tu hồi hướng về Phật đạo, như trong kinh Hoa Nghiêm đều có nói rõ.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Những cõi trời Tứ Không ấy, thân tâm diệt hết, định tánh hiện tiền, không có sắc pháp của nghiệp quả; từ đây đến cuối cùng, gọi là Vô Sắc Giới.

    GIẢNG GIẢI:

    Nói về những vị Bồ-tát gá báo thân để lần lượt tiến lên hồi hướng về Phật đạo, thường ở cõi Tứ Thiên Vương, Tứ Thiền, Lục Dục thuộc về Dục giới, Sắc giới, còn Tứ Không thì không có, bởi các vị ở cõi trời Tứ Không này là vô sắc không có thân. Đây nói những cõi trời Tứ Không thân tâm đều diệt, định tánh hiện tiền, không có sắc pháp của nghiệp quả.

    Cõi Tứ Không nghiêng về định, nên thường gọi là Tứ Không Định. Khi định sâu hay phát ra quả sắc của định, tức ở trong định mà hiện khởi ra thân cảnh vi tế mà thọ dụng tự tại nhưng không có quả sắc của nghiệp, chỉ có quả sắc của định, do tâm định mà hiện ra, nên đây gọi là Vô sắc.

    Tức thân cảnh thô do nghiệp báo cảm đến thì không có, mà đây chỉ do cái tự định phát thành vi tế. Như vậy, nghiêng về định diệt thân tâm, khi định đó hiện tiền thì chiêu cảm được định quả sắc vào trong cõi Vô sắc này. Cho thấy định mà không có tuệ, nên cũng nằm trong ba cõi chưa ra khỏi luân hồi.

     

    CHÁNH VĂN:

    Những cõi ấy đều do không rõ Diệu Giác Minh Tâm, tích chứa cái vọng giả dối phát sanh ra ba cõi, trong đó giả dối theo bảy loài mà chìm đắm và có thể thụ sanh cũng theo từng loại.

    GIẢNG GIẢI:

    Do mê tâm Diệu Giác Minh hay mê không nhận rõ được tâm thể giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu sẵn có chưa từng sanh diệt, mà chạy theo cái vọng rồi dối sanh trong ba cõi, chìm đắm trong sanh tử. Đó là chỗ đáng tiếc mà cũng là chỗ cần thức tỉnh để trở về.

    Ở trong tâm vốn sẵn sáng suốt nhiệm mầu chưa từng sanh diệt nhưng lại không giữ được, mà bất giác khởi vọng thành lầm mê đi vào trong ba cõi sanh tử luân hồi theo từng loại sai biệt. Chỉ một chút đó thôi! Rất đáng tiếc. Chính vì vậy, nên cần thức tỉnh vượt khỏi ba cõi, trở về với tâm thể sáng suốt nhiệm mầu đó. Giống như chúng ta đang sống trong tỉnh táo sáng suốt không chịu, mê ngủ mộng thấy đủ thứ cảnh trong đó, rồi theo cảnh đó mà trôi lăn. Bởi khi mộng trôi lăn theo cảnh đó thì đâu còn nhớ cái tỉnh này. Mộng thì không thật, nhưng lúc mộng đâu biết là không thật, cũng tưởng là thật nên có tưởng khổ, vui sanh ra. Cuộc đời của con người chúng ta cũng giống y như cái mộng này.

    Tuy phân chia từng loại có hơn kém, những loại thấp thuộc về kém phước, còn những loại cao trên thì có phước lớn hơn, nhưng tất cả đều ở trong hư vọng, đều không có thật ngã. Khi quán thấu rõ được vô ngã là chỗ ra khỏi sanh tử. Đã sống trong hư vọng không có thật ngã, vậy còn bám vào đó làm gì cho uổng phí thời gian? Tu tập những tầng trời, những tầng thiền định, khi đắc những cái định đó cũng là công phu không phải dễ, nhưng khổ nhọc lắm rốt cuộc cũng rớt trong luân hồi uổng nhọc công phu. Thay vì đó, chuyển qua tu Thánh đạo được giải thoát là rất hay!

    Cho nên, đây muốn nhắc là cần ngộ trở lại tâm vốn sẵn sáng suốt nhiệm mầu, đó mới là việc cần làm, là việc quan trọng nhất, đó là chỗ Phật muốn chỉ. Kết lại, các cõi trời tuy là có hơn có kém, có phước sống lâu, cũng được vui sướng trong quả báo tốt, nhưng khi thời gian hưởng phước hết rồi cũng rớt trở lại. Chớ lầm ở trong đó!

    Kế về các loại A-tu-la.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại nữa, A-nan! Trong tam giới đó, lại có bốn loài A-tu-la:

    Nếu từ loài quỷ do sức bảo hộ chánh pháp được thần thông vào hư không thì giống A-tu-la này từ trứng sanh ra, thuộc về loài quỷ.

    Nếu từ trong loài trời, do đức kém sa đọa chỗ ở gần với mặt trời, mặt trăng; loài A-tu-la này từ thai sanh ra, thuộc về loài người.

    Có Vua A-tu-la nắm giữ thế giới sức mạnh đến chỗ không phải sợ ai, hay tranh quyền cùng với Phạm Vương, Đế-thích, Tứ Thiên Vương. Giống A-tu-la này nhân biến hóa mà có, thuộc về loài Trời.

    A-nan! Riêng có một số A-tu-la thấp kém sanh trong lòng biển lớn, lặn dưới cửa thủy huyệt, ban ngày dạo chơi trên hư không, tối về ngủ dưới nước; giống A-tu-la này nhân thấp khí sanh ra, thuộc về loài súc sanh.

    GIẢNG GIẢI:

    A-tu-la cũng có bốn loại sanh: Loại từ trứng sanh, loại thai sanh, loại hóa sanh và loại thấp sanh. Tùy phước có hơn kém, mà năng lực của mỗi loại cũng có hơn kém. Thường trong các kinh nói loài A-tu-la nam rất xấu, nhưng A-tu-la nữ lại thật đẹp. Vốn do nghiệp sân hận, tật đố, thích hơn thua, đấu tranh cho nên sanh vào loài này cũng có phước nhưng thường chịu khổ.

    Loại thứ nhất là loài A-tu-la thuộc về quỷ. Tuy có phước nhưng cũng thuộc về loài quỷ từ trứng sanh. Do có thiện tâm bảo hộ chánh pháp nên có phước nhiều hơn loài quỷ.

    Loại thứ hai thuộc về loài người và phước hơn loài người. Loài này sống gần mặt trời, mặt trăng, tức là loài Trời nhưng đức kém nên bị sa đọa rớt xuống, loại này từ thai sanh ra. Chỗ ở của loài A-tu-la này thấp hơn cõi trời Địa Cư.

    Loại thứ ba thuộc về loài Trời, từ hóa sanh. Loại này có uy thế lớn nên thường hay tranh quyền với trời. Loại này có thần thông, phước cũng lớn nhưng kém thua loài Trời.

    Loại thứ tư thấp kém hơn, thuộc loại súc sanh từ thấp sanh, ở dưới đáy biển. Thọ mạng của những loại A-tu-la này cũng có hơn có kém, có loại sống 5000 tuổi, một ngày đêm của chúng bằng 500 năm ở nhân gian. Có loại sống đến 6000 tuổi, một ngày đêm bằng 600 năm ở nhân gian. Có loại sống đến 7000 tuổi, một ngày đêm của chúng bằng 700 năm ở nhân gian.

    Ngài Hàm Thị giải thêm: “Xét về nhân, phần nhiều chúng không có đủ lòng tin Tam Bảo, ôm ấp tâm nghi ngờ đố kỵ, thường muốn hơn người khác, tăng trưởng giận tức, nên tuy có phước như Trời nhưng không bằng Trời, tuy có phước như người nhưng thường bị chướng ngại trong việc tiến đạo, tuy ở trong loài quỷ, loài súc nhưng thân nhẹ nhàng đi trên không. Nên biết, người tu hành phải thận trọng trong việc tu nhân, chớ để cho đi vào đường tẽ”.

    Tức chúng sanh có công tu hành có phước, đáng lẽ giải thoát nhưng vì tâm hơn thua, rồi tâm đố kỵ, giận tức, cho nên đi vào đường tẽ A-tu-la. Vào loài này rồi do tập khí đố kỵ, giận tức, hơn thua cho nên thích đấu tranh, thích đánh nhau, càng tạo thêm nghiệp, quên mất công phu tu của mình, phải chìm sâu thêm. Do đó, người tu hành mà hay ôm lòng đố kỵ tranh hơn, nóng giận v.v... không khéo là đi vào loài A-tu-la, rất nguy hiểm!

    ***

     

  • 5. MỤC 25 KHAI THỊ CHỖ HƯ VỌNG CỦA BẢY LOÀI

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Xét rõ bảy loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần tiên và Trời cho đến A-tu-la như thế, đều là những tướng hữu vi tối tăm giả dối vọng tưởng thọ sanh, giả dối vọng tưởng theo nghiệp; đối với Diệu Viên Minh Bản Lai không năng tác sở tác, đều như hoa đốm giữa hư không vốn không dính dáng; chỉ một cái hư vọng chứ không cội gốc manh mối gì.


    GIẢNG GIẢI:

    Phật bảo: “Tuy nói nhiều loại từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần tiên và Trời cho đến A-tu-la, nhưng đó đều là những tướng giả dối. Xưa nay tánh vốn sáng suốt nhiệm mầu không có năng tác sở tác, thì những cái này đối với trong đó giống như hoa đốm giữa hư không, không dính dáng”. Gọi là chỉ một cái hư vọng chứ không cội gốc manh mối gì.

    Tóm lại, do mê lầm vọng sanh rồi cứ xoay vần theo cái vọng đó, gọi là “hoặc”, rồi theo đó mà tạo nghiệp và phải chịu khổ, rồi trở lại, tiếp tục mê lầm rồi tạo nghiệp chịu khổ thêm nữa, cứ thế, hoặc-nghiệp-khổ, ba thứ xoay vần mãi không ra khỏi. Chúng ta tu hành để phá vô minh, sạch cái hoặc, không tạo nghiệp là không chịu khổ thì ra khỏi vòng lẩn quẩn, thoát khỏi luân hồi. Còn không thì cứ ở trong đó, rốt ráo chỉ là sống trong hư vọng, rồi ở trong hư vọng chồng thêm những lớp hư vọng nữa, vậy toàn sống trong hư vọng. Do đó, Ngài A-nan khi giác rồi xoay nhìn lại thân xưa nay giống như là nhớ lại việc trong mộng.

    Hay nói rõ hơn là tâm tánh xưa nay tuy ở trong sanh tử hư dối mà chưa từng thấy có sanh tử. Cái sanh tử này đối với cái tâm tánh xưa nay không dính dáng gì hết. “Tuy ở trong sanh tử nhưng mà chưa từng thấy có sanh tử”, đây là chỗ người tu hành cần phải tỏ ngộ trở lại để vượt thoát đường luân hồi. Nhưng kiểm lại rồi mới thấy lạ! Ai cũng thích cái thật, không ai thích cái giả nhưng lại không chịu bỏ cái vọng, đó là cái lạ! Mỗi người cần phải xét lại chỗ đó để thấy được cái mê lầm của mình mà vươn lên.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Những chúng sanh đó không nhận được tâm tánh bản lai nên chịu luân hồi, như thế trải qua vô lượng kiếp mà không chứng được chân tánh thanh tịnh, đó đều do chúng thuận theo những nghiệp sát, đạo, dâm hoặc ngược lại ba cái này thì lại sanh ra không sát, không đạo, không dâm; có thì gọi là loài quỷ, không thì gọi là loài trời, có-không thay nhau phát khởi ra tánh luân hồi.

    GIẢNG GIẢI:

    Chỉ một chút xíu này thôi mà lẩn quẩn hoài trong ba cõi: Không nhận được tâm tánh xưa nay nên chịu luân hồi trải qua vô lượng kiếp, theo những nghiệp sát, đạo, dâm, hoặc ngược lại không sát, không đạo, không dâm; mà thành ra có lên có xuống xoay vần không ra khỏi.

    Mới thấy, chỉ vì cái mê lầm hư vọng đó mà nhận theo những thứ vọng tưởng tạo nghiệp, rồi theo những nghiệp đó lên xuống xoay vần lẩn quẩn trong cái hư vọng để đành chịu khổ. Cái khổ này gọi là khổ-tưởng, khổ nhưng khổ trong cái tưởng chứ không phải là thật. Tức không thật mà tưởng thật thành ra khổ, nhưng chỉ là khổ-tưởng. Còn giác ngộ trở lại thì vượt thoát đường luân hồi. Nói đơn giản hơn là có cái thật mà không nhận lại nhận theo cái hư dối rồi cố chấp trong đó để tự hài lòng, đó là chỗ mà Phật gọi là thật đáng thương! Vậy mà không ai chịu tỉnh!

    Do đó, mỗi người chúng ta khéo lắng lòng xét cho kỹ chỗ này xem có cảm thấu được tin tức giác ngộ chưa! Bởi vì cửa giác ngộ vẫn luôn luôn mở cho chúng ta, chưa từng đóng bao giờ. Chúng ta còn có nhiều cơ hội để giác ngộ nhưng không chịu thì đó là cái chướng, cái lầm mê của mình. Đây Phật mới dạy thêm.

     

    CHÁNH VĂN:

    Nếu người khéo tu tập, phát huy pháp Tam-ma-đề thì bản tánh thường diệu thường tịch, cái có, cái không đều không, không không cũng diệt. Còn không có gì là chẳng sát, chẳng đạo, chẳng dâm, làm sao lại thuận theo việc sát, đạo, dâm?

    GIẢNG GIẢI:

    Phát huy pháp Tam-ma-đề, thì bản tánh thường diệu thường tịch, tức thường nhiệm mầu thường vắng lặng, trong đó cái có, cái không đều không, rồi cái không của có và không cũng diệt luôn, thì còn chỗ nào để bám nữa. Gọi là còn không có gì là chẳng sát, chẳng đạo, chẳng dâm, huống là có sát, đạo, dâm. Vậy, nếu người khéo tu tập đúng với chánh pháp, đúng với Thánh đạo sẽ phát minh tâm tánh nhiệm mầu chưa từng sanh diệt, vượt qua có và không, sạch hết dấu vết của sát đạo dâm. Đó là chỗ trở về với Phật, trở về với nguồn gốc chân thật xưa nay.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Không đoạn được ba nghiệp thì mỗi mỗi chúng sanh đều có phận riêng, nhân những cái riêng ấy mà quả báo đồng phần chung của cái riêng chẳng phải là không có chỗ nhất định, đó là do vọng kiến của tự mình phát sanh; hư vọng phát sanh vốn không có nhân, không thể tìm xét nguồn gốc được.

    GIẢNG GIẢI:

    Khi tạo thì tạo nghiệp riêng, nhưng có nhiều nghiệp riêng giống nhau, như cùng tạo nghiệp cõi trời, thì có cõi trời cho mình đến, cùng tạo nghiệp địa ngục thì có địa ngục cho mình đến. Thành ra những cái riêng đó chung lại thành có chỗ đồng phần. Còn ở trong mê thì thấy rõ ràng có cõi trời, có cõi địa ngục, có cõi ngạ quỷ, súc sanh đủ cho mình đến, nhưng rốt ráo chỉ do cái vọng kiến bất giác phát sanh, không thể tìm xét nguồn gốc của nó. Bởi vì nó là vọng, mà vọng thì đâu có cội gốc, nếu có cội gốc thì thành thật rồi! Vậy tức tột vọng là chân chứ không có gì khác. Khi giác ngộ thấy thấu suốt tột cái vọng tức là chân, không phải riêng ngoài cái vọng mà có cái chân.

    Chỗ người ta hay lầm là tu bỏ vọng về chân, giống như có cái chân và cái vọng hai thể riêng biệt, như vậy thì lại thêm cái vọng nữa. Còn đây thấy rõ tột vọng tức là chân, không có chân nào khác. Vậy cái vọng đâu có chỗ mà đứng thì mất dấu cái vọng thôi. Đó là lẽ thật mà cũng là tinh thần của Đốn ngộ. Học kỹ kinh này rồi, mới thấy được những ý sâu xa Phật đã dạy.

     

    CHÁNH VĂN:

    Ông khuyên người tu hành muốn được đạo Bồ-đề, cần yếu phải đoạn trừ ba thứ mê lầm; ba thứ mê lầm nếu không hết, dù có được thần thông đều là những dụng công hữu vi của thế gian. Tập khí mê lầm nếu không dứt trừ thì phải lạc vào đường ma; tuy muốn trừ vọng lại càng tăng thêm giả dối, Như Lai bảo là rất đáng thương xót! Như thế đều do vọng kiến tự mình tạo ra chứ không phải lỗi của tánh Bồ-đề.

    Người nói như thế ấy, tức là lời nói chân chánh; nếu nói khác đi tức là lời của Ma vương.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây Phật kết lại, người tu hành muốn được đạo Bồ-đề, cần yếu phải đoạn trừ ba thứ mê lầm; tức là sát, đạo, dâm. Nếu tu hành mà không đoạn sát, đạo, dâm thì phải lạc vào đường tà thật đáng thương xót. Phật nói rằng, dù tu có được thần thông đi nữa thì cũng lẩn quẩn trong luân hồi thôi. Chúng ta thấy, tu mà không trừ dâm dục, không trừ trộm cướp, không trừ sát sanh thì dù có công phu nhưng rồi cũng đi lạc. Nhưng rồi Ngài cũng nói, đó đều do vọng kiến tự mình tạo ra chứ không phải lỗi của tánh Bồ-đề, Bồ-đề không dạy chúng ta cái đó. Cho nên, cần phải khéo tu hành chân chánh để giác ngộ trở lại tánh Bồ-đề thì đó mới là yếu chỉ.

    Kế Phật dạy về những ma sự.

    ***

  • 6. MỤC 26 PHÂN BIỆT CÁC ẤM MA

    CHÁNH VĂN:

    Khi bấy giờ gần chấm dứt thời thuyết pháp, từ nơi tòa sư tử, Đức Như Lai vịn ghế thất bảo, chuyển thân sắp rời tòa, rồi lại dựa nơi ghế, bảo khắp đại chúng và ông A-nan rằng:

    GIẢNG GIẢI:

    Phật thuyết pháp sắp xong, Ngài từ tòa sư tử vịn ghế thất bảo rồi chuyển thân sắp rời tòa. Nguyên văn “Tử Kim Sơn”, là chỉ cho thân Phật. Rồi dựa ghế bảo khắp đại chúng về những ma sự để biết mà ngăn ngừa, khiến không bị chướng ngại con đường Bồ-đề.

    Những ma sự rất vi tế, là chỗ chúng sanh khó biết, khó nhận. Do đó, tuy không ai hỏi mà Phật tự nói. Đây gọi là vô vấn tự thuyết. Qua đó, chúng ta đủ thấy lòng từ vô biên của Đức Phật, thấy việc nào cần là nói cho chúng sanh biết mà tu tập để ngăn ngừa mê lầm, khiến trở về với ánh sáng giác ngộ chân thật.

     

    CHÁNH VĂN:

    “Các ông là hàng Thanh Văn, Duyên Giác hữu học hôm nay hồi tâm hướng về Vô thượng Diệu Giác Đại Bồ-đề, và tôi cũng đã chỉ dạy pháp tu chân chánh, nhưng ông còn chưa biết những ma sự nhỏ nhiệm trong lúc tu chỉ, tu quán. Nếu cảnh ma hiện ra, ông không biết được, thì sẽ tu tâm không đúng, và lạc vào tà kiến; hoặc là ma ngũ ấm của ông, hoặc bị Thiên ma, hoặc mắc quỷ thần, hoặc gặp loài ly mị, mà trong tâm không rõ, nhận giặc làm con.

    GIẢNG GIẢI:

    Trong lúc tu hành cũng có những ma sự vi tế, nếu không biết ngăn ngừa lầm tham đắm mắc kẹt trong đó là bị gạt. Bởi vì khi tu chỉ quán có chuyển biến nội tâm và chuyển biến sanh lý, nên cũng có những cảnh tượng lạ hiện ra, người không biết chấp vào thành ra ma sự. Chữ “ma” vừa chỉ cho ma quỷ, cũng vừa chỉ cho những việc làm chướng ngại con đường Bồ-đề, làm hại đến tuệ mạng của người tu nên gọi là ma sự.

    Người dùng tâm chân chánh tu hành thì ma không có chỗ thuận tiện vào. Trái lại, do dụng tâm không đúng chánh pháp nên mới có kẽ hở cho ma thuận tiện phá hại. Nói cho rõ hơn, do có tâm tà thì tà mới vào. Cũng vậy, người tu hành mà có tâm tà, khởi vọng tưởng lung tung thì ma thấy tâm nên mới vào được. Như tu mà muốn có thần thông, muốn mau đắc đạo v.v... Ở đây, Phật chỉ cho người tu biết rõ những ma sự để ngăn ngừa không khởi những tà niệm rồi theo những cảnh ma lạc mất con đường Bồ-đề, đó thật đáng tiếc!

    Bởi có những ma sự rất là nhỏ nhiệm, rất là khó biết. Những cái thô còn dễ thấy, dễ biết, đến những việc vi tế như chấp trước cảnh giới của thiền định; hoặc là Thiên ma khéo léo hiện ra tướng này tướng kia mà không biết cũng lầm theo nó. Nên đây Phật dạy kỹ cho biết để tránh. Như có câu: “Nếu không khéo thì nhận giặc làm con”. Cần phải hết sức cẩn thận!

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại nữa, trong đó được chút ít cho là đã đủ, như Tỳ-kheo Vô Văn chứng Đệ tứ thiền dốt nát nói là chứng Thánh, khi phước báo cõi trời hết, tướng suy hiện ra, liền phỉ báng quả A-la-hán, còn phải thọ sanh đọa vào ngục A-tỳ. Nay các ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì các ông phân biệt chín chắn”.

    Ông A-nan đứng dậy cùng những hàng hữu học trong hội, vui mừng đảnh lễ kính vâng nghe lời từ bi chỉ dạy của Phật.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây Phật nhắc người tu hành phải cẩn thận chớ được chút ít cho là đủ, điều này là việc thường mắc kẹt. Tức là cố chấp vào cái thấy của mình, điều này rất nguy hiểm. Phật mới dẫn chuyện của Tỳ-kheo Vô Văn tu chứng Tứ thiền.

    Vô Văn có nghĩa là dốt nát về trí tuệ chân chánh, chớ không phải hoàn toàn dốt nát không biết gì. Vì Vô Văn nên không chịu học hỏi cho kỹ, khi chứng Tứ thiền thì tưởng rằng mình chứng A-la-hán. Nghĩ mình chứng A-la-hán nên đâu còn nghe ai nói nữa. Khi ấy, Tỳ-kheo Vô Văn lúc sắp mạng chung, tướng trung ấm của cõi Tứ thiền hiện ra, ông mới nghĩ rằng: “Phật nói dối! Người chứng A-la-hán không còn sanh tử, tại sao tôi chứng A-la-hán mà còn sanh tử?”, nên khởi tâm phỉ báng: “Không có Niết-bàn, không có quả A-la-hán v.v...”, rốt cuộc phải đọa vào địa ngục. Đây Phật gọi là thiếu trí tuệ chân chánh.

    Chúng ta học rồi lấy đây làm tấm gương soi lại mình để ngăn ngừa cái thấy tự mãn được chút ít cho là đủ, rất là nguy hiểm. Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện:

        Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,

        Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

    Nguyện học hết những pháp môn vô lượng, không phải là học chút ít cho đủ. Phật đạo chưa thành còn phải tu cho thành Phật, chứ không phải chưa gì thấy đủ. Gọi là chấp vào một chút thấy biết rồi tưởng đâu mình hiểu hết, hoặc hiểu cao lại sanh khinh mạn người khác rồi lại tạo nghiệp, thành cái nhân sa đọa không hay biết.

    Đó cũng là do bản ngã mê hoặc, nên người tu phải hết sức cẩn thận, đừng để bản ngã vi tế mê hoặc. Người vượt qua được là giải thoát, chắc chắn. Còn bị nó mê hoặc thì rớt trở lại trong sanh tử luân hồi nằm trong vòng vây của nó. Sở dĩ bị cái bản ngã mê hoặc là vì thiếu trí tuệ chân thật sáng suốt, cho nên trên đường tu hành, trí tuệ rất quan trọng. Định mà không có tuệ là dễ bị nó gạt đi lạc vào đường tẽ. Đây Phật mới chỉ ra để ngăn ngừa.

     

    CHÁNH VĂN:

    Phật bảo ông A-nan và cả đại chúng: “Các ông nên biết, mười hai loại chúng sanh trong thế giới hữu lậu, tâm thể giác viên bản giác diệu minh, cùng thập phương Phật không hai không khác, do ông vọng tưởng mê chân lý thành ra lỗi lầm, si ái phát sanh, sanh mê cùng khắp nên có hư không; hóa mãi cái mê không thôi nên có thế giới sanh ra; các cõi nước như số vi trần trong mười phương trừ cõi vô lậu đều do vọng tưởng mê lầm mà kiến lập.

    GIẢNG GIẢI:

    Phật dạy bao nhiêu cõi nước như vi trần đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập.

    Tóm lại, ở đây Phật khai thị cho tất cả thấy rõ, chúng sanh trong mười hai loại đều vốn ở trong thể-chân-thật-không-hai cùng với Phật không khác. Do mê vọng khởi ra các thứ sai biệt thành có kia đây, rồi có hư không cõi nước vọng sanh, theo đó mà quên mất tâm thể bản giác sáng suốt diệu minh, đành sống mãi trong mê. Nếu ngay đó khéo giác ngộ trở lại thì rõ được cái thể-không-hai này. Như vậy, chúng ta vốn có đủ cái thể-không-hai cùng với Phật không khác, rất là quý báu mà không nhận ra lại đi nhận cái ngã hư dối này, rồi bị nó gạt. Muốn trở về cái thể-không-hai đó thì nó sợ mất phần cho nên nó tìm đủ cách để mê hoặc trở lại, vì giác ngộ rồi thì nó sống với ai?

    Do vậy, trên đường tu hành chúng ta phải hết sức cương quyết nhận rõ, đừng để cái bản ngã mê hoặc mà quyết phải dứt khoát để vượt qua, sống trở về với cái thể-không-hai cùng Phật không khác, đó mới là cái trọng yếu. Gốc cũng là do cái niệm bất giác ban đầu, rồi mê theo nó lâu đời thành ra thói quen mê lầm. Khi tu là chuyển tập khí mê lầm đó thành tập khí vô lậu, giải thoát. Chúng ta được ưu điểm là nhờ có ánh sáng của Phật soi đến, vậy mà không chịu tỉnh trở lại thì không biết sao! Đây là chỗ phải thấy được để biết vươn lên tu tập cho kỹ.

     

    CHÁNH VĂN:

    Biết hư không sanh trong tâm ông, ví như mảnh mây điểm trong bầu trời xanh, huống nữa các thế giới sanh trong hư không. Một người các ông phát minh chân lý trở về bản tánh, thì mười phương hư không đó thảy đều tiêu mất, làm sao các cõi nước trong hư không kia lại không rúng động và tan nát.

    GIẢNG GIẢI:

    Phật nói: “Khi người tu giác ngộ thì rõ cả hư không mười phương sanh trong tâm giống như mảnh mây điểm trong bầu trời xanh” chứ chẳng có nghĩa lý gì. Sở dĩ tâm sanh là vì thấy có hư không thật, có thế giới thật v.v..., có chỗ để cho nó sanh; tức là chỗ cho nó duyên.

    Phật dạy: “Nếu người phát tâm chân thật trở về nguồn thì mười phương thảy đều tiêu mất”. Hiện tại, chúng ta bám vào những cái không đáng mà quên mất tâm thể thênh thang rộng lớn kia thì có trí tuệ hay không? Chúng ta cần phải quán cho thấu chỗ đó, thấu được chỗ này đâu còn cái gì để mình tham luyến nữa.

    Nhiều người cũng còn nghi chỗ này! Như hiện thấy rõ các cảnh đầy dẫy đây mà nói là một người trở về nguồn chân thì nó đều tiêu hết, đúng là chuyện khó hiểu. “Tiêu hết rồi sống ở đâu?”. Người hỏi câu đó rõ ràng lộ ra chỗ mê của mình, sợ mình không có chỗ để sống tức là còn bám vào cái ngã này; sợ cái ngã này không có chỗ sống là hiển thị cái bản ngã mê hoặc nữa, lẩn quẩn mãi bị nó mê hoặc.

    Còn đây thấu suốt được bản ngã không thật, thì còn có gì mà lo không chỗ nó sống, không chỗ cho nó sống thì càng tốt. Còn có chỗ cho nó sống là còn nuôi dưỡng nó. Hiểu kỹ thêm chút nữa, nói tiêu mất đây không phải là tiêu mất theo chỗ hiểu của thế gian. Thế gian hiểu tiêu mất là lấy cái này phá cái kia, là phá cái có thành cái không, gọi là tiêu mất. Nghĩa là có-không đối đãi, đây không phải vậy. Phật nói tiêu mất đây là tiêu mất ở trong cái thấy của người giác ngộ, chứ không phải tiêu mất là làm cho nó thành không.

    Ngay nơi có mà thấy suốt không chướng ngại, không có cái gì ngăn che cả, thành tiêu mất thôi. Tiêu mất mà không có phá hoại cái gì cả. Như có ông tăng hỏi Thiền sư Quy Tỉnh về cây bách của Triệu Châu, Ngài Quy Tỉnh hỏi:

    - Ta cũng không có tiếc gì nói với ông, nhưng mà ông có tin hay không?

    Ông tăng thưa:

    - Lời nói của Hòa thượng rất là quý trọng, con đâu dám không tin.

    Ngài Quy Tỉnh bảo:

    - Vậy ông có nghe giọt mưa rơi trước thềm chăng? (khi đó trời đang mưa)

    Ông tăng ngay đó hoát nhiên tỏ ngộ liền thốt lên:

    - Chao ôi! (tức bất ngờ mà sáng tỏ được)

    Thiền sư Quy Tỉnh hỏi:

    - Ông thấy đạo lý gì?

    Ông tăng làm bài tụng đáp lại:

           Thiềm đầu thủy đích,

           Minh minh lịch lịch.

           Đả phá càn khôn,

           Đương hạ tâm tức.

    Tức là:

           Giọt mưa trước thềm,

           Từng giọt rõ ràng,

           Đập nát càn khôn,

           Liền đó tâm dứt.

    Qua bài kệ của vị tăng, mới thấy hư không tiêu mất ngay khi ngộ. Đập nát càn khôn, coi như hư không tiêu mất, không còn thấy có trời đất vũ trụ để bám. Ông tăng nói nghe từng giọt mưa rõ ràng mà cả càn khôn đều đập nát hết, như vậy là sao? Tức là cả càn khôn sạch hết không còn có chỗ nào để tâm chen vào sanh được. Cho nên nói ngay đó tâm dứt. Là ngay cái có mà thấy là không, chứ không phá hoại cái có. Thấy được ý đó thì mới thấy được ý sâu của Bát-nhã.

     

    CHÁNH VĂN:

    Các ông tu thiền trao dồi pháp Tam-ma-địa, tâm được thông suốt ám hợp với các vị Bồ-tát và những vị Vô lậu Đại A-la-hán nơi mười phương, ngay đó vắng lặng, tất cả Ma vương và các quỷ thần, Trời, phàm phu đều thấy cung điện mình không cớ gì đổ vỡ, đất liền rung động, những loài thủy lục bay nhảy thảy đều kinh sợ, hàng phàm phu tối tăm thì không biết có sự dời đổi. Còn các loài kia đều được năm thứ thần thông trừ lậu tận thông, đương luyến tiếc cảnh trần lao, làm sao lại để cho ông phá hoại chỗ ở? Vậy nên các loài quỷ thần, Thiên ma, vọng lượng, yêu tinh, trong lúc ông tu pháp Tam-muội đều đến khuấy phá ông.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây Phật nói người tu hành pháp Tam-ma-địa, ngay đó vắng lặng, tâm được thông suốt, thầm hợp với các vị Bồ-tát và những vị Vô lậu Đại A-la-hán khắp mười phương, cho nên những cung điện của Ma vương liền rúng động, chúng sợ mất, nên đến phá. Những loài này đều có thần thông nên mới cảm được, còn phàm phu thì không biết. Trong kinh kể rõ khi Đức Phật thành đạo, chư Thiên truyền nhau tán thán từ các cõi trời Dục giới, Sắc giới vang động, nhưng chúng sanh ở thế gian đâu có ai nghe biết gì.

    Nhưng Phật trước sau đều có dạy kỹ nên chúng ta cũng không phải sợ. Người tu hành chân chánh được định chánh rồi thì nó không làm gì được, chỉ có người tâm tà thì mới sợ. Nếu tu được tâm định rồi ma đến phá cũng không sợ. Tâm định mà! Định chánh thì không có sợ. Nên nói chánh không có sợ tà, chỉ sợ người tu có tâm tà thì mới nguy hiểm! Cho nên, đây Phật mới dạy kỹ để chúng ta ngừa không cho những niệm tà khởi lên trong lúc tu. Phật dạy kỹ thêm.

     

    CHÁNH VĂN:

    Song các loài ma kia tuy có giận dữ, nhưng bọn chúng ở trong trần lao, các ông lại ở trong Diệu Giác thì cũng như gió thổi ánh sáng, như dao chém nước, hẳn không đụng chạm nhau được. Ông như nước sôi, bọn kia như băng cứng, tạm gần hơi nóng thì không bao lâu sẽ tiêu tan, chúng nó luống ỷ nơi thần lực, nhưng chỉ làm người khách, nếu chúng có thể phá rối được, là do người chủ ngũ ấm trong tâm ông, nếu người chủ mê lầm, thì khách mới được dịp khuấy phá.

    GIẢNG GIẢI:

    Như vậy, những loài ma kia đều ở trong hư vọng, thuộc về khách. Còn người tu trở về tánh Diệu Giác chân thật bất động là gốc của các thứ kia, những cái kia làm sao động được nó.

    Chủ yếu là chủ phải sáng đừng có mê thì khách không làm gì được. Biết nó là ma thì không lầm theo, nó không làm gì được. Còn không biết rồi tưởng đó là chỗ chứng được của mình mà khởi tâm theo, nó mới phá được. Đây là chỗ người tu thiền định cần phải nắm rõ để không lầm.

    Xưa Phật tu chứng đạo, Ma đến phá, Phật chỉ ra “Ngươi là cái thây thúi, ta không cần ngươi, hãy đi!”. Chỉ mặt như vậy tức nó biết Phật biết nó rồi, liền đi.

    Hoặc đọc trong truyện Thiền sư Hương Hải qua ở đảo Tiêm Bút La, có ma đến phá, Ngài quán tất cả không, mình không, cảnh không, không có chỗ nào để thấy nên ma không có chỗ để vào.

    Cũng như câu chuyện Thiền sư Huệ Ngôi tu hành trong núi, có con quỷ hiện đến phá. Lúc mới hiện đến có thân mà không có đầu, Ngài vẫn thản nhiên quở: “Ngươi không có đầu thì tốt! Không có đầu thì khỏi bị bệnh đau đầu, khỏi nhức đầu, vậy sướng quá rồi!”. Ma mới ẩn, sau nó hiện hình có tay chân không có bụng. Thiền sư Huệ Ngôi cũng quở: “Ngươi không có bụng thì khỏi phải lo về ngũ tạng, khỏi phải đau bụng như vậy thì sướng quá!”. Khi nó hiện cái gì thì Ngài cũng tùy chỗ nó hiện mà đuổi đi, không hề lay động. Do vậy, ma cũng không làm gì được.

    Cuối cùng, nó lại hiện ra hình cô gái đẹp tự xưng là Thiên nữ trên trời xuống để hầu hạ Ngài. Thiền sư Huệ Ngôi vẫn giữ vững ý chí không hề lay động, bảo nó rằng: “Lòng ta như tro nguội, ngươi đừng có đem cái túi da đó đến thử ta làm gì, thôi đi đi!”. Rốt cuộc, cô gái đó liền cởi mây bay đi và còn tán thán Ngài bằng bài kệ:

           Nước biển cạn được

           Tu-di nghiêng được.

           Bậc Thượng nhân kia

           Kiên trinh vượt bực.

    Qua kinh nghiệm tu của các Ngài, chúng ta cũng phải giữ tâm vững vàng chân chánh, lúc nào cũng phải chánh niệm là quan trọng, đừng để tà niệm sanh khởi. Rốt cuộc, ma cũng không ngoài tâm mà riêng có. Phật dạy tiếp.

     

    CHÁNH VĂN:

    Đương lúc tu thiền, giác ngộ không lầm, thì các ma sự kia không làm gì ông được. Khi năm ấm đã tiêu trừ vào tánh sáng suốt, thì bọn tà ma kia là kẻ tối tăm, sáng phá được tối, đến gần tự phải tiêu mất, làm sao còn dám ở lại khuấy phá thiền định. Nếu chẳng tỏ ngộ bị ngũ ấm làm mê lầm, thì chính ông A-nan ắt phải làm con của ma và thành người ma. Như nàng Ma-đăng-già sức còn hèn kém chỉ dùng chú thuật bắt ông phá luật nghi của Phật, trong tâm muôn hạnh chỉ hủy phạm một giới; nhưng vì tâm ông thanh tịnh nên vẫn chưa bị trầm luân. Bọn ma này thì phá hoại toàn thân bảo giác của ông. Như quan tể thần bỗng nhiên bị tước hết, tịch hết, linh đinh quanh lộn không thể thương cứu.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây Phật dạy những ma sự kia cũng thuộc về khách, thuộc trong bóng tối. Còn người tu vào trong tánh sáng suốt, sáng thì hay phá được tối, tối đâu có phá được sáng, do đó phải giữ tâm chánh niệm, trí tuệ lúc nào cũng sáng suốt thì nó không vào được.

    Đây mới nói: “Nếu chẳng tỏ ngộ, bị ngũ ấm làm mê lầm, thì chính ông A-nan ắt phải làm con của ma và thành người ma”. Tức bị ngũ ấm che. Rồi Phật mới dẫn: “Như nàng Ma-đăng-già sức còn hèn kém chỉ dùng chú thuật bắt ông phá luật nghi của Phật, còn những loại ma này nguy hiểm hơn, nó phá hoại khiến không còn giác tâm”, do đó mà phải hết sức cẩn thận!

    Phải nhớ câu Phật dạy căn bản là “Giác ngộ không lầm thì các ma sự kia không làm gì ông được”. Nhớ kỹ, giác ngộ không lầm nó, biết nó là ma sự không lầm theo, không khởi tâm vui mừng hay sợ hãi, luôn giữ tâm chánh niệm, sáng suốt biết rõ, không có bóng tối ở trong tâm làm chỗ thuận lợi cho nó vào. Công đức giới định tuệ rất cần giữ vững. Trên đường tu nhất là tu Thiền định, đây là phần quan trọng. Phải học kỹ những điều này để khi gặp những tướng trạng giống vậy, liền biết ngăn ngừa tránh không thành bệnh.

    Đây Phật nói về phạm vi của sắc ấm:

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan nên biết, ông ngồi đạo tràng tiêu hết các niệm, niệm đó nếu hết, thì tâm ly niệm được sáng tỏ tất cả, động tịnh không dời, nhớ quên như một. Đương khi an trụ chỗ đó mà vào Tam-ma-địa, như người sáng mắt ở chỗ rất tối tăm, tánh biết được diệu tịnh, nhưng tâm chưa phát trí sáng suốt, như thế thì gọi là phạm vi của sắc ấm.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là còn nằm trong phạm vi của sắc ấm, ngồi đạo tràng mà tiêu hết các niệm, niệm hết tâm ly niệm được sáng tỏ tất cả. Tức là nó không chìm theo chỗ niệm hết mà còn có tâm ly niệm được sáng tỏ tất cả. Chỗ đó phải để ý. Vậy là không phải một bề cứ chìm theo chỗ niệm hết.

    Động tịnh không dời, nhớ quên như một, là tâm được chuyên nhất, không mất nên nói dù động hay tịnh nó cũng không dời, nhớ hay quên nó cũng giống như một.

    Đang khi an trụ chỗ đó mà vào Tam-ma-địa, tức là tâm luôn chuyên nhất, nhớ quên như một, là được dễ an trụ vào Tam-ma-địa. Chuyện vào định, đến đây không còn khó khăn như trước. Nhưng đây giống như người sáng mắt mà ở chỗ tối tăm không thấy được rõ ràng khắp hết. Tánh biết thì được diệu tịnh nhưng tâm chưa phát trí sáng suốt cho nên vẫn còn nằm trong phạm vi của sắc ấm. Là còn bị cảnh ngại, chỉ nghiêng về định, còn thiếu tuệ, nên chưa phát được trí sáng suốt, chưa thể tự biết thấu suốt hết.

     

    CHÁNH VĂN:

    Nếu con mắt sáng tỏ, mười phương rộng mở không còn tối tăm nữa, gọi là hết sắc ấm. Người ấy có thể vượt ra khỏi kiếp trược, xét lại nguyên do, thì cội gốc là vọng tưởng kiên cố.

    GIẢNG GIẢI:

    Nếu mắt được sáng tỏ, mười phương rộng mở không còn tối tăm, là thấy rõ hết mười phương. Đến đây tâm mở, trí sáng, không còn bị cảnh làm ngại là sắc ấm không còn che. Đó là vượt qua sắc ấm, tức vượt qua kiếp trược, là thấu qua sự đan dệt của cái thấy và hư không. Trước là bị cái thấy và hư không đan dệt nhau làm mờ nên còn bị kiếp trược che. Đây thấu qua sự đan dệt của cái thấy và hư không, không còn bị hư không làm mờ, là phá vọng tưởng kiên cố lâu đời chôn kín. Do cái vọng tưởng kiên cố lâu đời chôn kín nên chúng ta mắc kẹt nơi sắc ấm.

    Xét cho tột lại sắc ấm, nó chỉ là cái vọng tưởng chấp cứng, lâu dần thành ngăn ngại, chớ không có thật thể gì hết. Nhưng người mê vì không biết lầm ở trong đó thành ra bị nó làm ngại. Là do tâm tưởng mà thành ngại chớ không gì hết. Chỗ mê lầm của chúng sanh là ở đó, thấu tỏ rồi vượt qua lầm mê.

     

    1. CÁC TƯỚNG TRẠNG CỦA MA SẮC ẤM

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Chính ở trong đây xét tánh diệu minh, tứ đại không kết hợp, thì trong một thời gian ngắn thân có thể ra khỏi các ngăn ngại, ấy gọi là tinh minh trào ra tiền cảnh; đó chỉ là do dụng công tạm được như thế, không phải là chứng bậc Thánh; không khởi tâm chứng Thánh gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh; thì liền mắc các tà kiến.

    GIẢNG GIẢI:

    Khi chuyên tâm xét kỹ về tánh sáng suốt nhiệm mầu, tứ đại không kết hợp. Trong một thời gian ngắn, thân có thể ra khỏi các ngăn ngại, giống như không còn thấy có thân. Đây gọi là cái tinh minh trào ra tiền cảnh, chớ chưa phải thật. Không phải là bản tánh chân thật, chỉ do dụng công tạm được. Nếu biết thì không sao, nhưng không biết chấp cho là mình chứng Thánh, có sở đắc gì đó, là bệnh.

    Như vậy bốn đại vốn là không, do cái tưởng chấp mà thành ngại, ở trước gọi là vọng tưởng kiên cố. Giờ đây do một lòng chuyên tâm xét sâu vào tánh diệu minh lâu ngày, không bám vào tứ đại; nhờ công phu chuyên nhất đó, tạm quên tướng ngại của tứ đại hay của thân này, tạm thấy thân mình không còn bị ngăn ngại. Đó là do chỗ dụng công mà tinh minh trào ra tiền cảnh, được một lúc vậy thôi. Thí dụ trong khi chúng ta ngồi thiền, do công phu tu tập tạm thấy, nhưng khi xả là mất. Biết rồi không chấp là tốt, vượt qua thì càng tiến sâu thêm. Còn không biết chấp vào đó cho là mình chứng Thánh, được sở đắc thế này thế kia là rơi vào đường tà. Chỗ quan trọng là biết để không lầm chấp thành sở đắc. Đây nói là ma nhưng mà chưa bị ma ở bên ngoài nhập vào tâm.

    Cái thứ hai:

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Lại đem tâm ấy chính xét tánh diệu minh, trong thân trở nên rỗng suốt, người đó bỗng nhiên từ trong thân lượm ra những con giun con sán mà thân vẫn y nguyên không bị tổn thương, ấy gọi là tinh minh trào vào hình thể. Đây chỉ do tu hành tinh tiến tạm thấy được như vậy, không phải là chứng bậc Thánh. Nếu không khởi tâm chứng Thánh gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh, liền mắc các tà kiến.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây cũng thuộc về tướng hiện chưa phải là thật. Trong lúc công phu ngồi thiền, tâm được yên tĩnh, chuyên nhất mới hiện ra tướng thấy suốt ở trong thân, rồi thấy con giun con sán trong thân lượm ra, mà thân thể vẫn y nguyên không bị tổn thương, là do dụng công tạm hiện cũng thuộc về vô thường, một lúc rồi cũng mất, chớ không phải thật. Nhớ! Đây gọi là cái tinh minh trào vào hình thể, tạm thấy vậy thôi; chớ có lầm chấp cho là sở đắc của mình mà thành bệnh; còn biết rõ thì nó cũng là cảnh giới tốt, vượt qua đó rồi sẽ tiến sâu hơn.

    Cái thứ ba:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại do tâm chánh xét trong ngoài, khi ấy hồn phách, ý chí, tinh thần trừ ngoài việc chấp giữ thân, sẽ xen vào nhau đắp đổi làm chủ làm khách. Người ấy bỗng dưng ở giữa hư không nghe tiếng thuyết pháp, hoặc nghe mười phương đồng diễn bày nghĩa thâm mật. Đây gọi là tinh thần đắp đổi khi ly khi hợp thành tựu hạt giống lành tạm được như thế, không phải là chứng bậc Thánh; không khởi tâm chứng Thánh là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh liền mắc vào các tà kiến.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây cũng do tâm tinh xét, tức lâu ngày chuyên tâm tu tập nên hồn phách, ý chí, tinh thần, trừ ngoài cái chấp thọ nơi thân lại đắp đổi làm khách, làm chủ. Là có khi nó làm khách, khi làm chủ đắp đổi với nhau nhưng cũng còn trong cái chấp thọ nơi thân, không ra khỏi thân. Như vậy, bỗng ở giữa hư không nghe tiếng thuyết pháp hoặc là nghe mười phương đồng diễn bày những nghĩa lý sâu xa.

    Ở hai phần trước hoặc nó hướng ra ngoài, muốn thoát ra khỏi thân nên gọi tinh minh nó trào ra ngoài, lúc đó thấy giống như mình đi ra ngoài thân, không còn bị cái thân này làm chướng ngại; hoặc soi lại bên trong thông vào trong, thấy ở trong thân rỗng suốt, thấy giun thấy sán. Còn ở đây thì tinh xét cả trong ngoài nên thông cả hai hiện ra tướng lạ. Người không biết tưởng đâu như vậy là đã chứng được gì rồi, tưởng đâu mình được nghe Phật thuyết pháp cũng gần bậc Thánh nên chấp vào đó, thành ra cái ngã sanh rồi thành bệnh không hay.

    Cho nên khi công phu phải nhớ, đây là tướng trạng do dụng công chuyên nhất lâu ngày tạm hiện ra vậy thôi, một lúc rồi cũng mất chứ không phải thật, cũng thuộc về tướng vô thường. Đây gọi là tinh thần đắp đổi khi ly khi hợp mà thành tựu hạt giống lành. Tức nó biểu hiện cho thấy là từ trước chúng ta cũng có một chút hạt giống lành. Chẳng hạn như đời trước mình từng nghe giảng nhiều kinh pháp, nên cảm đến hiện lại. Biết được vậy mà không chấp thì tốt, còn chấp vào là thành bệnh. Đó là chỗ chúng ta phải biết trước để không lầm.

    Cái thứ tư:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại dùng tâm ấy đứng lặng hiện ra sáng suốt. Tâm quang phát minh khắp cả mười phương thành sắc Diêm-phù-đàn, tất cả các loài hóa làm Như Lai; khi ấy bỗng thấy Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài thiên quang, ngàn Đức Phật vây quanh, trăm ức cõi nước cùng với hoa sen đồng thời hiện ra. Đây là ý thức được thấm nhiễm bởi sự linh ngộ, do ánh sáng từ trong tâm sáng ra soi các thế giới mà tạm thời được như thế, không phải là chứng bậc Thánh; chẳng khởi tâm cho là chứng Thánh gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là chứng bậc Thánh thì mắc vào tà kiến.

    GIẢNG GIẢI:

    Khi tu tập thời gian lâu, có công phu tâm được đứng lặng, những vọng niệm cũng tạm yên, không bị quấy rầy nên nó mới hiện ra những cảnh giới gọi là tâm quang phát sáng, thấy khắp mười phương đều hiện thành sắc vàng ròng, rồi thấy tất cả đều hóa thành ra thân Phật, thấy Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài thiên quang, ngàn Đức Phật vây quanh, những hoa sen đồng thời hiện ra khắp nơi. Như vậy tức là nhìn đâu đâu cũng thấy Phật, thấy hoa sen. Đây nếu không biết tưởng là mình chứng Thánh, sẽ thành bệnh.

    Đây gọi là do ý thức thấm nhiễm bởi sự linh ngộ, do ngày thường huân tập công phu, học hỏi, nghe kinh nói rằng: “Cảnh giới Hoa Nghiêm hiện khắp nơi, tất cả sắc đều là sắc Phật” nên ảnh hưởng nghĩa lý đó, giờ đây cảm hiện ra. Nếu biết mà không chấp vào đó là tốt, còn nếu khởi tâm cho là mình có chứng đắc là thành bệnh.

    Kế, thứ năm:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại dùng tâm ấy, chính xét tánh diệu minh, quán sát không dừng, đè nén uốn dẹp, dứt trừ thái quá; bấy giờ bỗng nhiên mười phương hư không thành sắc bảy báu, hoặc sắc tăm báu, đồng thời đầy khắp không ngăn ngại lẫn nhau; các sắc, xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi thứ thuần hiện ra. Đây gọi là sức công phu đè nén quá phần nên tạm được như thế, chẳng phải là chứng bậc Thánh; chẳng khởi tâm chứng Thánh thì gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ chứng bậc Thánh, liền mắc vào các tà kiến.

    GIẢNG GIẢI:

    Tới đây do công phu đè nén, uốn dẹp, dứt trừ thái quá, bỗng nhiên thấy như mười phương hư không thành sắc bảy báu, hiện đầy khắp không ngăn ngại lẫn nhau. Những màu xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi mỗi thứ đều thuần hiện ra, cảnh giới trang nghiêm tốt đẹp, khác hẳn với cảnh giới bình thường. Vì vậy, nếu hành giả không rõ biết dễ chấp là mình chứng đắc, rồi tham đắm, mắc kẹt vào đó không tiến được, thành bệnh. Nếu biết là do dụng công mạnh đè nén thái quá, nó tạm hiện chưa phải là thật, không chấp vào đó thì vượt qua, nhờ vậy càng tiến sâu hơn.

    Tiếp, thứ sáu:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại dùng tâm ấy lặng suốt, chính xét trong sáng không tán loạn, bỗng ở giữa đêm thấy các thứ vật trong nhà tối không khác gì ban ngày, mà những đồ vật trong thất tối đó cũng không diệt mất. Ấy gọi là tâm thầm kín lặng đứng cái thấy nhìn suốt chỗ tối tăm tạm được như thế, không phải chứng bậc Thánh; không khởi tâm chứng Thánh, gọi là cảnh giới lành, nếu nghĩ chứng bậc Thánh thì mắc tà kiến.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây do dụng công chuyên tâm lâu ngày, tâm đứng lặng, vọng tưởng không còn xao động, chi phối. Là tạm thời chứ chưa phải là hết vọng tưởng, do công phu chuyên nhất lâu ngày đó phát sáng nên soi thấu cả ban đêm, thấy hết đồ vật trong phòng tối, nhưng chỉ là tạm được. Thế nên, chúng ta không nên chấp cho là mình chứng Thánh, có sở đắc thế này thế kia rồi thành bệnh.

    Kế, thứ bảy:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại dùng tâm ấy khắp vào tánh hư dung, toàn thân bỗng nhiên đồng như cỏ cây, lửa đốt, dao cắt cũng không hay biết, khi thì lửa không thể đốt cháy, dù cắt thịt cũng như chẻ cây. Đây gọi là tiêu bỏ tướng trần, bài trừ tánh bốn đại, thẳng vào chỗ thuần nhất, tạm được như vậy, không phải chứng bậc Thánh; nếu không khởi tâm chứng Thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh thì mắc vào tà kiến.

    GIẢNG GIẢI:

    Thứ bảy là do dụng tâm phá bốn đại nên nó hiện vào tánh hư dung, tức là tan vào tánh rỗng không thuần nhất rồi bỗng nhiên thân mất cảm giác. Khi ấy, cảm thấy lửa đốt không cháy, cắt thịt mà giống như chẻ cây không đau đớn gì. Cũng chỉ được một chút trong lúc thiền định vậy thôi, là cảnh giới tạm thời không phải thật. Người không biết, thấy vậy tưởng đâu mình chứng Thánh, được thần thông rồi chấp vào đó thành bệnh. Vì hiện tướng này chỉ tạm có một lúc, khi qua là trở lại bình thường lửa đốt cũng cháy vậy thôi.

    Thứ tám:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại dùng tâm ấy thành tựu tánh thanh tịnh, công dụng tịnh tâm đã cùng tột, bỗng thấy đất liền, núi sông, trong mười phương đều thành cõi Phật, đầy đủ bảy báu sáng suốt đầy khắp; lại thấy hằng sa chư Phật Như Lai đầy khắp cõi hư không, lâu đài hoa lệ. Dưới thấy đến địa ngục, trên xem đến Thiên cung được không ngăn ngại. Đây gọi là tư tưởng ưa chán ngưng lắng ngày một sâu, tưởng lâu mà thành như thế, không phải là chứng bậc Thánh; không khởi tâm chứng Thánh gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh, tức là mắc các tà kiến.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây do dụng công tịnh tâm lâu ngày, bỗng thấy khắp nơi hiện thành cõi Phật, rồi chư Phật hiện khắp nơi, thấy suốt trên đến thiên đường, dưới là địa ngục. Người tu nếu không khéo biết chỗ này thì dễ lầm chấp. Nhìn thấy vậy rồi thích quá, cứ bám vào đó lo nhìn địa ngục, thiên đường nên tâm mãi lo nhìn ra ngoài, mất bản tánh lúc nào không hay. Đây gọi là do tư tưởng ưa thích cảnh trên, chán cảnh dưới lâu ngày ngưng lắng mà thành, không phải là chứng Thánh, chớ có lầm chấp trong đó.

    Kế, thứ chín:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại dùng tâm ấy nghiên cứu sâu xa, bỗng ở giữa đêm thấy rõ chợ búa, làng mạc, bà con quyến thuộc phương xa, hoặc nghe lời họ nói. Đây gọi là do dằn ép tâm cùng tột mà nó phóng hiện ra, nên thấy được cách xa như thế, không phải là chứng bậc Thánh; nếu không khởi tâm chứng Thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh, tức là mắc các tà kiến.

    GIẢNG GIẢI:

    Do tâm dằn ép lâu ngày cùng tột mà phóng hiện ra bên ngoài, thấy suốt phương xa, tưởng chừng như vượt qua sắc thân vậy. Có những vị tu thiền định cũng cảm như vậy. Trước, có một vị đang ngồi thiền ngay trong Thiền đường đây mà thấy suốt bên Tăng đường. Hoặc ngồi thiền ngó mặt vào vách nhưng bỗng thấy ngược lại phía sau khắp chung quanh, ai ngồi ở đâu biết hết; vị nào đi giám thiền biết hết. Đây cũng là do dụng công quá mạnh cảnh giới tạm hiện, chớ không phải thật, chớ có lầm chấp vào đó mà thành bệnh.

    Thứ mười:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại dùng tâm ấy nghiên cứu cùng tột, thấy hình thể vị thiện tri thức biến đổi, trong giây lát bỗng nhiên thay đổi nhiều thứ. Đây gọi là tâm tà, bị loài ly mị và Thiên ma nhập vào tâm thức, tự nhiên lại biết thuyết pháp, thông suốt các diệu nghĩa, chẳng phải là chứng bậc Thánh; nếu không khởi tâm chứng Thánh thì ma sự tiêu diệt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh, tức là mắc các tà kiến.

    GIẢNG GIẢI:

    Những trường hợp đã kể ở trước là cảnh giới tự thấy, còn cảnh giới này là bị ma nhập. Bỗng nhiên thấy hình thể những vị thiện tri thức hiện, biến đổi không lường, khi hiện thế này, khi hiện thế khác. Rồi thấy mình biết thuyết pháp thông suốt rất hay, xưa giờ không biết những nghĩa lý như thế sao giờ lại thông hết! Thấy vậy liền biết đây là tướng trạng trong khi dụng công tu tạm hiện, không lầm chấp, không khởi tâm chứng Thánh, ma không nhập vào được thì vượt qua. Ngược lại, tưởng là mình chứng được cái gì rồi nên chấp vào đó, rồi khởi tâm chứng Thánh liền bị ma thấy tâm càng khuấy rối thêm. Đây là bị loài ly mị hoặc là Thiên ma nhập tâm. Phải nhớ kỹ!

    Chúng ta cần nhớ, tu thiền là phải rất cẩn thận, không để sanh tâm động niệm! Nhiều vị ngồi tu mà sanh tâm động niệm thế này thế kia, tưởng về ngũ dục thì bị ma ngũ dục xen vào, có khi mong mình chứng được cái này, cái kia hoặc mau chứng ngộ, đều là không tốt. Chính tâm khởi muốn đó, ma thấy được liền xen vào.

    Đây Phật kết lại:

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Mười thứ cảnh hiện ra trong thiền định như thế, đều do sắc ấm và tâm công dụng giao xen nhau, nên hiện ra những việc ấy. Chúng sanh mê muội không tự xét lường, gặp nhân duyên này, mê không tự biết cho là chứng bậc Thánh, thành tội đại vọng ngữ, phải đọa vào địa ngục vô gián. Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp, các ông nương theo lời dạy mà tuyên nói nghĩa này, không để cho Thiên ma được dịp khuấy phá, gìn giữ che chở cho chúng sanh thành đạo Vô thượng.

    GIẢNG GIẢI:

    Phật kết lại khuyên nhắc tất cả, khi dụng công tu thấy mười thứ cảnh hiện ra, tuy không phải y hệt nhưng đại khái giống như trên đã kể phải biết để dè dặt. Đây là cảnh trong lúc thiền định hiện ra chớ không phải thật. Do sắc ấm và tâm dụng công giao xen với nhau nên hiện, mê muội không biết chấp vào là thành bệnh, còn biết không lầm chấp nó thì càng tiến sâu.

    Như thế cũng cho thấy rằng sắc ấm vốn không kiên cố. Khi thì thấy sắc tan ra hoặc thấy vượt ra khỏi thân, thấy thấu suốt cả bên trong thân hoặc là ngồi đây mà thấy suốt ra cả phương xa. Như vậy cái sắc này đâu có thật, do cái tưởng của người lâu ngày bám chấp vào đó rồi cho là thật, thành bị nó ngăn ngại.

    Ngài Hám Sơn có kể một tướng trạng khi ở trên đỉnh Thiên Tượng Dục của ngọn Bàn Sơn. Ngài gặp vị tăng lạ nơi hang động, cùng tham thiền với vị tăng ấy. Vị tăng này cũng là vị tăng tu hành có chỗ tỏ ngộ nhưng sống ẩn không tiếp khách. Ngài Hám Sơn đến gặp, cả hai không nói chuyện với nhau. Tuy nhiên, qua những cử chỉ hành động lạ, Ngài nghi là vị tăng này có công phu đắc lực nên mới ở lại.

    Sáng, vị tăng nấu cơm. Cơm chín, vị tăng tự bới cơm ăn không mời gì hết. Ngài Hám Sơn thấy không mời liền đến lấy bát múc ăn, cũng không cần mời. Liên tục mấy ngày, cùng ra ngoài làm công tác, cùng ngồi thiền chung nhưng không nói chuyện gì với nhau. Bấy giờ, vị tăng thấy Ngài Hám Sơn như thế nghĩ là người khác thường nên hỏi chuyện, mới biết cùng là người có tâm tha thiết tu hành, nên mới mời Ngài ở lại một thời gian.

    Một hôm, Ngài Hám Sơn theo vị tăng đó đi thiền hành bên ngoài hang. Đột nhiên, Ngài cảm thấy trong đầu có tiếng như sấm sét nổ vang rồi tự nhiên núi sông, cây cỏ, trời đất, trăng sao v.v... cho đến thân thể của mình đều tan biến trong một trạng thái thật tịch tĩnh kỳ lạ khác thường, xưa giờ không có. Trạng thái kéo dài thời gian khoảng năm cây nhang. Sau đó, dần dần Ngài mới thấy núi sông, đất đá, cảnh vật chung quanh trở lại như cũ. Khi đó, thân tâm Ngài rất là khinh an, nhẹ nhàng, sung sướng khó tả. Ngài mới vào trong hang gặp vị tăng kia. Vị tăng do có kinh nghiệm nên thấy vẻ mặt của Ngài liền biết, hỏi:

    - Hôm nay thầy ngộ được cái gì mà vào sớm vậy? Nhưng hãy coi chừng kẻo lạc đường đó!

    Ngài Hám Sơn mới thuật lại cảnh giới vừa qua của mình. Vị tăng nghe xong liền nói:

    - Đó chỉ là một trạng thái của sắc ấm, chớ không phải là bản tánh chân thật. Tôi trú ở núi này hơn 30 năm, trừ những khi gió mưa, bão tuyết, mỗi tối khi đi kinh hành, tôi đều nhập vào cảnh giới đó. Nếu thầy không đắm chấp vào, nó sẽ không che lấp bản tánh.

    Đó là nói qua về sắc ấm ma. Đa số các loại sắc ấm là từ ở trong người hiện cảnh giới, chỉ có sắc ấm thứ mười mới có ngoại ma nhập vào. Đến thọ ấm, ngoại ma nhập nhiều hơn nữa nên phải hết sức cẩn thận.

     

    2. CÁC TƯỚNG TRẠNG CỦA MA THỌ ẤM

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Thiện nam tử kia tu pháp Tam-ma-đề, ở trong Xa-ma-tha (chỉ) khi sắc ấm diệt hết, thấy tâm chư Phật như bóng hiện ra trong gương sáng, hình như có chỗ được mà chưa có thể dùng, cũng như người bị bóng mộc đè, tay chân y nguyên, thấy nghe không lầm, nhưng tâm bị khách tà mà không cử động được; ấy gọi là phạm vi của thọ ấm.

    GIẢNG GIẢI:

    Khi sắc ấm hết thì vượt qua sắc ngại, mắt như rộng mở thấy khắp mười phương. Xa-ma-tha (sức chỉ) càng sâu thì ở trong đó phát ra thấy tâm chư Phật ở ngay nơi tâm mình, như bóng hiện trong gương sáng, nhưng không dùng được, tức chưa có sức diệu dụng. Thấy thì thấy nhưng không dùng được. Giống như người nằm ngủ bị bóng mộc đè, tay chân vẫn y nguyên nhưng không cử động được. Tức là có mà chưa có sức thọ dụng. Đó là còn trong phạm vi của thọ ấm, bị thọ ấm che.

     

    CHÁNH VĂN:

    Nếu bóng mộc đè hết, thì tâm rời khỏi thân, trở lại xem được cái mặt, đi ở tự do, không bị ngăn ngại, gọi là hết thọ ấm. Người ấy mới có thể vượt khỏi kiến trược, xét lại nguyên do thì cội gốc là vọng tưởng hư minh.

    GIẢNG GIẢI:

    Tâm rời khỏi thân, trở lại xem được cái mặt, không còn bị cảm thọ nơi thân làm ngại, là có sức tự tại với cái thọ. Vậy là vượt qua được thọ ấm, tức vượt khỏi lớp kiến trược. Xét rõ thọ ấm chỉ thuộc về vọng tưởng hư minh. Thọ ấm là những cảm thọ, cảm giác nơi thân, gồm thọ vui, thọ khổ, thọ không khổ không vui, chúng thuộc về vọng tưởng hư minh, tức vọng chấp vào cái rỗng sáng không có thật thể (minh mà hư). Do cái hiểu biết dính vào bốn đại, thấy giống như thân có cảm giác, sự thật thân đâu có cảm giác, khi chết rồi nó nằm cứng đơ đâu có cảm giác gì, vốn chỉ là vọng tưởng hư minh vậy thôi.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Thiện nam tử kia chính khi ở trong đó, tâm rất sáng suốt, do bên trong đè nén quá phần, bỗng nhiên phát sanh thương xót vô hạn; như thế cho đến xem thấy muỗi mòng như là con đỏ, tâm sanh thương xót, bất giác rơi lệ. Đây gọi là dụng công đè nén thái quá; nhận biết như thế thì không có lỗi, không phải chứng bậc Thánh, hiểu biết không còn lầm lẫn nữa, lâu rồi tự tiêu hết. Nếu nghĩ là chứng ngộ, thì bị giống “ma sầu bi” nhập vào tim gan, thấy người thì thương xót kêu khóc không thôi, mất hết chánh định, sẽ bị trầm luân.

    GIẢNG GIẢI:

    Tu không khéo bị ma sầu bi nhập vào tâm, thấy ai cũng buồn khóc, làm sao định được? Chỗ này là do có sức định rồi tâm sáng, nhưng do công phu đè nén quá phần phát sanh tâm thương xót vô hạn, nên thường cảm xúc rơi lệ. Nếu chấp cho là sở đắc, nghĩ mình có tâm từ bi lớn là thành bệnh mà không biết, bị ma bi nhập tâm khiến tổn thất chánh định, vì cảm xúc hoài đâu có an định được.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Lại các thiện nam tử kia khi ở trong định, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, cảnh tốt hiện ra trước, cảm khích quá phần, bỗng nhiên ở trong ấy tâm sanh dũng mãnh vô hạn. Tâm mạnh mẽ chí bằng với chư Phật, bảo là một niệm có thể vượt khỏi ba a-tăng-kỳ kiếp. Đây gọi là dụng công lấn lướt thái quá. Nhận biết thì không có lỗi, không phải chứng bậc Thánh, biết rõ không lầm, lâu sẽ tự tiêu hết. Nếu nghĩ là chứng ngộ thì bị giống “ma ngông cuồng” nhập vào tim gan, thấy người thì khoe khoang, tâm ngã mạn vô kể, cho đến trên không thấy có Phật, dưới không thấy có người, mất hết chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

    GIẢNG GIẢI:

    Cảnh thứ hai là do công phu lấn lướt thái quá, tâm cảm kích mạnh mẽ, thấy mình đồng với chư Phật, cho rằng một niệm có thể vượt ba a-tăng-kỳ kiếp. Đó là sức phấn khởi tự tin quá mạnh, nghĩ không cần tu hành lâu xa. Khi chúng ta học trên lý thì rõ ràng tất cả chúng sanh đều đồng với chư Phật, nhưng sự thật mình vẫn còn là chúng sanh, chỗ đó chỉ thuộc về kiến giải, chớ tập khí chúng sanh vẫn còn. Do trí tuệ chưa kịp với sức định của mình nên gọi là lấn lướt. Nếu lầm chấp cho là có sở đắc liền bị ma ngông cuồng nhập vào tâm, sanh ngã mạn, thấy mình trên hết, đã giống Phật rồi thì không cần kính Phật nữa, là thành thiền bệnh. Người tu thiền thông thường dễ bị bệnh này. Bởi Thiền nhấn mạnh lòng tự tin, tin tâm mình là Phật, không nương tựa bên ngoài. Chúng ta phải khéo biết để ngăn ngừa.

    Có câu chuyện, một ông tăng trong pháp hội của Thiền sư Bạch Ẩn tu một thời gian thấy mình cùng Phật không hai. Ông lấy kinh sách xé làm giấy vệ sinh đi cầu. Huynh đệ thấy nhắc nhở, bảo ông sám hối, ông bào chữa: “Có lỗi gì khi tôi dùng kinh Phật để chùi đít Phật?”.

    Cho đít ông là đít Phật, ngông cuồng đến vậy đó.

    Thiền sư Bạch Ẩn nghe được, gọi ông đến hỏi: “Nghe nói ông dùng giấy kinh để đi cầu phải không?”. Ông đáp: “Dạ đúng vậy. Bởi tôi chính là Phật rồi, có lỗi gì khi dùng kinh Phật lau đít Phật?”. Thiền sư bảo: “Ông lầm rồi. Đã là đít Phật sao lại lấy giấy cũ đã viết rồi ra lau? Ông phải chùi bằng giấy trắng sạch mới đúng chớ!”. Ông nghe vậy xấu hổ xin sám hối.

    Ông bị tự ngã mê hoặc mà không hay, có lỗi không tự thấy, tưởng mình là Phật. Nhờ Ngài Bạch Ẩn khơi dậy cho ông thấy, ông này cũng còn lanh lẹ, biết lỗi xấu hổ sám hối, nếu không là nguy rồi!

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại các thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, tiến tới trước không có chỗ chứng mới, lui về thì mất chỗ cũ, trí lực suy kém, vào trong chỗ hụt hẫng, bặt không nhận thấy gì; trong tâm bỗng nhiên sanh rất khô khao, đối với trong tất cả thời thầm nhớ không thôi, rồi cho như thế là tướng tinh tấn. Đây gọi là tu hành mà không có trí tuệ, nên tự sanh lầm lạc. Nhận biết thì không lỗi, không phải là chứng bậc Thánh, nếu nghĩ là chứng ngộ, thì bị giống “ma nhớ” nhập vào tim gan, ngày đêm như nắm cái tâm treo ở một chỗ, mất hết chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

    GIẢNG GIẢI:

    Khi sắc ấm hết, nhớ lui về không còn chỗ bám, nhưng thọ ấm chưa hết nên hướng tới trước chưa có chỗ chứng mới vì chưa qua được thọ ấm. Tâm không có chỗ nương gá, sanh tâm thầm nhớ mà không biết nhớ cái gì, tâm lưng chừng, sanh ra cảm giác rất khô khao, khô khát, giống như buồn man mác không biết lý do. Đây là tu hành có sức định mà thiếu trí tuệ cân bằng, bị “ma nhớ” nhập tâm thành bệnh. Thế nên chúng ta tu hành phải cẩn thận.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại các thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, sức tuệ nhiều hơn định, bị cái lỗi quá mạnh mẽ sắc bén; đem cái thắng tánh ôm nhớ trong tâm, tự nghĩ mình là Lô-xá-na, được chút ít cho là đã đủ. Đấy gọi là dụng công quên mất suy xét thường xuyên nên chìm nơi tri kiến. Nhận biết thì không lỗi, chẳng phải là chứng bậc Thánh. Nếu nghĩ là chứng ngộ, thì có giống “ma hạ liệt dễ thấy là đủ” vào trong tim gan, thấy người thì tự xưng là đã được Vô thượng Đệ Nhất Nghĩa Đế, mất hết chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

    GIẢNG GIẢI:

    Những cảnh trước là do định nhiều tuệ ít; còn cảnh này là tuệ nhiều định ít. Chưa được gì mà thấy mình là Phật Lô-xá-na trùm khắp, thấy quá chỗ được của mình, rốt cuộc chỉ là kiến giải suông, không có thật nghĩa, tưởng được vậy chớ không phải vậy. Chúng ta phải biết để ngăn ngừa, đừng sanh tâm sở đắc, cho mình chứng Thánh là thành bệnh.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại các thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, chỗ chứng mới chưa được, còn tâm cũ đã mất, xem qua hai mé tự cho là nguy hiểm, tâm bỗng nhiên sanh ra buồn vô tận, như ngồi trên giường sắt, như uống thuốc độc, tâm không muốn sống, thường cầu người khác hại thân mình để sớm được giải thoát. Đây gọi là tu hành sai mất phương tiện; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc Thánh. Nếu nghĩ là chứng Thánh, thì có một phần giống “ma thường lo rầu” vào trong tim gan, tay cầm dao gươm tự cắt thịt mình, thích được bỏ mạng, hoặc thường lo rầu, chạy vào trong núi rừng, không thích thấy người, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

    GIẢNG GIẢI:

    Phần này là tu hành thiếu phương tiện, dính vào chỗ được mất, kẹt hai bên, tiến thối không có chỗ y cứ, sanh ra buồn chán, bất an. Thọ ấm đã qua, chỗ chứng mới lại chưa được, xem qua hai mé tự cho là nguy hiểm, không có chỗ bám, sanh tâm buồn vô tận cứ muốn chết cho giải thoát. Hoặc muốn vào sâu trong rừng để không thấy ai. Cho nên tu một thời gian mà muốn vào rừng ở, không thích gặp ai hết là coi chừng bị thọ ấm ma mà không hay. Hoặc tu thấy khổ, chỉ muốn chết để được giải thoát. Giải thoát là tâm mình, tu sạch hết nhân phiền não thì được giải thoát, đâu phải chết thân này là thành giải thoát. Thân chết nhưng nhân phiền não còn cũng sanh trở lại, chớ đâu giải thoát được.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại các thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, ở trong chỗ vắng vẻ tâm được an ổn, bỗng nhiên sanh ra vui mừng vô hạn. Trong tâm mừng rỡ không thể tự dừng. Đây gọi là tâm khinh an, nhưng không có trí tuệ tự kiềm chế; ngộ thì không lỗi, không phải chứng bậc Thánh. Nếu nghĩ là chứng bậc Thánh thì có một phần giống “ma thích vui mừng” vào trong tim gan, thấy người thì cười, ở bên đường cái tự ca, tự múa, tự xưng đã được vô ngại giải thoát, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là bị ma vui mừng. Khi tu được khinh an, nhẹ nhàng rồi sanh tâm vui mừng quá mức thành động niệm, mất tự chủ. Đúng là khi chúng ta tu có những niềm vui dừng không được, nếu không khéo cũng bị ma vui chế ngự. Chúng ta phải biết để tự kiềm chế, không theo nó, vì vui quá cũng loạn tâm. Tâm khinh an mà thiếu trí tuệ tự kiềm chế nên thành bệnh. Nếu sáng suốt tự kiềm chế thì không có lỗi. Có lỗi là do chấp vào đó, đồng hóa với nó, chạy theo nó nên mất định tâm, có khi phát cuồng ở ngoài đường lớn tự ca, tự múa, cho là tự tại vô ngại, đó là thành bệnh.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, tự cho là đã đủ; bỗng khởi đại ngã mạn. Như thế cho đến lòng mạn và mạn quá mạn, hoặc lòng tăng thượng mạn, ty liệt mạn một lúc đều phát ra; trong tâm khinh cả mười phương Như Lai, huống là những quả vị dưới như Thanh Văn, Duyên Giác. Đấy gọi là thắng giải quá cao, không có trí tuệ tự cứu; ngộ thì không lỗi, không phải chứng bậc Thánh. Nếu nhận là chứng bậc Thánh, thì có một phần giống “ma đại ngã mạn” vào trong tim gan, không lễ chùa tháp, phá hủy kinh tượng, bảo đàn-việt rằng: “Đó là vàng đồng, hoặc là cây đất, kinh là lá cây, hoặc là giấy lụa; thân xác thịt là chân thường mà không tự cung kính, trở lại sùng bái cây đất, thật là điên đảo!”. Những người quá tin theo lời dạy đó rồi phá phách hoặc chôn bỏ trong đất, do gây nghi ngờ lầm lạc cho chúng sanh, phải đọa vào địa ngục vô gián, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là bệnh tự mãn, rất nguy hiểm, sanh tâm đại ngã mạn khinh thường tất cả, đến Phật cũng khinh luôn. Như tu thiền, nhất là Thiền tông, khi có được lý giải theo lý rốt ráo là không Phật không chúng sanh. Tuy nhiên, thấy lý giống như đúng, nhưng hiểu thì lệch một bên, cho mình là trên tất cả, trên cả Phật, rồi khinh Phật, khinh Thanh Văn, Duyên Giác, thành ra đại ngã mạn, là bệnh mà không hay. Cho nên chúng ta tu phải hết sức cẩn thận, nhất là tu thiền, thấy được, hiểu được cái lý rốt ráo rồi thích quá, nhưng thắng giải quá cao mà không có trí tuệ tự cứu, chỉ là kiến giải thôi. Chúng ta phải biết bồi dưỡng công đức, tụng kinh sám hối đều đặn, đừng khinh thường mà thành ngã mạn. Tập khí chủng tử ngã mạn vẫn ngủ ngầm trong tàng thức chớ chưa mất, còn chưa chứng Thánh là nó còn đó, nó tiềm ẩn ở đó, lâu lâu sống dậy mà mình không hay. Khi ngã mạn sanh khởi, tự nhiên làm biếng tụng kinh, làm biếng lễ Phật, khinh những người trên, khinh cả những bậc thiện tri thức, thấy mình là trên hết. Chỗ đó là rơi vào địa ngục nhanh như tên bắn. Vì mình chưa tới đâu mà khinh Phật - Thánh, kinh không tụng, Phật không lạy, mà ai nói đụng tới thì chịu không nổi. Rõ ràng là ngã mạn, bị tự ngã mê hoặc không hay. Thế nên chúng ta phải biết để ngăn ngừa.

    Lại bảo đàn-việt: “Kinh tượng thuộc vàng đồng, xi măng, cây đất v.v…; thân thịt này mới là chân thường. Cây đất vô tri không biết, thân thịt này mới là thật, sao không cung kính lại cung kính mấy cái kia?”. Người yếu tinh thần nghe nói có lý rồi tin theo, cũng phá bỏ hết kinh tượng, thành ra bị đọa. Những người này bị bảy tâm mạn (thất mạn) sanh lúc nào không hay, đó là: mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ty liệt mạn, tà mạn. Nhưng ở đây không nói đến tà mạn.

    Mạn là đối với người kém hơn mình, cho là mình tốt đẹp hơn. Tuy người kia thật sự kém hơn mình, nhưng tâm cho mình hơn người là tâm mạn. Quá mạn là đối với người bằng mình mà ngang ngược cho là mình hơn, đối với người hơn mình lại nói là bằng mình, lúc nào cũng đưa cái ngã của mình lên. Mạn quá mạn là đối với người hơn mình lại nói là mình hơn người ta. Ngã mạn là căn bản trong bảy thứ mạn, thân ngũ uẩn hòa hợp giả tạm nhưng lại chấp trước có ngã, ngã sở, chấp thân ngũ uẩn là ta, dựa vào cái ngã này mà khởi thành mạn, cho rằng tất cả mọi người chẳng bằng mình, chỉ ta là trên hết. Bên ngoài thì chấp ngã sở, phàm cái gì của ta là tốt đẹp hơn hết, là số một, của người khác đều là kém. Đó gọi là ngã mạn. Tăng thượng mạn là chưa chứng được quả vị hoặc chưa có đức thù thắng mà tự cho mình đã chứng. Ty liệt mạn là đối với người quá siêu xuất, mình thua xa, nhưng lại cho là mình chỉ thua chút ít. Hoặc tuy chấp nhận người giỏi hơn mình nhiều, nhưng chấp ngã chẳng chịu thật tâm theo học tập, đó cũng thuộc ty liệt mạn. Tà mạn là không có đức mà tự xưng có đức.

    Chúng ta tu phải cẩn thận, luôn tự kiểm lại mình, mỗi khi thấy cái ngã lộ ra phải tỉnh liền, ngăn ngừa không để nó sanh, không nên nuôi dưỡng nó để lâu ngày thành bệnh.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại các thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, chỗ tinh minh viên ngộ tinh lý, được pháp đại tùy thuận, tâm bỗng sanh khinh an không lường, bảo mình đã thành bậc Thánh được đại tự tại. Đây gọi là nhân trí tuệ mà được các sự trong sáng nhẹ nhàng; ngộ thì không lỗi, không phải là chứng bậc Thánh. Nếu nhận là chứng bậc Thánh, thì có một phần giống “ma thích trong sáng nhẹ nhàng” vào trong tim gan, tự bảo là đầy đủ, lại không cầu tiến lên nữa, những người này phần nhiều là như Tỳ-kheo Vô Văn, gây nghi ngờ lầm lạc cho chúng sanh, đọa vào địa ngục A-tỳ, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

    GIẢNG GIẢI:

    Khi tâm khinh an nhẹ nhàng quá rồi sanh tâm ưa thích, cho là đã chứng Thánh, được đại tự tại, không cầu gì nữa, cũng là thành bệnh. Trong cái tinh minh viên ngộ được tinh lý phần nào giống pháp đại tùy thuận, nhưng đây cũng do tuệ giải mà thấy vậy, chớ chưa phải thật chứng, nếu chấp vào đó là thành bệnh tự mãn, không tiến lên được. Tâm sanh khinh an nhẹ nhàng cũng thuộc về cảm thọ, tức còn ở trong sanh diệt, nếu không chấp thì dần dần vượt qua rồi tiến lên, vẫn tăng tiến để thành tựu định tuệ đầy đủ, chớ không có dừng lại. Nếu không biết, chấp cho mình có sở đắc, có chứng ngộ là thành bệnh. Đây cũng thuộc về bệnh định nhiều tuệ ít, chưa được gì mà đã tự mãn.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại các thiện nam tử trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, trong chỗ tỏ ngộ được tánh hư minh, lúc ấy bỗng xoay lại hướng về tánh đoạn diệt, bác không nhân quả, một mực hướng về rỗng không, tâm rỗng không hiện tiền, cho đến phát sanh nhận định là đoạn diệt mãi mãi; ngộ thì không có lỗi, không phải chứng bậc Thánh. Nếu nhận là chứng Thánh, thì có giống “ma rỗng không” vào trong tim gan, bèn chê bai người giữ giới là Tiểu thừa, Bồ-tát ngộ tánh không thì có gì là trì là phạm. Người ấy ở nhà thiện tín đàn-việt uống rượu, ăn thịt, làm nhiều điều dâm uế; nhân có sức ma nhiếp phục người ta không sanh lòng nghi báng, tâm ma thâm nhập lâu ngày, hoặc ăn đại tiện, tiểu tiện và ăn thịt, uống rượu v.v... vì cho tất cả đều không, phá hoại luật nghi của Phật, làm cho người khác lầm lạc mắc tội, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

    GIẢNG GIẢI:

    Bệnh này nghiêng về tánh đoạn diệt, một mực hướng về chỗ rỗng không, thấy cái gì cũng không, nên chê bai những người giữ giới là tu theo Tiểu thừa, cho mình là tu theo Bồ-tát, tự tại, không có trì không có phạm gì hết. Không biết cái chấp của mình còn nặng hơn người ta, vì chấp mà biết mình chấp còn dễ trị, chấp mà không biết mình chấp mới khó trị. Tại sao? Vì chấp cái không chấp mà thành chấp, cái chấp đó mới nguy hiểm, tưởng không chấp mà thành chấp. Cho mình tự tại, tha hồ ăn thịt, uống rượu, cho cái gì cũng không rồi phá hoại luật nghi của Phật, lầm bệnh mà không hay. Tuy Bồ-tát có hiện nghịch hạnh làm những chuyện trái nghịch, nhưng thường chê trách những việc đó để người không lầm, chớ không khen chuyện đó mà phá hoại luật nghi. Chúng ta phải hiểu kỹ, không khéo lầm thành bệnh, cũng khiến người khác lầm theo, để rồi cuối cùng phải bị đọa lạc.

    Bệnh này cũng thuộc lỗi tuệ nhiều định ít, chỉ có tuệ giải suông, thấy suông một bên chớ chưa thật chứng.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại các thiện nam tử trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, nghiền ngẫm cái hư minh, ghi sâu vào tim cốt, trong tâm bỗng sanh yêu thích vô hạn; yêu thích quá độ mà phát điên, bèn làm việc dâm dục. Đây gọi là cảnh trong định an thuận vào tâm, không có trí tuệ tự giữ mình, mê lầm vào trong ngũ dục; ngộ thì không có lỗi, không phải chứng bậc Thánh. Nếu nhận là chứng bậc Thánh, thì có giống “ma tham dục” vào trong tim gan, một bề nói tham dục là đạo Bồ-đề, dạy hàng cư sĩ bình đẳng hành dâm dục, những người hành dâm gọi là giữ gìn pháp tử. Do sức của tà ma nhiếp phục kẻ phàm phu trong đời mạt pháp, số đến cả trăm. Như thế cho đến một trăm, hai trăm, hoặc năm trăm, sáu trăm, nhiều đến ngàn vạn. Khi ma sanh chán, rời bỏ thân thể người kia, oai đức đã hết, liền sa vào lưới pháp luật. Do gây nghi lầm cho chúng sanh, nên vào ngục vô gián, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

    GIẢNG GIẢI:

    Khi tu ở trong định, tâm phát sanh yêu thích quá mức thành ra cuồng. Yêu thích thuộc về tập khí tham, phát ra quá mức mà do thiếu tuệ nên thành cuồng, nghiêng về việc dâm dục. Do không biết rồi chấp, cho tham dục là đạo Bồ-đề, dạy cư sĩ bình đẳng hành dâm dục, cho đó là giữ gìn pháp tử, truyền giống. Người mê lầm không biết, do có sức ma giúp nên tin theo rồi bị gạt. Trong đời mạt pháp có rất nhiều, từ hàng trăm cho đến ngàn vạn.

    Bệnh này cũng thuộc lỗi định nhiều tuệ ít, bị tập khí tham dục ngủ ngầm mê hoặc, thành trái với chánh định. Thế nên người tu định cần phải sáng suốt, chớ lầm chấp cho là mình chứng Thánh, chấp có sở đắc, có chứng ngộ rồi thành bệnh. Còn biết ngăn ngừa thì đó là cảnh giới tốt, có thêm niềm tin để tiến tới.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Mười thứ cảnh hiện ra trong thiền định như thế, đều do thọ ấm và tâm dụng công giao xen nên hiện ra như vậy. Chúng sanh ngu mê, không biết lượng xét, gặp nhân duyên đó, mê không tự biết, bảo là chứng bậc Thánh, thành tội đại vọng ngữ, phải sa vào địa ngục vô gián. Sau khi tôi diệt độ, các ông nên đem lời nói này truyền dạy trong đời mạt pháp, khiến cho chúng sanh đều tỏ ngộ nghĩa này, không để cho Thiên ma có dịp tiện khuấy phá; giữ gìn che chở cho chúng sanh, khiến thành tựu đạo Vô thượng.

    GIẢNG GIẢI:

    Đức Phật kết lại mười cảnh hiện ra trong định kể trên là do dụng công mà thành, tâm dụng công giao xen với thọ ấm mà hiện ra, chớ không phải thật chứng. Nó còn nằm trong pháp sanh diệt, hiện ra một lúc rồi sẽ mất. Nếu biết mà không lầm chấp vào đó là tốt, không bị ngăn ngại, còn chấp là thành ngại. Cho nên Phật ân cần dặn dò: “Đời mạt pháp chúng sanh ngu mê không biết chấp vào đó thành bệnh, các ông phải biết, phải đem những lời đó truyền dạy để người tu biết ngăn ngừa, không lầm rơi vào đường ma”.

     

    3. CÁC TƯỚNG TRẠNG CỦA MA TƯỞNG ẤM

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Thiện nam tử kia tu pháp Tam-ma-địa, khi thọ ấm đã hết, tuy chưa sạch mê lầm, nhưng tâm đã rời khỏi hình hài, như chim ra khỏi lồng. Điều ấy đã thành tựu, thì từ thân phàm đó tiến lên trải qua sáu mươi thánh vị Bồ-tát, được ý sanh thân, tùy ý đi ở, không bị ngăn ngại. Thí như có người ngủ say nói mớ, người ấy tuy không hay biết gì, nhưng lời nói kia vẫn có âm vận thứ tự, khiến cho người không ngủ đều hiểu biết, ấy gọi là phạm vi của tưởng ấm.

    GIẢNG GIẢI:

    Còn thọ ấm là còn kẹt nơi căn, vì do xúc chạm với các căn trên thân mới có thọ: thọ ở mắt, ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân. Cho nên nó còn kẹt nơi căn, còn bám vào hình thể. Nay thọ ấm hết, giống như chim ra khỏi lồng, tức tâm rời khỏi hình hài, thoát được cái ngại của thân hình, nên cảm nghiệm được cái thể lìa căn. Tuy vậy vẫn chưa hết mê lầm vì còn tưởng ấm, chưa được lậu tận. Có thể từ thân phàm mà tiến lên, trải qua sáu mươi Thánh vị Bồ-tát, được ý sanh thân, tức tùy ý hiện thân không ngại, nhưng vẫn chưa thật chứng, vì còn bị tưởng ấm che. Như người ngủ say nói mớ, lời nói có âm vận rõ ràng khiến người thức hiểu được người nói gì, nhưng người ngủ thì không hay biết.

    Ngài Trường Thủy có giải thích chỗ này: “Người chưa phá được tưởng ấm nên như người ngủ say nói mớ. Có phần thành Thánh vị, nên như âm vận thứ lớp rõ ràng khiến người chẳng ngủ đều rõ biết lời ấy, là như người chứng Thánh thì biết người kia có phần Thánh vị. Như kinh Bát Nhã nói: “Như Lai thảy biết, thảy thấy người ấy đều được thành tựu A-nậu-bồ-đề”.” Vậy người đó còn bị tưởng ấm che, chưa phải được hoàn toàn tự tại.

    CHÁNH VĂN:

    Nếu hết động niệm, tư tưởng hư vọng thô phù tiêu trừ, thì nơi Tâm Giác Minh như bỏ bụi nhơ, một dòng sanh tử đầu đuôi soi khắp, gọi là hết tưởng ấm. Người ấy mới có thể vượt khỏi phiền não trược, xét lại nguyên do, cội gốc là vọng tưởng dung thông.

    GIẢNG GIẢI:

    Vì tưởng thuộc về niệm nhớ nghĩ những cảnh giới quá khứ, hiện tại, vị lai. Nó duyên theo cảnh nghĩ nhớ nên quên mất tâm giác minh hiện tiền, như gương sáng bị bụi nhơ che. Bây giờ tướng tưởng ấm hết, những niệm tưởng thô phù tiêu trừ, tâm giác minh được sáng, như gương sáng bỏ bụi nhơ thì được sáng trở lại, soi khắp một dòng sanh tử trước sau. Đây là qua tưởng ấm nhưng hành ấm còn, nên thấy một dòng sanh tử. Tuy sanh tử chưa hết, mà thấy rõ sanh tử không bị mê hoặc, vượt qua khỏi phiền não trược. Do tưởng mà có phiền não, nay tưởng hết, phiền não không chỗ bám, gọi là vượt phiền não trược. Tưởng ấm, gốc là vọng tưởng dung thông tức dung thông tâm với cảnh, tưởng gạt tâm, dẫn tâm duyên theo cảnh. Ví dụ ngồi đây mà tưởng kia, gạt tâm chạy ra kia để duyên cảnh. Như vậy tưởng là hư vọng, không có thật thể, giác ngộ thì nó hết. Dưới đây là những cảnh giới của tưởng ấm, gọi là tưởng ấm ma.

    Thứ nhất là tham cầu thiện xảo:

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Thiện nam tử kia thọ ấm đã hư diệu không còn mắc các thứ tà lự, viên định phát minh; trong Tam-ma-địa, tâm lại ưa được viên minh, thúc dục tư tưởng tham cầu những việc thiện xảo. Khi ấy Thiên ma được dịp thuận tiện cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp, người ấy thật không biết là bị ma gá vào, tự nói là được Niết-bàn Vô thượng; đến chỗ người thiện nam cầu thiện xảo kia, trải tòa thuyết pháp; thân hình người đó giây lát, hoặc biến làm Tỳ-kheo cho người kia thấy, hoặc làm Đế-thích, hoặc làm phụ nữ, hoặc là Tỳ-kheo-ni, hoặc nằm trong nhà tối, thân có hào quang chói sáng; người tu hành ngu mê, lầm cho là Bồ-tát, tin sự giáo hóa của họ, tâm bị lay chuyển, phá hủy luật nghi của Phật, lén làm việc dâm dục. Miệng ma ưa nói những việc may rủi, biến đổi, hoặc nói Như Lai ra đời ở chỗ ấy, hoặc nói có kiếp hỏa, hoặc nói có đao binh làm khủng bố người, khiến gia sản vô cớ bị hao mất. Đây gọi là giống Quái quỷ tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành, khi ma khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông phải biết trước thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết thì đọa vào địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Tưởng ấm thì bị ngoại ma nhập, vì là tưởng nên ma bên ngoài thấy nó nhập vào nhiều, còn sắc ấm và thọ ấm, ngoại ma ít nhập. Chúng ta tu hành phải cẩn thận với tưởng, tưởng nhiều thì tà ma thấy nó nhập vào thành bệnh. Khi tu hành mà khởi tâm tham cầu thiện xảo, niệm động rồi bị ma thấy tâm, nó được dịp thuận tiện mê hoặc, tinh thần gá vào người khác rồi hiện tướng khác thường để nói pháp. Ban đầu cũng thuyết pháp, tự nói được Niết-bàn Vô thượng, người nghe tưởng là thiện tri thức, nghe được một lúc nó sẽ dẫn vào đường tà. Ban đầu nói pháp, sau chuyển qua khen chê chuyện dâm dục, nói họa phước, dẫn người đi lạc. Do ban đầu đã tin thì sau cũng nghe theo luôn, lúc đó bị lậm sâu nên khó cứu.

    Thế nên chúng ta phải biết để cẩn thận khi tu hành, ngăn ngừa tâm tham cầu, động niệm khiến mất chánh niệm, bị ma thấy chen vào. Nhất là khi tu thiền hoặc khi nhập thất, tâm hơi yên thì sức mạnh lớn, nghĩ gì sẽ nghiêng về chiều đó, hễ động niệm liền bị ma thấy, nên phải cẩn thận.

    Thứ hai là tham cầu dạo chơi:

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Thiện nam tử thọ ấm đã hư diệu, không bị các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam-ma-địa, tâm thích đi dạo chơi, cho tư tưởng bay đi tham cầu trải qua nhiều nơi. Khi ấy Thiên ma được dịp thuận tiện cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết-bàn, và đến chỗ thiện nam tử muốn đi dạo chơi kia, trải tòa thuyết pháp. Tự thân hình người đó không thay đổi, song những người nghe pháp bỗng dưng tự thấy thân mình ngồi trên đài sen báu, toàn thân hóa thành đống vàng chói sáng, cả chúng nghe pháp mỗi người đều như thế, được việc chưa từng có. Người tu hành ngu mê lầm là Bồ-tát, tâm buông lung theo việc dâm dục, phá hủy luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục. Miệng ma ưa nói, chư Phật ứng hóa ra đời ở chỗ ấy, người ấy chính là vị Phật ấy, hóa thân đến đây, người ấy tức là vị Bồ-tát ấy (v.v...) đến giáo hóa thế gian; vì người tu hành thấy thế tâm sanh hâm mộ, tà kiến thầm thầm nổi lên, chủng trí tiêu diệt. Đây gọi là giống Bạt quỷ tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành, khi tâm ma đã nhàm chán, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên giác ngộ trước thì không bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là khi tu hành lại khởi tâm thích dạo chơi. Thí dụ ngồi thiền yên một chút, khởi tâm muốn xuất thần, vì nghe người ta nói xuất thần có thể dạo đi nơi này nơi kia, nên động niệm muốn đi chơi cho biết, là dịp thuận tiện để ma xen vào. Đó cũng là tập khí tham cầu.

    Ma gá vào người khác đến nói pháp, biến nhiều thứ kỳ lạ cho tin, như làm cho người nghe pháp bỗng thấy thân mình ngồi trên đài sen rồi hóa thành vàng chói, thấy vậy thích rồi đi theo nó, dần dần nó dẫn làm chuyện dâm dục, phá giới. Nghiệp tà tuy đã lộ ra, nhưng lúc đó mê rồi đâu có biết, nó nói gì cũng nghe. Nó thích nói chư Phật ứng hóa ra nơi ấy nơi ấy v.v…, người đó vốn là Phật đó, Bồ-tát đó v.v… đến đây giáo hóa. Điều này cũng ứng với tâm niệm của người này thích dạo chơi đây kia, nó nói theo Phật đó mai mốt sẽ qua nước đó v.v…, chìu theo chỗ thích của người đó, gợi đúng lòng tham cầu để dễ mê hoặc. Thế nên chúng ta tu phải cẩn thận, luôn luôn ngăn ngừa tâm tham cầu. Vì tu mà còn tham muốn là còn tập khí tham, có mang vô minh trong đó, bị ma gạt đi vào đường tà. Mà tà thì không bền, cuối cùng thầy trò đều sa lưới pháp luật, uổng mất một đời.

    Thứ ba là tham cầu khế hợp:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không bị các tà lự, viên định được phát minh; trong Tam-ma-địa, tâm lại ưa thầm hợp, tư tưởng đứng lặng, tham cầu khế hợp. Khi bấy giờ Thiên ma được dịp thuận tiện, cho tinh thần bay gá vào người khác, miệng nói kinh pháp; người ấy thật không biết bị ma gá vào, cũng tự nói được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu hợp kia, trải tòa nói pháp. Thân hình người đó và những người nghe pháp, bề ngoài không có thay đổi, nhưng lại khiến cho các thính giả trước khi nghe pháp, tâm tự khai ngộ, niệm niệm đổi dời, hoặc được túc mạng thông, hoặc có tha tâm thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết các việc hay dở trong nhân gian, hoặc trong miệng nói kệ, hoặc tự tụng kinh, mỗi mỗi đều vui vẻ, được việc chưa từng có. Người ngu mê lầm cho là Bồ-tát, tâm sanh luôn yêu thích, nên phá hủy luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục. Miệng ma ưa nói Phật có Phật lớn Phật nhỏ; Đức Phật ấy là Phật trước, Đức Phật ấy là Phật sau, trong đó cũng có Phật thật Phật giả, Phật nam Phật nữ, Bồ-tát cũng như thế. Vì người tu hành kia thấy vậy nên tẩy xóa sạch các tâm trước, dễ vào tà ngộ. Đây gọi là giống Mỵ quỷ tuổi già thành ma, khuấy phá người tu hành, khi tâm ma khuấy phá chán rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Chỗ này là tu mà khởi tâm mong cầu khế hợp chân lý. Tu hành muốn khế hợp chân lý thì không sai, nhưng vì công phu mình chưa tương ứng mà lại muốn khế hợp, tức muốn đi trước, như vậy là có tâm tham cầu, sai là sai chỗ đó. Do động niệm muốn cầu khế hợp, nên ma được dịp thuận tiện đến mê hoặc. Nó gá vào người khác đến thuyết pháp, khiến người chưa nghe pháp mà tâm tự khai ngộ, hoặc được túc mạng, tha tâm thông v.v…, người nhẹ dạ dễ tin theo. Chúng ta xét kỹ sẽ thấy, chưa nghe pháp mà tâm tỏ ngộ là ngộ cái gì? Đây là do tâm tham cầu nên chấp vào đó mà không hay, ma gợi đúng lòng tham, gãi đúng chỗ ngứa thì dính liền. Nó khiến được thần thông, biết chuyện địa ngục v.v…, những việc chưa từng có, rồi mê lầm bị dẫn, dần dần phá luật phá giới, hành việc dâm dục, rơi vào đường tà. Ma hay nói có Phật lớn Phật nhỏ, Phật nam Phật nữ, Phật giả Phật thật v.v… Ngay đó đã thấy đi lạc rồi. Nhưng lúc này người đó đã mê, ma nói gì cũng nghe theo, đâu còn phân biệt được chánh tà, bị ma gạt, thấy nó làm những việc khác thường nên tin theo, rồi xóa sạch tâm ngày trước, tức bổn tâm chân chánh trước kia, đi theo nghiệp tà. Đây là giống Mỵ quỷ tuổi già thành ma khuấy phá, cuối cùng thầy trò đều rơi vào pháp luật. Đó là chỗ nguy hiểm, người tu phải cẩn thận.

    Ngài Tư Trung nói: “Quên cơ tịch chiếu thì lý tự huyền hội. Nếu mong cầu khế hợp, vừa có tâm nghĩ liền sai, khi ấy thì ma được thuận tiện”. Bệnh là ở chỗ đó, hiểu được lý chúng ta sẽ tu đúng. Khi tâm quên cơ, được chỗ lặng lẽ chiếu soi rõ ràng thì nó tự thầm hợp, khỏi cần cầu cũng hợp. Còn công phu chưa đến mà muốn mau hợp là đi trước. Đây là bệnh làm biếng của người tu, tu ít mà muốn mau được, là tham cầu. Đó là chỗ người tu chúng ta phải cẩn thận.

    Thứ tư là ưa biết cội gốc:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại nữa thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không bị các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa, tâm ưa biết cội gốc, nơi sự vật chuyển hóa, muốn xét biết cùng tột gốc ngọn trước sau, thúc đẩy cái tâm sáng suốt thêm, tham cầu nhận biết chia chẻ. Khi bấy giờ Thiên ma chờ được dịp, cho tinh thần bay gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu cội gốc kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó thân có oai thần làm cho những người cầu pháp kính phục, khiến cho thính chúng dưới pháp tòa, tuy chưa nghe pháp, tự nhiên tâm đã kính phục. Tất cả bọn ấy đều cho rằng Niết-bàn, Bồ-đề, Pháp thân của Phật, tức là cái xác thân thịt hiện tiền của ta đây, cha con sanh nhau đời này đến đời khác, tức là pháp thân thường trụ không diệt mất, họ đều chỉ hiện tại tức là cõi Phật, không riêng có cõi tịnh cư và thân kim sắc nào khác. Người tu hành tin nhận những điều đó, bỏ mất tâm trước, đem hết thân mạng mà quy y, cho là được việc chưa từng có. Người đó ngu mê lầm cho là Bồ-tát, suy xét cái tâm như thế, phá hủy luật nghi của Phật; lén làm việc tham dục. Miệng ma thường nói: “Mắt, tai, mũi, lưỡi đều là Tịnh độ, hai căn của nam nữ là chỗ chân thật Bồ-đề Niết-bàn!”. Bọn người không biết kia đều tin lời nói nhơ bẩn đó. Đây gọi là giống Cổ độc ác thắng quỷ tuổi già thành ma, phá khuấy người tu hành. Khi tâm ma nhàm chán, rời bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nếu giác ngộ trước thì không bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là tu thiền được định tâm lại mong cầu muốn phân tích cùng tột gốc ngọn của sự vật biến hóa. Người tu chúng ta hay có tâm niệm này, muốn biết tột nguồn gốc thế giới từ đâu mà có. Ma thấy tâm thừa dịp đến mê hoặc. Điều quan trọng của người tu chúng ta là phải xét thấu cội gốc phiền não mê lầm, làm sao cho sạch phiền não, sạch vô minh chấp ngã, chớ biết chuyện bên ngoài làm chi trong khi chuyện bên trong lại không biết. Những phiền não vô minh của mình không tự biết, lại khởi tâm động niệm cho ma thấy mà thừa dịp đến mê hoặc. Nó gá vào người khác, chưa nói pháp đã làm cho người nghe kính phục để nghe theo. Ban đầu nó nói giống như lý không hai, nói Bồ-đề Niết-bàn, Pháp thân Phật là xác thân thịt hiện tiền đây thôi. Người nghe thiếu trí tuệ suy xét nên tin lầm. Nếu xác thân là Pháp thân thì khi xác thân chết đem ra nghĩa địa, chẳng lẽ Pháp thân Phật cũng chết luôn sao? Ma nói cha sanh con, rồi tới con sanh con nữa, cứ tiếp nhau đời này đến đời khác gọi là Pháp thân thường trụ không mất. Nói như vậy mà người ta cũng tin nổi! Vì có sức ma giúp nên người ta cứ tin theo.

    Lại nói cõi Phật là ngay đây chớ không có chỗ nào khác, tức ngay các căn mắt, tai, mũi, lưỡi này là Tịnh độ, các căn nam nữ là Bồ-đề Niết-bàn. Nghe theo nó rồi làm việc dâm dục, phá giới đi vào đường tà. Điều này rất nguy hiểm, vì ma làm mất hết chánh định. Nhưng gốc cũng do tập khí tham cầu, muốn biết gốc ngọn trước sau biến hóa của sự vật mới bị ma gạt. Cuối cùng thầy trò rơi vào lưới pháp luật, không được gì còn uổng cả một đời tu. Người tu hành phải cẩn thận!

    Phật biết trước, dạy cho chúng ta hiểu để đừng lầm, cũng để nhắc nhở truyền dạy cho những người tu kế tiếp không bị lầm lẫn, làm uổng mất đời tu của mình. Ban đầu phát tâm tu hành vì việc giải thoát sanh tử giác ngộ, đó là tâm tu chân chánh cao quý. Nhưng nửa chừng do khởi tâm động niệm, chạy theo tập khí tham cầu, thiếu trí tuệ bị lạc vào đường ma, bỏ mất tâm trước, thật đáng tiếc!

    Thứ năm là tham cầu thầm cảm:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa tâm ưa biết các việc trước sau, chính xét cùng khắp, tham cầu thầm cảm. Khi ấy Thiên ma chờ có dịp cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết ma gá vào, cũng nói tự được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu cảm ứng kia, trải tòa thuyết pháp, có thể khiến cho thính chúng tạm thấy thân mình như đã trăm ngàn tuổi, tâm sanh ái nhiễm, không thể xả lìa; đem thân làm nô bộc, bốn việc cúng dường không biết mỏi mệt. Ma lại khiến cho mỗi người dưới pháp tòa, tâm biết đó là vị tiên sư, là vị thiện tri thức, riêng sanh lòng pháp ái dính như keo sơn, được cái chưa từng có. Người tu hành ngu mê, lầm cho là Bồ-tát, gần gũi tâm ma, phá hủy luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục. Miệng ma ưa nói, ta ở kiếp trước trong đời nọ, trước độ người nọ, lúc đó là thê thiếp anh em của ta, nên nay lại đến độ nhau, ta sẽ cùng các người theo nhau về cảnh giới nọ, cúng dường Đức Phật nọ; hoặc nói có cõi trời Đại Quang Minh riêng biệt, Phật ở trong ấy và là chỗ nghỉ ngơi của tất cả các Đức Như Lai. Người tu hành kia không hiểu biết đều tin những lời phỉnh gạt đó, bỏ mất tâm trước. Đây gọi là giống Lệ quỷ tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành. Khi tâm ma khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá vào nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nếu giác ngộ trước, thì không bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây cũng do tu thiền định, khởi tâm muốn biết những việc trước sau, cầu sự thầm cảm ứng, ma thấy tâm nên có dịp thuận tiện, nó gá vào người khác rồi dẫn vào đường tà. Ma gá vào người khác đến chỗ người đó trải tòa thuyết pháp, khiến thính chúng thấy người đó giống như sống cả trăm ngàn tuổi, thấy lạ nên sanh tâm ái nhiễm, sẵn sàng xả hết đem thân hầu hạ, cúng dường không biết mỏi. Nó khiến mỗi người biết đây là vị tiên sư, vị thiện tri thức, giống như có duyên nhiều đời, do đó càng dính chặt. Ban đầu cũng nói pháp, sau nói qua chuyện tà, khiến người phá giới, phạm luật nghi làm việc dâm dục.

    Do tập khí của người là thích sống lâu, thích biết những việc xa xưa, ma gợi đúng chỗ tâm tham của người đó, nên vừa thấy là thích liền, rồi bị mắc kẹt. Ma nói kiếp trước cùng liên hệ anh em thê thiếp với nhau nên đời này gặp lại, đều là duyên đời trước. Người nghe tưởng thiệt sanh tâm ưa thích, dính nhau, rồi dần dần nó dẫn làm việc tham dục cũng không biết là lầm. Vì sức ma sai khiến, nên lúc này nó nói gì cũng nghe, đi theo nó phá giới, phạm luật, dần dần bị đọa.

    Nó còn nói cõi trời Đại Quang Minh là chỗ nghỉ ngơi của chư Phật, vì người kia thích thầm cảm ứng những chuyện sâu xa trước sau, nó gợi vào tâm tham đó. Người nghe thấy lạ, hợp với tâm hiếu kỳ của mình nên tin theo. Thật ra, người hiểu đạo nghe nó nói là biết bậy liền, cõi trời nào mà lại là chỗ nghỉ ngơi của chư Phật? Nhưng vì sức ma sai khiến, người kia đã bị mê hoặc nên vẫn tin theo, bỏ mất tâm chân chánh ban đầu của mình. Ban đầu ham tu thiền định để xa lìa phiền não tham sân si, mà vì còn tập khí tham nhiễm mới móng tâm tham cầu, bị ma gợi rồi theo nó bỏ mất tâm ban đầu của mình, rơi vào đường tà, lưới ma. Người tu thiền định cần phải nhận biết rõ ràng để không lầm, ngăn ngừa đừng để tâm động niệm, phải cẩn thận đừng khởi niệm lung tung, ma thấy tâm thì rất nguy hiểm.

    Thứ sáu là tham cầu tĩnh lặng:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không bị các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa, tâm ưa thích đi sâu vào khắc khổ, siêng năng, thích ở chỗ vắng vẻ tham cầu sự yên lặng. Khi ấy Thiên ma chờ được dịp cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy thật không biết bị ma gá vào, cũng tự nói được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu chỗ vắng vẻ kia, trải tòa thuyết pháp, khiến người nghe, mỗi người đều biết nghiệp cũ của mình, hoặc ở nơi đó, bảo một người rằng: “Ngươi nay chưa chết đã làm súc sanh”, rồi bảo một người ở sau đạp lên đuôi, tức liền làm cho người kia đứng dậy không được. Lúc bấy giờ cả chúng đều hết lòng kính phục, có một người móng tâm lên thì nó đã biết ý; ngoài luật nghi của Phật, nó lại càng thêm khắc khổ, chê bai Tỳ-kheo, mắng nhiếc đồ chúng, phơi bày việc riêng của người, không sợ chê trách. Miệng ma ưa nói việc họa phước khi chưa đến và khi đã đến rồi thì mảy may không sai. Đây là giống Đại lực quỷ tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành, khi ma khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nếu giác ngộ trước thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là tâm ưa thích khắc khổ, mong vắng vẻ yên lặng, nên ma có dịp thuận tiện. Chúng ta tu hành khắc khổ là không sai. Nhưng ở đây do khởi tâm động niệm mong cầu nên nghiêng lệch, vì có tâm tham nên bị ma thấy.

    Ma gá vào người khác, đến chỗ người đó trải tòa thuyết pháp, khiến những người nghe mỗi người tự biết nghiệp cũ của mình, thấy vậy là hay quá nên tin. Hoặc ma chỉ một người bảo rằng: “Ông nay chưa chết nhưng đã làm súc sanh.” Rồi bảo người khác đạp sau đuôi người đó, người đó liền đứng dậy không được. Thế nên ai cũng kính phục. Hoặc vừa khởi niệm nó liền biết mình nghĩ gì, thuận theo ý thích của mình mà gãi đúng chỗ ngứa, mình tin theo rồi dần dần bị gạt, nó dẫn làm những chuyện tà vạy, càng đi càng lạc.

    Hoặc nó mắng nhiếc đồ chúng, phơi bày chuyện sâu kín của người mà không sợ sự chê trách. Mọi người nghĩ nó thẳng thắn, trực tâm, có lỗi gì đều bày ra hết, không có che giấu. Hoặc nó hay nói việc họa phước, việc chưa đến nó đã biết trước, những tai họa nó nói ít lâu sau liền xảy ra đúng như vậy. Những người nhẹ dạ, hay những người hiếu kỳ thích chuyện lạ, thấy vậy là tin liền, rồi bị gạt. Ban đầu nó cũng nói pháp, dần dần bày chuyện lạ cho tin, sau nói chuyện tà cũng nghe theo, rồi phá giới phá luật, cuối cùng lạc vào đường ma, bị đọa. Gốc cũng từ chỗ khởi tâm động niệm mà ra, vì vậy tu hành phải cẩn thận sáng suốt, đừng để bị lầm.

    Thứ bảy là tham cầu biết túc mạng:

     

    CHÁNH VĂN:

    Thiện nam tử ấy thọ ấm hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa, tâm lại ưa hiểu biết, siêng năng, khó nhọc, tìm xét, tham cầu biết túc mạng. Khi ấy Thiên ma chờ dịp tiện cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo ta được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu hiểu biết kia, trải pháp tòa thuyết pháp. Người tu hành bỗng nhiên nơi chỗ nói pháp, được hạt châu lớn, hoặc khi ma hóa làm súc sanh, trong miệng ngậm hạt châu và những vật kỳ lạ, như đồ trân bảo giản sách phù độc, đến trao trước cho người tu hành, rồi sau đeo vào thân thể; hoặc khi ma bảo người nghe pháp có hạt châu minh nguyệt chôn ở dưới đất đương soi sáng chỗ đó, làm cho các thính giả được điều chưa từng có. Ma thường ăn cây thuốc chứ không ăn cơm, hoặc mỗi ngày chỉ ăn một bữa với một ít mè, một ít mạch, do sức của ma giữ gìn, nên thân thể vẫn mập tốt, ma lại chê bai Tỳ-kheo, mắng nhiếc đồ chúng, không tránh sự chê trách; trong miệng ma ưa nói, kho báu phương khác và chỗ ẩn cư của mười phương các bậc Thánh hiền; thường thấy có người kỳ lạ đi theo sau nó. Đấy gọi là giống quỷ thần núi rừng, thổ địa, thành hoàng, sông núi tuổi già thành ma; hoặc có khi kêu gọi làm điều dâm dục, phá giới luật của Phật, cùng với những kẻ thừa sự lén hành ngũ dục; hoặc lại tinh tấn ăn toàn cỏ cây, việc làm không nhất định, cốt khuấy rối người tu hành. Khi ma khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá vào nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên giác ngộ trước thì không bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là tâm ưa thích hiểu biết, khởi tâm tham cầu biết túc mạng. Do tâm tham cầu đó mà ma có dịp thuận tiện, gá vào người khác để mê hoặc. Nó khiến cho bỗng nhiên nơi chỗ nói pháp được hạt châu lớn, hoặc hóa làm súc sanh trong miệng ngậm hạt châu hay những vật kỳ lạ như đồ trân bảo, khiến người thấy chuyện lạ khởi sanh lòng tin. Hoặc đem những đồ như giản sách, phù độc đến trao trước cho người đó, rồi đeo vào thân thể người đó. “Sách” là dùng da thuộc để biên chép chữ nghĩa; “giản” là dùng tre vót thành thẻ cũng để ghi chép; “phù” là thẻ tre khắc lên để làm tin; “độc” là dùng thẻ gỗ để viết. Đó là những vật dụng thời xưa. Sách dùng ghi việc lớn, giản và độc ghi việc nhỏ, phù dùng để đưa tin tức. Nó đem những thứ này đeo vào thân người đó, rồi bảo người nghe pháp là có hạt châu minh nguyệt chôn dưới đất ở nơi đó, làm cho người nghe thấy những điều chưa từng có, rồi tin theo, dần dần nó dẫn vào đường tà.

    Nó hiện những cái khác thường, như không ăn cơm, chỉ ăn cây cỏ thuốc, hoặc ăn ít hạt mè, hạt mạch v.v… mà thân thể vẫn mập tốt. Đây là do sức ma giúp, khi ma ra rồi sẽ khô khan. Người tu hành không khéo, thích chuyện lạ là dễ bị gạt. Ma cũng thích nói những việc như ở cõi nào đó, cách xa bao nhiêu đó, có kho báu gì đó, hoặc đó là chỗ ẩn cư của các bậc Thánh Hiền. Người nghe thấy chuyện lạ liền tin theo, dần dần nó kêu làm những điều dâm dục, phá giới luật Phật, cùng những kẻ thừa sự lén hành ngũ dục, đi vào đường tà. Cuối cùng nó bỏ đi, đệ tử và thầy đều rơi vào pháp luật.

    Thế nên những người thích chuyện lạ, thích biết túc mạng, khởi tâm động niệm thì dễ bị mê hoặc. Chúng ta phải biết để cẩn thận tu hành, quan trọng là dứt phiền não, giải thoát sanh tử luân hồi, còn ham thích chuyện này chuyện kia là không đúng. Khi sạch hết phiền não, dứt sanh tử, đạt được thể tánh thì diệu dụng tự có. Tham cầu là nguy hiểm, chúng ta phải khéo ngăn ngừa.

    Thứ tám là tham chấp về thần lực:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không bị các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa, tâm ưa thần thông và các thứ biến hóa, nghiên cứu nguồn gốc của sự biến hóa, tham cầu có thần lực. Khi ấy Thiên ma chờ có dịp tiện, cho tinh thần bay gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không hay biết bị ma gá vào, cũng nói tự được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu thần thông kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó hoặc tay cầm ngọn lửa, nắm chia ngọn lửa trên đầu bốn chúng nghe pháp. Ngọn lửa trên đỉnh đầu những người nghe pháp đều dài mấy thước mà cũng không đốt cháy, cũng không nóng. Người đó hoặc đi trên nước như đi trên đất bằng, hoặc ở giữa hư không, ngồi yên không lay động, hoặc vào trong bình, hoặc ở trong đãy, vượt qua cửa sổ, thấu qua tường vách, vẫn không bị chướng ngại, chỉ đối với đao binh thì không được tự tại. Người đó tự bảo là Phật, thân mặc áo cư sĩ, nhận Tỳ-kheo lễ bái, chê bai Thiền Luật, mắng nhiếc đồ chúng, phơi bày việc riêng của người, không ngại bị chê trách. Trong miệng họ thường nói thần thông tự tại, hoặc lại cho người thấy cõi Phật ở một bên. Đó là do sức quỷ làm mê lầm không có gì chân thật. Người đó khen ngợi việc hành dâm, không từ bỏ việc làm thô tục, bảo những sự ôm ấp lẫn nhau là truyền pháp. Đây gọi là những giống sơn tinh, hải tinh, phong tinh, hà tinh, thổ tinh và tất cả những loài tinh mị của cỏ cây đã sống trong nhiều kiếp, có sức lớn trong trời đất; hoặc là long mị, hoặc các vị tiên tuổi thọ hết, sống lại làm tinh mị, hoặc quả báo đạo tiên đã hết, kể năm thì phải chết, nhưng hình hài không hư nát, nên loài quái khác gá vào. Bọn ấy tuổi già thành ma khuấy rối người tu hành, khi ma khuấy phá chán rồi, bỏ thân người không gá vào nữa, thì đệ tử và thầy phần nhiều sa vào lưới pháp luật. Ông nên giác ngộ trước thì không bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là người tu hành thích thần thông biến hóa, tham cầu có thần lực, ma được thuận tiện gá vào người khác để dẫn họ vào đường tà. Nó gá vào người khác hiện tướng thần thông, cầm ngọn lửa chia trên đầu mọi người mà không ai bị cháy, ở giữa hư không, đi qua tường vách v.v…, khiến cho người ưa thích vì gãi đúng chỗ ngứa, rồi tin theo, dần dần bị gạt.

    Nó tự bảo là Phật, mặc áo cư sĩ mà nhận Tỳ-kheo lễ bái. Tỳ-kheo thấy thần lực của nó, thích thần thông nên cũng tin theo, dù nó là cư sĩ mà cũng lễ. Ma chê bai Thiền Luật, mắng nhiếc đồ chúng, chê trách người khác. Do đã tin, đã bị mê hoặc nên ma nói gì cũng nghe, dần dần nó khen ngợi việc hành dâm, nói ôm ấp lẫn nhau là truyền pháp, làm chuyện phá giới, phạm luật, rơi vào đường tà. Đây là những giống sơn tinh, hải tinh, v.v… những loài tinh mị sống lâu thành quái đến gạt người. Sau cũng lộ ra tập khí sanh tử. Thế nên người tu chúng ta phải sáng suốt nhận định, đừng để rơi vào đường tà thì thật là đáng tiếc!

    Thứ chín là tham cầu sâu về không:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không mắc vào các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa tâm ưa vào chỗ diệt hết, nghiên cứu tánh biến hóa, tham cầu cái rỗng không sâu nhiệm. Khi ấy Thiên ma chờ được dịp tiện, cho tinh thần bay gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng nói tự được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu rỗng không kia, trải tòa thuyết pháp. Ở trong đại chúng thân hình của người đó bỗng hóa thành không, cả chúng cũng không thấy gì rồi lại từ hư không bỗng chốc hiện ra, khi mất, khi còn được tự tại; hoặc hiện thân rỗng suốt như ngọc lưu ly, hoặc khi duỗi tay chân xuống, phát ra mùi thơm chiên-đàn, hoặc đại tiểu tiện cứng chắc như đường phèn. Người đó chê bai giới luật, khinh khi người xuất gia, trong miệng thường nói không có nhân quả, một phen chết rồi mất hẳn không còn thân sau và các phàm Thánh; tuy được không tịch, vẫn lén làm việc tham dục và cho người thọ nhận sự dâm dục đó cũng được tâm rỗng không, bác không có nhân quả. Đây gọi là những loại vàng ngọc, cỏ linh chi, lân, phụng, quy, hạc hấp thu lấy tinh khí mặt trời, mặt trăng khi bị ăn mòn, trải qua ngàn vạn năm không chết làm tinh linh, sanh ra trong các quốc độ, tuổi già thành ma khuấy phá người tu hành. Khi ma khuấy phá chán rồi, bỏ thân người không gá vào nữa, thì đệ tử và thầy phần nhiều sa vào lưới pháp luật. Ông nên giác ngộ trước, thì khỏi bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là tâm ưa chỗ diệt hết, hướng vào chỗ diệt khởi tâm tham cầu rỗng không một cách sâu xa mầu nhiệm. Do tâm động niệm nên ma được dịp thuận tiện. Chúng ta tu có khi cũng chán những phiền não, những vọng tưởng lăng xăng, thích đi sâu vào cái không. Đâu biết khi tu hành đúng pháp, lý hợp thì tự nó thông. Còn khởi tâm tham cầu khi công phu chưa đến là ma được dịp thuận tiện. Nó hiện ở trước đại chúng, đang nói pháp bỗng biến thành không, một chốc lại từ hư không hiện ra, hoặc hiện thân rỗng suốt như ngọc, hoặc đại tiểu tiện như đường phèn, người nghe thấy giống như Thánh nên tin theo, bị nó dẫn vào đường tà. Ma lại chê bai giới luật, nói cái gì cũng không, giới luật cũng không thì đâu có gì là trì là phạm. Nó khinh khi người xuất gia, miệng thường nói không nhân quả, đó là lộ ra cái tà rồi. Người không biết tin theo, thấy cái gì cũng không, lén làm việc dâm dục, thọ nhận dâm dục, cho tham dục cũng không. Cuối cùng, thầy trò đều sa vào pháp luật.

    Thứ mười là tham cầu sống lâu:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa, tâm ưa sống lâu, gian khổ quán sát tinh vi, tham cầu được nhiều tuổi, bỏ cái sống phần đoạn, lại trông mong cái tướng của vi tế biến dịch sanh tử được thường trụ. Khi ấy Thiên ma chờ được dịp, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó hoàn toàn không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu sống lâu kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó ưa nói qua lại phương khác không ngăn ngại, hoặc trải qua muôn dặm khoảng giây lát đã trở lại và đều lấy được những vật nơi đó, hoặc ở một chỗ hay trong một nhà chỉ trong vài bước, bảo người ta đi từ vách đông sang vách tây, nhưng người đi mau cả năm không đến. Nhân đó người tu hành tin tưởng, nghi là Phật hiện tiền. Miệng ma thường nói: “Chúng sanh trong mười phương đều là con của ta, ta sanh ra chư Phật, ta sanh ra thế giới, ta là Phật đầu tiên tự nhiên sanh ra đời, không nhân tu mà đắc đạo”. Đây gọi là ma trụ thế Tự Tại Thiên, nó khiến bọn quyến thuộc chưa phát tâm như bọn Giá-văn-trà, Tỳ-xá đồng tử cõi Tứ Thiên Vương, thích cái hư minh kia mà đến ăn tinh khí người tu hành, hoặc không nhân ông thầy, chính người tu hành tự mình xem thấy bọn đó tự xưng là thần Chấp Kim Cang đến cho trường thọ, chúng hiện thân làm gái đẹp, ưa làm việc tham dục, làm cho chưa đầy một năm mà gan não đã khô kiệt; miệng nói lẩm nhẩm một mình, nghe như yêu mị, người ngoài chưa rõ nguyên do, nên phần nhiều sa vào lưới pháp luật, và chưa kịp hình phạt mà đã chết khô trước. Thế là bọn ma khuấy phá người tu kia đến phải ốm chết. Ông nên giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ bị đọa vào ngục vô gián.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là tham cầu sống lâu, được nhiều tuổi, ma nhân thấy tâm rồi đến mê hoặc. Tu như vậy là kẹt vào ngã tướng, bám vào cái ngã này nên muốn nó còn lâu, còn dài. Thiên ma được dịp thuận tiện gá vào người khác, miệng nói kinh pháp, nói những chuyện thần thông qua lại, nó có thể đi qua lại những phương xa xôi, đi về chỉ trong chốc lát, rồi còn lấy vật ở những nơi khác đem về làm tin. Thí dụ như nói qua Bắc-câu-lô-châu, lấy hạt lúa bên đó đem về đưa cho coi. Người nghe tin vì thấy có chứng cứ đàng hoàng. Nó nói: “Chúng sanh mười phương đều là con ta, ta là Phật đầu tiên tự nhiên ra đời, không nhân tu mà được đạo”. Chúng ta có thấy kinh nào nói như vậy không? Nhưng bây giờ tin rồi, nó nói gì cũng nghe. Nó lại nói chúng sanh đều là con nó, tức nó có trước chúng sanh; nó sanh ra chư Phật, tức nó có trước chư Phật luôn. Điều này có hợp lý không? Thấy vậy là biết thật giả rồi.

    Phật nói đó là trụ thế Tự Tại Thiên, tức Ma vương ở cõi trời Dục giới thứ sáu. Do người tu thiền mà có tâm tham cầu, Ma vương mới tới mê hoặc. Còn Giá-văn-trà là nữ thần tật đố, hay cũng gọi là nộ thần, chúng là những ma nữ nhiều tật đố nóng giận; còn Tỳ-xá-xà, cũng gọi là Tỳ-xá-giá là quỷ ăn tinh khí, đây gọi là Tỳ-xá đồng tử, là những quyến thuộc của ma chưa phát tâm hộ trì Phật pháp, đến khuấy phá người tu hành. Bọn đó còn tự xưng là thần Chấp Kim Cang đến để ban cho người được trường thọ, vì người này thích sống lâu, nghe nó nói vậy bèn tin theo v.v...

    Người tu hành phải chín chắn, cẩn thận với từng tâm niệm mình, đừng để tập khí tham sanh khởi làm ngại chánh định. Tâm ban đầu của người tu là chân chánh, nhưng nửa chừng bị tập khí tham khởi lên, không sáng suốt, không làm chủ được, bị rơi vào đường tà. Thế là nhân lành mà chuốc quả dữ. Đó là điều đáng tiếc!

    Đây là mười loại tưởng ấm ma. Còn có tâm tưởng nên ma thấy tâm. Ma gá vào người khác rồi đến dẫn người đó vào đường mê tà.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan nên biết, mười thứ ma ấy trong đời mạt pháp, hoặc xuất gia tu hành trong đạo Phật, hoặc gá thân người, hoặc tự hiện hình, đều tự bảo đã thành Chánh Biến Tri Giác, khen ngợi dâm dục, phá luật nghi của Phật, thầy trò ma tiếp nối đem sự dâm dục truyền dạy cho nhau. Những thứ tà tinh như thế, mê hoặc tim gan, ít thì chín đời, nhiều đến trăm đời, khiến cho người tu hành chân chánh đều làm quyến thuộc của ma, sau khi mạng chung ắt phải làm dân của ma, bỏ mất Chánh Biến Tri, đọa vào ngục vô gián. Nay ông chưa nên vào Niết-bàn trước, dẫu được quả Vô học, cũng phát nguyện vào trong đời mạt pháp kia, phát lòng đại từ bi cứu độ chúng sanh có lòng thâm tín chân chánh, khiến cho khỏi mắc tà ma, được Chánh Tri Kiến. Nay tôi đã độ ông ra khỏi sanh tử, ông vâng lời Phật dạy, thì gọi là báo ân Phật.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây Phật khuyên nhắc người tu phải sáng suốt nhận định cho rõ. Ma hay xuất hiện trong thời mạt pháp, có khi xuất gia làm người tu hành, hoặc gá vào thân người, hoặc tự hiện hình, tự bảo đã thành Chánh giác, thành Phật, thành Thánh, nhưng lại khen ngợi việc dâm dục, phá luật nghi Phật. Chúng ta phải biết để cẩn thận ngừa tránh. Phật lại khuyên nhắc A-nan và những bậc đã chứng quả Vô học chớ vội vào Niết-bàn, mà ở đời sau nên hiện ra dắt dẫn cho người không rơi vào đường ma.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Mười thứ cảnh hiện ra trong Thiền định như thế, đều do tưởng ấm và tâm dụng công giao xen nên hiện ra cảnh ấy. Chúng sanh ngu mê không biết suy xét tự lường, gặp nhân duyên đó mê không tự biết, bảo là lên bậc Thánh, thành tội đại vọng ngữ phải đọa vào ngục vô gián. Sau khi tôi diệt độ, các ông cần phải đem những lời dạy của Như Lai đây, chỉ bày cho đời mạt pháp, khiến cho khắp chúng sanh tỏ ngộ nghĩa đó, không để cho Thiên ma được dịp khuấy rối, giữ gìn che chở cho chúng sanh thành đạo Vô thượng.

    GIẢNG GIẢI:

    Phật nói rõ mười thứ cảnh ma hiện ra trong khi tu thiền định là do dụng tâm tu hành, nó giao xen với tưởng ấm mà vọng hiện ra, chớ không phải thật. Đừng lầm cho đó là sở đắc của mình, cho mình đã chứng Thánh, thành bệnh sẽ khó cứu. Thế nên người tu hành phải tránh khởi tâm mong cầu này kia, làm mất đi chánh niệm.

    Có tâm mong cầu là cái ngã phát sanh. Chúng ta phải luôn luôn phản chiếu trở lại, xét thấu từng ngõ ngách của ngã để biết mà ngăn ngừa. Vì tập khí ngã chấp ăn sâu trong mình từ vô thủy kiếp, khiến chúng ta sống đây là lấy nó làm sự sống. Bây giờ chúng ta tu là đi ngược dòng, phải quán kỹ cho nó tiêu mòn, chớ để nó thêm lớn, khiến tự mình làm mê hoặc mình rồi rơi vào đường tà.

    Nên nhớ, tinh thần vô ngã là tôn chỉ chính trên đường tu của chúng ta, không thể rời, không thể bỏ qua. Lúc nào cũng phải lấy vô ngã làm hướng đi, tu làm sao phải sạch cái ngã mới được. Dù có nói chân ngã thường trụ hay Phật tánh thường trụ cũng đều phải thấu qua tôn chỉ vô ngã, vì phải sạch hết ngã chấp mới thông được chân ngã, thông được chỗ Phật tánh hay Pháp thân thường trụ. Nếu chưa sạch ngã chấp mà nói chân ngã thì không khéo lại lầm thành một cái ngã nữa. Thế nên người tu phải cẩn thận. Chưa có gì đừng bảo mình chứng Thánh, vì còn thấy mình tu hay hơn người là bị tự ngã mê hoặc rồi. Quan trọng là cần có con mắt chánh, cần phải có chánh kiến. Mắt chánh thì thấy cái gì cũng chánh, còn có tâm tà thì chánh cũng thấy thành tà.

    Học Kinh Lăng Nghiêm chúng ta phải học kỹ đoạn Phật dạy ngũ ấm ma này mới thấy được sự lợi ích lớn lao. Thế nên Hòa thượng Hư Vân, Hòa thượng Tuyên Hóa đều tán thán kinh Lăng Nghiêm, khuyên người phải đọc, phải học thuộc. Hòa thượng Tuyên Hóa còn nói, những người chê bai kinh Lăng Nghiêm là vì sợ học kinh Lăng Nghiêm kỹ sẽ lộ ra những tâm tà, người có tâm tà sợ không dám học.

    Đó là qua phần tưởng ấm. Kế là hành ấm, ma bên ngoài hết vào được, nhưng tới ma bên trong, tức là những chấp trước bên trong tâm.

     

     

    4. CÁC TƯỚNG TRẠNG CỦA MA HÀNH ẤM

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Thiện nam tử kia tu pháp Tam-ma-địa khi tưởng ấm đã hết thì những mộng tưởng bình thường của người đó đã tiêu diệt, khi ngủ, khi thức luôn luôn một Thể Tánh Giác Minh rỗng lặng như hư không, trong trẻo không còn những việc bóng dáng tiền trần thô trọng; xem những núi sông, đất liền trong thế gian, như gương soi sáng khi đến không dính vào đâu, khi qua không để lại dấu vết, rỗng chịu theo sự vật chiếu ứng; rõ ràng không còn tập quán cũ, chỉ một tánh tinh chân.

    GIẢNG GIẢI:

    Qua được tưởng ấm thì hết mộng tưởng, ngủ không còn mộng. Xem thấy các cảnh không để lại dấu vết. Chúng ta sở dĩ có tưởng là vì còn dấu vết, ban ngày tưởng nhiều, đêm nằm mộng thấy lại. Tưởng ấm hết thì thức ngủ không hai, như gương soi sáng, khi vật đến không dính vào đâu, khi qua cũng không để lại dấu vết, chỉ một tánh tinh chân, không còn dính những bóng dáng tiền trần thô trọng nữa, gọi là rỗng chịu sự chiếu ứng.

    Dưới đây là nói tới phạm vi của hành ấm.

     

    CHÁNH VĂN:

    Căn nguyên sanh diệt từ đây phơi lộ ra, thấy được mười hai loài chúng sanh trong mười phương, khắp rõ hết các loài, tuy chưa thông suốt mối manh mệnh căn của mỗi chúng sanh, nhưng đã thấy cơ sở sanh diệt chung, giống như dã mã (sóng nắng) lớp lớp chớp nhoáng hiện ra, làm các then chốt rốt ráo phát sanh các phù căn trần; ấy gọi là phạm vi của hành ấm.

    GIẢNG GIẢI:

    Căn nguyên sanh diệt đã phơi lộ, thấy đến cội nguồn sanh diệt của mười hai loài chúng sanh. Tuy thấy được gốc sanh diệt chung, nhưng chưa thông suốt được mối manh mạng căn của chúng sanh, tức chưa đoạn được mạng căn, nên vẫn còn trong sanh tử. Giống như sóng nắng, lớp lớp chớp nhoáng hiện ra. Vì hành ấm là những niệm sanh diệt rất vi tế, rất nhanh chóng, nên nói giống như sóng nắng, không phải thật, nhưng do mê mà lầm theo. Tâm còn mê khó thấy tới chỗ này, đến được đây là tâm thiền định đã rất khá rồi mới thấy được những chỗ sanh diệt vi tế này. Nếu không khéo cũng dễ lầm. Ở đây Phật chỉ rõ hành ấm ma để chúng ta biết mà ngăn ngừa. Trong đây vẫn còn thuộc trong phạm vi hành ấm, tiếp đến mới là tướng của hành ấm hết.

     

    CHÁNH VĂN:

    Nếu các cội gốc của những lăng xăng, chớp nhoáng u ẩn đó vào được tánh đứng lặng bản lai, một phen tập khí bản lai đứng lặng, như sóng mòi diệt hết, hóa thành nước đứng, thì gọi là hết hành ấm. Người ấy có thể vượt khỏi chúng sanh trược, xét lại nguyên do cội gốc là u ẩn vọng tưởng.

    GIẢNG GIẢI:

    Cội gốc của những lăng xăng, chớp nhoáng, u ẩn vào được tánh đứng lặng, tức cái sanh diệt vi tế thầm kín khó thấy đó được đứng lặng thì như sóng mòi diệt, hóa thành nước đứng. Đó gọi là tướng hành ấm hết. Chúng sanh từ sanh diệt hiện ra, bây giờ sanh diệt lặng, gọi là vượt qua được chúng sanh trược.

    Cội gốc sanh diệt này là vọng tưởng u ẩn, thầm kín khó thấy, do đó chúng sanh phải chịu trôi theo dòng sanh diệt này hoài. Nghĩa là sự sanh diệt vi tế, thầm kín rất khó thấy nên khó phá.

    Dưới đây Phật chỉ hành ấm ma.

     

    * Hai Luận Vô Nhân

    CHÁNH VĂN:

    A-nan nên biết, các thiện nam tử được sự nhận biết đúng đắn trong Xa-ma-tha đó, chính tâm đứng lặng sáng suốt, mười hai loài Thiên ma không có dịp khuấy phá. Trong lúc nghiên cứu tinh vi cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh. Khi cội gốc sanh diệt bản lai lộ ra, xét cái cội gốc thường chuyển động lăng xăng cùng khắp u ẩn kia, lại móng tâm so đo chấp trước trong tánh viên nguyên thì người ấy rơi vào hai thứ luận vô nhân.

    GIẢNG GIẢI:

    Đến đây, do định mà niệm sanh diệt đã tạm đứng lặng, nên Thiên ma bên ngoài không còn dịp khuấy phá, chỉ có sự chấp trước bên trong thôi. Thấy được cội gốc sanh diệt xưa nay lộ ra, nhưng chưa sáng tột đến gốc vô sanh, rồi ở trên gốc sanh diệt này lại móng tâm so đo, suy xét, thành ra có những kiến chấp làm ngăn ngại tâm chân thật, hay tánh Bồ-đề.

     

    CHÁNH VĂN:

    Một, là người ấy thấy cái gốc vốn không có nhân. Vì sao? Người ấy đã được cơ sở sanh diệt hoàn toàn lộ ra, nhưng theo tám trăm công đức của nhãn căn mà thấy trong tám muôn kiếp, thấy tất cả chúng sanh đều theo dòng nghiệp báo mà xoay vần, chết nơi đây sanh nơi kia; chỉ thấy chúng sanh luân hồi trong đó, ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt không thấy gì, bèn khởi nhận định rằng, những loài chúng sanh trong mười phương ở thế gian này, từ tám muôn kiếp trở lại đây, không nhân gì mà tự có. Do cái chấp trước, so đo như thế mà bỏ mất Chánh Biến Tri, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là chỉ thấy đến dòng nghiệp báo trong tám muôn kiếp thôi, ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt không biết. Do đó khởi chấp rằng chúng sanh trong tám muôn kiếp trở lại không nhân tự có. Tức là trong vòng tám muôn kiếp chúng sanh cứ sanh diệt trong đó, ngoài tám muôn kiếp không biết gì, thấy giống như bỗng nhiên tự có, nên mới chấp là chúng sanh không nhân tự có. Trước tám muôn kiếp mờ mịt không biết gì, mà không biết rằng đó là do chỗ thấy của mình còn giới hạn trong vô minh, lại lầm chấp làm che mất tánh Bồ-đề. Ở đây thấy được tới tám muôn kiếp cũng là khá, nhưng cũng còn lầm trên cái sanh diệt mà phán đoán, do lầm chấp thành chướng ngại Bồ-đề.

     

    CHÁNH VĂN:

    Hai, là người ấy thấy cái ngọn không có nhân. Vì sao? Người ấy đã thấy được cái cội gốc sanh diệt, biết người sanh ra người, rõ chim sanh ra chim, chim quạ xưa nay là đen, chim hộc xưa nay là trắng; loài người, loài trời, thân vẫn đứng thẳng, các loài súc sanh, thân vẫn nằm ngang; sắc trắng không phải do rửa mà thành, sắc đen không phải do nhuộm mà có, suốt tám muôn kiếp không hề thay đổi, hết đời này tột thân hình này cũng như vậy; từ xưa đến nay không thấy gì là Bồ-đề, làm sao lại còn có việc thành đạo Bồ-đề, rồi nhận định tất cả các vật ngày nay đều không có nguyên nhân gì cả. Do so đo chấp trước như thế nên bỏ mất Chánh Biến Tri, mà sa lạc vào ngoại đạo, làm mất tánh Bồ-đề. Ấy gọi là ngoại đạo thứ nhất, lập những luận vô nhân.

    GIẢNG GIẢI:

    Trước là nói về gốc, chấp chúng sanh không nhân. Đoạn này là chấp cái ngọn không nhân. Tức là trong tám muôn kiếp này xét thấy người sanh ra người, chim sanh ra chim, chớ không có gì khác. Rồi quạ tự đen, chim hộc tự trắng, không phải do cái gì làm ra. Suốt tám muôn kiếp vẫn là như vậy. Người thì đi thẳng, vật đi ngang, xưa nay vẫn vậy không gì thay đổi. Như vậy đâu cần tu hành làm gì. Cái chấp này là cái nguy hiểm, thấy rằng từ trước đến nay không thấy Bồ-đề gì hết, bây giờ làm sao thành Bồ-đề được, cho rằng Bồ-đề cũng không có. Đây là cái chấp sai lầm, chướng ngại Bồ-đề rất lớn. Chấp theo cái thấy của mình, bị cái ngã mê hoặc, lầm theo đường tà mà không hay không biết.

    Đây cũng do móng tâm so đo, suy xét, rồi lầm chấp theo cái thấy của mình. Cho nên tu hành phải cẩn thận, tránh những kiến chấp. Nhiều khi tu được một lúc, khởi tâm muốn xét thấu cội gốc chúng sanh, nhưng thấy không hết, thấy không tới, bởi cái mê của mình chưa sạch, nên chỉ thấy được một góc cạnh nào đó, rồi chấp theo cái góc cạnh đó, bị nó che không tiến được.

     

    * Bốn Luận Biến Thường

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Nếu các thiện nam tử ở trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng sáng suốt thì Thiên ma không có dịp để khuấy phá; trong lúc xét cùng cội gốc của sanh loại, xem cái cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, lại móng tâm so đo chấp trước trong tánh viên thường thì người ấy sa vào bốn cái luận biến thường.

    GIẢNG GIẢI:

    Ở trong định do móng tâm so đo, chấp trước, thành bốn kiến chấp về luận biến thường. Lỗi là ở chỗ móng tâm so đo nên bị động niệm, do động niệm rồi có những kiến chấp thiên lệch, sai lầm, trái với thật nghĩa.

     

    CHÁNH VĂN:

    Một, là người đó xét cùng bản tánh của tâm và cảnh cả hai đều không có nhân, tu tập có thể biết trong hai muôn kiếp, mười phương chúng sanh có những sự sanh diệt đều xoay vần không hề tan mất, nên chấp cho đó là thường.

    GIẢNG GIẢI:

    Do công phu tu tập biết được trong vòng hai muôn kiếp, chúng sanh mãi sanh diệt xoay vần trong đó không mất, nên chấp cho là thường, do đó cũng không cần cầu Bồ-đề. Đó chỉ là do tâm so đo vọng chấp thành trái với thật nghĩa, trái với con đường Bồ-đề chân chánh.

     

    CHÁNH VĂN:

    Hai, là người đó xét cùng cội gốc của tứ đại, thấy tứ đại thường trụ, tu tập biết được trong bốn muôn kiếp, mười phương chúng sanh tuy có sanh diệt, nhưng đều có bản thể thường hằng, không hề tan mất nên chấp đó là thường.

    GIẢNG GIẢI:

    Trước là trên tâm và cảnh mà xét cho nên chỉ thấy được hai muôn kiếp, còn ở đây xét trên tứ đại, tột cùng chỗ thấy không mất. Do thấy tứ đại có biến đổi thành những tướng này tướng kia nhưng rốt cuộc cũng trở về tứ đại đất nước gió lửa, nên chấp cho là thường trụ. Là thấy được trong vòng bốn muôn kiếp, tuy chúng sanh có sanh diệt trong đó nhưng tánh của bốn đại vẫn không mất. Tức chấp bản thể tứ đại là bản thể thường hằng của chúng sanh, đây cũng là do so đo vọng chấp nên chỗ thấy có giới hạn, không đúng thật nghĩa, mê trái với tánh Bồ-đề, làm ngăn ngại con đường giác ngộ.

     

    CHÁNH VĂN:

    Ba, là người đó xét cùng tột cội nguồn của sáu thức nơi sáu căn, thức mạt-na chấp thọ và thức thứ tám, trong các tâm, ý, thức này thấy tánh nó vẫn thường hằng; tu tập có thể biết được trong tám muôn kiếp, tất cả chúng sanh xoay vần không mất, bản lai thường trụ; rồi xét tột tánh không mất đó mà chấp là thường.

    GIẢNG GIẢI:

    Ở đây xét cùng tột trong tám thức nhưng chưa qua được thức thứ tám, nên chỉ thấy đến tám muôn kiếp, chúng sanh mãi xoay vần trong đó, chấp làm tánh thường hằng. Đó cũng chỉ là vọng chấp, không ra khỏi sanh tử. Do suy xét rồi chấp, đến khi hết sức định cũng rơi vào trong sanh tử luân hồi.

     

    CHÁNH VĂN:

    Bốn, là người đó tưởng ấm đã hết, lý sanh không còn vận chuyển chảy dừng, tư tưởng sanh diệt đã diệt hết, thì trong lý tự nhiên thành không sanh diệt; người đó nhân tâm niệm so đo như thế mà chấp là thường. Do sự chấp thường đó, nên bỏ mất Chánh Biến Tri, phải đọa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề. Ấy gọi là ngoại đạo thứ hai, lập những luận viên thường.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây do tưởng ấm hết thấy không còn vọng tưởng sanh diệt nên lý sanh không còn vận chuyển chảy hay dừng. Nhưng chỗ sanh diệt vi tế lưu chú chưa hết, tức hành ấm vẫn còn. Bởi chưa qua được hành ấm, nên chỗ vi tế niệm niệm sanh diệt trôi chảy của hành ấm vẫn chưa thấu hết, và vì chưa thấy tột được chỗ này nên mới so đo chấp trước cho đó là thường, cũng là vọng chấp. Nghĩa là trong chỗ vi tế sanh diệt trôi chảy quá nhanh đó không thấy đến kịp, vì thấy không đến kịp nên tưởng nó là thường rồi chấp vào đó, nên đâu đạt được giải thoát Niết-bàn. Đến khi hết sức định thì cũng rơi trở lại vào trong sanh tử.

    Đây là do so đo chấp trước thành chướng ngại với Bồ-đề, bị ngưng trệ không tiến lên được. Chung lại, bốn thứ này là loại ngoại đạo thứ hai, lập những luận viên thường.

     

    * Luận Chấp Một Phần Thường, Một Phần Vô Thường

    CHÁNH VĂN:

    Lại, các thiện nam tử đó, trong Tam-ma-địa chánh tâm đứng lặng, Thiên ma không còn dịp khuấy phá. Trong lúc xét cùng cội gốc sanh loại, xét cái cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, lại móng tâm so đo chấp trước giữa mình và cái khác, thì người ấy mắc vào bốn kiến chấp điên đảo, là những luận “một phần thường, một phần vô thường”.

    GIẢNG GIẢI:

    Ở đây, khi tâm được định (Tam-ma-địa), lại khởi tâm xét cội gốc của mười hai loài chúng sanh, là chỗ sanh diệt vi tế thường chuyển động u ẩn khó thấy nơi hành ấm; rồi móng tâm so đo chấp trước giữa mình và chúng sanh cùng thế giới, lại sanh cái kiến chấp một nửa là thường, một nửa là vô thường, cũng thuộc cái thấy điên đảo trái với chánh tri kiến, lẩn quẩn trong hai bên đối đãi.

     

    CHÁNH VĂN:

    Một, là người ấy xét tánh diệu minh vắng lặng khắp giáp mười phương thế giới, cho là cái thần ngã rốt ráo; do đó mà chấp cái ta cùng khắp cả mười phương đứng lặng sáng suốt không lay động, còn tất cả chúng sanh thì ở trong tâm ta, tự sanh tự chết, vậy tâm tánh của ta thì gọi là thường, còn những cái sanh diệt kia, thì thật là vô thường.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là xét thấy tánh diệu minh vắng lặng khắp mười phương, lại lầm cho đó là thần ngã rốt ráo trùm khắp của ngoại đạo (ngoại đạo Số luận), theo đó sanh kiến chấp cho tâm tánh của ta trùm khắp cả mười phương vì nó bao quát hết nên là thường, còn chúng sanh thì ở trong đó mà tự sanh diệt nên chúng sanh là vô thường. Từ đó thành cái chấp một bên là thường, một bên là vô thường, cũng còn nằm trong cái thấy sanh diệt đối đãi. Cho nên, khi tu đến đây nếu không khéo lại thành vọng chấp mà chướng ngại Bồ-đề.

    CHÁNH VĂN:

    Hai, là người ấy không xét cái tâm, lại xét khắp hằng sa quốc độ trong mười phương, thấy có chỗ bị kiếp tai phá hoại, thì cho là có tánh rốt ráo vô thường, còn những chỗ không bị kiếp tai phá hoại, gọi là rốt ráo thường.

    GIẢNG GIẢI:

    Ở trên, xét tâm tánh rồi nhìn ra chúng sanh, thấy chúng sanh ở trong tâm, còn đây xét ra ngoài mười phương cõi nước thế giới bên ngoài, thấy có chỗ vô thường, có chỗ thường. Nghĩa là khi tới kiếp tam tai phá hoại tất cả không còn, nên thuộc về vô thường; còn chỗ tam tai không lên đến nên không bị phá hoại như cõi Tứ Thiền là thường còn, tức chấp thường. Do cái thấy có giới hạn rồi lầm chấp theo cái thấy giới hạn đó, không phải thật nghĩa. Đó gọi là vọng chấp.

    CHÁNH VĂN:

    Ba, là người ấy quán xét riêng tâm mình nhỏ nhiệm vi tế, giống như vi trần lưu chuyển trong mười phương mà tánh không dời đổi, lại có thể khiến cái thân này sanh rồi lại diệt, rồi chấp cái tánh không mất đó là tánh thường của mình, còn tất cả sự sống chết từ tánh ấy sanh ra thì gọi là vô thường.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây tức chấp tâm tánh là thường, còn sanh tử là vô thường. Bởi sanh tử sanh ra từ trong tâm tánh nên là vô thường, còn tâm tánh là thường. Cái thấy vừa thường vừa vô thường đó là cái thấy hai bên, thuộc cái thấy sanh diệt, nhưng lại không biết bám vào đó chấp là thật nên thành chướng ngại.

     

    CHÁNH VĂN:

    Bốn, là người ấy biết tưởng ấm hết, thấy dòng hành ấm mới chấp cái thường lưu chuyển của hành ấm là tánh thường, còn những sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm v.v.. nay đã diệt hết, thì gọi là vô thường. Do đây mà chấp trước so đo, “một phần thường, một phần vô thường”, đọa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề. Ấy gọi là ngoại đạo thứ ba, lập những luận “một phần thường, một phần vô thường”.

    GIẢNG GIẢI:

    Phần thứ tư này là thấy dòng sanh diệt tương tục không gián đoạn của hành ấm. Hành ấm là những niệm niệm sanh diệt tương tục không dừng, nó có sự tương tục giống thác nước đổ xuống từ giọt từ giọt nối nhau rất nhanh nên nhìn không thấy kịp, lầm cho là thường. Còn sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm đã diệt nên chấp nó là vô thường, thành ra cũng là chấp một phần thường, một phần vô thường, cũng thuộc cái thấy có giới hạn trong phạm vi hành ấm, chưa biết là vẫn còn thức ấm, nên Phật gọi là đọa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề. Bốn thứ này là loại ngoại đạo thứ ba, lập những luận “một phần thường, một phần vô thường”, khiến những người không biết phải bị lầm mê.

     

    * Bốn Luận Hữu Biên

    CHÁNH VĂN:

    Lại, các thiện nam tử trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không dịp khuấy phá, khi xét cùng cội gốc sanh loại, xét cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, lại sanh chấp trước so đo về phần vị, người đó rơi vào bốn thứ luận hữu biên.

    GIẢNG GIẢI:

    Hữu biên là có bờ mé, có ranh giới. Tức là xét cội gốc thường chuyển động u ẩn sanh diệt của hành ấm, rồi so đo, suy luận thành kiến chấp nên ngăn ngại cái thấy chân thật.

     

    CHÁNH VĂN:

    Một, là người ấy so đo cái cội gốc sanh diệt, lưu chuyển không dừng, rồi chấp quá khứ, vị lai là hữu biên, chấp tâm tương tục là vô biên.

    GIẢNG GIẢI:

    Loại thứ nhất do so đo, suy tánh cội gốc sanh diệt lưu chuyển không dừng, thấy quá khứ qua rồi, vị lai chưa tới như có bờ mé, có biên giới; còn tâm tương tục hiện tại liên tục không dừng giống như không có bờ mé, thành chấp một bên là hữu biên, một bên là vô biên. Đó cũng là còn trong tâm động niệm kia đây, do so đo chấp trước chưa thấy suốt qua được nên còn kẹt ở ba thời, thành cái thấy có giới hạn. Đó là loại thứ nhất y cứ theo ba thời mà chấp.

     

    CHÁNH VĂN:

    Hai, là người đó xét tám muôn kiếp thấy chúng sanh, còn trước tám muôn kiếp thì bặt không nghe thấy gì, rồi chấp chỗ không nghe thấy gọi là vô biên, còn chỗ có chúng sanh gọi là hữu biên.

    GIẢNG GIẢI:

    Người này do khi tu thiền định có được một phần định tâm nên xét thấy được chúng sanh ở trong tám muôn kiếp, còn trước tám muôn kiếp là không thấy. Do chỗ thấy còn giới hạn rồi so sánh thành vọng chấp có đây kia mà chướng ngại. Còn với con mắt Phật, thấy thấu qua tám muôn kiếp nên đâu thấy đây hữu biên kia vô biên v.v... gì nữa.

     

    CHÁNH VĂN:

    Ba, là người đó chấp rằng mình biết cùng khắp là được tánh vô biên, còn tất cả các người kia hiện ra trong cái biết của mình, mà mình không hề nhận biết cái biết của họ, vậy thì những người kia không được tâm vô biên và chỉ có tánh hữu biên.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây do khi tu cái biết được rộng khắp, rồi chấp vào cái biết khắp đó cho là vô biên. Nhưng nếu lặng tâm xét cho rõ một chút, có thật là mình được tánh vô biên không? Thấy cái biết của mình là biết khắp, còn những người kia hiện trong cái biết của mình mà mình lại không nhận biết cái biết của họ, vậy là cái biết của mình có thật vô biên chưa? Nếu cái biết của mình thật là vô biên thì phải biết suốt luôn cái biết của họ mới là vô biên nhưng không được như vậy, tức là còn giới hạn, vậy là nó vẫn còn hữu biên mà lại chấp là vô biên. Đó là vọng chấp.

    Xét thêm nữa, cũng do cái ngã chấp mà ra. Thấy giống như mình là trên, là hơn hết không ngờ còn sai sót mà không hay. Tóm lại, đó cũng là bị tự ngã mê hoặc nên không thấy hết được chỗ lầm của mình.

     

    CHÁNH VĂN:

    Bốn, là người ấy khi xét cùng hành ấm là không, do chỗ thấy đó mà tâm so đo tất cả chúng sanh trong mỗi cái thân, gồm có phân nửa sanh, phân nửa diệt, và chứng tỏ sự vật có ra trong thế giới, phân nửa tánh hữu biên, phân nửa tánh vô biên.

    GIẢNG GIẢI:

    Đến đây, xét cho thấu đến cùng hành ấm là không, vì hiện tại nó vẫn còn tương tục sanh diệt, vẫn chưa qua khỏi được niệm sanh diệt nên theo chỗ thấy đó suy xét cho rằng thân của mỗi chúng sanh có phân nửa là sanh, phân nửa là diệt. Nhân đó, suy ra thế giới chấp thành phân nửa hữu biên, phân nửa vô biên. Nhưng đó cũng là nằm trong niệm sanh diệt vọng chấp, không có thật nghĩa. Đây là thấy cái sanh thì có diệt nên giống như có giới hạn, có bờ mé; còn thấy cái diệt, khi diệt rồi không biết đến đâu, nên cho cái diệt là vô biên. Đâu biết nó diệt rồi, khi đủ duyên nó sanh trở lại thì nó cũng là hữu biên, mới thấy đó là cái lầm, cũng nằm trong niệm sanh diệt.

    Phật kết lại:

    CHÁNH VĂN:

    Do những so đo chấp trước hữu biên, vô biên như thế mà đọa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề. Ấy gọi là ngoại đạo thứ tư, lập những luận hữu biên.

    GIẢNG GIẢI:

    Kết lại, do niệm so đo suy luận đối đãi mà chấp như thế. Đối đãi tức là so sánh cái này với cái kia, vọng chấp thành ngăn ngại cái thấy chân thật Bồ-đề, do đó mới lạc vào ngoại đạo. Nếu người khéo tu chút nữa, soi trở lại trước khi động niệm so đo đó, cái gì là hữu biên, vô biên!? Lúc đó vượt qua suốt cả hữu biên, vô biên, đâu còn chỗ nào để so đo nữa. Thấy thấu trở lại chỗ đó, là vượt qua cái lầm mê này.

    * Bốn Luận Càn Loạn Bất Tử

    CHÁNH VĂN:

    Lại, các thiện nam tử ở trong Tam-ma-đề, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá, trong lúc xét cùng cội gốc sanh loại. Xét cái cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, sanh lòng so đo chấp trước về tri kiến, thì người đó mắc vào bốn thứ luận hư vọng biến kế, điên đảo càn loạn bất tử.

    GIẢNG GIẢI:

    Người này khi tu tập cũng được một phần thiền định trong Tam-ma-địa, rồi động niệm so đo về chỗ thấy biết (tri kiến), do đó thành bốn thứ vọng chấp càn loạn bất tử. Đây thuộc về ngụy biện, nói lộn xộn cho người ta mờ mịt không biết đâu để gạn lọc, khiến người không biết rõ để gạn hỏi.

     

    CHÁNH VĂN:

    Một, là người đó quán sát cội gốc của sự biến hóa, thấy chỗ dời đổi gọi là biến, thấy chỗ tương tục gọi là thường, thấy chỗ thấy được gọi là sanh, thấy chỗ không thấy được gọi là diệt, chỗ các nhân tương tục không có đứt đoạn gọi là thêm, chính trong cái tương tục chỗ rời nhau ở giữa gọi là bớt, chỗ mỗi mỗi cái sanh ra gọi là có, chỗ thường thường mất đi, thì gọi là không, dùng lý quán sát tất cả và dùng tâm thấy nó sai biệt; có người đến cầu pháp, hỏi nghĩa thì đáp rằng: “Nay ta cũng sanh, cũng diệt, cũng có, cũng không, cũng thêm, cũng bớt”. Trong tất cả thời đều nói lộn xộn khiến cho người nghe không thể hiểu được.

    GIẢNG GIẢI:

    Nói cho người nghe nhưng nghe rồi không ghi nhận được thì làm sao hiểu! Sự thật do không rõ nghĩa nên nói không rõ ràng khiến người nghe không hiểu. Sở dĩ nói như vậy là tránh cho người ta không biết chỗ để gạn hỏi. Tức thấy có biến có thường, có thêm có bớt, có sanh có diệt, có có có không v.v... thành ra không xác quyết được nên đáp phân hai: “Cũng có cũng không, cũng thêm cũng bớt v.v...”.

    Trong Lăng Nghiêm Chỉ Chưởng có giải: “Đến đây là tưởng ấm hết, hành ấm lộ bày ra, mới tiến tới quán hành ấm là cội gốc biến hóa. Nó đã là cội gốc biến hóa thì thể của nó là dời đổi, nên nói thấy có chỗ dời đổi. Có dời đổi tức có biến chuyển không dừng, gọi là biến. Tuy có đổi thay nhưng trước sau nó tương tục tiếp nối luôn nên thấy chỗ tương tục. Có chỗ tương tục thì không đoạn dứt nên gọi là hằng. Đây là cặp đối đãi biến-hằng.

    Còn trong đây nói rằng: “thấy chỗ thấy được gọi là sanh”, nghĩa là trong tám muôn kiếp hay thấy được chỗ thấy đó, trong đó tợ như có chúng sanh sanh ra nên gọi là sanh. Rồi chẳng thấy chỗ thấy được gọi là diệt, tức ngoài tám muôn kiếp chẳng thấy chỗ thấy được gì, tợ như chúng sanh diệt mất, nên gọi là diệt. Đây là cặp đối đãi sanh-diệt.

    Rồi nhân tương tục là, có chúng sanh tức có sanh diệt, đây lại ở trong cái chúng sanh có sanh diệt đó riêng khởi ra cái thấy khoảng giữa có cái nhân (nối tiếp giữa sanh và diệt); như hành ấm của ấm trước đã diệt, rồi hành ấm của hậu ấm (thân sau) chưa sanh, khoảng giữa ắt có cái nhân tương tục (để nối lại hai cái trước sau). Nhưng cái nhân tương tục tức thân trung ấm, mà thể của nó là thức ấm. Do người này chẳng biết được là ngoài hành ấm còn riêng có thức ấm, mà chỉ thấy có tánh kia chẳng đoạn, tợ như nó có nhiều ra một pháp nữa nên gọi là tăng (thấy có thêm cái nữa). Rồi chính trong cái tương tục, tức cái trung ấm tương tục đó cũng có cái hành ấm vi tế nhưng do người kia tâm còn thô chưa thấy thấu được, mà chỉ thấy chỗ nó lìa hở ra trong đó, tợ như thiếu một cái hành, nên gọi là giảm. Đây là cặp đối đãi tăng-giảm.

    Rồi mỗi mỗi chỗ sanh là, có chúng sanh là có sai biệt, đây lại ở trong chỗ chúng sanh sai biệt đó riêng khởi ra mỗi cái chấp có chỗ sanh. Như người trở lại sanh người, chim trở lại sanh chim, mỗi loại mỗi loại đều có chỗ sanh nhau. Tuy mỗi mỗi sanh nhau mà trong khoảng đó cũng có thay hình đổi báo, nhưng người này chẳng biết được mới vọng cho là mỗi loại nhất định có chỗ sanh, do đó mà gọi là có. Rồi chỗ xen xen nhau mất đi, như người chẳng sanh chim, chim cũng chẳng sanh người, tuy vậy mà trong người cũng có tánh chim, trong chim cũng có tánh người. Nhưng do người này không biết hết, vọng cho là kia đây nhất định xen lẫn nhau cùng mất, bởi đó mà gọi là không. Đây là cặp đối đãi có-không”.

    Còn câu: “Dùng lý quán tất cả, dùng tâm thấy có sai khác”, chỗ này Ngài Hàm Thị giải là: “Dùng lý thiền thì đều ở chỗ nhất quán với nhau, mà dùng tâm phân biệt thì có tám tướng”. Như vậy, nếu dùng lý mà quán thì không có vấn đề, nhưng động niệm phân biệt thành có sai lệch, rồi tâm không quyết định được rõ ràng thành ra mới đáp lộn xộn, không nhất định.

    Đó là lối đáp bịt miệng để người ta không biết chỗ gạn hỏi. Có chỗ gọi là đáp ngụy biện, là càn loạn bất tử. Đó là do tâm chưa xác quyết rõ ràng. Đây là loại ngoại đạo thứ nhất chấp trong tám thứ.

     

    CHÁNH VĂN:

    Hai, là người ấy chính xét cái tâm luôn luôn là không, nhân cái không mà được chứng; có người đến hỏi chỉ đáp một chữ, chỉ nói là “không”; ngoài chữ “không” ra, không nói gì cả.

    GIẢNG GIẢI:

    Người này xét nơi tâm thấy niệm niệm lẫn nhau diệt đều đến chỗ không, tức là thấy nó không dừng trụ mà luôn hướng đến chỗ diệt. Là ngay khi sanh nó liền diệt, rồi bám vào chỗ thấy không đó, lấy đó làm chỗ chứng. Cho nên, hễ ai đến hỏi đạo thì chỉ đáp chữ “không”, không nói thêm gì hết vì sợ nói nhiều người ta gạn tiếp không biết trả lời. Người không biết tưởng vị này hiểu đạo sâu xa, hóa ra bị lầm mà không hay. Bởi do chỗ thấy chưa chính xác, chưa đến nơi nên chỉ đáp một chữ vậy thôi.

     

    CHÁNH VĂN:

    Ba, là người ấy chính xét cái tâm mỗi mỗi đều có chỗ, nhân cái có mà được chứng; có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là “phải”; ngoài chữ “phải” ra, không nói gì cả.

    GIẢNG GIẢI:

    Ở trước xét mỗi niệm đi đến chỗ diệt; đây ngược lại, xét mỗi niệm là sanh, tức thấy theo chiều sanh. Mà mỗi niệm thấy sanh tức là có chỗ; vì có chỗ nên thấy là có, rồi lấy đó làm chỗ chứng. Vì vậy, khi ai đến hỏi đạo chỉ đáp một chữ “phải”, ý không muốn cho người gạn hỏi nữa, không nói nhiều. Đó cũng là một loại ngoại đạo.

     

    CHÁNH VĂN:

    Bốn, là người ấy chấp cả có và không. Do cảnh rời rạc mà tâm cũng rối loạn; có người đến hỏi thì đáp rằng: “Cũng có tức là cũng không, trong cái cũng không, chẳng phải là cũng có”; tất cả đều càn loạn không thể nói hết được.

    GIẢNG GIẢI:

    Tức là đáp lộn xộn khiến cho người ta không biết đâu mà hỏi nữa. Như vậy là chưa thấu tột được cội nguồn, trên tướng sanh diệt tương tục của hành ấm vừa thấy là có, cũng vừa thấy là không rồi không xác quyết được thế nào nên chỗ đáp cũng rối loạn theo.

    Phật kết lại:

     

    CHÁNH VĂN:

    Do cái so đo chấp trước càn loạn, rỗng không như thế mà sai lạc vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ năm, lập nên luận hư vọng nghĩ suy chấp trước về bốn tánh điên đảo, càn loạn bất tử.

    GIẢNG GIẢI:

    Do khởi tâm động niệm so đo chấp trước mà lạc vào ngoại đạo, ngăn ngại tánh Bồ-đề không thấy được như thật, lẩn quẩn trong cái thấy sanh diệt chưa ra khỏi.

     

    * Mười Sáu Luận Hữu Tướng

    CHÁNH VĂN:

    Lại, các thiện nam tử ở trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; trong lúc xét cùng cội gốc sanh loại, xét cội gốc thường chuyển động u ẩn kia sanh tâm so đo chấp trước nơi dòng sanh diệt vô tận, thì người ấy sa vào tư tưởng điên đảo, chấp sau khi chết có tướng.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là trên tướng hành ấm sanh diệt, dời đổi không cùng đều không có thật tánh mà lại cho là thật nên mới so đo chấp là sau khi chết có tướng, đó gọi là điên đảo chớ không phải thật, khiến lạc vào đường tà.

     

    CHÁNH VĂN:

    Hoặc tự củng cố cái thân mình, bảo rằng sắc là ta, hoặc khi thấy cái ta bao trùm khắp các cõi nước, rồi bảo rằng ta có sắc; hoặc thấy các tiền trần kia, theo ta mà xoay trở về, rồi bảo rằng, sắc thuộc về ta; hoặc thấy cái ta nương trong hành mà tương tục, rồi bảo rằng ta ở nơi sắc, những người đó đều so đo chấp rằng, sau khi chết có tướng, xoay vần như thế, có đến mười sáu tướng.

    GIẢNG GIẢI:

    Củng cố thân mình tức là chưa rời khỏi ngã chấp, mãi bám vào thân này rồi lẩn quẩn trong cái ngã sanh diệt. Hoặc khi thấy ta bao trùm khắp các cõi nước bảo rằng ta có sắc, cũng là bám vào cái ngã. Hoặc thấy các tiền trần đó theo ta rồi xoay trở về mình, nên cho sắc thuộc về ta. Hoặc thấy cái ta này nương trong các hành mà tương tục, liền bảo là ta ở nơi sắc. Như thế cứ lẩn quẩn trong ngã chấp rồi xoay vần thành vọng chấp điên đảo. Đây nói bốn tướng thuộc về sắc: Sắc là ta; ta có sắc; sắc thuộc về ta; ta ở nơi sắc. Rồi thọ, tưởng và hành mỗi thứ cũng xoay vần thành mười sáu tướng. Từ đó suy ra sau khi chết, nó cũng còn có tướng, tức không phải hoàn toàn mất hết. Đó là chấp chung.

    Đây nói về phần chấp riêng:

     

    CHÁNH VĂN:

    Từ đó, hoặc còn chấp rằng rốt ráo phiền não và rốt ráo Bồ-đề, hai tánh ấy cùng đuổi nhau mà không đụng chạm gì nhau.

    GIẢNG GIẢI:

    Ở đây lại chấp thêm là thật có tánh phiền não và thật có tánh Bồ-đề cùng tồn tại song song nhưng không đụng chạm, tức chúng không phá hoại được nhau. Phiền não mãi là phiền não, Bồ-đề cũng mãi là Bồ-đề, đều là thật hết. Chấp như thế là hết tu. Bởi nếu phiền não mãi là phiền não, Bồ-đề mãi là Bồ-đề rồi thì dù có tu cũng không thể hết phiền não, do đó cũng khỏi cần phải cầu Bồ-đề. Đó là ngăn con đường tiến đến Bồ-đề, xa rời Chánh giác, là chỗ chấp nguy hiểm.

    Phật kết luận:

    CHÁNH VĂN:

    Do so đo chấp sau khi chết là có tướng như vậy, nên rơi vào ngoại đạo, làm mất tánh Bồ-đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ sáu, lập những luận điên đảo, nhận trong ngũ ấm, sau khi chết là có tướng.

    GIẢNG GIẢI:

    Đến đây Phật kết lại, do chỗ so đo chấp như trên là trái với chánh đạo, là còn bám trong cái ngã nên trái xa tánh Bồ-đề, là chướng đạo phải rơi vào đường tà.

     

    * Tám Luận Vô Tướng

    CHÁNH VĂN:

    Lại, các thiện nam tử trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cội gốc sanh loại, xét cái cội gốc thường chuyển động u ẩn kia lại sanh tâm so đo chấp trước nơi ba ấm; sắc, thọ, tưởng đã trừ diệt rồi, thì người đó sa vào những tư tưởng điên đảo, chấp sau khi chết không có tướng.

    GIẢNG GIẢI:

    Trường hợp này đã vượt qua ba ấm nêu trên, tức chúng đã diệt rồi mà diệt tức thành không. Trước là có bây giờ lại là không, do đó suy xét về hành ấm đoán biết giờ tuy còn đó nhưng sau nó cũng đến chỗ đoạn diệt, từ đó đưa đến cái chấp là sau khi chết không còn có tướng, nghiêng về một bên thuộc về chấp đoạn diệt.

    CHÁNH VĂN:

    Người đó thấy sắc ấm diệt, thân hình không có nhân vào đâu, xét tưởng ấm diệt, tâm không bị ràng buộc vào đâu, biết thọ ấm diệt không còn dính liền vào đâu, tánh các ấm đó đã tiêu tán, dẫu có lý sanh mà không thọ, không tưởng đồng như cây cỏ, rồi nghĩ rằng, thể chất hiện tiền còn không thể được, làm sao sau khi chết lại còn có các tướng. Nhân đó nghiệm xét sau khi chết không có tướng; xoay vần như thế, có đến tám luận vô tướng.

    GIẢNG GIẢI:

    Ở đây xét thấy sắc ấm đã diệt, thân không còn là nhân để nó nương; rồi thọ ấm diệt thì tâm không còn chỗ để liên hệ; đến tưởng ấm diệt, thì tâm cũng hết chỗ để buộc vào và vin theo. Thế nên tuy hành ấm vẫn còn nhưng đã mất điểm tựa. Đây mới nói: “Dẫu có lý sanh mà không thọ, không tưởng thì đồng như cây cỏ” vậy thôi. Xét rõ thấy hiện tại còn như vậy thì sau khi chết có còn được gì! Thành ra mới chấp sau khi chết không còn tướng nào cả, đều là không, nghiêng về một bên đoạn diệt. Như thế sắc, thọ, tưởng, hành xoay vần có đến tám thứ vô tướng: hiện tại không, sau khi chết cũng không v.v...

    Đây lại thêm cái chấp riêng:

    CHÁNH VĂN:

    Đây hoặc chấp Niết-bàn, nhân quả tất cả đều không, chỉ có danh tự suông, rốt ráo đều đoạn diệt.

    GIẢNG GIẢI:

    Nhân đó lại chấp Niết-bàn, nhân quả cũng đều không, chết là xong không còn gì, cho nên cái chấp đoạn diệt này rất là nguy hiểm. Vì nếu không nhân quả, không Niết-bàn vậy tu để làm gì? Khiến người chỉ biết thụ hưởng thoải mái để chết rồi là xong. Đây gọi là cái chấp đoạn diệt.

    Đây Phật kết luận:

    CHÁNH VĂN:

    Do cái so đo chấp sau khi chết là không có tướng như vậy nên sa vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ bảy, lập những thứ tâm luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm, sau khi chết không có tướng.

    GIẢNG GIẢI:

    Kết lại, do tâm so đo động niệm thành vọng chấp sai lầm, lạc vào tà đạo ngăn ngại cái thấy chân thật, xa mất tánh Bồ-đề, thật là đáng tiếc! Tuy tu cũng có định lực nhưng khởi tâm động niệm so đo chấp trước thành sai! Biết vậy rồi chúng ta càng phải cẩn thận khi tu hành.

     

    * Tám Thứ Phi

    CHÁNH VĂN:

    Lại, các thiện nam tử trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cội gốc sanh loại, xét cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, trong khi hành ấm còn mà thọ, tưởng đã diệt, đồng thời khởi so đo chấp cả hai cái có và không, tự thể phá nhau. Người ấy rơi vào cái luận điên đảo, chấp sau khi chết không phải có, không phải không.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây suy xét ba ấm sắc, thọ, tưởng đều không, hành ấm đang hiện hành là có. Bởi ở vị này chưa qua khỏi hành ấm, vẫn thấy hành ấm hiện hữu mới so đo suy xét cho cả hai tự thể của cái có và cái không phá lẫn nhau. Nói là không nhưng cái này hiện đang là có, thành không thể nói là không; còn cái này đang có, lại thấy cái kia đã không rồi thì không lẽ nó có, trường hợp này gọi là hai tự thể phá lẫn nhau không quyết định được. Lỗi là còn thấy có và không đều có tự thể. Do đó mới thành cái chấp sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không. Tức người này suy xét hiện tại đã vậy thì sau khi chết nó cũng vậy. Nghe nói thế thấy giống như thiền không chấp có-không, nhưng sự thật vẫn còn mắc kẹt nơi có không. Đây do so đo suy xét thành chấp, vẫn còn nằm trong bốn câu.

     

    CHÁNH VĂN:

    Người đó thấy những ấm sắc, thọ, tưởng thì có, nhưng chẳng phải có. Xét trong hành ấm chuyển biến, không nhưng chẳng phải không, xoay vần như thế, cùng tột các ấm, làm thành tám tướng, tướng không phải có, không phải không, tùy gặp duyên gì đều nói, sau khi chết có tướng, không tướng.

    GIẢNG GIẢI:

    Trường hợp này xét rõ thấy ba ấm sắc, thọ, tưởng là có nhưng hiện nay lại là không, tức chẳng phải có; còn hành ấm hiện có nhưng luôn luôn chuyển biến, niệm niệm sanh diệt liên tục không dừng, tức rốt ráo cũng phải thành không. Xét cả bốn ấm đều có tám tướng như thế, tức là chẳng phải có chẳng phải không, từ đó suy ra các thứ rồi tùy gặp duyên gì đến cũng đều nói sau khi chết là có tướng, không tướng. Tức cũng không có quyết định rõ ràng làm người học mù mờ không biết nghĩa về đâu.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại, xét các hành ấm sanh diệt thay đổi liên tục, tâm phát tỏ suốt, chấp tất cả đều không phải có, không phải không, lộn lạo hư thật.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây chấp tất cả đều chẳng phải có chẳng phải không, hư thật không rõ ràng. Giữa cái hư cái thật không xác quyết rõ được, tức mất chỗ y cứ cũng làm mờ mịt người học không biết phải hiểu sao!

    Đây Phật kết luận:

     

    CHÁNH VĂN:

    Do so đo, chấp sau khi chết đều không phải có, không phải không, như thế mà đường sau mờ mịt, không còn lối đi, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ tám, lập những luận điên đảo, chấp trong năm ấm sau khi chết, chẳng phải có, chẳng phải không.

    GIẢNG GIẢI:

    Nói rõ lại cũng do tâm động niệm so đo suy xét, lỗi là chỗ đó. Do vọng chấp theo chiều có không trái với cái thấy như thật, thành rơi vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề. Gọi là đường sau mờ mịt không còn lối đi, thật là đáng tiếc!

    Đây là loại ngoại đạo thứ tám.

     

    *Bảy Luận Đoạn Diệt

    CHÁNH VĂN:

    Lại, các thiện nam tử trong Tam-ma-địa, chánh tâm lóng đứng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cội gốc sanh loại, xét cái cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, sanh tâm so đo chấp mãi sau này là không, người ấy mắc vào bảy thứ luận đoạn diệt.

    GIẢNG GIẢI:

    Xét thấy hành ấm niệm niệm luôn dời đổi không dừng, nên mới hướng về chỗ diệt chấp là sẽ đi đến chỗ đoạn diệt, cho rằng sau này tất cả đều là không. Chấp này rất nguy hiểm!

     

    CHÁNH VĂN:

    Hoặc chấp thân này diệt, hoặc chấp ngũ dục tận diệt, hoặc chấp hết khổ tận diệt, hoặc chấp tột vui diệt, hoặc chấp xả tột diệt; xoay vần như thế cùng tột đến bảy mé hiện tiền tiêu diệt, diệt rồi không trở lại nữa.

    GIẢNG GIẢI:

    Trong Lăng Nghiêm Chỉ Chưởng giải thích: “Chấp thân này diệt tức cho sau khi chết là hết, thân này không còn sanh trở lại.

    Hoặc chấp ngũ dục tận diệt, là theo cõi trời Dục giới lấy ngũ dục làm nhân sanh. Khi dục hết là tận diệt, không còn trở lại.

    Hoặc chấp hết khổ tận diệt, là tiến lên trời Sơ thiền, lấy chán khổ làm nhân sanh. Khi khổ hết thì tận diệt, không còn trở lại.

    Hoặc chấp tột vui diệt, là thuộc trời Nhị thiền, lấy cái vui làm nhân sanh. Khi được tột cái vui thì nó tận diệt, không còn trở lại.

    Hoặc chấp xả tột diệt, là thuộc trời Tam thiền, lấy cái vui tột làm thân hình quả báo của mình. Khi xả tột thì nó tận diệt, không còn trở lại.

    Rồi xoay vần, Tứ thiền lấy tột xả làm thân hình quả báo, từ đây vọng chấp lên cõi Không Vô Biên Xứ, là diệt. Rồi Không Xứ chấp đến Thức Xứ, là diệt hết. Cứ thế xoay vần tiến lên đến Phi Phi Tưởng Xứ là bảy chỗ”. Gọi là cùng tột đến bảy mé hiện tiền đều đưa đến chỗ diệt hết, không còn trở lại, tức là chấp đoạn diệt cuối cùng tất cả đều trở về không.

    Đây Phật kết luận:

     

    CHÁNH VĂN:

    Do những so đo chấp sau khi chết là đoạn diệt, như thế sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ chín, lập những luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm, sau khi chết là đoạn diệt.

    GIẢNG GIẢI:

    Do tâm động niệm so đo chấp trước thành điên đảo, lạc vào các đường tà, trái với chánh tri kiến, xa mất con đường Bồ-đề. Cho nên, chúng ta cần phải biết để tránh. Tránh đây tức không phải khi tu rồi khởi niệm so đo suy luận cái mình thấy được, lấy làm chỗ hiểu rồi chấp vào đó, không biết là cái thấy của mình còn có giới hạn chưa qua khỏi có-không. Chấp là thành chướng ngại. Tiếp, đến loại ngoại đạo thứ mười:

     

    *Luận Năm Thứ Niết-Bàn Hiện Có

    CHÁNH VĂN:

    Lại, các thiện nam tử trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cội gốc sanh loại, xét cội gốc thường chuyển động u thanh kia, so đo chấp đời sau này là có; người ấy sa lạc vào các luận năm thứ Niết-bàn hiện có.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây không chấp theo chiều niệm niệm diệt như trước, mà theo chiều niệm niệm sanh. Tức thấy hành ấm niệm niệm sanh khởi, nên cho rằng sau khi chết cũng vẫn còn, mới luận thành năm thứ Niết-bàn hiện có; tức chấp ngay khi còn sống vẫn có được cái vui Niết-bàn. Cái chấp này là thọ hưởng ngũ dục mà không cần tiêu diệt.

     

    CHÁNH VĂN:

    Hoặc nhận Dục giới là chuyển y chân chánh do chỗ xem thấy sáng suốt cùng khắp và sanh lòng yêu mến. Hoặc nhận Sơ thiền là chuyển y chân chánh, vì tâm không còn lo buồn. Hoặc nhận Nhị thiền vì tâm không còn khổ thọ. Hoặc nhận Tam thiền vì rất vui theo. Hoặc nhận Tứ thiền khổ vui đều hết. Vì chấp không còn chịu sanh diệt trong luân hồi này, người đó lầm trong cõi trời hữu lậu, khởi hiểu vô vi lầm sự an ổn, cho năm chỗ ấy là chỗ nương tựa thù thắng, thanh tịnh; xoay vần như thế, rốt ráo có năm chỗ.

    GIẢNG GIẢI:

    Chấp về cảnh trời Dục giới và Sắc giới, lấy làm chỗ vui an ổn cho đó là Niết-bàn, nên gọi chấp Niết-bàn hiện có là vậy.

    1. Nhận Dục giới làm chuyển y chân chánh, tức nhận Dục giới là Niết-bàn. Do chỗ xem thấy tròn sáng mới sanh tâm yêu thích tướng sáng đó, cho đó là chỗ thật an ổn, gọi là Niết-bàn hiện có.

    2. Nhận cái vui của Sơ thiền làm Niết-bàn, vì Sơ thiền là được ly dục sanh hỷ lạc, lìa được ngũ dục không còn phải lo, do đó chấp làm Niết-bàn.

    3. Nhận cái vui của Nhị thiền làm Niết-bàn, vì tâm không còn khổ thọ, bởi đã được tâm định, sanh hỷ lạc, chấp là Niết-bàn.

    4. Nhận cái vui của Tam thiền làm Niết-bàn, bởi đến Tam thiền được cái vui vi diệu, là cực vui, không còn thô động như ở trước. Đây lấy chỗ đó cho là Niết-bàn.

    5. Nhận Tứ thiền khổ vui đều xả, chấp là không còn sanh diệt trong luân hồi, nhận đó làm Niết-bàn. Chỗ này nhiều vị tu cũng bị lầm. Người tu đến Tứ thiền, thấy được xả niệm thanh tịnh nên cho là Niết-bàn, nhưng sự thật đây còn thuộc Tứ thiền, là thuộc về thiền của phàm phu.

    Cho nên, thời Ngài Ưu-ba-cúc-đa cũng có vị Tỳ-kheo chứng được Tứ thiền, rồi cho là mình đã chứng A-la-hán, trong khi ngã mạn chưa hết. Ngài Ưu-ba-cúc-đa mới dùng phương tiện giáo hóa khiến vị Tỳ-kheo này cho là Ngài Ưu-ba-cúc-đa tu chưa bằng mình, Ngài Ưu-ba-cúc-đa mới cảnh tỉnh cho Tỳ-kheo kia biết là thầy vẫn còn ngã mạn, chưa phải thật A-la-hán. Nhờ vậy, vị Tỳ-kheo có tỉnh. Trong kinh kể là Tỳ-kheo Vô Văn chứng được Tứ thiền, lầm cho là Niết-bàn. Đến khi gần chết, thấy thân trung ấm của cảnh trời Tứ thiền hiện ra, ông mới bài bác Phật nói Niết-bàn là không thật có, như câu: “Tôi chứng Niết-bàn rồi, sao giờ lại còn có thân trung ấm sanh?”.

    Đây cũng vậy, chấp Tứ thiền làm Niết-bàn, cho đến đây là không còn chịu sanh tử luân hồi, nhưng sự thật cũng còn nằm trong ba cõi. Đó chỉ là vọng chấp, còn có chỗ duyên theo, chưa rời tâm duyên, cuối cùng cũng thuộc sanh diệt, nên cần phải biết để khỏi bị lầm.

     

    CHÁNH VĂN:

    Do so đo chấp năm thứ Niết-bàn hiện có như thế, mà sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ mười, lập những luận điên đảo chấp trong ngũ ấm có năm thứ Niết-bàn hiện có.

    GIẢNG GIẢI:

    Tức chấp ngay nơi ngũ ấm có năm thứ Niết-bàn, nên cũng chưa rời khỏi cái ngã. Mới thấy cái ngã rất vi tế, nếu còn chút ngã là chưa ra khỏi sanh tử luân hồi. Do đó trên đường tu hành phải hết sức cẩn thận, làm sao cho những ngõ ngách của cái ngã dần dần tiêu mòn thật sạch, đừng nuôi dưỡng nó. Vì nếu không khéo tu, chỉ một niệm bất giác là ngã sanh trở lại, mà sanh trở lại tức là vào trong luân hồi. Hễ nó còn sanh trở lại tức là còn vào trong luân hồi. Nhớ kỹ!

    Phật mới kết lại để khuyên truyền bá:

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Mười thứ nhận hiểu cuồng loạn trong Thiền-na như thế, đều do hành ấm và tâm công dụng giao xen, nên hiện ra những nhận thức đó. Chúng sanh ngu mê không tự xét lường; gặp cảnh ấy hiện ra lại nhận mê làm ngộ, tự bảo là chứng bậc Thánh, thành tội đại vọng ngữ và sẽ đọa vào địa ngục vô gián. Các ông phải nên đem lời này của Như Lai: Sau khi tôi diệt độ truyền lại trong đời mạt pháp, khiến cho tất cả chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho tâm ma tự gây nên những tội lỗi sâu nặng, giữ gìn che chở cho chúng sanh tiêu hết tà kiến, dạy cho họ thân tâm giác ngộ đạo nghĩa chân thật đối với đạo Vô thượng, không mắc vào các đường tẽ, cũng chớ để chúng sanh tạm mong được chút ít cho là đã đủ, nêu ra lời chỉ dạy thanh tịnh của vị Đại Giác.

    GIẢNG GIẢI:

    Mười thứ ấm ma này là do hành giả đã phá tưởng ấm, rồi hành ấm hiện ra thấy được những chỗ sanh diệt vi tế, nhưng chưa thấu tột được mé chân thật vội động niệm so đo chấp trước. Bởi vì còn hành ấm là còn niệm niệm sanh diệt nên còn động niệm so đo chấp trước, khiến thành những suy nghĩ tà, rơi vào đường tẽ. Cho nên người tu thiền cần phải biết để ngăn ngừa tránh không rơi vào đường tẽ đó.

    Hoặc là thấy biết được chút ít vội chấp cho là đủ, sáng được một chút đạo lý liền bám vào đó, chấp cho là mình đã chứng được gì rồi, cho đó là cái thấy thù thắng thành không cầu tiến lên. Cái tâm chứng đắc đó rất nguy hiểm! Trong nhà thiền luôn ngăn ngừa không cho hành giả thấy có đắc, có chứng là nguyên nhân đó. Ma này gọi là tâm ma, chính do tâm tự gây chứ không phải ma bên ngoài vào. Ma bên ngoài hết vào nhưng còn ma bên trong, chính nó tự che chướng mình. Cho nên, Phật nhắc là ở đời mạt pháp phải đem những lời này nhắc nhở chỉ dạy cho chúng sanh để không bị mắc kẹt, rơi vào đường tẽ, hoặc là tà kiến, không tiến lên được.

    Phần thuộc về hành ấm ma xong.

     

    5. CÁC TƯỚNG TRẠNG CỦA MA THỨC ẤM

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Thiện nam tử kia tu pháp Tam-ma-địa, khi hành ấm hết, thì cái then chốt lay động u ẩn chung sanh ra các loài thế gian, bỗng nhiên được xóa bỏ giềng mối vi tế quan hệ sâu xa gây nghiệp chịu báo của ngã thể chúng sanh, cảm ứng đều bặt dứt. Đối với bầu trời Niết-bàn sắp được rất tỏ sáng. Người đó như khi gà gáy tan, xem qua phương đông đã có ánh sáng.

    GIẢNG GIẢI:

    Đến đây, then chốt sanh ra mười hai loại chúng sanh bỗng nhiên được xóa bỏ, tức là hết chỗ để sanh. Rồi cảm ứng gây nghiệp thọ báo của ngã thể chúng sanh đều bặt dứt, là dừng nghiệp, hết tiếp nối, là tin tức Niết-bàn đã lộ ra. Như vậy, thấy được tin tức Niết-bàn nên nói giống như gà gáy lần cuối, xem qua phương đông có ánh bình minh bắt đầu ló dạng. Tu đến đây thật không phải dễ, nhưng Phật muốn chỉ để chúng ta còn tiến lên không dừng ngay đó. Bởi vậy, phần sau đây có nói đến Định tánh Thanh Văn, Định tánh Duyên Giác. Đến đó mà không cầu tiến lên thì bị dừng lại. Phật mới chỉ để chúng ta tiến lên cho đến viên mãn Phật đạo. Đó là tướng thù thắng của hành ấm hết.

    Đến phạm vi của thức ấm:

     

    CHÁNH VĂN:

    Sáu căn rỗng rang thanh tịnh, không còn rong ruổi. Trong ngoài đều lặng sáng, vào được tánh vô sở nhập, thấu suốt nguyên do thọ mạng của mười hai loài chúng sanh trong mười phương. Xét rõ nguyên nhân do chấp trước gây nên, các loài không thể hấp dẫn được, nơi mười phương thế giới đã nhận được tánh đồng; tánh trong sáng ấy không bị chìm mất, phát hiện ra một cách sâu kín, ấy gọi là phạm vi của thức ấm.

    GIẢNG GIẢI:

    Sáu căn rỗng rang thanh tịnh không còn rong ruổi, đến đây như căn nhà trống tiền trần không còn lôi cuốn. Người tu đến đây đâu phải tầm thường nhưng nếu bám vào đó rồi dừng không tiến thêm nữa là cũng còn mắc kẹt.

    Trong ngoài đều lặng sáng, vào được tánh vô sở nhập, tức vào mà không có chỗ vào. Căn trần không dính nhau nên trong ngoài đều lặng sáng, dòng sanh diệt đã dừng, trở về nguồn của thức, cho nên nói vào được không có chỗ vào.

    Thấu suốt nguyên do thọ mạng của mười hai loài chúng sanh trong mười phương, là thấy tột đến cái gốc của chúng sanh.

    Xét rõ nguyên nhân do chấp trước gây nên, tức thấy được chỗ chúng sanh sanh ra, là do chỗ chấp trước mà thành chớ không có thật.

    Các loài không thể hấp dẫn, hấp dẫn tức là thu hút, giờ không còn theo các loài để sanh nữa.

    Nơi mười phương thế giới đã nhận được tánh đồng, là trở về cội nguồn của thức nên gọi là nhận ra được tánh đồng; nhưng chưa qua được chỗ đồng, là còn kẹt.

    Tánh trong sáng ấy không bị chìm mất, đây là chỗ thức ấm hiện ra nên gọi tánh trong sáng đó không bị chìm mất.

    Phát hiện ra một cách sâu kín, là phát hiện chỗ đó thật là sâu kín, rồi lấy đó làm chỗ duyên. Cho nên tuy có chỗ thấy sâu kín nhưng vẫn còn nằm trong thức ấm chưa vượt qua khỏi.

    Đây gọi là phạm vi của thức ấm. Đến chỗ vi tế như thế nhưng cũng còn trong phạm vi của thức ấm.

    Tướng của thức ấm hết:

     

    CHÁNH VĂN:

    Nếu đối với các loài chiêu dẫn đã chứng được trong tánh đồng, rồi tiêu hóa cả sáu căn, làm cho khi họp khi chia đều được tự tại, cái thấy cái nghe thông nhau, tác dụng thanh tịnh thay thế lẫn nhau, thì mười phương thế giới, cùng với thân tâm đều như ngọc lưu ly; trong ngoài đều sáng suốt; ấy gọi là hết thức ấm. Người ấy mới vượt khỏi mạng trược, xét lại nguyên do, cội gốc là vọng tưởng điên đảo huyễn hóa rỗng không.

    GIẢNG GIẢI:

    Đã chứng được trong tánh đồng, rồi tiêu hóa cả sáu căn, là dung thông lẫn nhau, không còn ngăn ngại. Đó là quên cả cái chỗ đồng mà suốt thông tự tại, mới vượt qua thức ấm.

    Mười phương thế giới cùng với thân tâm đều như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, là thấu suốt cả trong ngoài, thức ấm không còn ngăn che nữa.

    Rồi vượt khỏi mạng trược, tức trong cái tánh thể thấy biết thông với nhau, nhưng trong cái dụng vẫn còn trái nhau, đó là còn ở trong mạng trược. Còn đây vượt qua mạng trược cho nên dung thông lẫn nhau, các căn dùng thay nhau.

    Xét lại nguyên do, cội gốc là vọng tưởng điên đảo huyễn hóa rỗng không, tức cội gốc của thức ấm này là vọng tưởng điên đảo huyễn hóa rỗng không. Huyễn hóa là những trò hóa hiện không có thật thể, thấy thì như có nhưng không có thật thể nắm bắt, chỉ do vọng chấp dối thành vậy thôi.

    Lâu nay, vì mê lầm tưởng đâu thực có thành ra theo đó mà sanh tử, khi giác ngộ viên mãn thì nó tự hết nhưng cũng không có chỗ hết, bởi nó là huyễn hóa rỗng không. Đó là bặt hết dấu vết để sanh trở lại. Nếu thấy có chỗ hết là còn có chỗ sanh trở lại vì có dấu vết. Còn đây là bặt hết dấu vết luôn. Đó gọi là chỗ thức ấm hết.

    Đây nói qua các thức ấm ma. Thứ nhất là chấp nhân sở nhân.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Nên biết các thiện nam tử đó đã xét cùng tột tánh không của các hành, trở về cội nguồn của thức, sanh diệt đã diệt, mà đối với quả tịch diệt tinh diệu chưa viên mãn. Người đó có thể khiến nơi thân mình các căn khác nhau khi hợp, khi chia và thông suốt với sự hay biết của các loài trong mười phương; cái hay biết đó thông suốt vắng lặng, có thể vào tánh viên nguyên. Nếu nơi chỗ quay về, lại lập ra cái nhân chân thường và quyết định như thế là đúng, thì người ấy sa vào cái chấp “nhân sở nhân”, trở thành bè bạn với bọn Ca-tỳ-ca-la; chấp Minh đế là chỗ trở về, mê muội Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ nhất lập cái tâm sở đắc thành cái quả sở quy, trái xa tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống ngoại đạo.

    GIẢNG GIẢI:

    Phật bảo A-nan nên biết, đó là muốn nhấn mạnh chỗ này cần phải cảnh giác sáng suốt!

    Xét cùng tánh không của các hành, là thấu qua niệm sanh diệt. Trở về cội nguồn của thức, là ngược dòng trở về gốc.

    Rồi, sanh diệt đã diệt, mà đối với quả tịch diệt tinh diệu chưa viên mãn, chỗ này là chỗ vi tế. Do công phu tu hành thấy chỗ sanh diệt đã diệt nhưng không thấu đến chỗ vốn không sanh diệt, nên vẫn còn ở trong đối đãi chưa viên mãn.

    Cho nên, tu để dứt cái sanh diệt tức là còn thấy có cái sanh diệt để mà dứt, là còn trong đối đãi. Thấy có sanh diệt để mà dứt thì có Niết-bàn để chứng, lỗi tại thấy hai. Mắc kẹt chỗ đó! Là chưa thấy được thể nó vốn không sanh diệt, nếu đã không sanh diệt thì còn dứt cái gì! Thấy đến chỗ đó mới là quét sạch hết dấu vết. Đến chỗ này là phải thấu đến chỗ không sanh diệt.

    Người đó có thể khiến nơi thân mình các căn khác nhau khi hợp, khi chia và cùng thông suốt với sự hay biết của các loài trong mười phương. Nghĩa là các căn không còn ngăn ngại nhau, và cái hay biết không còn hạn hẹp nơi mình mà thông suốt với cái hay biết của các loài ở trong mười phương. Tức cái hay biết của mình thông với cả mọi chúng sanh ở mười phương.

    Cái hay biết đó thông suốt vắng lặng có thể vào tánh viên nguyên, là cội nguồn tròn khắp. Tức cái hay biết không bị sanh diệt làm ngăn ngại mà thông vào tánh đồng của các loài. Là đồng một tánh biết thông suốt với nhau.

    Nhưng nếu chấp vào chỗ đó, cho là chỗ trở về liền mắc kẹt. Còn có chỗ trở về là còn có chỗ sở duyên, còn lấy đó làm đối tượng thành kẹt. Cho nên lấy đó lập thành cái nhân chân thường để nương tựa là đi lạc. Vì như thế là thành có năng sở chia cách, do đó mà lạc vào ngoại đạo. Thật rất nguy hiểm! Bởi vì thấy có chỗ trở về rồi lấy đó làm chỗ để bám, tức là còn có chỗ để tâm duyên đến, gọi là kẹt vào tâm sở đắc. Do thấy có tâm sở đắc mà thành có cái quả sở quy tức là có chỗ về, khiến bỏ mất chánh tri kiến. Đây gọi là chưa thật quên được chỗ duyên, đó là loại thứ nhất.

    Trở thành bè bạn với bọn Ca-tỳ-ca-la; chấp Minh đế là chỗ trở về, mê muội Bồ-đề của Phật. Tức ngoại đạo này chấp Minh đế là chỗ mờ mờ ban đầu không biết gì, cho đó là nguồn gốc của tất cả muôn vật, là chỗ khởi đầu của các pháp.

    Thứ hai, chấp năng phi năng.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Lại thiện nam tử kia, khi xét cùng tánh không của các hành, cái sanh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt; nếu nơi chỗ trở về lại bám lấy đó làm tự thể, cho rằng tất cả chúng sanh trong mười hai loài, đều từ trong thân mình sanh ra và quyết định như thế là đúng, thì người đó sa vào cái chấp “năng phi năng”, thành bè bạn với bọn Ma-hê-thủ-la, hiện ra thân vô biên làm mê muội Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ hai, lập cái tâm năng vi thành cái quả năng sự, trái xa với tánh viên thông, đi ngược đạo Niết-bàn, sanh ra giống Đại Mạn Thiên, chấp cái ta cùng khắp viên mãn.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây lại lấy chỗ sanh diệt trở về tịch diệt, rồi bám lấy đó cho là tự thể chính mình thành có chỗ nương tựa. Rồi lại bám theo tự thể đó mà thấy mười hai loài chúng sanh từ trong thân mình sanh ra, vì đồng một tự thể. Vậy là mình hay sanh ra chúng sanh, rồi quyết định cho đó là cái thấy thù thắng, là chỗ chứng của mình, thành mắc kẹt vào cái sở đắc. Vì thế, rơi vào cái chấp “năng phi năng”. Tức chấp là hay làm được nhưng mà thật ra là không phải hay làm.

    Đây gọi là bè bạn với Trời Ma-hê-thủ-la, là Trời Đại Tự Tại trên đảnh của Sắc giới. Trời này cũng gọi là Trời Đại Mạn. Vì Trời này có thể biến hiện ra vô lượng chúng sanh, nên nghĩ tất cả chúng sanh đều do mình sanh ra, thành Đại Mạn. Đây là trái xa với cái thấy như thật và cũng còn mang cái ngã vô minh mà không biết.

    Rồi lập cái tâm năng vi thành cái quả năng sự, tức là lập cái tâm hay làm ra thành cái quả hay thành sự, nghĩa là hay thành các loài chúng sanh. Cái chấp này quá ngã mạn, thấy mình sanh ra tất cả, nguy hiểm ở chỗ đó!

    Thứ ba, chấp thường phi thường.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử, khi xét cùng tánh không các hành đã dứt cái sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu trong chỗ quay về thấy có chỗ nương về lại tự nghi thân tâm mình từ đó mà sanh ra và cả mười phương hư không đều từ đó sanh khởi, tức cái sanh ra tất cả đó, nhận là cái thể chân thường không sanh diệt, như thế là trong cái sanh diệt sớm chấp là thường trụ, chẳng những lầm tánh bất sanh mà cũng mê tánh sanh diệt, an trụ trong cái mê lầm trầm trọng mà quyết định là đúng. Người ấy sa vào cái chấp “thường phi thường”, thành bè bạn với những kẻ chấp có Tự Tại Thiên; mê tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ ba, lập tâm nhân y, thành quả vọng kế, trái xa tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, thành ra giống “đảo viên”.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây, hành giả dứt được cái sanh diệt trở về tịch diệt nhưng vẫn chưa tột nên còn thấy có chỗ nương về, rồi cho rằng thân tâm mình và mười phương hư không đều từ đó sanh khởi, rồi nhận đó làm thể chân thường không sanh diệt. Tức nhận cái hay sanh ra tất cả chính là thể chân thường, nguy là chỗ đó! Nó chân thường mà lại hay sanh ra tất cả, là thuộc về sanh diệt rồi. Đây gọi là trong cái sanh diệt mà chấp là thường trụ, nên mê không biết luôn cả hai nghĩa sanh diệt và bất sanh. Là rơi vào cái chấp “thường phi thường”, tức chấp thường nhưng không phải thật là thường, trở thành bè bạn của những kẻ chấp có Tự Tại Thiên. Tự Tại Thiên là Trời ở đảnh Dục giới, Trời này được cho là hay sanh ra muôn vật.

    Lập cái tâm nhân y thành cái quả vọng kế, tức lập có cái nhân để nương tựa, thành cái quả hư dối vọng chấp: chấp có cái quả thường nhưng thật không phải thường.

    Thành ra giống “đảo viên”, tức là chấp cái hoàn toàn sanh ra tất cả nhưng không phải, chỉ là điên đảo. Đó là loại thứ ba.

    Thứ tư, chấp tri vô tri, tức chấp có biết nhưng thật không có biết.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử, khi xét cùng tánh không các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu đối với chỗ nhận biết, do nó biết cùng khắp nên nhận cái biết mà lập thành chỗ nhận hiểu, cho cỏ cây mười phương đều gọi là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây sanh làm người, người chết trở lại làm cỏ cây trong mười phương, nhân cái biết khắp không có lựa chọn này, quyết định như thế là đúng; (cho là thắng giải) người ấy sa vào cái chấp “tri vô tri”, thành bè bạn của bọn Bà-tra, Tiển-ni chấp tất cả đều có hay biết; mê lầm tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ tư chấp tâm viên tri, thành cái quả sai lầm hư dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống “đảo tri”.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây do thức biến mà thấy như cái biết cùng khắp rồi thấy cỏ cây thảy đều có biết. Thành như cái biết thông cả hữu tình, vô tình đều không có chọn lựa. Nhận đó làm chỗ hiểu đặc biệt của mình, như là chỗ chứng đắc, là đi sai lệch. Nhiều người tu cũng kẹt chỗ này. Nghe trong kinh nói: “Tình dữ vô tình đồng thành chủng trí”, nên chấp cỏ cây đều có tánh giác biết, cũng đều thành Phật. Đó là hiểu lầm. Bởi khi người giác ngộ viên mãn rồi, thấy cái gì cũng sáng suốt, cũng giác, không có xen hở bất giác trong đó, chứ không phải nói cỏ cây cũng thành Phật. Chỉ sai lầm chút xíu đó là đi lạc, mà đi lạc như vậy là do anh “thức” so đo suy luận. Anh “thức” này rất nguy hiểm!

    Đây thuộc về cái chấp “tri vô tri”, tức chấp là có biết nhưng thật không có biết. Đồng bè bạn với ngoại đạo Bà-tra, Tiển-ni, hai loại ngoại đạo này chấp tất cả đều có giác tri. Rốt lại, thành loại chấp tâm viên tri là cái tâm tròn biết nhưng không phải vậy mà chỉ thành cái quả hư dối sai lầm. Cũng thuộc về đảo tri, là cái biết điên đảo thôi.

    Thứ năm, chấp sanh vô sanh.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử, khi xét cùng tánh không của hành ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tánh tịch diệt. Nếu đã được tùy thuận trong căn viên dung dùng thay lẫn nhau, liền ở nơi tánh biến hóa viên dung mà tất cả muôn vật phát sanh này, khởi cầu cái ánh sáng của hỏa đại, ưa cái thanh tịnh của thủy đại, yêu cái châu lưu của phong đại, xét cái thành tựu của địa đại, rồi sùng phụng mỗi mỗi cái, nhận những tứ đại kia làm bản nhân và lập nó làm chỗ nhận hiểu thường trụ, thì người đó sa vào cái chấp “sanh vô sanh”, thành bè bạn với bọn ông Ca-diếp-ba và bọn Bà-la-môn đem hết thân tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sanh tử, mê muội tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ năm chấp trước phụng thờ, mê tâm theo vật, lập cái nhân mong cầu hư vọng, để cầu cái quả mong mỏi giả dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết-bàn, sanh ra giống “điên hóa”.

    GIẢNG GIẢI:

    Đến đây hành giả lại chấp vào bốn đại cho là thật có tánh thù thắng biến hóa, thành sùng phụng vào bốn đại, lập nó thành bản nhân, từ đó hay tạo tác ra tất cả. Như vậy, cái được nó tạo tác ra là vô thường, còn cái hay tạo tác này thì lại cho là thường trụ. Ngài Hàm Thị có giải thêm: “Đây cũng là do chưa thâm đạt được cội gốc của tánh giác, chẳng biết tứ đại chủng là từ vọng tưởng sanh, vốn không phải là thường trụ, thì đâu có thể phát sanh ra quả thường trụ, nên nói chấp sanh vô sanh”. Vì chưa rõ được tứ đại chủng là từ vọng tưởng sanh, mà lại thấy bốn đại là thật có tánh thù thắng. Do thấy nó thật riêng có tánh nên mới lập nó thành cái nhân để từ đó sanh ra tất cả. Vậy tức là thấy ngoài tâm riêng có pháp.

    Do đó trở thành bè bạn với nhóm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sanh tử, thật là uổng công. Như nhóm ông Ca-diếp-ba tức là ba anh em ông Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp thờ lửa. Đây là sùng phụng nơi tứ đại, mê tâm theo vật, nhận vật làm cái chính mà mê mất tâm mình, rơi vào cái hư vọng chấp trước, thuộc về điên đảo biến hóa, trái mất chánh tri kiến, thật là đáng tiếc!

    Thứ sáu, chấp quy vô quy.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu đối với cảnh viên minh chấp cái rỗng không trong cái minh, mà bác bỏ trừ diệt các sự vật biến hóa, lấy tánh tịch diệt hẳn làm chỗ quy y của mình và quyết định như thế là đúng; (cho là thắng giải) người đó sa vào cái chấp “quy vô quy”, thành bè bạn của bọn Thuấn-nhã-đa trong Vô Tưởng Thiên, mê muội tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ sáu, viên thành cái tâm hư dối, lập ra cái quả không vong, trái xa với tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống đoạn diệt.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây hành giả ở trong cảnh viên minh của thức ấm, thấy chỗ sanh diệt đã diệt của hành ấm, rồi bám vào chỗ rỗng không thành bác bỏ hết mọi sự biến hóa. Nghĩa là lấy chỗ diệt hẳn làm chỗ nương về, cho là thắng giải của mình. Tức cho đó cái hiểu thù thắng của mình rồi chấp vào đó, bèn rơi vào cái chấp “quy vô quy”, là nói trở về mà thật không có trở về, chỉ là vọng chấp, thành bè bạn của bọn Thuấn-nhã-đa là thần hư không trong cõi trời Vô Tưởng.

    Từ chỗ rỗng không tròn khắp rồi bám vào đó, khởi tâm mong cầu quả chân thật (chân quả) nhưng không được, cuối cùng thành cái quả không vong cũng thuộc luân hồi. Do hành giả chấp lấy cái chỗ diệt hết tưởng nhưng sự thật chưa hết, giống như đá đè cỏ. Nhờ định nên tưởng tạm dừng nhưng không hết, lại lấy đó làm chỗ nương về của mình. Khi sức định hết liền sanh trở lại, rồi cũng vào trong luân hồi, chưa phải rốt ráo.

    Loại thứ bảy, chấp tham phi tham.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử, xét cùng tánh không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt, nếu ở nơi cảnh viên thường, củng cố cái thân thường trụ, khiến đồng với tánh tinh diệu viên mãn, mãi mãi không suy mất và quyết định như thế là đúng, (cho là thắng giải) thì người đó sa vào cái chấp “tham phi tham”, thành bạn bè của A-tư-đà cầu trường sanh, mê muội tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ bảy, chấp trước cội nguồn mạng căn, lập cái nhân củng cố hư vọng, để đến cái quả kéo dài sự nhọc nhằn, trái xa tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống “vọng diên”.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây chấp chỗ lặng lẽ tạm thời của thức ấm làm tánh viên thường, cho đó là chỗ thường trụ viên mãn, bám vào làm chỗ nương của mình, rồi muốn củng cố cái thân cho được tuổi thọ dài lâu. Cái hư huyễn nhưng muốn giữ mãi lâu dài, cũng là bám vào cái ngã hư dối, lại không hay biết, rồi chấp làm cái thấy thù thắng của mình nên mắc kẹt. Rơi vào cái chấp “tham phi tham” là tham cầu sự trường thọ, nhưng rốt cuộc chỉ là cái nhân củng cố hư vọng, chỉ luống uổng mà không có thật, rồi cũng trở lại luân hồi.

    Nếu đem công phu đó chuyển qua cầu chứng Phật đạo giải thoát sẽ rất nhanh. Nhưng do hành giả này đi sai một bước thành nhọc nhằn, uổng phí công phu. Đây sanh ra giống “vọng diên” là kéo dài sự hư dối, vẫn còn chưa qua khỏi cái ngã vô minh. Thế nên, chúng ta tu hành phải hết sức sáng suốt, cẩn thận gạn lọc cái tình chấp ngã. Nếu như không sáng suốt cẩn thận, dễ bị nó gạt. Đó là loại thứ bảy.

    Loại thứ tám, chấp chân phi chân.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệu, xét cho các mạng thông lẫn với nhau, muốn giữ lại cái trần lao, sợ nó tiêu hết, khi ấy bèn ngồi nơi cung hoa sen, hóa ra bảy thứ trân báu rất nhiều, cùng những gái đẹp, buông lung tâm mình và quyết định như thế là đúng; (cho là thắng giải) thì người ấy sa vào cái chấp “chân vô chân”, thành bè bạn của bọn Ca-chỉ-ca-la, mê muội tánh Bồ-đề, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ tám, lập cái nhân tà tư, thành cái quả xí trần, trái xa tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống “Thiên ma”.

    GIẢNG GIẢI:

    Chúng ta thấy tu đến chỗ đó rồi còn sợ thức diệt không còn chỗ để duyên, nên muốn giữ các thứ trần lao lại làm chỗ duyên, mới hóa ra các trần cảnh để vui chơi, thành ra tự mình gạt mình. Trở thành cái nhân suy nghĩ tà, đưa đến cái quả trần lao thêm nhiều chớ không được giải thoát; rốt cuộc là bè bạn với Thiên ma. Là loại thức ấm ma thứ tám.

    Tám loại này dẫn chúng ta đi lệch theo đường tẽ, đường tà. Còn hai loại sau này là dừng lại giữa đường, gọi là Định tánh Thanh Văn và Định tánh Duyên Giác.

    Thứ chín là Định tánh Thanh Văn.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nơi thức thể viên minh cội gốc của sanh mạng mà phân biệt chỗ tinh chỗ thô, quyết đoán chỗ chân chỗ ngụy; nơi nhân quả đền đáp nhau, chỉ cầu cảm ứng, trái với đạo Thanh Tịnh, nghĩa là chỉ thấy Khổ đế, đoạn Tập đế, chứng Diệt đế, tu Đạo đế; ở nơi Diệt đế đã dứt rồi, lại không cầu tiến thêm nữa và quyết định như thế là đúng; (cho là thắng giải) thì người đó sa vào Định tánh Thanh Văn, thành bè bạn của hàng Vô Văn tăng thượng mạn; mê muội tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ chín viên mãn tâm tịnh ứng, thành cái quả thú tịch, trái xa với tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống “triền không”.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây qua được hành ấm là cái sanh diệt đã diệt, cũng còn ở nơi thức thể tạm lặng lẽ nhưng vẫn chưa viên mãn đến chỗ tinh diệu của tịch diệt, rồi phát minh cội gốc của sanh mạng.

    Do phát minh thấu được cội gốc của sanh mạng, rồi phân biệt rõ ràng đâu là Thánh đạo, tà đạo, hoặc là thế gian, xuất thế gian, phàm Thánh v.v..., tức đã biết Khổ đế, đoạn Tập đế, rồi tu Đạo đế, chứng Diệt đế. Là rõ biết nhân quả của thế gian sanh tử và tu chứng nhân quả của xuất thế gian giải thoát, nhưng lại dừng ở chỗ đoạn dứt đó cho là đủ, không cầu tiến lên, thành bị ngưng trệ giữa đường. Gọi là đã viên mãn tâm tịnh ứng, là ứng với chỗ thanh tịnh mà thành cái quả thú tịch, tức hướng đến chỗ tịch diệt, lặng lẽ rồi dừng ở đó. Do nghiêng một bên cái thể tịch diệt, chưa phát huy hết diệu dụng, nên gọi là “Triền không” (hay Trệ không), bị cột vào cái không.

    Đó là nhắc cho mỗi người khi dụng công cần tránh để không bị ngưng trệ, chứ không phải nói đây để chê người. Cho rằng chúng ta tu thuộc về Tối thượng thừa rồi chê hàng Thanh Văn thuộc về thiên không, hay trệ không, là phải mang khẩu nghiệp. Chúng ta phải biết được ý của Phật không phải là chê tu dở, nhưng đây Phật nói để sách tấn các vị đó tiến thêm. Người không biết cứ lo đi chê là không tốt, phải cẩn thận!

    Thứ mười là Định tánh Duyên Giác.

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở nơi Tánh Giác Minh Thanh Tịnh Viên Dung mà phát khởi nghiên cứu thâm diệu, liền nhận làm Niết-bàn mà không cầu tiến lên nữa, và quyết định như thế là đúng; (cho là thắng giải) người đó sa vào hàng Định tánh Bích-chi, thành bè bạn với các vị Duyên Giác, Độc Giác, không biết hồi tâm hướng về Đại thừa, mê muội tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ mười Viên thành giác tâm vắng lặng, lập ra các quả trạm minh, trái xa với tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống giác ngộ viên minh, nhưng không hóa được tánh viên.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây gọi là nơi Tánh Giác Minh Thanh Tịnh Viên Dung, tức chỗ giác biết sáng soi thanh tịnh thông suốt không còn bị căn trần ngăn ngại, rồi phát khởi nghiên cứu thâm diệu lấy làm chỗ chứng của mình, ngay đó nhận làm Niết-bàn an trụ mà không cầu tiến lên, nên rơi vào Định tánh Duyên giác. Mãi đứng dừng trong đó mà không tiến lên, bị ngưng trệ trong Niết-bàn, vì thiếu sức diệu dụng tự tại. Như vậy, viên thành giác tâm vắng lặng rồi lập ra quả trạm minh. Giác tâm vắng lặng là chỗ không sanh. Rồi quả trạm minh là chỗ đứng lặng sáng suốt. Vậy vẫn còn kẹt ở chỗ đứng lặng sanh ra giống giác ngộ viên minh nhưng không hóa được tánh viên. Viên là tròn đầy, đây vẫn còn có chỗ viên để giác hay là để hợp về tánh viên đó, cho nên chưa viên mãn là chỗ đó.

    Chúng ta thấy công phu đến đây rồi vẫn còn chỗ kẹt vi tế. Nếu qua được cửa này là viên thông tự tại. Mới thấy tinh thần của Lục Tổ đã dạy “Lấy vô trụ làm gốc” là vậy, không được dừng trụ chỗ nào, còn có chỗ trụ là còn dính, còn kẹt, còn có ngưng trệ. Người bình thường nghe nói tu không trụ vào đâu thấy quá bấp bênh, tu mà không cho trụ vào đâu thành lang thang sao? Nhưng chính không trụ mới là thật trụ. Phải nhớ kỹ! Chúng ta học kỹ, nắm vững để rõ suốt đường đi mà thẳng đến được rốt ráo, không bị dừng giữa đường.

    Đây nhắc thêm, trong nhà thiền có vị tăng hỏi Thiền sư Chí Cần ở Linh Vân:

    - Khi thẳng đó dứt điểm hoàn toàn trong thì thế nào?

    Thiền sư Chí Cần - Linh Vân đáp:

    - Vẫn là chân thường lưu chú.

    Chân thường nhưng mà lưu chú trôi chảy, chưa phải là chỗ rốt ráo.

    Tăng hỏi:

     - Thế nào là chân thường lưu chú?

    Thiền sư Linh Vân đáp:

    - Giống như gương thường sáng.

    Ông tăng mới hỏi:

    - Vậy hướng thượng còn có việc hay không?

    Thiền sư Linh Vân đáp:

    - Có.

    Ông tăng hỏi:

    - Thế nào là việc hướng thượng?

    Thiền sư Linh Vân đáp:

    - Đập bể gương ra cùng ông thấy nhau.

    Còn thấy có gương thường sáng để soi là còn có chỗ kẹt. Phải đập bể gương đi, không còn chỗ nào làm đối tượng nữa mới là cùng ông thấy nhau. Tu phải rốt ráo đến như vậy!

    Cũng có câu chuyện trong pháp hội của Mã Tổ. Một hôm, sau giờ trai có vị tăng đầy đủ oai nghi đến gặp Mã Tổ ở Pháp đường, Mã Tổ hỏi thăm biết vị này chưa dùng cơm, nên bảo đến gặp Khố đầu xin cơm. Lúc đó, Ngài Bá Trượng – Hoài Hải làm Điển tòa, trông coi kho bếp, Ngài mới chia phần cơm của mình để cúng dường cho vị tăng đó.

    Sau đó, Ngài Hoài Hải lên gặp Mã Tổ, Mã Tổ lại hỏi:

    - Vừa rồi có vị tăng chưa dùng cơm, ông có cúng dường chăng?

    Ngài Hoài Hải thưa:

    - Con đã cúng dường xong.

    Mã Tổ mới bảo:

    - Về sau ông được phước đức vô lượng.

    Ngài Hoài Hải thưa:

    - Vì sao Hòa thượng lại nói như vậy?

    Mã Tổ bảo:

    - Đây là vị tăng Bích-chi Phật nên ta mới nói như thế.

    Ngài Hoài Hải vẫn thắc mắc, thưa:

    - Hòa thượng là phàm nhân vì sao lại nhận Bích-chi Phật làm lễ?

    Mã Tổ đáp:

    - Thần thông biến hóa thì được, còn nói một câu Phật pháp thì chẳng bằng Lão Tăng.

    Chỗ này là chỗ mỗi người chúng ta cần phải nghiệm kỹ!

    Mã Tổ nói rõ là, so về thần thông biến hóa thì vị tăng kia có hơn nhưng nếu nói một câu Phật pháp thì chẳng bằng Lão Tăng. Như vậy, Mã Tổ tuy không có thần thông nhưng cũng không phải là bậc tầm thường. Nếu tầm thường làm sao biết đây là vị tăng Bích-chi Phật.

    Đó là qua mười ấm ma của thức ấm. Đây Phật kết lại:

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Mười thứ Thiền-na như thế, giữa đường hóa điên, nhân nương theo sự mê lầm, trong chỗ chưa đủ, lại nhận là đã chứng đầy đủ, đều do thức ấm dụng tâm xen nhau, nên sanh ngôi vị này. Chúng sanh mê muội không biết tự xét, gặp cảnh đó hiện tiền, mỗi mỗi dùng tâm mê lầm ưa thích theo những tập quán cũ mà tự dừng nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo an ổn, tự bảo đã đầy đủ đạo Vô thượng Bồ-đề, thành tội đại vọng ngữ. Bọn ngoại đạo tà ma, khi nghiệp báo chiêu cảm hết rồi, bị đọa vào ngục vô gián, hàng Thanh Văn, Duyên Giác thì không tiến thêm được nữa.

    GIẢNG GIẢI:

    Chỗ tu hành bị dừng bước giữa đường hoặc rơi vào đường tẽ là do chưa gì mà vội tự mãn, thành ra bị chặn đứng bước tiến rốt ráo của mình. Thế nên, chúng ta phải biết để ngăn ngừa, vì nếu rơi vào trong bọn ngoại đạo tà ma đến khi nghiệp báo hết sẽ bị đọa vào ngục vô gián. Nếu là hàng Thanh Văn, Duyên Giác lại dừng bước không tiến hơn được.

    Hiểu rõ rồi trên đường tu hành chớ có mong cầu chứng đắc thế này thế kia, được một chút cho là đủ. Đây là theo tập quán cũ nên còn thích rồi bị tâm sở đắc với lòng tự mãn làm ngăn ngại con đường tu tiến. Quyết đi là phải đi rốt ráo chớ không dừng nửa đường, phải cẩn thận!

     

    CHÁNH VĂN:

    Các ông để tâm giữ gìn đạo của Như Lai nên đem pháp môn này, sau khi Tôi diệt độ, truyền dạy cho đời mạt pháp, khiến cho khắp tất cả chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho những ma tà kiến gây ra nạn lớn cho mình, giữ gìn cứu giúp tiêu hết duyên tà, khiến cho thân tâm được vào tri kiến của Phật, từ lúc bắt đầu đến thành tựu, không gặp các đường tẽ.

    GIẢNG GIẢI:

    Phật khuyên nên đem lời dạy này truyền rộng cho người tu đời sau, tức có cả chúng ta. Bởi vì đời mạt pháp này cách xa thời Phật, các bậc Thánh Hiền ẩn hết, mà Thánh Hiền ẩn thì thường có nhiều tà sư. Cho nên Phật khuyên người hiểu chánh đạo phải khéo truyền rộng những lời Phật dạy đến cho người sau biết mà ngăn ngừa, phân biệt tà chánh rõ ràng, để không rơi vào con đường tẽ, cũng là để khỏi phải uổng phí một đời công phu.

    Chúng ta thấy tu mà đến được những giai đoạn này thì đâu phải tầm thường, nhưng không khéo rơi vào đường tẽ thật quá đáng tiếc! Nếu như công phu đến đó mà đi đúng đường thì sẽ rất nhanh, chỉ cần chuyển một cái là khế hợp, nhưng lạc một chút là đi càng xa. Thí dụ rơi vào trong các đường Thiên ma, hoặc các vị tiên sống cả tám muôn kiếp, tám muôn kiếp ở trong đường tà, mất biết bao nhiêu thời gian trong đó, cho nên nói xa là như vậy.

     

    CHÁNH VĂN:

    Pháp môn như thế, các Đức Như Lai như số vi trần trong hằng sa kiếp quá khứ, đều nương theo đây mà tâm khai ngộ đạo Vô thượng.

    GIẢNG GIẢI:

    Phật bảo đây là pháp môn chung của chư Phật trong hằng sa kiếp nhiều như vi trần chứ không phải riêng của một Đức Phật Thích Ca. Chư Phật cũng y theo đó tiến thẳng vào đạo Vô thượng Bồ-đề, không phải nghi ngờ.

     

    CHÁNH VĂN:

    Thức ấm nếu hết rồi, thì hiện tiền các căn của ông đều được thay dùng lẫn nhau. Từ chỗ các căn thay dùng lẫn nhau, ông sẽ lên bậc Kim Cang Càn Tuệ Bồ-tát. Từ trong Tâm Tròn Sáng Tinh Thuần đó, hóa ra như mặt trăng báu hiện trong ngọc lưu ly trong sạch, rồi cứ như thế mà vượt lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm, và Thập Địa Kim Cang của Bồ-tát; tánh Đẳng Giác Viên Minh, vào biển Diệu Trang Nghiêm của Như Lai, viên mãn đạo Bồ-đề, về chỗ vô sở đắc.

    GIẢNG GIẢI:

    Cuối cùng cũng về chỗ vô sở đắc, đó là chỗ cốt tủy.

    Như vậy là vượt qua hết các ấm cho đến thức ấm cũng hết luôn mới là không còn gì ngăn che nữa, bởi còn ấm là còn che. Khi thức ấm hết không còn gì để ngăn che thì các căn được thông suốt nên gọi là dùng thay lẫn nhau. Đó là diệu dụng được tự tại, tâm sáng ngời thấu suốt cả trong ngoài, rồi vượt lên cho đến chỗ viên mãn.

    Hiện tại sáu căn chúng ta chưa được đầy đủ diệu dụng tự tại dùng thay lẫn nhau, nhưng nếu khéo tu cũng có thể nghiệm biết được ngay cái thể của nó. Chúng ta thường mắc kẹt trên các căn nên khi thấy thì cái thấy khác cái nghe, rồi cái nghe khác với cái hiểu, cái giác biết, cái ngửi, cái nếm v.v... mỗi cái có cái biết khác cho nên có ngăn cách. Nếu chúng ta thấu suốt nơi cái thể biết, thì dù cho nói là thấy, nghe hay là ngửi, nếm hoặc là xúc, biết, có sáu cái dụng nhưng mà thể biết này vẫn không hai, chỉ là một thể biết thôi. Như vậy thấy cũng là biết, nghe cũng là biết, ngửi cũng là biết, nếm cũng là biết, xúc cũng là biết, hiểu cũng là biết, tuy nói là sáu cái dụng khác nhau nhưng chỉ một thể biết thông suốt hết sáu cái. Điều này chúng ta có thể nghiệm biết rõ, tin chắc đây là lẽ thật chứ không phải nói suông.

    Rồi đến chỗ rốt ráo cũng là về chỗ vô sở đắc, tức là sạch hết dấu vết của chứng đắc, chỗ đó phải nhớ kỹ! Còn thấy có chỗ chứng đắc là còn dừng ở giữa đường, bởi vì đó là còn có chỗ trụ, là còn có đối tượng cho mình được. Phải sạch hết dấu vết, không còn chỗ để tâm duyên.

    Kế, Phật dạy.

     

    CHÁNH VĂN:

    Đó là những ma sự vi tế mà các Đức Phật Thế Tôn đời quá khứ trước đã giác ngộ nghiệm xét, và phân tách trong lúc tu chỉ, và tu quán. Nếu khi cảnh ma hiện tiền, ông hay biết rõ, thì rửa trừ được tâm cấu nhiễm, không mắc vào các tà kiến; ấm ma đều tiêu diệt, Thiên ma bị đánh tan, Đại lực quỉ thần hoảng hốt chạy trốn, ly mỵ vọng lượng không còn sanh ra được, thì đi thẳng đến Bồ-đề không có thiếu sót. Những căn cơ hạ liệt tăng tiến lên, đối với Đại Niết-bàn tâm không mê lầm. Nếu có các chúng sanh ngu độn trong đời mạt pháp chưa biết Thiền-na, không hiểu thuyết pháp, ưa thích tu Tam-muội, ông e mắc vào tà kiến, thì nên nhất tâm khuyên bảo hộ trì thần chú Phật đảnh của Tôi, nếu không thể tụng được thần chú, thì nên viết trên thiền đường hoặc đeo nơi thân; như thế thì tất cả các ma không thể động đến được. Ông nên kính vâng khuôn phép cuối cùng về đường tu tiến rốt ráo của mười phương Như Lai”.

    GIẢNG GIẢI:

    Những ma sự vi tế như thế là từ trí tuệ Phật thấy rõ mà chỉ ra, không phải dễ dàng thấy được. Nhằm giúp chúng sanh biết để gạn lọc tâm mê, không còn dấu vết để bám, mới đến được rốt ráo. Quan trọng là khi cảnh ma hiện đều biết rõ không lầm nhận. Nếu mê không biết khi thấy những cảnh như thế chấp cho là mình chứng được cái gì đó, mới lầm vào cảnh ma. Chủ yếu là con mắt chúng ta phải sáng để cảnh không làm lầm.

    Kế là Phật phương tiện khuyên người nếu còn yếu kém thì nên hộ trì tâm chú này giúp cho tâm chuyên chú không khởi những niệm khác, mà tâm không khởi niệm khác thì ma không có cơ hội. Giữ được tâm chuyên nhất như vậy rồi, khi cơ duyên đến là tự thầm hợp ý Phật.

     

    CHÁNH VĂN:

    Ông A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe Phật dạy bảo, đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ không sót, ở trong đại chúng lại bạch Phật rằng: “Như Phật đã dạy, trong tướng ngũ ấm có năm thứ hư vọng, là gốc ở nơi tâm tưởng; chúng con bình thường chưa được nhờ Đức Như Lai khai thị tỉ mỉ như thế. Lại năm thứ ấy là tiêu trừ một lần, hay theo thứ lớp mà hết? Năm lớp như thế đến đâu làm giới hạn? Cúi mong Đức Như Lai mở lòng đại từ làm cho tâm và con mắt của đại chúng này được trong sáng, để làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng sanh trong đời mạt pháp”.

    GIẢNG GIẢI:

    Đến đây Ngài A-nan lại thay đại chúng thưa hỏi thêm về năm thứ hư vọng trong tướng năm ấm này, thứ lớp tiêu trừ thế nào, rồi đến đâu là cùng tột. Đây đúng là làm đạo nhãn cho đời sau, tức là làm con mắt sáng, con mắt đạo để cho đời sau, tức là có chúng ta ngày nay. Chúng ta phải hết sức cám ơn Ngài A-nan, nhờ Ngài hỏi kỹ đâu đó tỉ mỉ để Phật dạy, nếu không thì chúng ta hiện nay không biết làm sao để hỏi. Cho nên chúng ta phải một lòng kính lễ tri ân sâu rộng của Ngài A-nan.

     

    CHÁNH VĂN:

    Phật bảo ông A-nan: “Tánh tinh chân là diệu minh, tánh bản giác là viên tịnh, không có để lại sự sanh tử và các trần cấu, cho đến cả hư không cũng đều nhân nơi vọng tưởng mà sanh khởi. Tất cả cái ấy gốc nơi Bản Giác Diệu Minh Chân Tinh do vọng khởi mà phát sanh ra các vật tượng thế gian, như chàng Diễn-nhã-đạt-đa quên đầu mà nhận bóng. Cái vọng vốn không có nhân, từ trong vọng tưởng mà lập thành tánh nhân duyên. Người mê nhân duyên thì gọi là tự nhiên. Cả tánh hư không kia còn thật là huyễn hóa sanh ra, thì nhân duyên, tự nhiên đều là những sự so đo của vọng tâm chúng sanh. A-nan! Biết rõ do vọng sanh khởi mà nói là nhân duyên vọng, nếu cái vọng vốn là không, thì cái nhân duyên vọng đó cũng thật không có gì, huống nữa chẳng biết mà cho là tự nhiên. Thế nên Đức Như Lai phát minh cho các ông rằng, bản nhân của ngũ ấm, đồng là vọng tưởng.

    GIẢNG GIẢI:

    Phật dạy tánh tinh chân là chỗ chân thật nguyên vẹn từ ban đầu, nó không lẫn với vọng tưởng vì nó là sáng suốt nhiệm mầu, không cần phải thêm bớt gì trong đó. Dấu vết sanh tử và các trần cấu cũng không có trong đó. Nhưng chúng sanh lại mê cái gốc chân thật đó, mà vọng khởi thành có các thứ trong thế gian. Ngay cả hư không cũng là vọng khởi luôn. Vậy thì tất cả đồng là một tánh vọng thôi, thế mà còn ở trong đó so đo chấp là nhân duyên tự nhiên, quả thật có dính dáng gì! Cho nên Phật chỉ kết lại, đồng là vọng tưởng là xong. Thấu được cái vọng này thì sáng tỏ tất cả.

    Thế nên, điều trọng yếu là chúng ta cần phải ngộ trở lại chỗ Bản Giác Diệu Minh Chân Tinh mới là quan trọng, bởi vì từ cái gốc đó mà hư không thế giới vọng sanh. Còn nếu cứ mãi lo giải quyết ở trên cái vọng này, thì không tới đâu cả. Gốc nó là “tánh giác sẵn có nhiệm mầu sáng suốt chân thật không có xen lẫn cái gì cả”. Chúng ta học kỹ rồi, khi tu nhắm ngay gốc mà đốn thì những ngọn ngành khác sẽ ngã không còn; nếu chỉ chặt cái ngọn này thì cái ngọn khác lại sanh, nên tu lâu mà không đến rốt ráo. Đây là chỗ mà mỗi người cần phải hết sức chín chắn quán kỹ, nghiệm sâu để thật sự có chỗ tỉnh sáng!

    Kinh ví dụ chàng Diễn-nhã-đạt-đa quên đầu nhận bóng, khi mà quên đầu nhận bóng thì lúc đó toàn là sống trong cái bóng, tức sống trong cái vọng, chỉ nhận cái vọng mà sống, quên cái thật mới chạy la hoảng. Nhưng ngay khi chạy la hoảng đó, cái thật hay cái đầu có mất không?

    Cũng vậy, ngay khi chúng ta sống với bao nhiêu thứ vọng tưởng hư dối hiện có đây thì tánh Bản Giác Diệu Minh Chân Tinh này có mất không?

    Do chúng ta đang sống trong bao nhiêu thứ vọng tưởng hư dối nên tưởng là mất mình. Cái gọi là “mất mình đó” là ngôn ngữ phương tiện của chư Phật, chư Tổ dùng cảnh tỉnh đánh thức cho mọi người nhớ trở lại, chớ không phải là thật sự mất. Nếu mà thật sự mất thì còn ai để đi tìm?

    Như khi chàng Diễn-nhã-đạt-đa chạy hoảng la mất đầu, nhưng cái đầu vẫn nguyên đó. Khi ấy, nếu người nào khéo một chút liền ngay đó chạy lại cú đầu anh một cái bảo: “Có mất đâu?”, anh sẽ tỉnh nhớ trở lại, là xong.

    Nhà thiền nói đốn ngộ là chỗ đó. Khi các vị đốn ngộ rồi, các Ngài thấy vốn tự đầy đủ và mới có những sự cảm xúc hoặc khóc hoặc cười gì đó, thấy mình xưa nay đúng là điên đảo. Từ đó mới có những câu như ông tăng Trí Thông nói “Sư cô là người nữ” hoặc Thiền sư Chân Tịnh nói: “Lý Bạch vốn là tú tài”. Tức là ngộ ra nó vốn sẵn đủ tự bao giờ. Bởi vậy, Ngài A-nan trong bài kệ trình Phật ở trước nói: “Bất lịch tăng-kỳ hoạch Pháp thân”, tức là chẳng phải nhọc nhằn trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp mà ngay đây liền nhận được Pháp thân. Nhưng đó là ngộ lý sáng tỏ mà những tập khí cũ vẫn chưa hết, nên còn phải tiệm tu gạn lọc tập khí cũ là vậy. Tuy nhiên, do là tập khí nên nó cũng không có thật thể, vì vậy tuy nói là gạn lọc nhưng rốt cuộc cũng không có chỗ gì để gạn, rốt ráo cũng đến chỗ vô sở đắc.

    Chúng ta hiểu kỹ thì không còn lầm lẫn nghiêng lệch một bên, phải có lý, có hạnh đầy đủ, gọi là “Hạnh giải tương ưng, gọi đó là Tổ” là như thế. Giải là hiểu thấu, nhưng còn hạnh phải tương ưng với cái thấy hiểu của mình mới là khế hợp ý Tổ, còn thấy mà chưa hợp với hạnh là còn nghiêng lệch.

    Kết lại, Phật chỉ rõ bản nhân của năm ấm đồng là vọng tưởng, đã đồng với vọng tưởng thì trong đó còn mãi lo phân tích nhân duyên, tự nhiên gì nữa! Quan trọng là thấu qua cái chữ “vọng” này, là xong! Còn chưa thấu suốt rồi cứ lo bàn nhân duyên, tự nhiên thì cũng ở trong vọng. Đó là chỗ mà Phật muốn nhắm, muốn chỉ.

    Đây nói về bản nhân của sắc ấm. Phật bảo:

     

    CHÁNH VĂN:

    Thân thể của ông, trước kia nhân cái tưởng của cha mẹ mà sanh ra. Tâm của ông nếu không phải là tưởng, thì không thể đến trong tưởng để truyền mạng. Như trước tôi đã nói, trong tâm tưởng vị chua, thì nước bọt trong miệng chảy ra; tâm tưởng lên cao, thì lòng bàn chân nghe ghê rợn. Dốc cao không có, vị chua chưa đến, cái thân thể của ông nếu không phải đến cùng loài hư vọng thì làm sao nhân nghe nói chua, trong miệng nước bọt lại chảy ra, vậy biết sắc thân hiện tiền của ông, gọi là vọng tưởng kiên cố thứ nhất.

    GIẢNG GIẢI:

    Sắc ấm tức sắc thân hiện có của mỗi người, vậy gốc từ đâu có? Ban đầu chưa có gì, từ dục tưởng của cha mẹ kết hợp, cộng với cái tưởng của mình chạy đến bám vào đó rồi truyền ra có mạng sống này, cho nên bản chất của sự sống này là từ “tưởng” chứ không gì khác.

    Đây mới giải thích, do nó thông với cái “tưởng” nên khi tưởng vị chua, tưởng lên dốc cao liền hiện tướng là trong miệng chảy ra nước bọt, hoặc lòng bàn chân nghe rờn rợn. Để thấy rằng cái thân cùng loài với tưởng, và khi xét tột sắc ấm này thì do vọng tưởng bám chấp chặt thành kiên cố, đó là bản nhân của sắc ấm. Tuy nói là kiên cố, nhưng là vọng tưởng kiên cố chớ không phải thật có cái bản chất kiên cố, do chúng sanh vọng tưởng nhiều đời rồi bám cứng như vậy, khi tu giác ngộ rồi là hết. Đó là lớp vọng tưởng thứ nhất.

    Kế là bản nhân của thọ ấm:

     

    CHÁNH VĂN:

    Tức nơi tâm tưởng tượng việc lên cao vừa nói ở trước, nó có thể khiến thân ông thật cảm nhận ghê rợn. Là do nhân các thọ sanh ra, nó có thể xúc động sắc thân. Vậy hiện nay hai thứ thọ, thuận thì tăng ích, nghịch thì tổn giảm, cả hai đều hiện đang dong ruổi nơi ông, gọi là vọng tưởng hư minh thứ hai.

    GIẢNG GIẢI:

    Về cái thọ cũng dẫn việc tưởng lên dốc cao liền cảm thấy lòng bàn chân ghê rợn, tức có cảm thọ rồi. Chưa có dốc cao hiện trước mặt, chỉ là tưởng thôi nhưng lòng bàn chân lại nghe cảm giác rờn rợn; vậy rõ ràng nó là vọng đâu có thật thể.

    Xét rõ về thọ cũng do xúc tưởng làm động đến sắc thân, thành ra có khổ có vui thuận nghịch v.v..., do đó mà che mờ tâm tánh chân thật, trong khi nó không thật chỉ là cái xúc tưởng thôi. Thí dụ như thân xúc với vật mềm mại, êm ái liền cảm thích thú một chút, nhưng qua rồi là hết. Hoặc như cái lưỡi xúc với vị, cảm giác ngon thấy thích một chút, nhưng rồi có được gì đâu! Được cái tưởng ngon thôi! Qua rồi lọt xuống dưới cũng đâu còn gì! Thành ra được là được cái “tưởng” thuận với mình nên thích chút vậy thôi; còn ngược lại với nó là thành khổ. Rốt cuộc cũng chỉ là “tưởng” chứ cũng không có thật được gì. Nên gọi đó là vọng tưởng hư minh, thuộc cái sáng mà rỗng, chứ không có thật thể gì, chỉ do điên đảo vọng chấp vậy thôi.

    Nhưng nếu quán cho kỹ, thấu rõ bản chất của nó là không thật liền bớt bám chấp vào cái thọ. Bởi vậy khi người tu về Diệt thọ tưởng định, lúc nhập định xem như quên dứt đâu còn cảm thọ, rõ ràng thọ đâu có thật thể. Đó là nói về cái bản nhân của thọ.

    Kế, bản nhân của tưởng ấm:

     

    CHÁNH VĂN:

    Do những ý nghĩ sai khiến sắc thân của ông, nếu sắc thân không phải cùng loại, thì thân ông vì sao lại theo cái ý nghĩ bị sai khiến, mỗi mỗi nhận lấy các thứ hình tượng? Tâm sanh rồi hình thể nhận lấy, chỗ nhận lấy đó cùng với ý nghĩ tương ưng, lúc thức là tâm tưởng, lúc ngủ là chiêm bao. Những vọng tình lay động, tưởng nghĩ của ông đó gọi là vọng tưởng dung thông thứ ba.

    GIẢNG GIẢI:

    Thân thường bị những niệm lự (tức ý nghĩ) sai khiến, nhưng thân thì có hình thể, còn niệm thì không hình thể, vậy sao thân lại bị niệm lự sai khiến? Thí dụ như thân đang ngồi trong nhà thoải mái, nhưng khi niệm nghĩ đi chơi liền đội mưa đi. Đó là thân bị niệm sai khiến, không làm chủ được. Xét lại, thân có hình thể, còn niệm đâu có hình thể, vậy niệm làm sao sai khiến được thân? Đó là do vọng tưởng dung thông của tưởng ấm thành thông với thân.

    Đây gọi là vọng tình lay động, khiến tâm nghĩ tưởng ngày đêm không dứt, do đó mà che mờ tánh giác, khiến người ban ngày bị tâm tưởng, ban đêm ngủ thành chiêm bao, cả ngày đêm sai khiến không dứt.

    Nếu ngộ ra, nó chỉ là vọng tưởng dung thông, không có thật thể, nguyên chỉ là thể giác. Theo danh từ chuyên môn là nó không có tự ngã. Sắc không có tự ngã của sắc, thọ cũng không có tự ngã của thọ, giờ đến tưởng cũng không có tự ngã của tưởng, tức cả ba đều không có thật thể, chỉ là vọng tưởng. Do chúng sanh mê nghĩ theo cái tình chấp ngã, thấy mỗi cái có cái ngã riêng, đó là vọng tưởng điên đảo.

    Đến bản nhân của hành ấm:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lý chuyển hóa không dừng, xoay vần thầm thầm dời đổi, móng tay dài, tóc mọc ra, khí lực tiêu, da mặt nhăn, ngày đêm thay đổi mà không hề hay biết. A-nan! Nếu cái đó không phải là ông, thì làm sao thân ông lại dời đổi; nhưng nếu nó thật là ông, thì làm sao ông lại không hay biết? Vậy các hành mỗi niệm không dừng của ông, gọi là vọng tưởng u ẩn thứ tư.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là vọng tưởng thầm kín. Bởi hành ấm rất sâu xa, tế nhị khó thấy. Nó là sự chuyển biến sanh diệt tương tục rất vi tế, người tu có định lực sâu mới thấy rõ được nó, còn thường thường là không thấy.

    Từng niệm từng niệm sanh diệt tương tục vi tế thì người thường làm sao thấy kịp. Chúng ta chỉ thấy những vọng tưởng thô thôi. Cho nên, Phật mới lấy cái lý biến hóa thầm thầm dời đổi, biểu hiện ở nơi thân hiện tại đây chứng minh, để nhân cái này mà hiểu được hành ấm đó. Như móng tay dài, tóc mọc ra, da nhăn v.v... từ đó suy ra rồi nhận thấy nó là một sự thầm thầm dời đổi sâu kín không dừng nên mới có sự chuyển biến như vậy. Chính do sự sanh diệt tương tục quá vi tế đó, chúng ta không thấy được, nên lầm cho là một dòng chuyển biến, như là một thể, nhưng sự thật đó là từng niệm sanh diệt vi tế kết nối nhau.

    Phật mới chỉ ra nó ở ngay nơi thân ông, có sự liên hệ với ông nhưng tại sao ông lại không hay biết. Đã là ông tại sao không hay biết? Còn nếu không phải ông tại sao nó lại ở trên thân ông? Cả hai trường hợp đều tìm không ra câu trả lời, ngầm chỉ rằng nó là hư vọng vốn không có thật thể. Đây gọi là vọng tưởng, mà là vọng tưởng u ẩn thầm kín sâu xa. Nếu là người có định tâm sâu thấy rõ nó cũng là vọng tưởng không thật, mới thấu qua khỏi hành ấm.

    Cuối cùng là bản nhân của thức ấm:

     

    CHÁNH VĂN:

    Lại chỗ tinh minh đứng lặng không lay động của ông gọi là thường hằng đó, đối với thân ông thì không ra ngoài sự thấy-nghe-hay-biết. Nếu nó thật là tánh tinh chân, thì không cho huân tập được các điều vọng. Vậy thì vì sao các ông trong mấy năm trước đã từng xem một vật lạ, rồi trải qua nhiều năm không hề nghĩ đến, về sau bỗng nhiên lại xem thấy vật lạ đó, diễn nhớ lại rõ ràng không có thiếu sót. Vậy trong tánh tinh minh đứng lặng không lay động ấy, từng niệm từng niệm chịu sự huân tập không thể tính toán hết được. A-nan! Nên biết cái đứng lặng đó không phải thật, như dòng nước chảy nhanh, trông như yên lặng, vì chảy quá nhanh mà không thấy, chứ không phải là không chảy. Nếu cội gốc cái đó không phải là vọng tưởng, thì đâu chịu để cho hư vọng huân tập. Nếu sáu căn của ông chưa được tự tại, chia hợp dùng thay lẫn nhau; thì cái vọng tưởng đó lúc nào diệt được. Vậy nên hiện nay cái thấy-nghe-hay-biết của ông đây, nó thường xuyên suốt huân tập vi tế trong đó, và là cái tướng huyễn hóa rỗng không bên trong tánh trạm liễu của ông, thuộc cái “tưởng điên đảo rất tinh tế thứ năm”.

    GIẢNG GIẢI:

    Về bản nhân của thức ấm lại càng vi tế hơn. Đây chỉ ra chỗ tinh minh đứng lặng không lay động hằng thường của ông đó, đối với thân ông thì nó không ra ngoài sự thấy-nghe-hay-biết. Vậy xét kỹ lại xem, nó có phải thật là tánh tinh chân chưa? Nếu nó là tinh chân thì đâu cho huân tập các điều hư vọng. Nhưng hiện nay các ông lại không phải vậy, cho nên Phật mới thí dụ là như những năm trước ông xem thấy một vật gì lạ có ấn tượng, rồi bỗng trải qua nhiều năm quên không nghĩ tới. Bỗng một hôm thấy vật lạ đó liền nhớ lại rõ ràng không thiếu sót. Vậy là nó có sự thầm thầm huân tập sâu kín bên trong nhưng ông không hề hay biết, đó là dấu hiệu của thức ấm.

    Bởi cái tinh minh đứng lặng không lay động gọi là hằng thường, đó là cái gốc của các thức, nhưng ở đây do hành ấm hết nên tạm thấy như thế, chứ sự thật thì chưa phải. Vì hành ấm tuy hết nhưng hiện tại còn thức ấm, mà thức ấm thì nó trôi chảy quá nhanh nên lầm thấy như là nó đứng lặng hằng thường vậy thôi. Đây mới nói, nếu nó đã là tánh tinh chân thì sao lại có chịu sự huân tập như vậy? Chân mà tinh thì đâu có xen lẫn cái gì khác nữa. Để biết, nó còn có cái vọng, còn có chỗ bị che, nên gọi là thức ấm. Phật nói rõ: “Trong tánh tinh minh đứng lặng không lay động ấy, từng niệm, từng niệm chịu sự huân tập không thể tính toán hết được. A-nan! Nên biết cái đứng lặng đó không phải thật, như dòng nước chảy nhanh, trông như yên lặng, vì chảy quá nhanh mà không thấy, chứ không phải là không chảy”. Là bởi vì nó có sự huân tập sâu kín bên trong là biểu tướng của thức ấm.

    Như vậy cái tập khí này, nó thường xuyên suốt huân tập trong chỗ thấy nghe nên mới có sự tiếp nối thấy trước nhớ sau không mất. Nó cũng vốn là vọng tưởng điên đảo, tinh tế, thuộc tướng huyễn hóa, rỗng không, không có thật thể gì. Nhưng vì mê, chúng ta thấy giống như có thật, lầm là chỗ đó. Chính vì lầm cho nên còn bị che; nếu ngộ ngay đó tự hết, chỉ vốn là tánh trạm liễu, tức trong lặng rõ ràng thôi.

    Đó là nói qua về bản nhân của năm ấm. Đây Phật khai thị về biên giới của các ấm.

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Năm thứ ấm đó, là do năm thứ vọng tưởng tạo thành. Nay ông muốn biết giới hạn cạn sâu, thì chỉ sắc và không là biên giới của sắc ấm; chỉ xúc và ly là biên giới của thọ ấm; chỉ nhớ và quên, là biên giới của tưởng ấm; chỉ diệt và sanh, là biên giới của hành ấm, đứng lặng vào hợp với đứng lặng, là trở về bờ mé của thức ấm.

    GIẢNG GIẢI:

    Phật xác định rõ năm ấm là năm thứ vọng tưởng tạo thành thôi. Tuy nói có năm thứ sai biệt nhưng cũng là từ vọng tưởng, không có thật thể có thể được.

     Nếu chúng ta thấy được chỗ đó là không bị mắc kẹt, không bị che. Ấm tức là che, năm thứ che ngăn nhưng cũng chỉ là vọng che chớ không có tánh thật. Chính do vô minh mà người ta đành chịu đầu hàng nó? Đó là một cái đau thật đau!

    Đây Phật mới chỉ ra biên giới cạn sâu: “Chỉ sắc và không là biên giới của sắc ấm”. Nếu chưa qua khỏi sắc-không thì vẫn còn nằm trong sắc ấm. Cho nên, còn thấy sắc hết trở về không là cũng còn ở trong sắc ấm, phải qua sắc-không mới qua khỏi sắc ấm. Đó là điều phải thấy được.

    Chỉ xúc và ly là biên giới của thọ ấm. Xúc tức là xúc chạm và ly là lìa ra, hai tướng đó là biên giới của thọ ấm. Chưa thấu qua được cái xúc và cái ly là cũng chưa qua khỏi được thọ ấm.

    Nhớ và quên là biên giới của tưởng ấm. Còn có nhớ, còn có quên là còn trong tưởng ấm. Khi tưởng ấm hết rồi thì không còn có nhớ quên, ngủ thức như nhau.

    Diệt và sanh là biên giới của hành ấm. Nếu còn thấy có diệt có sanh là còn trong biên giới của hành ấm.

    Đứng lặng vào hợp với đứng lặng, trở về bờ mé của thức ấm. Tức còn thấy có chỗ đứng lặng để hợp trở về, đó cũng là biên giới của thức ấm, là trở về bờ mé của thức ấm, chưa qua khỏi thức ấm.

    Đây là chỗ rất vi tế của người tu hành. Khi chúng ta thấy tâm đã được lặng lẽ hợp vào chỗ lặng, chỗ tịch diệt như vậy là quá hay. Nhưng còn thấy có chỗ lặng lẽ để thầm hợp thì cũng là còn dấu vết của thức ấm. Nó vi tế vậy đó. Như vậy, để thấy nếu chúng ta tu lừng chừng, tu hời hợt thì bao giờ thấy được chỗ này? Thử kiểm xem, vọng tưởng mà thấy chưa hết làm sao thấy được tới chỗ vi tế này! Vì thế, chúng ta cần phải tinh tấn tu cho kỹ.

    Đó là nói về biên giới của năm ấm. Đây Phật mới khai thị chỗ chứng ngộ dẹp trừ đốn tiệm.

     

    CHÁNH VĂN:

    Cội nguồn năm ấm này vốn trùng điệp sanh khởi. Sanh, nhân thức ấm mà có; diệt, từ sắc ấm mà trừ; lý thì ngộ liền, nhân cái ngộ đều tiêu; sự không phải trừ liền, theo thứ lớp mới diệt hết.

    GIẢNG GIẢI:

    Cội nguồn năm ấm tuy là vọng nhưng cũng không phải đơn giản. Nên đây nói cội nguồn năm ấm vốn là trùng điệp sanh khởi tức là nhiều lớp từ tế tới thô. Sanh bắt đầu từ thức, tức cũng không rời ngoài cái thức, nhưng chỉ là từ tế rồi hiện thô thành ra tạm có sai khác. Tuy nói có hành, có tưởng, có thọ nhưng gốc ban đầu là từ cái thức khởi nên gọi thức là gốc. Thức là gốc, mà cái gốc thức thì thể của nó vốn chân thật, do mê cái gốc chân thật mới chuyển thành thức. Vì mê Như Lai Tạng mà chuyển thành tàng thức, rồi có các thức.

    Đây gọi là sanh từ thức mà sanh, nhưng diệt thì từ sắc ấm mà trừ. Từ thức mà đi ra tới sắc là từ tế ra tới thô, diệt thì từ thô trở về tế. Tuy nói có thô có tế nhiều lớp nhưng cũng là vọng hiện thì đâu có tánh thật. Bởi vậy, ngộ biết nó vốn không tự tánh, chỉ là một tánh giác không có riêng, thì thấu qua các thứ lớp. Bởi vậy mới nói, về lý thì ngộ liền đâu có hai, nhưng trên sự phải theo thứ lớp mới trừ diệt được, vì tập khí không phải một lúc được sạch. Không phải nghe nói ngộ là liền xong, không cần tu nữa, đó là trở thành thiền bắn bổng, rất nguy hiểm!

    Song chúng ta đã thấu được lý nên tuy diệt có thứ lớp nhưng sự thật nó cũng vốn là tánh không, do đó diệt mà cũng không thật có cái để diệt. Đó là suốt qua thứ lớp mà không mắc kẹt nơi chỗ được. Bởi vậy, ở đây tuy nói đốn nói tiệm nhưng cũng là phương tiện, còn khi trở về gốc thì chỉ là một tánh giác xưa nay có gì là đốn tiệm, được mất, thô tế, như vậy mới là quên sạch hết dấu vết kia đây. Ở trước, Phật đã nói rốt ráo trở về vô sở đắc, không có gì để được là vậy. Đó là chỗ chúng ta phải học cho kỹ!

    Phật kết luận:

     

    CHÁNH VĂN:

    Tôi đã chỉ cho ông về cái gút nơi khăn kiếp-ba-la có chỗ nào không rõ mà ông phải hỏi lại. Tâm ông cần phải thông suốt về cội gốc vọng tưởng đó để truyền dạy cho người tu hành trong đời mạt pháp sau này, khiến cho họ biết hư vọng mà tự sanh nhàm chán, và biết rõ có Niết-bàn nên không luyến tiếc ba cõi.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây Phật nhắc lại ở trước Phật nói về cái gút, tức từ một cái khăn nhưng khi thắt thành sáu gút thì sáu gút đó thành ra sáu cái sai biệt, cái gút này không phải cái gút kia. Vậy khi mở thì cũng không thể mở liền một cái là xong, mà cần phải mở từng gút. Tuy nhiên, khi mở hết các gút rồi thì chỉ là một cái khăn, không phải thành có sáu cái. Đó là điều chúng ta phải thấy rõ. Phật lại nhấn mạnh: “Tâm ông cần phải thông suốt về cội gốc vọng tưởng đó để truyền dạy cho người tu hành đời sau”. Phải thấu rõ nó vốn không có tánh thật, không lầm bám chấp vào đó mà vọng chịu sanh tử đáng tiếc!

    Tuy nhiên, biết nó là vọng thì ngộ vọng tức chân chứ không phải ngoài cái vọng riêng có cái chân khác, cho nên nói nguyên thể xưa nay nó chưa từng có hai thứ, đâu phải có một cái thể là vọng, rồi có một cái thể là chân, rồi bỏ cái vọng để về cái chân. Đó là chỗ dễ mắc kẹt. Thường chúng ta học trên chữ nghĩa là bỏ vọng về chân, bỏ mê về ngộ. Đó là chữ nghĩa thôi. Giống như sóng và nước, nước dậy sóng thì sóng cũng là nước, nhưng lúc nước dậy thành sóng thì thấy như sóng khác nước mới nghĩ bỏ sóng trở về nước. Đây là những danh từ phương tiện, thật ra bỏ sóng rồi còn nước đâu để mà về. Sóng lặng tức là nước, có về đâu! Như vậy, Niết-bàn cũng không phải là cái bên ngoài tìm được, Niết-bàn cũng ngay trong sanh tử này, có sanh tử nên quên Niết-bàn, còn ngộ thấu sanh tử tức là Niết-bàn, chứ Niết-bàn không phải ở đâu khác.

    Học kinh này rồi, điều muốn khuyên nhắc cho tất cả là chúng ta phải khéo tu để thấu rõ sự hư vọng của năm ấm, mà không có tham luyến trong đó. Sở dĩ tham luyến là thấy nó thật, còn thấu rõ cái hư vọng của nó thì không còn tham luyến, đó là con đường giải thoát. Biết rõ nó là hư vọng mà bám chấp không chịu buông là sao? Như chúng sanh điên đảo mê lầm không biết thì không nói gì, còn chúng ta đã biết là vọng lại không chịu buông, đó là điều đáng trách!

    Đã biết có cái gốc chân thật này rồi, lại còn biết rõ những thứ thuộc hư vọng, vậy tại sao không chịu sống trở lại cái chân thật, mà mãi bám vào cái hư vọng! Đó là tập khí mê lầm lâu đời trở thành thói quen, cho nên chúng ta phải biết để chuyển, không thể mãi chịu chôn vùi trong hư vọng. Bởi vậy, bậc trí sáng suốt phải xét kỹ để có những bước tiến sâu trên đường giải thoát.

    Đây có bài kệ tóm kết ý này mà nhắc chung:

         Người người sẵn có một tánh chân,

         Sáng suốt chưa từng bị vết ngăn.

         Sao chịu che mờ bởi các ấm?

         Lang thang ba cõi vọng xoay vần.

              Vọng xoay vần...

         Nhớ chăng lời Phật thật ân cần?!

    Những lời Phật dạy thật ân cần nhắc nhở như thế, tại sao bao nhiêu người vẫn chịu để che mờ bởi các ấm rồi lang thang trong ba cõi vọng xoay vần. Ngay đây còn chưa chịu tỉnh trở lại hay sao?

    Đó là xong phần Chánh Tông của kinh Lăng Nghiêm, kế là phần Lưu Thông, kết lại.

    ***

  • 7. PHẦN 03 LƯU THÔNG

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Nếu như có người đem bảy thứ báu đầy dẫy hư không cùng khắp mười phương, dùng dâng lên chư Phật nhiều như số vi trần, kính thờ cúng dường tâm không lúc nào xao lãng; ý ông nghĩ thế nào, người ấy do nhân duyên cúng Phật như thế, được phước có nhiều chăng?”.


    A-nan thưa: “Hư không không cùng tận, trân bảo không bờ mé; thuở xưa có chúng sanh cúng Phật bảy đồng tiền, đến khi xả thân còn được vị Chuyển Luân Thánh Vương; huống nữa hiện tiền dùng thất bảo đầy cả hư không mà cúng dường khắp cả các cõi Phật, thì dẫu cho suy nghĩ cùng tột cả số kiếp còn không thể thấu được; phước ấy làm sao còn có bờ bến”.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là so sánh về phước đức, trước nói về phước cúng dường bảy báu.

    Phật nói có người đem bảy báu đầy dẫy hư không cúng dường chư Phật nhiều như vi trần, như thế mà kính thờ cúng dường tâm không lúc nào xao lãng, vậy phước của người này nhiều hay không?

    Ngài A-nan thưa là không thể tính toán thí dụ, và nhắc lại việc xưa là có chúng sanh chỉ cúng bảy đồng tiền cho Phật mà sau được ngôi Chuyển Luân Thánh Vương, còn cúng dường như thế này thì phước ấy làm sao có bờ bến được.

     

    CHÁNH VĂN:

    Phật bảo ông A-nan: “Chư Phật Như Lai nói không có hư vọng. Ví như có người gây đủ bốn tội trọng, mười tội Ba-la-di, trong khoảng nháy mắt phải trải qua địa ngục A-tỳ, phương này, phương khác cho đến cùng tột các địa ngục vô gián trong mười phương, không nơi nào chẳng trải qua; nếu người đó dùng một niệm, đem pháp môn này ở trong đời mạt pháp khai thị cho người chưa học trong đời mạt pháp, thì tội chướng của người đó liền được tiêu diệt, biến cái nhân khổ trong địa ngục, thành cái nhân cõi nước An Lạc, được phước vượt hơn người làm việc bố thí cúng dường trước kia trăm lần, ngàn lần, ngàn vạn ức lần, như thế cho đến tính toán thí dụ cũng không thể nói hết được.

    GIẢNG GIẢI:

    Nếu theo suy nghĩ bình thường thì rất khó hiểu, do đó ở đây Phật nói rõ trước: “Như Lai nói lời chân thật không có hư vọng”. Điểm này, chúng ta phải hiểu cho thấu đáo. Bởi vì pháp môn này là pháp môn gì! Và phước cúng dường bảy báu thuộc về phước gì?

    Phước đem bảy báu cúng dường dù thật nhiều nhưng cũng thuộc về phước hữu vi, bởi vì bảy báu là hữu vi, mà phước hữu vi thì cũng có lúc hết. Còn pháp môn này chỉ cho chân kinh vô vi, tức chân tâm nhiệm mầu sáng suốt chưa từng sanh diệt, cái này đâu có hết. Cái chân tâm thường trụ sáng suốt không sanh diệt nó đâu có hết, nó có trước khi một niệm bất giác nữa mà. Còn cái kia là có sau khi một niệm bất giác.

    Như bảy báu là có từ lúc nào? Trong kinh nói rõ, trước là do ở trong cái Diệu Giác Minh rồi bất giác đem cái minh soi trở lại nó mới thành ra có cái sở minh, từ đó mới có năng có sở, rồi mới có hư không, có thế giới, mới có đất nước gió lửa và bảy báu. Vậy là bảy báu có sau cái niệm bất giác, còn chân tâm thường trụ này nó có trước cái niệm bất giác nữa, tức là có trước bảy báu. Phải thấy được cái ý đó mới thấy được ý Phật dạy.

    Vậy, nó có trước khi bảy báu hiện thì công đức mà nó có được trong cõi hữu lậu này làm sao sánh kịp! Đó là chỗ chân thật cùng Phật không hai, cho nên một khi tin được chỗ này rồi đem chỉ cho người tức là tâm sáng tỏ. Chúng ta tin được cái đó rồi đem chỉ cho người thì tội chướng đâu có che được. Nếu tội chướng che thì chúng ta đâu có tin, đâu có rõ để đem chỉ cho người. Cần phải thấy được ý đó!

    Và đó chính là cái nhân để thành Phật thì còn công đức gì hơn nữa? Đó là ý nghĩa sâu xa mà người học Phật cần phải thấy rõ để tin chắc lời Phật dạy không có hư dối. Để nói lên những cái phước thuộc về hữu vi hay hữu lậu là có giới hạn, còn cái phước vô vi này thì không cùng, đây dẫn bài kệ của hóa thân Bồ-tát Văn-thù chỉ dạy cho Thiền sư Vô Trước:

         Nhất niệm tịnh tâm thị Bồ-đề,

         Thắng tạo hằng sa thất bảo tháp.

         Bảo tháp cứu tận toái vi trần.

         Nhất niệm tịnh tâm thành Chánh Giác.

    Tức là:

         Một niệm tịnh tâm ấy Bồ-đề,

         Hơn tạo hằng sa tháp bảy báu.

         Tháp báu cuối cùng nát thành bụi,

         Một niệm tịnh tâm thành Chánh Giác.

     Ngài nói rằng một niệm tịnh tâm tức là Bồ-đề, cho nên nó còn hơn là tạo hằng sa tháp bảy báu. Bởi vì tháp báu cuối cùng cũng nát thành bụi, vì thuộc pháp hữu vi, cũng thuộc về vô thường. Còn một niệm tịnh tâm này sẽ thành Chánh Giác, là cái nhân thành Phật. Quý là quý chỗ đó!

    Đây Phật nói thêm:

     

    CHÁNH VĂN:

    A-nan! Nếu có chúng sanh biết tụng kinh này, biết trì thần chú này, nếu như tôi nói rộng ra, thì cùng tột các kiếp cũng không thể hết; nương theo lời chỉ dạy của tôi, y theo lời dạy đó mà tu hành thì thẳng đến đạo Bồ-đề, không còn có các ma sự”.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây nói về công đức tụng kinh và trì chú này không thể nghĩ bàn, dẹp hết những ma sự thẳng đến Bồ-đề. Đó là chân thật. Nhưng chúng ta cũng cần phải hiểu thế nào là kinh này và thế nào là chú này, mới thấy được ý đó!

    Như đã nói, kinh này là thuộc về chân tâm thường trụ. Chú này tức là tâm chú, chúng ta trì tâm chú mà tâm chuyên nhất, tâm không nghĩ bậy thì có công đức rất lớn, nên trừ được những ma sự. Nếu chỉ đọc chú mà tâm tán loạn thì kết quả có lớn được không? Đọc chú tâm chuyên nhất, không loạn, tức không có kẽ hở thì ma sự làm sao xen vào? Nắm được yếu chỉ này tu hành sẽ không còn nghi ngờ.

    Bài kệ dưới đây tóm tắt yếu chỉ này:

         Nhà ai chẳng có một chân kinh,

         Sao phải nhọc nhằn lật từng trang?

         Một niệm quên duyên thường sáng rỡ,

         So ra muôn quyển có chi bằng!

    Việc căn bản là một niệm quên duyên mà thường sáng rỡ. Người nắm được yếu chỉ đó mà tu là bảo đảm không sợ lạc. Một niệm mà quên duyên tức đâu có trần nào vào được. Nhưng phải thường sáng rỡ, như vậy còn cái gì làm mờ.

    Nếu quên duyên mà không sáng rỡ thì đó là nguy, là vào hang tối; còn sáng rỡ mà nhớ theo duyên thì cũng nguy. Đây thì sáng rỡ mà quên duyên nên đâu có bị loạn, còn quên duyên mà sáng rỡ thì đâu bị mờ. Đó là yếu chỉ tu hành.

    Nhớ là, hễ một niệm quên duyên mà thường sáng rỡ thì so ra muôn quyển có chi bằng, dù cho muôn quyển kinh cũng đâu bằng cái này. Cái đó mới là chân kinh, đó mới là bản ý của Phật dạy. Rõ ràng như vậy.

     

    CHÁNH VĂN:

    Phật nói kinh này rồi, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả loài Trời, Người, loài A-tu-la trong thế gian, các vị Bồ-tát, Nhị thừa, Thánh Tiên, Đồng tử cõi khác và các Đại lực Quỷ Thần mới phát tâm, đều rất vui mừng làm lễ rồi lui.

    GIẢNG GIẢI:

    Đây là phần kết thúc, tức phần Lưu thông chung. Từ đoạn “A-nan! Nếu như có người đem bảy báu cúng dường đó ... cho đến không còn các ma sự” gọi là phần Lưu thông riêng của kinh này.

    Nhưng trong phần Lưu thông chung này có điểm hơi đặc biệt một chút. Thường các kinh tới phần Lưu thông này thì nói: “Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hoặc là Thiên Long Bát Bộ”; còn đây nói thêm các vị Bồ-tát, rồi Nhị thừa, Thánh Tiên, Đồng tử cõi khác, tức là có “những vị Bồ-tát, những hàng Nhị thừa, những vị Thánh Tiên, những vị Đồng tử ở cõi khác đến dự trong pháp hội này. Rồi các Đại lực Quỷ Thần mới phát tâm, những quỷ này mới phát tâm Bồ-đề để hộ trì Phật pháp, tất cả đều rất là vui mừng làm lễ rồi lui”.

    Như vậy trong pháp hội này tất cả đều vui mừng, tất cả chúng hội đều được lợi ích không có luống uổng. Pháp hội của chúng ta đây cũng vậy, mong sao trong pháp hội này mọi người nghe xong cũng đều được lợi ích để phát triển căn lành Bồ-đề thêm vững mạnh mà tiến sâu trên đường Phật đạo không thối chuyển.

    Nhất là trong kinh, Phật đã chỉ rõ chân tâm, vọng tâm, nhấn mạnh mỗi người phải nhận ra chân tâm thường trụ, nó là cái kiên cố không có gì phá hoại được. Còn những cái vọng tâm hư dối, cho đến cả thế giới bên ngoài cũng từ cái gốc của chân tâm Diệu Minh sáng suốt ban đầu bất giác chợt hiện ra, không đáng gì hết. Như vậy, chúng ta thấu biết rõ ràng những vọng tâm để nhận ra chân tâm, sống trở lại chân tâm thường trụ. Đó là cái gốc chân thật. Biết có cái gốc chân thật mà không chịu sống trở về là đáng tiếc. Còn biết là hư vọng mà cứ bám vào không buông đó là đáng trách.

    Cuối cùng, đồng nguyện đem công đức này cùng chia đều hết cho tất cả chúng sanh trong pháp giới, cùng được thấm nhuần lợi ích không tính kể. Bởi vì tất cả chúng sanh cũng đồng có đủ chân tâm thường trụ sáng suốt, cho nên cũng không có riêng biệt, không có chia cách. Nếu mỗi người chúng ta đều ngộ trở lại, sáng tỏ được cái gốc chân thật này thì chúng ta sống với nhau rất vui, xóa dần hết những ngăn cách kia đây. Sở dĩ chúng ta sống có ngăn cách là thấy có mình có người, mà thấy có mình có người là tại bám vào cái ngã này. Do cái ngã này mới có mình có người, đây kia sai biệt.

    Cho nên, khi ai phát minh hay tỏ ngộ trở lại cái gốc chân thật đó rồi liền thấy thông cảm với nhau. Chúng ta đọc trong ngữ lục thấy các vị Thiền sư khi các Ngài ngộ ra rồi liền thông cảm với Thầy, với Tổ. Từ đó, khi nói ra lời gì đều khế hợp, dù cho sống cách xa thời Phật hoặc là xa những thời Tổ trước, nhưng khi ngộ rồi thấy cũng là như nhau, gọi là chỗ thấy không hai. Như Ngài Lâm Tế nói: “Theo chỗ thấy của Sơn Tăng cùng Phật Thích Ca không khác”. Dám nói vậy là bởi Ngài đã thấy được tới chỗ đó rồi. Tuy nhiên, thấy thì thấy không khác nhưng mà công đức là chưa bằng.

    Học bộ kinh Lăng Nghiêm này rồi, chúng ta nắm vững và thấu suốt được những ý chỉ trong đây là có lợi ích rất lớn lao. Phật chỉ dạy cặn kẽ về chân tâm, vọng tâm cho đến những ma sự, những thứ lớp đâu đó rõ ràng. Quả là thắp sáng chánh pháp trong đêm tối vô minh. Công đức trong đây thật không thể nghĩ bàn!

    ***

  • 8. TÓM TẮT Ý CHÍNH KINH LĂNG NGHIÊM

    1. Chúng Sanh Xoay Vần Trong Ba Cõi Dẫn Đầu Là Tâm Dâm

    Đây là điểm nhắc cho người tu hành giải thoát phải hết sức thận trọng, cần phải biết rõ ngăn ngừa và sáng suốt không để sẩy chân rồi hối hận ăn năn không kịp. Trong kinh Lăng Nghiêm, mở đầu lấy nhân duyên Ma-đăng-già khiến Ngài A-nan suýt mất giới thể. Đó là do tâm dâm dục của bà quá nặng, khi dâm dục khởi lên rồi thì không còn biết phải quấy, tốt xấu nữa. Ngài A-nan do còn trí sáng suốt, cảm ứng đến Phật, Phật mới sai Bồ-tát Văn-thù đem thần chú đến cứu. Cho thấy đây là việc không thể xem thường.

    Phần sau của kinh trong bốn nghĩa quyết định, lời dạy quyết định thứ nhất của Phật là người tu hành giải thoát phải đoạn dứt tâm dâm, nên nói “Dâm tâm bất trừ, trần bất khả xuất”. Tức là nếu tâm dâm chẳng trừ thì chẳng thể ra khỏi trần lao sanh tử. Như vậy, mở đầu là việc Ngài A Nan mắc nạn Ma-đăng-già, và trong bốn nghĩa quyết định Phật dạy nghĩa thứ nhất là phải đoạn dứt tâm dâm mới đến tâm sát, tâm trộm.

    Trong mười tập nhân sanh tử thì dâm tập cũng đứng đầu. Cũng như trong giới Tỳ-kheo, giới dâm cũng đứng đầu. Phàm là người tu giải thoát biết nó quan trọng như thế nên phải hết sức thận trọng. Học kỹ rồi chúng ta thấy dựng tóc gáy, lạnh xương sống không? Đó không phải là chuyện đùa chơi, mà phải chín chắn nhận định cho rõ ràng để không phải sẩy chân, vì sẩy chân là khó cứu. Bởi vậy, người tu hành giải thoát phải dứt sạch gốc dâm, đó là căn bản. Nếu còn chủng tử dâm tức là còn đi trong sanh tử, bảo đảm! Dâm rất nguy hiểm. Đây là điểm thứ nhất cần phải nhận rõ.

     

    2. Ngăn Ngừa Đa Văn Mà Thiếu Thật Tu

    Bởi vì phiền não không sợ người học hiểu nhiều, và đa văn không địch nổi với sanh tử, nên đừng quá nghiêng trọng chuyện đa văn. Nhớ kỹ điều đó!

    Đây không phải bác bỏ mình học hiểu nhiều nhưng học hiểu là để tu, tức phải có thật tu. Còn tu mà không học hiểu là tu mù, thì cũng nguy hiểm. Nếu chúng ta không học kinh Lăng Nghiêm thì đâu hiểu được những tâm vi tế, những ma chướng v.v..., nên gặp liền vướng, chính nhờ có biết nên ngăn ngừa. Phải biết rõ sự học hiểu giúp chúng ta sáng tỏ được những lẽ thật để ứng dụng tu, nhưng ngăn ngừa lỗi đa văn mà thiếu thật tu. Bởi dù có bao nhiêu điều hiểu biết suông, khi gặp nạn lớn đem ra dùng cũng không kịp. Giống như Ngài A-nan lúc đó gặp nạn Ma-đăng-già đem ra dùng không được; gặp phiền não, gặp sanh tử cũng không dùng được, bởi vì chữ nghĩa không cứu chúng ta ra khỏi những cơn mê. Cho nên khi Ngài A-nan được cứu về, đến trước Phật tự than trách cho mình, mà cũng là để cảnh tỉnh cho những người sau chớ đạp theo dấu cũ của Ngài.

    Trong kinh, Phật trách Ngài A-nan nghe nhiều mà thiếu thật tu nên chẳng thể thành Thánh quả. Khi đó, Ngài A-nan mới buồn tủi, khóc lóc, năm vóc gieo xuống đất, quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng: “Con từ khi phát tâm xuất gia theo Phật, thường tự suy nghĩ là con không phải nhọc nhằn tu tập mà cho rằng Như Lai sẽ ban cho con chánh định. Nhưng con chẳng biết thân tâm vốn chẳng thay nhau, mất đi bản tâm của con, tuy thân xuất gia mà tâm chẳng vào đạo, thí như chàng cùng tử bỏ cha trốn đi. Ngày nay mới biết tuy được nghe nhiều học rộng nếu chẳng tu tập thì cũng đồng như người chưa nghe không khác, giống như người nói ăn trọn cũng chẳng có no bụng”.

    Ngài A-nan than trách cho mình ban đầu theo Phật xuất gia phát tâm nghĩ là Phật sẽ ban cho thiền định, nhưng giờ mới biết rõ thân tâm vốn không thể thay nhau, mỗi người phải tự lo. Cho nên Ngài nói rất cảm động: “Tuy thân xuất gia mà tâm chẳng vào đạo”. Mỗi người nghe rồi tự xét lại mình xem chúng ta có đạp theo dấu chân như thế không? Đó là điều muốn cảnh tỉnh cho tất cả. Bao nhiêu năm vào chùa, thân chúng ta đã xuất gia mà tâm có vào đạo chưa? Ở chùa bao nhiêu năm, chúng ta học hiểu được Phật pháp cũng tương đối kha khá nhưng có no bụng chưa? Đó là những điểm mỗi người hãy tự quán chiếu, tự xét lại để thấy được chỗ đứng của mình, mới có bước đi đúng đắn, vững vàng. Chính vì để đánh thức người học Phật về ý này mà Thiền tông nhấn mạnh “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” là vậy.

    Thiền tông là không lập văn tự, truyền ngoài kinh giáo. Đó là muốn nhắm thẳng, chỉ thẳng vào tự tâm mỗi người, thấu qua văn tự để đạt được ý thật. Muốn đạt được ý thật đó là phải thật tu, không bị mắc kẹt trên chữ nghĩa văn tự. Bởi vậy, Lục Tổ thị hiện ra đời là một người không biết chữ mà lại kiến tánh, được truyền y bát. Đó là điều đặc biệt. Đọc sử Phật giáo hay là của nhà thiền thấy khó có được người thứ hai, nhưng tại sao Ngài được? Cho nên Ngài đúng là bậc Đại Bồ-tát thị hiện để cảnh tỉnh chúng sanh.

    Nói thẳng ra thì Ngài là anh chàng tiều phu không biết chữ ở vùng quê xa xôi, nghe qua câu Kinh Kim Cang liền sáng tỏ. Đến đạo tràng Ngũ Tổ lãnh việc giã gạo, bửa củi ở sau đến tám tháng, Ngài không được nghe giảng kinh thuyết pháp (đọc trong sử liệu thấy ghi như vậy), vậy mà cuối cùng lại được truyền y bát làm Tổ, vậy đó đâu phải là chuyện trên chữ nghĩa.

    Trong thời gian Lục Tổ ở ẩn nơi nhà người anh của bà ni Vô Tận Tạng, nghe bà tụng kinh Đại Bát Niết Bàn, Ngài mới hỏi rồi giảng nghĩa lý trong kinh cho bà hiểu. Bà ni mới thỉnh Ngài giảng kinh Niết Bàn cho nghe thêm. Ngài mới nói: “Tôi không biết chữ, cô cứ đọc đi rồi tôi sẽ giải nghĩa cho nghe”. Bà liền nói ngay: “Chữ còn không biết, nghĩa làm sao giải!”. Lục Tổ nói mạnh rằng: “Diệu lý của chư Phật chẳng phải ở nơi văn tự”. Tức lý sâu xa nhiệm mầu của chư Phật không phải ở nơi văn tự, không nằm nơi văn tự. Khi nghe Tổ nói như vậy, bà mới giật mình, đoán đây chắc là bậc phi thường. Nên sau đó, bà mới thông báo cho những người chung quanh đến nghe Ngài giảng, rồi tìm ngôi chùa gần đó để sửa lại cho Ngài ở. Nhưng sau đó, những người theo dõi tìm biết được tông tích của Ngài nên phóng hỏa đốt chùa, Ngài gặp nạn bèn chạy lên núi tránh.

    Để nhắc chúng ta thấy rõ việc học hiểu nhiều, hay đa văn nhưng thiếu thật tu cũng không cứu mình được. Cái chân thật như đây nói là diệu lý của chư Phật không nằm nơi văn tự. Bởi vậy, người thiếu sự thật tu là thiếu điều căn bản lớn lao trong đời sống tu hành giải thoát của mình. Tu hành mà thiếu thật tu là một khoảng hở lớn. Đây nhắc chung cho tất cả phải nhớ, phải giữ gìn sự thật tu mới thật sự có được những kinh nghiệm căn bản trên đường giải thoát, để chúng ta có thể chống nổi sanh tử, giảm bớt phần nào phiền não. Nếu không, khi phiền não đến lấy gì để chống lại, rồi sanh tử đến phải làm sao?

    Trong nhà thiền thường nói: “Đến đêm 30 tháng chạp (tức cuối cuộc đời), khi bốn đại sắp chia lìa thì các khổ bức bách, thử hỏi lúc đó bao nhiêu thứ hiểu biết lanh lợi ngày thường làm sao đem ra dùng?”. Không kịp nhớ chứ đừng nói là đem ra dùng! Trong khi hiện nay tức ngay thời điểm khi mà những thứ kia chưa đến, nếu chúng ta có sơ xuất, liền cố gắng hạ thủ công phu thì cũng còn kịp. Ngay đây nếu không hạ thủ công phu cho chín chắn thì lúc đến đó sẽ trách ai? Đó là điểm muốn nhắc thứ hai.

    3. Gạn Cùng Cái Tâm Vọng Chỉ Thẳng Nguồn Chân

    Phật gạn hỏi Ngài A-nan qua bảy chỗ gạn hỏi tâm, Ngài A-nan cố trình bày thế nào đi nữa Phật cũng bác tất cả. Nói tâm ở trong cũng bị bác, nói tâm ở ngoài cũng bị bác, nói tâm ở giữa cũng bị bác, nói tâm ở trong con mắt cũng bị bác; cho đến nói tâm không chỗ dính mắc cũng bị bác. Vì sao vậy? Đó vì có chỗ để trình, mà còn có chỗ để trình tức là chưa phải thật. Tuy nói được giống giống nhưng mà chưa thật thấy; mà chưa thật thấy thì chỉ là suy tưởng, cũng còn nằm trong tình thức.

    Phật gạn hỏi hết để không còn vướng vào những cái hư vọng hay là những vọng tưởng, sau rồi Phật mới chỉ ra cái thật. Ở đây, chúng ta suy nghiệm kỹ mới thấy một điều: “Đã là tâm mình thì tại sao lại phải khổ nhọc như vậy? Để cho Phật phải gạn hỏi tới lui nhiều lần nhọc nhằn!”. Đây là chỗ thân thiết mà ít người quan tâm, chỉ quan tâm đến những cái không đáng. Đã vậy còn phải chờ Phật khai thị, dù Ngài A-nan thỉnh Phật khai thị chỉ cho, nhưng Phật cũng chưa thể chỉ thẳng ngay đó được mà phải mượn cái này để chỉ cái kia. Gọi là mượn tánh thấy, mượn tánh nghe rồi gợi ý cho người tự ngộ trở về chớ Phật cũng không thể chỉ thẳng được. “Tâm của ông mà ông không ngộ thì làm sao chỉ được!”. Thành ra, Phật chỉ gợi ý để tự ngộ thôi.

    Chúng ta thấy Phật dùng phương tiện để chỉ cái thật bằng cách giơ bàn tay xòe nắm và bảo Ngài La-hầu-la đánh chuông, đó là mượn tánh thấy, tánh nghe để gợi ý. Bởi vì mê cũng là từ sáu căn thấy-nghe-hay-biết này mà đi vào trong trần lao, rồi giác cũng từ sáu căn thấy-nghe-hay-biết này mà trở về, chứ không con đường nào khác.

    Có đoạn mười phương chư Phật đồng phóng hào quang đến khai thị cho Ngài A-nan và đại chúng, khắp bảo: “Lành thay A-nan! Ông muốn biết câu sanh vô minh là đầu gút khiến ông mãi luân chuyển sanh tử đó chính là sáu căn của ông chứ không phải vật gì khác. Rồi ông muốn biết tánh Vô thượng Bồ-đề khiến ông mau chứng an lạc, giải thoát, tịch tịnh diệu thường cũng là sáu căn của ông chứ không phải vật gì khác”. Đó là để chứng minh cho thấy mười phương chư Phật đều đồng một con đường.

    Câu sanh vô minh tức là vô minh căn bản, vô minh gốc, nó cùng sanh chung với chúng ta, chúng ta có là nó có theo. Như vậy nói đơn giản là, cái gốc khiến cho ông luân chuyển sanh tử, chính ngay sáu căn đây; cái gốc khiến ông chứng Vô thượng Bồ-đề được an lạc giải thoát cũng ngay sáu căn này chứ không đâu khác. Tức từ ngay sáu căn này mà đi vào sanh tử, rồi cũng từ sáu căn này mà trở về Niết-bàn. Mười phương chư Phật đồng xác nhận như vậy, mới thấy là nó quá gần mà cũng quá xa. Cái gốc là ở nơi mỗi người chứ không phải ở đâu khác, nhưng không tin thì lo chạy tìm mà không thấy nên thành xa.

    Tuy nhiên, cần sáng tỏ hai thứ căn bản Phật muốn chỉ: “Một là căn bản sanh tử từ vô thủy tức là chính hiện nay ông và các chúng sanh dùng tâm phan duyên làm tự tánh. Thứ hai là thể Bồ-đề Niết-bàn nguyên thanh tịnh từ vô thủy tức là cái thức tinh nguyên minh của ông hiện nay nó hay sanh ra các duyên mà bị các duyên bỏ sót nó. Do chúng sanh bỏ sót cái tánh bản minh này nên tuy trọn ngày động dụng mà chẳng tự biết, uổng trôi vào các cõi”. Chúng ta phải thấu rõ hai thứ căn bản này là biết đường trở về.

    “Ông và các chúng sanh đang dùng cái tâm phan duyên làm tự tánh đó là căn bản sanh tử từ vô thủy”. Dùng tâm phan duyên làm tự tánh tức là lấy tâm phan duyên đó làm chính mình, cho là mình thật. Tất cả người thế gian cũng đều như vậy, đều lấy tâm phan duyên làm tự tánh, làm tự ngã, cho đó là ta. Nhưng nó là tâm phan duyên, tức cái tâm bám vào duyên làm sự sống, không có duyên coi như chết, thành ra sống lệ thuộc theo duyên nên phải đi vào sanh tử là vậy.

    “Thể Bồ-đề Niết-bàn thanh tịnh từ vô thủy tức là cái thức tinh nguyên minh nó hay sanh ra các duyên mà bị các duyên bỏ sót. Do chúng sanh bỏ sót cái bản minh này (sáng suốt sẵn có), nên phải chịu trôi vào các thú”. Nay chúng ta biết thì chuyển trở lại. Ngay khi nó sanh các duyên, theo các duyên mà chuyển lại là không bỏ sót chính nó, thì đó là con đường trở về thể Bồ-đề Niết-bàn thanh tịnh từ vô thủy. Nghĩa là nó biết tất cả, biết hết cái này đến cái kia, rồi đồng hóa nó với các thứ, các duyên mà quên đi chính nó, thành ra sống lệ thuộc theo duyên, là đi vào sanh tử.

    Bây giờ nó cũng biết các duyên nhưng không đồng hóa nó với các duyên cho nên lúc nào cũng sáng tỏ. Đó là đường về ngay trước mắt, không đợi tìm chỗ nào khác. Mới thấy đường mê, đường giác ngay chỗ dùng hàng ngày thôi. Bởi vậy, trong phần tổng luận của Kinh Lăng Nghiêm Trực Chỉ, Ngài Hám Sơn có câu: “Việc hàng ngày của kẻ tầm thường, chính là chỗ để tâm của bậc Thượng triết”. Ngay việc hàng ngày của những kẻ tầm thường đó, lại chính là chỗ đi của bậc Thượng triết sáng suốt chứ không đâu khác.

    Các Ngài khi ngộ đạo rồi thì cũng thấy nghe hiểu biết này, chúng ta cũng thấy nghe hiểu biết này, nhưng chúng ta thấy nghe hiểu biết mà chỉ nhớ theo các duyên, nhớ cái bị thấy, bị nghe, bị hiểu, bị biết mà quên mất chính nó, nên mê là chỗ đó. Còn các Ngài cũng thấy nghe, hiểu biết nhưng không quên mất chính nó, chỉ khác chỗ đó.

    Bởi vậy, xét cho sâu, cho tột trở lại cái gốc ban đầu vốn chỉ là một tâm Như Lai Tạng sáng suốt nhiệm mầu tròn đủ, không có gì thêm bớt trong đó. Nhưng lỗi tại chỗ nào? Lỗi là ngay đó bất chợt quên đi cái minh mà vọng khởi soi sáng trở lại nó. Kinh nói rõ, nó vốn là “minh” mà lại “diệu” nữa, nên gọi “diệu minh”, tức nó vượt ngoài mọi thứ văn tự, chữ nghĩa. Nhưng người ta bất chợt lại quên nó, tưởng đâu nó không có “minh” cho nên mới đem cái “minh” để “minh” trở lại nó, biến nó thành ra cái đối tượng để “minh”, là thành cái thứ hai. Rõ ràng biến nó thành ra vọng, tức biến nó thành cái bóng thứ hai để soi sáng. Lầm là chỗ đó. Do đó liền chia ra có năng có sở, rồi lần lượt có thế giới, có chúng sanh, có thân tâm sai biệt hiện dẫy đầy, quên mất cả nguồn gốc chân thật xưa nay cũng từ một niệm bất giác ban đầu đó. Như vậy là ở trong chỗ thanh tịnh sẵn vậy mà chợt sanh sơn hà, đại địa đủ thứ lăng xăng, quên mất cả đường về.

    Tuy vậy, dù là ở trong cảnh lăng xăng bao nhiêu thứ che tối cả mặt mày, nhưng xét cho tột lại cũng là cái vọng, tức không có thật thể. Nếu người khéo ngộ trở lại thì ngay “vọng” tức “chân” đâu phải có cái chân nào khác, không phải nhọc nhằn tạo tác thêm. Đó cũng chính là lời của Ngài A-nan khi sáng được lẽ thật này, Ngài mới trình trước Phật bài kệ, trong đó phần đầu của bài kệ là:

         Đấng Diệu Trạm Tổng Trì Bất Động,

         Thủ Lăng Nghiêm Vương đời ít có.

         Tiêu con ức kiếp tưởng điên đảo,

         Chẳng trải tăng-kỳ được Pháp thân.

    Câu đầu tán thán Đức Phật là đấng Diệu trạm Tổng trì Bất động. Câu thứ hai tán thán pháp Thủ Lăng Nghiêm là vua, thật ít có ở trong đời. Nhờ đó Ngài trừ được những điên đảo vọng tưởng từ vô lượng ức kiếp, ngay đó nhận được Pháp thân mà không phải trải qua ba tăng-kỳ kiếp. Rất đơn giản và nhanh chóng.

    Như vậy, nếu khéo xoay trở lại là ngay đây nhận ra được Pháp thân chân thật không sanh diệt, không phải nhọc nhằn tìm trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp, vì nó có sẵn. Tức là ngay đó đã vượt qua vô số kiếp lầm mê che mờ. Tuy nhiên, đã nhận được nơi mình đầy đủ Pháp thân chân thật, không phải tạo tác gì thêm nữa, nhưng vì những tập khí vọng tưởng phiền não chưa hết ngay, cho nên phải tu tập tiếp để gạn lọc những vọng tưởng hư dối và tập khí lầm mê đó. Gạn hết những cái đó tức là sống trọn vẹn trong Pháp thân, vậy thôi, chứ đâu phải có thêm cái gì khác nữa. Đây là điểm chúng ta cần phải nắm vững.

    4. Tất Cả Đồng Về Một Tâm

    Tuy nói là chân là vọng nhưng nó cũng đồng là một tâm chứ không riêng có. Bởi mê cái tâm Như Lai Tạng nên nó vọng sanh tất cả sai biệt làm che mờ chính mình. Nhưng đó cũng chỉ là vọng sanh, tức không có thật thể nên rốt ráo nó cũng chỉ là một tâm chân như.

    Khi giác được vọng vốn không, thì nó nguyên là một thể chân chứ không có cái chân nào riêng ngoài cái vọng để được. Không có một cái vọng riêng ngoài cái chân, ngược lại cũng không có một cái chân nào riêng ngoài cái vọng, tức là không có hai cái thể riêng. Chỗ này là chỗ rất vi tế nên cần phải thấu đáo chỗ này, nếu không sự tu hành dễ mắc kẹt vào chứng đắc, thấy ngoài cái vọng có cái chân để mình chứng; hoặc là ngoài cái chân có cái vọng rồi cứ lo trừ.

    Nếu thấy thật có cái vọng ngoài cái chân thì bảo đảm không bao giờ trừ hết được, bởi nó là thật. Rồi ngoài cái chân mà riêng có cái vọng, lại tìm cách trừ bỏ thì cuối cùng bỏ đi đâu? Còn có chỗ bỏ thì chính chỗ đó còn sanh trở lại, vì nó còn có chỗ mà! Còn khi ngộ vọng tức chân rồi thì không còn dấu vết để sanh trở lại. Mới rõ suốt là ngoài tâm không riêng có một pháp thật, cũng chỉ là một tâm Như Lai Tạng thôi.

    Nếu rõ suốt ngoài tâm không có một pháp thật thì còn có chỗ nào để sanh tâm? Tâm duyên vào cái gì để mà sanh? Sở dĩ tâm sanh là vì thấy có pháp thật, tức là có chỗ để cho nó duyên nên nó mới sanh. Còn không có một pháp thật nào ngoài tâm hết thì còn gì để sanh? Không còn gì để sanh tức là vô sanh rồi. Là tâm vô sanh. Tâm không sanh thì pháp nhân đâu mà lập được? Ngay đó tâm pháp đều vắng bặt, thì còn gì để mà hý luận kia đây. Cho nên đến chỗ rốt ráo là bặt hý luận, còn hý luận này kia là còn dấu vết chưa xong.

    Trong phần sau của kinh, Đức Phật có kết lại và dạy: “A-nan, xét rõ bảy loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần tiên và Trời cho đến A-tu-la như thế đều là những tướng hữu vi tối tăm giả dối vọng tưởng thọ sanh, rồi giả dối vọng tưởng theo nghiệp. Đối với cái diệu viên minh bản lai không năng tác, sở tác đó, thì những cái kia đều là hoa đốm giữa hư không, vốn không dính dáng, chỉ một cái hư vọng, chứ không có cội gốc manh mối gì”. Tức là cả bảy loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần tiên, Trời cho đến A-tu-la đều là những tướng hư dối, là vọng tưởng thọ sanh theo nghiệp. Đối với cái chân thật diệu viên minh này thì nó giống như hoa đốm giữa hư không không dính dáng, rốt ráo chỉ là cái hư vọng không có cội gốc manh mối. Thấy suốt được vậy là mới thấu tột được cái vọng.

    Cũng như bài kệ của Bồ-tát Văn-thù nói rằng:

           Hư không sanh trong biển đại giác,

           Như hòn bọt nổi trên biển cả.

           Các cõi hữu lậu như vi trần

           Đều nương hư không mà phát sanh.

           Bọt nổi diệt hư không vốn không,

           Huống nữa là hình tướng ba cõi.

    Đây nói hư không sanh trong biển đại giác thì cũng giống như hòn bọt nổi trên biển cả vậy thôi. Rồi bao nhiêu cõi hữu lậu tức là thế giới như vi trần đều nương hư không mà sanh. Như vậy, nếu hòn bọt đó diệt rồi thì hư không vốn cũng không, hư không còn không huống nữa bao nhiêu thứ kia, bao nhiêu thế giới có dính dáng gì? Nếu thấu được như vậy rồi thì còn chỗ nào để sanh đến! Không còn chỗ nào sanh đến tức ngay đây Niết-bàn thôi. Ý nghĩa rất là rõ ràng. Cho nên trong kinh có câu: “Một người trở về nguồn chân thì mười phương hư không thảy đều tiêu mất”. Đó là điểm chúng ta cần phải thấy.

    5. Lý Sự Viên Dung

    Chúng ta cần phải thấy được ý nghĩa lý sự viên dung chứ không phải chỉ nói một bên lý. Tuy về nguồn vốn là không hai, chỉ một tâm chân như hay tâm Như Lai Tạng không gì khác, nhưng mà phương tiện lại có nhiều lối. Quan trọng là lối nào thích hợp với căn cơ của mình là tốt, không nên khen chê hơn kém mà thành có ngại. Đừng nói căn này là nhất, căn kia không phải nhất. Nhất là nhất với người này nên cho là nhất nhưng lại không hợp với người kia, người kia tu pháp kia hợp nên cho pháp đó là nhất với người kia. Bồ-tát Văn-thù nói giáo thể cõi này là từ nghe mà được, nên Ngài chọn nhĩ căn viên thông cho người cõi này, đó cũng là phương tiện chung. Nhưng trong cái chung đó cũng có cái riêng tức cũng còn tùy căn cơ sai biệt.

    Nếu căn cơ thích hợp với nhãn căn thì tu nhãn căn cũng tốt, không bắt buộc phải cứng ngắt theo một căn nào. Sở dĩ căn cơ có sai biệt, là do tâm huân tập không đồng. Tâm mỗi người huân tập mỗi nghiệp khác, nên căn cơ khác là khác chỗ đó. Nếu tâm huân tập giống nhau thì căn cơ cũng giống nhau. Do chỗ tâm huân tập sai khác, từ đó có chậm có mau mới có người đốn người tiệm hoặc là đi vào đường tẽ. Đường tẽ tức là cõi tiên, cõi trời hoặc đi vào ma đạo. Đó là do sự huân tập sai khác.

    Nhưng xét lại cái sai khác tức cái không đồng đó nó cũng không có thật thể, tức là không có thật ngã, cũng là cái vọng sanh. Như vậy rốt ráo cũng chỉ là một tâm. Khi thấy được chỗ này thì không kẹt nơi sai biệt để thành ngưng trệ, vì gốc cũng chỉ từ nhất tâm. Nhờ vậy không mắc kẹt nơi thứ lớp, tâm không bị trệ ngại, do đó gọi là viên dung mà chẳng ngại hành bố (tiệm thứ). Tức là viên dung mà không ngại thứ lớp, cũng như thứ lớp thông suốt không ngăn ngại với viên dung, rốt ráo là trở về vô sở đắc. Cho nên còn thấy có được là còn lớp vọng, nhớ kỹ!

    Trong đây, cốt yếu ban đầu là cần nhận ra Căn bản trí để dẫn đường, đó là quan trọng. Do có Căn bản trí dẫn đường, thì trước sau thông suốt không có hai. Căn bản trí là trí chân thật, trí vô phân biệt, trí không hai. Có trí đó dẫn đường dù đi trong sai biệt nhưng không quên mất cái này nên không mắc kẹt nơi sai biệt. Mà Căn bản trí cũng ngay nơi tự tâm chớ không ngoài tâm mà riêng có. Vậy cần ngộ nơi nhất tâm là yếu chỉ hơn hết, còn những cái tâm nhiều thứ này là cái bóng, thuộc hư vọng, không quan trọng.

    Đến đây, chúng ta thấy Thiền và Giáo gặp nhau, nói Thiền nói Giáo cũng chỗ đó thôi. Giáo cũng đâu ngại Thiền mà Thiền cũng đâu ngại Giáo. Vậy đâu còn gì phải khen chê đây kia. Cho nên thấu suốt như vậy thì không ngăn ngại. Còn người không thấu suốt liền chê Giáo, hoặc Giáo chê Thiền liền thành ra ngăn ngại, mà ngăn ngại là tự mình ngăn ngại, còn lẽ thật này đâu ngăn ngại ai. Đọc sách thiền, Ngài Huyền Sa - Sư Bị nhân xem kinh Lăng Nghiêm phát minh được tâm địa, rồi Ngài truyền thiền cũng đâu có gì trở ngại, mà lại càng làm sáng tỏ thêm. Đó là cái ý để tất cả thấy được nghĩa vì sao phải có lý sự viên dung, không thể nghiêng một bên.

    6. Trừ Ấm Ma Để Suốt Thẳng Vô Thượng Đạo, Không Kẹt Dừng Ngay Nửa Đường Hoặc Đi Vào Đường Tẽ

    Bởi chữ ấm tức là che mờ. Chưa qua khỏi năm ấm tức là còn bị che là giác ngộ chưa được viên mãn. Sở dĩ có ma chướng sanh cũng do tâm mong cầu, khởi chấp rồi động niệm tà, hoặc tự cho là đủ, cũng từ tâm sanh thành có chướng. Ở đây cần biết rõ nó để không lầm, không chấp, và cốt yếu là có Căn bản trí luôn sáng soi giúp chúng ta được an tâm. Có Căn bản trí là lúc nào nó cũng soi sáng, không lầm đi vào trong các đường tẽ. Như vậy, mới thấy Thiền tông nêu cao kiến tánh là có ý chỉ sâu xa, nhấn mạnh cho người phải kiến tánh, kiến tánh khởi tu mới có ánh sáng soi đường.

    Tuy nhiên, khi học chúng ta nghe nói có nhiều thứ ấm ma, có người nghe sợ hết dám tu. Nhưng cũng đừng nghe nói vậy mà sợ thành chướng. Bởi vì ma cũng là vọng, do không biết nên mới lầm chấp thành chướng. Quan trọng là biết mà không chấp thì đâu có gì để ngăn ngại. Cho nên, chúng ta phải học cho kỹ, nhận biết rõ ràng để không nhận lầm. Biết thì không lầm.

    Hòa thượng Tuyên Hóa nói: “Khi những hiện tượng âm xuất hiện thì quý vị nên giữ tâm yên tĩnh như thể những hiện tượng ấy không có tồn tại vậy”. Hiện tượng âm hiện thì hiện nhưng chúng ta phải giữ tâm mình yên tĩnh, không bị xao động giống như nó không có. Lỗi là do chúng ta quan trọng nó, quan tâm đến rồi theo nó mới là bị mê. Còn đây Ngài nói như thể những hiện tượng ấy không tồn tại, tức thấy như không thấy, nghe như không nghe, ngửi mà không biết mùi vị của nó, vậy nó đâu làm gì được.

    Nếu quý vị không tự ràng buộc mình vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì ấm ma chẳng làm gì được quý vị. Nếu quý vị không tham, sân, si thì quý vị sẽ hàng phục được ấm ma”. Những cái đó cũng do phiền não tham, sân, si khởi thôi.

    Còn nếu quý vị không mắc phải những sai lầm như tự tư, tự lợi, mong cầu, tham luyến, tranh giành v.v... thì chẳng có ma nào hại được quý vị cả.” Sở dĩ có ma là do tâm mong cầu, tham luyến rồi tự tư, tự lợi, ích kỷ v.v..., những cái đó làm che mờ. Chính vì đó cho nên thấy mình được, hoặc là chưa gì muốn cho mau hoặc là ham thế này thế kia v.v... Như ham sống lâu đó cũng là cái tự tư, ích kỷ, muốn cho mình sống lâu, sung sướng, nói chung vì mình có tâm ma nên ma mới có cơ hội. Khi chúng ta đã biết rõ thì không lầm mắc vào những tâm ma này nữa, giữ vững một tâm yên tĩnh sáng suốt tiến lên không dừng đâu cả, là không có ma nào hại được.

    Chúng ta sống trong sanh tử luân hồi lâu xa rồi, cần phải nhớ quán cho kỹ chỗ này. Từ khi một niệm bất giác đi vào trong cuộc luân hồi cho đến hôm nay nhìn lại, xem như đến đây là đủ rồi, quá đủ rồi! Từ lúc đi vào trong cuộc luân hồi, rồi lăn lộn xoay vần như vậy cho đến hôm nay là đối với trong sáu đường luân hồi chúng ta đã đi đủ hết, không thiếu đường nào, từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Trời, người, A-tu-la qua tất cả. Kiểm lại nội tâm mình là biết ngay, những chủng tử đó vẫn còn.

    Cho nên, chúng ta thấy có khi tâm rất thanh cao giống như ở cõi trời, có lúc như A-tu-la, chạm vào là nổ liền. Cũng có lúc rất tối tăm giống như thú vật, hoặc là có lúc rất đau khổ như cõi địa ngục, đủ hết những thứ chủng tử trong đó. Chúng ta quán kỹ rồi thấy là quá đủ, chỉ còn cách là đi ra không phải tiếc nuối. Thấy được vậy là một đường thẳng tiến tu, không còn phải tham luyến gì nữa. Thử nghĩ, sống mà sống trong cái hư vọng này hoài có gì vui sướng để mà bám! Chỉ là mê thôi! Còn hiểu rõ rồi thì không thấy có gì vui sướng để bám trong đó, nó là cái vọng mà!

    Đường về lại ở ngay trước mắt mà không chịu về là sao? Tức ngay chỗ sáu căn thấy-nghe-hay-biết, ngay hiện tiền đây thôi! Không phải tìm đâu khác nên đâu phải chờ gì nữa. Trong khi mỗi người có đủ cái gốc chân thật, tức là Pháp thân hay tâm Như Lai Tạng mà không chịu nhận, rồi lại nhận những cái hư vọng này để rồi chịu khổ nhọc lang thang không có điểm tựa. Vậy có gọi là người sáng suốt không? Chúng ta phải quán chiếu như thế. “Đây là hồi chuông cảnh tỉnh lớn lao cho tất cả để mau thức tỉnh quay trở về!”.

    Trong kinh Lăng Nghiêm, đoạn vào đầu Phật bảo Ngài A-nan rằng: “Các ông phải biết, tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sanh tử tiếp nối đều do chẳng biết chân tâm thường trụ, tánh thể trong sạch sáng suốt, lại nhận các vọng tưởng, mà các tưởng này không phải chân thật cho nên bị lưu chuyển”.

    Phần vào đầu, Đức Phật đã khai thị cho Ngài A-nan và đại chúng rõ điều này, chân tâm thường trụ, tánh thể trong sạch sáng suốt lại không biết, rồi nhận các thứ vọng tưởng, bị các thứ vọng tưởng chi phối cho nên phải chịu lưu chuyển, vì nó là vọng. Còn nhận trở lại chân tâm thường trụ sáng suốt đó là đường về, là Niết-bàn, là ngược dòng lưu chuyển. Đó là điểm mà tất cả cần phải thấu suốt, không thể lờ mờ.

    Để thấy rằng, dù cho ai đó là Trời, là người, là A-tu-la, là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh gì đi nữa cũng đều nên phát tâm Bồ-đề để sống trở về với chân tâm thường trụ nhiệm mầu sáng suốt này chớ có theo cái hư vọng nữa! Quan trọng là cần phát tâm Bồ-đề để trở về. Đó là điểm muốn nhắc, muốn khơi dậy cho tất cả thức tỉnh trở về.

    Cuối cùng khi học xong kinh Thủ Lăng Nghiêm này, đồng nguyện nhất tâm đem công đức này hồi hướng chia đều cho tất cả chúng sanh trong pháp giới dù cõi hữu hình hay vô hình, đều được lợi ích an lạc để thức tỉnh quay về cái gốc chân thật, bởi vì ai ai cũng đều có cái gốc chân thật. Đây có bài kệ nhắn gởi cho tất cả:

           Này hỡi ai ai sống khắp nơi!

           Nhiều kiếp trầm luân đã đủ rồi!

           Nay hãy quay về trong bản giác,

           Sáng ngời muôn thuở suốt ba thời.

                Suốt ba thời,

           Đấy chính Như Lai thật bản hoài!

    ***

Mục lục

Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký (tập 4)
  • 2. MỤC 22 KHAI THỊ PHẦN TRONG, PHẦN NGOÀI CỦA CHÚNG SANH
  • 3. MỤC 23 CHỈ RA MƯỜI TẬP NHÂN, SÁU ĐƯỜNG GIAO BÁO
  • 4. MỤC 24 CÁC CÕI TRỜI SAI KHÁC
  • 5. MỤC 25 KHAI THỊ CHỖ HƯ VỌNG CỦA BẢY LOÀI
  • 6. MỤC 26 PHÂN BIỆT CÁC ẤM MA
  • 7. PHẦN 03 LƯU THÔNG
  • 8. TÓM TẮT Ý CHÍNH KINH LĂNG NGHIÊM

Tìm kiếm

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 87342
  • Online: 28