Nhập Bồ Tát hạnh

01/03/2017 | Lượt xem: 2

Danh mục: Phật học

Tác giả: Các Giảng Sư

Bodhicaryàvatàra
NHẬP HẠNH BỒ TÁT
Sàntideva (Tôn giả Tịch Thiên)
Việt dịch: Nguyên Hiển - Hiệu đính: Lê Triều Phương
TUỆ QUANG FOUNDATION
-Ấn bàn điện tử, Xuân 2009-

LỜI NÓI ĐẦU

Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát. Đọc tụngluận này, hành giả có thêm hùng tâm dũng chí để giúp Đạo, cứu đời. 

Dịch giả đã tham cứu các bản dịch dưới đây:

- Bản Hán dịch của Trần Ngọc Giao 
- Bản Pháp dịch của Georges Driessens 
- Bản Anh dịch của Kate Crosby và Andrew Skilton
Bản Việt dịch của Thích Nữ Trí Hải

Luận này là sách gối đầu giường của Tăng, Ni, Phật tử theo lối tu Đại thừa ở Ấn Độ, Tây Tạng, Mông Cổ và Trung Hoa. Vì dịch theo lối thi kệ để dễ tụng đọc và dễ nhớ cho nên quá súc tích và quá ngắn gọn, vì vậy không thể tránh khỏi có chỗ vụng về và tối nghĩa. Xin chư tôn đức cùng qúy Phật tử cao minh từ bi chỉ giáo để khi tái bản dịch phẩm này được hoàn chỉnh hơn. 

Xin chân thành cảm tạ hai Pháp hữu Tâm Zen và Như Pháp Trí đã giúp phần hiệu đính và hoàn thành dịch phẩm này. Xin hồi hướng công đức đến pháp giới chúng sanh thoát ly luân hồi khổ não, viên thành Phật đạo. 

California, Mùa Phật Đản 2459-2005 
Nguyên Hiển 

  • 1. Tiểu sử Tôn giả Tịch Thiên

    TIỂU SỬ
    TÔN GIẢ TỊCH THIÊN (SÀNTIDEVA) 
    Thích Trí Siêu (Pháp)

    Theo truyền thuyết tôn giả Sàntideva sinh ở miền Nam Ấn, vùng Sri Nagara vào khoảng thế kỷ thứ 7. Ngài là thái tử con vua Surastra. Từ những kiếp quá khứ, ngài đã cúng dường phụng thờ nhiều đức Phật và đã tích tụ nhiều căn lành đưa đến giải thoát. Nhờ phước đức ấy nên ngay từ lúc ấu thơ, ngài đã nhiều lần chiêm bao thấy Văn Thù Bồ Tát.

    Lớn lên, đến tuổi sắp được vua cha truyền ngôi, một hôm ngài nằm mộng thấy hai vị Bồ tát: Văn Thùvà Tara. Bồ tát Văn Thù ngồi trên ngai vàng, bảo ngài rằng: ”Ở đây không có chỗ cho hai người”. Bồ tát Tara tưới nước nóng trên đầu ngài và nói rằng: ”Vương quyền chính là nước sôi bỏng của địa ngục. Ta đang tấn phong cho ngươi về nước nầy đây.”

    Tỉnh dậy, ngài hiểu rằng đó là sự khuyến cáo của hai vị Bồ tát, nên đêm hôm trước khi ngài lên ngôi, ngài rời bỏ cung thành trốn vào rừng sâu. Sau 21 ngày lang thang trong rừng, vừa khát vừa đói, ngài gặp được một con suối, sắp sửa định uống thì có một thiếu nữ xuất hiệnbảo ngài đừng uống vì đó là nước độc, sau đó thiếu nữ dâng cho ngài một thứ nước thơmngọt như cam lồ. Giải khát xong, ngài hỏi thiếu nữ: ” Cô ở đâu đến?” . Thiếu nữ trả lời: ”Ở giữa khu rừng mênh mông này là nơi thầy tôi ở, ngài rất đạo đức, từ bi và đã thành tựuphép tam muội củaVăn Thù Kim Cang Sư Lợi (Sri Manjuvajra). Tôi từ đó đến đây”. 

    Vừa nghe như thế, tôn giả Sàntideva mừng rỡ như kẻ nghèo bắt được vàng, yêu cầu thiếu nữ dẫn ngài đến gặp vị thầy kia. Đến nơi ngài thấy đó là một vị hành giả (Yogi) sống trong một chòi lá, ngài liền đảnh lễ, xưng tán cúng dường và cầu xin được truyền phép tam muộicủa Văn Thù Bồ Tát. Sau 12 năm ở đó tu tập, ngài chứng được phép tam muội trên, thấy được vị thầy kia chính là Văn Thù và thiếu nữ kia chính là Tara. Kể từ đó ngài luôn luôn được thấy Văn Thù Bồ Tát. 
    Sau đó ngài đi về phương Đông, xin vào làm việc trong triều của vua Pancamasimha. Nhờ tài giỏi và thông minh nên ngài được vua trọng vọng cho làm Thừa Tướng. Để tỏ lòng thànhkính nhớ ơn vị thần linh chủ hộ của mình, tức Văn Thù Bồ Tát, ngài luôn đeo trên mình một thanh kiếm gỗ. Ngài giúp vua trị vì đúng theo Phật pháp và truyền dạy nhiều kỹ nghệ mới lạ. Điều đó khiến các vị đại thần khác ganh tức, tìm cách gièm pha và hãm hại ngài. Họ bảo vua rằng: ”Thừa tướng là một người gian xảo, luôn đeo trên mình một thanh kiếm mà không bao giờ rút ra cho ai xem cả. Chúng tôi biết thanh kiếm ấy làm bằng gỗ. Gặp lúc nguy biến làm sao Thừa tướng có thể cứu nguy cho Bệ hạ được? Xin Bệ hạ hãy khám nghiệm lại”. Vua tin lời cho triệu Thừa tướng vào bắt phải rút kiếm ra khỏi vỏ cho vua xem. Thừa tướng nói: ” Kiếm của tôi, Bệ hạ không thể nhìn được, nếu không Bệ hạ sẽ hối hận”. Nghe vậy, vua càng nghi ngờ nhất quyết đòi xem. 

    Cuối cùng, Thừa tướng nói với vua: ”Nếu Bệ hạ nhất quyết muốn xem thì hãy theo tôi đến chỗ vắng, lấy tay che mắt phải lại, chỉ nhìn bằng mắt trái thôi”. Vua chấp thuận và Thừa tướng rút kiếm ra, hào quang lóe lên quá mạnh khiến con mắt trái của vua rơi xuống đất. Vua liền ăn năn hối hận, biết ngài là một người đắc đạo, một Đại thành tựu giả nên cầu xinsám hối. Biết vua đã ăn năn, Thừa tướng nhặt mắt trái của vua bỏ vào tròng lại khiến vua khỏi mù. 
    Sau đó tôn giả bỏ chức Thừa tướng, tìm đến tu viện Nalanda, xuất gia thọ giới, được đặt tên là Sàntideva. Sau khi nghe hết ba tạng kinh điển, tôn giả thầm biên soạn 3 bộ luận: Siksàsamuccaya, Sùtrasamuccaya và Bodhicaryàvatàra. 

    Ngài tu mật hạnh, học trực tiếp với Văn Thù Bồ tát trong thiền định. Tất cả thời ăn, ngủ, đi, đứng, ngài đều thiền quán về Thanh Quang. Tuy vậy, chúng tăng bên ngoài thấy ngài chỉ ăn với ngủ, không chịu văn, tư, tu gì cả. Thấy thế một số Thượng toạ học giả họp nhau lại định tống khứ ngài ra khỏi tu viện. Có người cho ý kiến: Nếu chúng ta họp lại, bắt mỗi người phải tuần tự trùng tuyên lại Kinh Luận ; ban đầu ngài từ chối, nói rằng không biết gì. Chúng tăng muốn làm nhục ngài nên làm bộ nài nỉ, cuối cùng ngài nói: ”Nếu vậy, phải làm cho tôi một toà sư tử tôi mới trùng tuyên”. Nghe vậy có vài người đâm ra nghi ngờ, nhưng đa sốchấp thuận vì tin rằng ngài không thể trùng tuyên Kinh Luận gì được. 

    Sau khi lên ngồi toà sư tử, ngài hỏi: ”Các vị muốn tôi tụng lại Kinh Luận đã có từ trước hay những sáng tác mới sau này?”. Vì muốn chế giễu ngài nên đại chúng nói: ”Những sáng tácmới sau này”. Thế là ngài bắt đầu tụng lên Bồ Tát Hạnh (Bodhisattava-caryavatara). Khi tụng đến câu: Khi Có và Không không còn khởi lên trong tâm…... thì ngài bay lên hư khôngrồi từ từ biến mất, nhưng tiếng của ngài còn vọng lại cho đến câu kệ cuối cùng của Bồ Tát Hạnh. Không thấy ngài nữa, Tăng chúng hối hận trở về phòng ngài tìm kiếm, thấy trên bàn để lại ba quyển: Sutràsamuccaya (Tập kinh luận), Siksàsamuccaya (Tập Bồ Tát học luận) và Bodhicaryàvatàra (Nhập Bồ đề hành luận).

  • 2. CHƯƠNG MỘT : LỢI ÍCH CỦA TÂM BỒ ĐỀ

    CHƯƠNG MỘT 
    LỢI ÍCH CỦA TÂM BỒ ĐỀ

    Đối tượng và mục đích

    1. Con trân trọng cúi đầu 
    Đảnh lễ các đức Phật (1) 
    Cùng các vị Thừa Kế (2) 
    Và những bậc đáng kính; 
    Con nương lời Phật dạy 
    Xin nêu lên ngắn gọn 
    Lối vào hạnh Bồ Tát 

    2. Luận này nghĩa chẳng mới 
    Vần điệu cũng không hay 
    Chẳng dám vì lợi tha 
    Viết ra chỉ nhắc nhở 
    Và thấm nhuần tâm mình. 

    3. Nhờ sự nhắc nhở này 
    Mà tín tâm tăng trưởng 
    Ai cùng một tin tưởng 
    Cũng được lợi ích nhiều.

    Lợi ích của tâm bồ đề

    4. Hạnh phúc thay gặp duyên 
    Sinh ra thân con người 
    Nay không nhân cơ hội 
    Để tu hành giải thoát 
    Sau này tìm đâu ra. 

    5. Như đêm mây dày dặc 
    Được lằn chớp chiếu soi 
    Nhờ thần lực chư Phật 
    Tâm lành thoảng khởi lên. 

    6. Đức hạnh rất yếu mềm 
    Trước sức mạnh điều ác 
    Chỉ có tâm Bồ đề 
    Mới cưỡng lại, đứng vững. 

    7. Trải bao kiếp tư duy 
    Phật thấy tâm Bồ đề 
    Có công đức vô lượng 
    Cứu vô số chúng sinh 
    Thoát ra ngoài biển khổ. 

    8. Muốn thoát khổ của đời 
    Trừ tai ương muôn loài 
    Muốn hưởng chân hạnh phúc 
    Chớ rời tâm Bồ đề 

    9. Người người trong sanh tử 
    Phát khởi tâm Bồ đề 
    Được gọi là con Phật 
    Xứng đáng được tôn kính 

    10. Nước phép tâm Bồ đề 
    Gội sạch thân ô trược 
    Thành thân Phật vô giá 
    Hãy giữ Bồ đề tâm 

    11. Đấng Đạo sư thấy rõ 
    Tâm Bồ đề qúi báu 
    Muốn vượt thoát ba cõi 
    Phải giữ vững tâm này.

    12. Làm lành như cây chuối 
    Quả hết rồi héo khô 
    Tâm Bồ đề to lớn 
    Như đại thụ xum xuê 
    Luôn sinh quả tươi tốt.

    13. Người đời phạm tội nặng 
     Nhờ thế lực che chở 
     Biết sự nghiệp đã tạo 
     Sao chẳng tìm chỗ nương? 

    14. Đức Di Lặc đã giảng 
    cho Thiện tài biết rằng 
    Tâm Bồ đề kỳ diệu 
    Như lửa thời hoại kiếp 
    Đốt tan bao tội nặng 
    Chỉ trong một sát na. 

    Hai loại tâm Bồ đề

    15. Tâm Bồ đề bao gồm 
    Hai nguyện để tu tập: 
    Trước là nguyện phát tâm 
    Sau thực hiện tâm ấy. 

    16. Ai cũng đều biết rằng 
    “Muốn đi“ khác với “đi“ 
    Người trí nên biết rõ 
    Sự khác biệt như vậy. 

    17. Nguyện phát tâm Bồ đề 
    Tuy sinh kết quả lớn 
    Song không thể sánh bằng 
    Nguyện thực hiện tâm này. 

    Ca ngợi tâm Bồ đề 

    18-19. Những ai đã quyết tâm 
    Cứu độ mọi chúng sinh 
    Phải luôn luôn tinh tấn 
    Thực hiện tâm Bồ đề; 
    Từ lúc ấy trở đi 
    Ngay cả khi ngủ nghỉ 
    Phước đức vẫn liên tục 
    Tăng lớn như hư không 

    20. Để người tin Tiểu thừa 
    Không ngừng bước tiến lên 
    Trong Kinh Vấn Diệu Lý 
    Đấng Như Lai đã dạy 
    Công đức tâm Bồ đề 
    Thật rộng lớn vô biên. 

    21-22. Chỉ nghĩ cách chữa lành 
    Đầu mọi người khỏi nhức 
    Là phát tâm chân thành 
    Đem lại bao phước đức. 

    Phước đức càng thâm sâu 
    Khi cứu giúp chúng sinh 
    Thoát ưu phiền thống khổ 
    Đạt được cõi an lành. 

    23. Có cha nào, mẹ nào 
    Đã phát tâm như vậy? 
    Tiên, chư Thiên, Phạm Thiên 
    Đã có chưa tâm ấy? 

    24. Xưa nay dù trong mơ 
    Chưa ai nguyện như thế 
    Dù vì lợi cho mình 
    Nói chi đến phát nguyện 
    Cứu độ cho người khác.

    25. Làm sao có thể tìm 
    Được một vị Bồ Tát 
    Như viên ngọc hi hữu 
    Giữa chúng sinh ích kỷ 
    Chẳng biết làm điều lành 
    Vì lợi ích chúng sinh!

    26. Tâm Bồ đề trân quý 
    Là mầm mống an vui 
    Là linh dược diệt khổ 
    Tạo phước đức vô lường. 

    27. Ý nghĩ làm lợi người 
    Đã hơn phước cúng Phật 
    Huống chi luôn nỗ lực 
    Làm lợi lạc muôn loài. 

    28. Có biết bao chúng sinh 
    Tuy cầu mong an vui 
    Song hủy diệt nguồn cội 
    Sản sinh ra hạnh phúc 
    Như tận diệt kẻ thù. 

    29. Chúng sinh thiếu niềm vui 
    Lại chịu nhiều đau khổ 
    Tâm nguyện Bồ đề này 
    Đem vui và diệt khổ. 

    30. Tâm Bồ đề có thể 
    Trừ diệt sự ngu si 
    Có bạn lành nào sánh 
    Còn phước nào lớn hơn? 

    31. Bồ tát luôn bố thí 
    Dầu không ai cậy nhờ 
    Với tâm hạnh như vậy 
    Đáng ca ngợi xiết bao! 

    32. Kẻ bố thí thức ăn 
    Giúp chúng sinh đỡ đói 
    Dù họ no nửa ngày 
    Đã là người đáng trọng 

    33. Bồ tát thường ban cho 
    Niềm vui của chánh giác 
    Làm thỏa mãn tất cả 
    Nguyện vọng mọi hữu tình . 

    34. Đức Phật đã dạy rằng 
    Bồ tát cứu muôn loài 
    Nên đáng được tôn quý 
    Ai phỉ báng Bồ tát 
    Sẽ sa đại địa ngục 

    35. Ngược lại, ai tín thành 
    Cung kính chư Bồ tát 
    Sẽ hưởng phước đức lớn 
    Bồ Tát dù gian nan 
    Việc ác vẫn không làm 
    Càng hăng làm việc thiện. 

    36. Tôi kính xin đảnh lễ 
    Người phát tâm Bồ đề 
    Đem vui cho chúng sinh 
    Cho cả kẻ hại mình; 
    Tôi cúi đầu kính lạy 
    Và xin được quy y 
    Nơi chư vị Bồ tát 
    Cội nguồn chân hạnh phúc.

  • 3. CHƯƠNG HAI: SÁM HỐI TỘI NGHIỆP

    CHƯƠNG HAI 
    SÁM HỐI TỘI NGHIỆP

    Nghi lễ Bồ Tát

    Ca ngợi

    1. Để con nắm giữ được 
    Tâm nguyện quí giá này 
    Con cúng dường chư Phật 
    Và Pháp Bảo thiêng liêng 
    Con cúng dường Bồ tát 
    Đầy phẩm tính tốt lành. 

    Cúng dường

    2. Cúng dường hoa quả tươi 
    Thức ăn ngon quý nhất 
    Nước uống thật tinh khiết 
    Vật quý báu trên đời. 

    3. Cúng dường núi châu báu 
    Rừng thanh tịnh ngát hương 
    Hoa cõi trời diễm tuyệt 
    Trái quý buông trĩu cành. 

    4. Cúng dường những hương thơm 
    Ngào ngạt cõi trời đất 
    Cúng dường trang sức quý 
    Cúng dường cây như ý 
    Thành tựu mọi ước mơ 
    Cúng dường mọi ngũ cốc 
    Tự sinh không người trồng. 

    5. Cúng dường ao sen đẹp 
    Thiên nga hót êm dịu 
    Và mọi vật vô chủ 
    Đầy dẫy khắp bầu trời. 

    6. Con giữ chúng trong tâm 
    Dâng lên đấng Thế Tôn 
    Và chư vị Bồ tát 
    Thỉnh cầu đức Thế Tôn 
    Từ bi nghĩ đến con 
    Mà nhận vật cúng dường. 

    7. Con vô phước bần cùng 
    Không một chút tài sản 
    Kính xin đức Phật thương 
    Nhận lễ vật tâm con. 

    8. Con nguyện đem thân tâm 
    Để làm kẻ nô bộc 
    Phụng sự Phật, Bồ tát 
    Mong quí ngài xót thương 
    Thâu nhận lễ vật này. 

    9. Được các ngài thâu nhận 
    Thân tâm con siêu thoát 
    Con nguyện sống lợi tha 
    Diệt trừ các ác nghiệp. 

    10-11. Đây nhà tắm tráng lệ 
    Nền thủy tinh long lanh 
    Cột trụ khảm trân châu 
    Lọng dù bằng ngà ngọc 

    Trần thiết lộc bình quý 
    Đầy nước thơm thích ý 
    Ngân vang muôn diệu âm 
    Thỉnh Phật, Bồ tát tắm 

    12. Đây khăn tắm sạch thơm 
    Lau khô thân các ngài 
    Đây y phục cõi trời 
    Với màu sắc mỹ lệ 
    Lan tỏa hương dịu thơm. 

    13. Đây y phục mềm mại 
    Và trăm trang sức quý 
    Dâng lên Đức Phổ Hiền, 
    Văn Thù, Quán Thế Âm. 

    14. Hương liệu thơm vũ trụ 
    Xin thoa ngọc thể Ngài 
    Tỏa hào quang thanh tịnh 
    Óng ánh sắc vàng ròng. 

    15. Xin cúng dường chư Phật 
    Các tràng hoa đẹp đẽ 
    Kết từ hoa tươi thơm 
    Như hoa sen, hoa lài 
    Hay hoa mạn đà la. 

    16. Con xin dâng chư Phật 
    Vầng mây hương ngây ngất 
    Dâng thực phẩm cõi trời 
    Thức ăn uống đẹp ngon. 

    17. Con dâng đèn hoa ngọc 
    Chân chạm đá sen vàng 
    Nền nhà dịu mát hương 
    Rải đầy hoa đẹp ý. 

    18. Xin cúng dường chư Phật 
    Những lâu đài tráng lệ 
    Rèm buông ngọc lung linh 
    Du dương ngân tiếng hát. 

    19. Xin dâng hiến chư Phật 
    Lọng che bằng châu ngọc 
    Cán đúc toàn vàng ròng 
    Viền thêu hoa mỹ lệ. 

    20. Cúng phẩm nhiều như mây 
    Nhạc du dương hoà tấu 
    Khổ đau được dịu xoa 
    Mong sao chúng mãi còn. 

    21. Mưa hoa, mưa ngọc ngà 
    Mong luôn luôn buông rơi 
    Trên thân Phật, tháp Phật 
    Trên giáo pháp diệu kỳ. 

    22. Như Ngài Diệu Cát Tường (10) 
    Xưa kia cúng dường Phật 
    Nay con xin cúng dường 
    Phật, Bồ tát như vậy. 

    23. Dùng âm vang hải triều 
    Tán dương công đức Phật 
    Nguyện tiếng tán dương này 
    Luôn vang đến các Ngài. 

    24. Nguyện hoá thân như bụi 
    Lễ lạy Phật ba đời 
    Lễ lạy Pháp và Tăng 
    Cùng khắp cả pháp giới. 

    25. Con lễ lạy tháp Phật 
    Các nơi Bồ tát ở (3) 
    Lễ bậc trì giới nhất 
    Kính lễ hàng thánh tăng. 

    Quy y 

    26. Từ nay cho đến khi 
    Đạt Vô thượng Bồ đề 
    Con nguyện quy y Phật, 
    Pháp và chư Bồ Tát.

    Sám hối 

    27. Trước chư Phật, Bồ Tát 
    Ở cùng khắp mười phương 
    Con xin chấp hai tay 
    Thành khẩn nguyện như vầy: 

    28-29. Từ vô thỉ đến nay 
    Trôi lăn trong sinh tử 
    Với tội ác không lường 
    Do tự mình gây ra 
    Hay xúi giục người làm 
    Vì vô minh che lấp 
    Nay con biết lỗi lầm 
    Thành tâm xin sám hối. 

    30-31. Lỗi lầm con đã phạm 
    Qua nghiệp thân, khẩu, ý 
    Đã gây bao tổn hại 
    Cho Tam bảo (4), mẹ cha 
    Cũng như cho Thầy Tổ 
    Và cho bao kẻ khác 
    Nay trước đức Thế Tôn 
    Con thành tâm sám hối 
    Mọi tội lỗi gây ra. 

    32. Nếu sám hối chưa trọn 
    Con lỡ chết thì sao? 
    Vậy xin Ngài mau cứu 
    Trước khi thần chết đến. 

    33. Thần chết thật lừa lọc 
    Nó không biết đợi chờ 
    Tội rửa sạch hay chưa 
    Dù đang bệnh hay khỏe 
    Con không thể nào tin 
    Vào mạng sống mong manh 
    Lập loè như lửa đóm. 

    34. Con đã không ý thức 
    Chết là bỏ tất cả 
    Nên con đã quanh quẩn 
    Với bè bạn, kẻ thù 
    Vì vậy tự gây ra 
    Biết bao điều xấu ác.

    35. Đời người như mộng ảo 
    Điều gì đã trải nghiệm 
    Cũng chỉ là ký ức 
    Tất cả đều trôi qua 
    Không bao giờ trở lại. 

    36. Kẻ thù thành hư vô 
    Người thân như mây khói 
    Thân tôi rồi phải chết 
    Tất cả trở về không. 

    37. Trong đời ngắn ngủi này 
    Kẻ thân, thù đã chết 
    Duy nghiệp ác đã gây 
    Còn ở lại với tôi. 

    38. Tôi đã không ý thức 
    Rồi cũng chết như họ 
    Nên cứ tham sân si 
    Tạo ra bao lầm lỗi. 

    39. Mạng sống giảm từng ngày 
    Chẳng bao giờ ngừng nghỉ 
    Không thể nào kéo dài 
    Làm sao thoát khỏi chết? 

    40. Đến lúc sắp lâm chung 
    Dù thân thuộc vây quanh 
    Thống khổ lúc hấp hối 
    Tôi gánh chịu riêng mình. 

    41. Khi Diêm Vương đến bắt 
    Thân thuộc có ích gì? 
    Chỉ phước đức mới cứu 
    Tôi lại chưa tu tập! 

    42. Do buông lung không biết 
    Hậu quả xấu mai sau 
    Bám víu đời phù phiếm 
    Tôi tạo bao nghiệp xấu. 

    43. Như kẻ ra pháp trường 
    Kinh hãi, miệng khô đắng 
    Mắt trợn trắng, thất thần 
    Hình sắc cũng đổi khác. 

    44. Huống chi khi thấy bóng 
    Ma vương đến bắt ta 
    Kinh hoàng sao kể xiết 
    Khổ đau dâng tột cùng. 

    45. Ai cứu tôi ra khỏi 
    Cơn sợ hãi lớn này 
    Tôi tròn xoay đôi mắt 
    Nhìn bốn phương van cầu. 

    46. Bốn phương không thấy ai 
    Sợ hãi lại càng tăng 
    Không nơi nào che chở 
    Tôi phải làm sao đây? 

    47. Con xin quy y Phật 
    Ngài là đấng Từ Bi 
    Bảo vệ, đem lợi ích 
    Cho tất cả muôn loài 
    Có năng lực giải cứu 
    Tiêu trừ bao sợ hãi. 

    48. Con xin quy y Pháp 
    Mà chư Phật chứng ngộ 
    Có thể đưa muôn loài 
    Sang đến bờ giải thoát 
    Và con xin quy y 
    Nơi chư vị Bồ Tát. 

    49. Trong cơn sợ bấn loạn 
    Con xin dâng thân mạng 
    Lên Bồ tát Phổ Hiền 
    Và Bồ tát Văn Thù.

    50. Với tiếng kêu khẩn thiết 
    Con cầu Đức Quan Âm 
    Mở đại từ bi tâm 
    Cứu con, kẻ mê lầm. 

    51. Con cầu cứu các Ngài 
    Hư Không Tạng Bồ Tát 
    Địa Tạng Vương Bồ Tát 
    Chư Bồ Tát đại bi. 

    52. Con cũng xin nương tựa 
    Kim Cương Trí Bồ Tát 
    Ngài mà các sứ giả 
    Của Diêm vương khiếp vía . 

    53. Xưa trái lời Phật dạy 
    Nay gặp nạn hãi hùng 
    Con xin quy y Phật 
    Mau cứu độ cho con. 

    54-56. Với bệnh nhẹ tầm thường 
    Đã tuân lời thầy thuốc 
    Huống chi trăm thứ bệnh 
    Sinh từ tham sân si! 

    Một trong trăm bệnh này 
    Đã đủ làm tiêu hủy 
    Mọi loài Nam Diêm phù 
    Nay chạy khắp mọi nơi 
    Tìm không ra thuốc chữa. 

    Phật là đại y vương 
    Dạy giáo lý thoát bệnh 
    Những ai không làm theo 
    Thực ngu si đáng trách. 

    57. Bên hố sâu vài trượng 
    Tôi đi phải đề phòng 
    Cạnh địa ngục sâu thẳm 
    Sao đời đời nhởn nhơ? 

    58. Bởi nghĩ rằng chưa chết 
    Sống nhởn nhơ phóng dật 
    Quả thật là dại khờ 
    Nhưng rồi sớm hay muộn 
    Cái chết phải đến thôi. 

    59. Tôi không thể có được 
    Cái cảm giác dễ chịu 
    Rằng trong ngày hôm nay 
    Thần chết sẽ không đến 
    Chắc chắn nó xuất hiện 
    Làm sao yên hưởng nhàn?

    59. Ai giúp bớt lo sợ 
    Ai chỉ tôi lối thoát 
    Làm sao thoát hãi kinh 
    Của sự chết phải đến 
    Sao có thể nhởn nhơ? 

    60. Khoái lạc đã trải qua 
    Chỉ còn là hoài niệm 
    Bám víu mà làm chi 
    Để trái lời Phật dạy? 

    61. Chết là lìa bỏ hết 
    Người thân và bạn bè 
    Đi vào cõi vô định 
    Bạn hay thù ích chi? 

    62. Tôi nên hằng ngày đêm 
    Tỉnh thức với tư duy 
    Rằng gieo ác, gặt ác 
    Làm sao tránh khỏi đây 
    Sự gieo xấu ác này 

    63-64. Vì ngu đần, vô minh 
    Phạm giới do Phật chế 
    Gây biết bao tội lỗi 
    Lòng run sợ ác báo. 

    Nay trước đấng Giác ngộ 
    Con chấp tay đãnh lễ 
    Chư Phật và Bồ tát 
    Xin thành tâm sám hối. 

    65. Mong quí Ngài tha thứ 
    Hành động ác từ xưa 
    Và con xin thệ nguyện 
    Vĩnh viễn không tái phạm.

  • 4. CHƯƠNG BA: PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

    CHƯƠNG BA 
    PHÁT TÂM BỒ ĐỀ 

    Vui theo hạnh lành

    1. Tôi xin vui sướng theo 
    Công đức và hạnh lành 
    Mà chúng sinh thực hiện 
    Tôi cầu họ an vui. 

    2. Tôi vui mừng ca ngợi 
    Chúng sinh thoát khổ ải 
    Và thoát vòng luân hồi 
    Thành Bồ tát, thành Phật. 

    3. Tôi xin vui sướng theo 
    Tâm nguyện như biển cả 
    Của chư Phật, Bồ tát 
    Giúp mọi loài đang sống 
    Được hạnh phúc an vui.

    Thỉnh cầu chánh Pháp

    4. Tôi chấp tay thỉnh cầu 
    Chư Phật khắp mười phương 
    Đốt lên đuốc chánh pháp 
    Soi sáng kẻ lầm đường 
    Đang rơi vào thống khổ. 

    Thỉnh cầu bậc Chiến Thắng 
     ở lại thế gian

    5. Tôi chắp tay thỉnh cầu 
    Xin các bậc Chiến Thắng 
    Đang muốn nhập Niết Bàn 
    Hãy ở lại thế gian 
    Suốt hằng hà sa kiếp 
    Để cứu độ chúng sinh 
    Thoát khỏi vòng tăm tối.

    Hồi hướng công đức

    6. Với công đức làm lành 
    Tôi tích tụ từ lâu 
    Nay xin nguyện hồi hướng 
    Cứu khổ mọi sinh linh. 

    7. Với chúng sinh đau bệnh 
    Nguyện hoá làm thuốc hay 
    Vừa làm thầy thuốc giỏi 
    Vừa làm kẻ điều dưỡng.

    8. Thời tai ương đói khát 
    Nguyện làm thức uống ăn 
    Nguyện như mưa cam lồ 
    Dập tắt lửa đói khát. 

    9. Đối với kẻ bần hàn 
    Nguyện thành kho vô tận 
    Nguyện thành nhu yếu phẩm 
    Đáp ứng mọi nhu cầu. 

    Tự hiến thân mình

    10. Vì an vui chúng sinh 
    Nguyện hiến dâng tất cả 
    Tài sản cùng thân mạng 
    Làm thiện suốt ba đời.

    11. Buông hết tất thoát khổ 
    Tâm tất được thanh tịnh 
    Trước sau phải bỏ hết 
    Sao bằng bố thí ngay. 

    12-13. Tôi nguyện đem thân này 
    Bố thí cho chúng sinh 
    Họ tha hồ mắng chửi 
    Đánh đập hay giết hại.

    Hoặc đem ra mua vui 
    Tâm tôi vẫn lặng yên 
    Vì thân này đã xả 
    Nên không hề nuối tiếc.

    14. Khi họ hành hạ tôi 
    Dù lòng họ sướng vui 
    Tôi cũng xin khấn nguyện 
    Họ không bị ác báo .

    15-16. Việc gì lợi chúng sinh 
    Tôi khiến thân này làm 
    Nguyện ai gặp gỡ tôi 
    Đều có nhiều lợi lộc.

    Nguyện ai giận, ghét tôi 
    Hay vu khống, não hại 
    Đều nhân đấy phát tâm 
    Hướng về đường Giác Ngộ.

    17-18. Tôi xin nguyện bảo hộ 
    Cho những người cô đơn; 
    Khách bộ hành cần giúp 
    Tôi làm kẻ chỉ đường; 
    Nguyện làm cầu, làm thuyền 
    Cho kẻ muốn sang sông .

    Tôi nguyện làm hòn đảo 
    Cho người mong cập bến; 
    Cho ai cần ánh sáng 
    Tôi nguyện hóa đuốc đèn; 
    Tôi nguyện thành nhà cửa 
    Cho người cần nghỉ ngơi; 
    Tôi nguyện làm tôi tớ 
    Cho kẻ cần người sai. 

    19. Nguyện hoá làm bò quý 
    Thành bình ngọc như ý 
    Thành thuốc tiên, bùa linh 
    Nguyện thành cây như ý 
    Thỏa nguyện ước chúng sinh.

    20. Nguyện hóa thành nhu yếu 
    Căn bản cho sự sống 
    Của vô số hữu tình 
    Như đất, nước, lửa, khí.

    21. Nguyện làm nhân duy trì 
    Sinh mạng của mọi loài 
    Đến lúc không còn ai 
    Chưa chứng quả Niết Bàn.

    Phát tâm Bồ đề

    22-23. Như chư Phật quá khứ 
    Khi phát tâm Bồ đề 
    Đều lần lượt tu học 
    Giới hạnh của Bồ tát.

    Nay vì lợi chúng sinh 
    Tôi phát tâm Bồ đề 
    Siêng tu học giới hạnh 
    Mà Bồ tát hành trì. 

    Phần thưởng của sự phát tâm

    24. Sau khi các bậc trí 
    Đã phát tâm Bồ đề 
    Rồi cố sức tăng trưởng 
    Nên ca ngợi như sau: 

    25. Thật phúc thay cho tôi 
    Nay được mang thân người 
    Sinh vào gia đình Phật 
    Được làm con của Phật .

    26. Vậy từ nay trở đi 
    Phải cư xử, hành động 
    Đúng truyền thống nhà Phật 
    Quyết không làm ô danh 
    Giòng giống thanh tịnh này. 

    27. Như người mù may mắn 
    Nhặt được viên trân châu 
    Tôi phát tâm Bồ đề 
    Cũng may mắn như vậy.

    28-32. Tâm Bồ đề cam lộ 
    Mang lại sự bất tử 
    Là kho tàng vô tận 
    Trừ khử cảnh nghèo cùng.

    Là linh dược tuyệt vời 
    Chữa mọi bệnh chúng sinh 
    Là bóng mát nghỉ ngơi 
    Cho lữ khách mệt mỏi.

    Là cầu đưa chúng sinh 
    Vượt khỏi đường nguy hiểm 
    Là vầng trăng dịu soi 
    Xoa tan bao nóng bức.

    Là mặt trời chói lọi 
    Xua đuổi bóng vô minh 
    Tâm Bồ đề này đây 
    Ví như chất đề hồ 
    Rút từ sữa Diệu Pháp.

    Với người khách phiêu bạt 
    Là lữ quán nghỉ ngơi 
    Với người tìm an vui 
    Là cội nguồn hạnh phúc.

    33. Nguyện chư Phật chứng giám 
    Tôi mời khách thập phương 
    Đến đây để tận hưởng 
    Niềm vui được thành Phật 
    Mong chư Thiên, mọi người 
    Tất cả đều hân hoan .

  • 5. CHƯƠNG BỐN: THỰC HÀNH TÂM BỒ ĐỀ

    CHƯƠNG BỐN 
    THỰC HÀNH TÂM BỒ ĐỀ

    Trách nhiệm của Bồ tát

    1. Đã phát tâm Bồ đề 
    Con Phật phải tinh tấn 
    Tu tập không biếng nhác 
    Không lìa hạnh Bồ tát. 

    2. Với công việc ngẫu hứng 
    Ta có thể nghĩ lại 
    Rằng nên làm hay không 
    Mặc dù ta đã hứa 

    3. Nhưng không thể buông bỏ 
    Điều Phật và Bồ tát 
    Đã quán chiếu chiêm nghiệm 
    Mà tôi đã thọ hành.

    4. Tôi đã thề làm lợi 
    Cho tất cả chúng sinh 
    Mà không làm như hứa 
    Như vậy tôi lừa dối 
    Phận tôi sẽ ra sao? 

    5. Kinh đã dạy rõ rằng 
    Ai định cho kẻ khác 
    Một vật dù nhỏ nhoi 
    Song rồi lại không cho 
    Sẽ đọa làm quỷ đói. 

    6. Tôi đã mời chúng sinh 
    Dự tiệc đại an lạc 
    Rồi tôi lại dối gạt 
    Đời tôi sẽ điêu linh! 

    7. Người bỏ tâm Bồ đề 
    Mà được quả giải thoát 
    Là điều khó nghĩ bàn 
    Chỉ chư Phật biết rõ.

    8. Trong giới hạnh Bồ tát 
    Ai bỏ tâm Bồ đề 
    Làm chúng sinh bất lợi 
    Sẽ gặt quả báo ác. 

    9. Ai trong một sát-na 
    Cản trở người làm thiện 
    Khiến hữu tình bị hại 
    Sẽ gặp quả báo ác 
    Thật vô cùng khủng khiếp. 

    10. Phá an lạc một người 
    Ta phải bị khốn khổ 
    Huống chi phá an lạc 
    Của vô số hữu tình 
    Ác báo không cùng tận.

    11. Người phát tâm Bồ đề 
    Nhưng hành động ngược lại 
    Sẽ trôi trong luân hồi 
    Khó trở thành Bồ tát.

    12. Phải cung kính thực hành 
    Những gì đã thệ nguyện 
    Nếu tôi không tinh tấn 
    Sẽ đọa chốn thấp hèn.

    Giá trị của cuộc sống

    13. Vô số Phật ra đời 
    Mang lợi đến chúng sinh 
    Nhưng tôi vì tội xưa 
    Nên không được ân phước. 

    14. Nếu tái phạm nghiệp cũ 
    Chắc chắn không thoát khỏi 
    Số phận thật hẩm hiu 
    Bệnh đau và tật nguyền 
    Lăn lóc trong nẻo ác.

    15. Làm sao có cơ hội 
    Được gặp Phật xuất thế 
    Được duyên tu hành tốt 
    Thấm nhuần được Phật pháp 
    Và thuận duyên tu hành? 

    16. Mặc dù được khỏe mạnh 
    Đủ ăn, không tổn thương 
    Nhưng thân này tạm bợ 
    Đó chỉ là ảo ảnh.

    17. Với cuộc sống hiện nay 
    Khó tái sinh thành người 
    Mà không được thân người 
    Làm sao làm việc thiện? 

    18. Có cơ hội làm thiện 
    Mà bỏ qua không làm 
    Liệu tôi làm được gì 
    Khi thống khổ bức bách? 

    19. Nếu không làm việc thiện 
    Chỉ toàn làm việc ác 
    Dù trải qua muôn kiếp 
    Vẫn không biết cõi lành. 

    20. Đức Thế tôn dạy rằng 
    Thân người khó được thay 
    Như rùa mù dưới biển 
    Cổ ngoi lên trúng ngay 
    Vào lỗ ván phiêu bồng. 

    21. Phạm tội nặng chốc lát 
    Đã phải bị đọa đày 
    Vào địa ngục vô gián 
    Vậy với tội muôn kiếp 
    Làm sao sinh cõi lành? 

    22. Chờ trả xong ác báo 
    Cũng khó thoát địa ngục 
    Bởi trong lúc trả nghiệp 
    Lại gây thêm tội mới. 

    23. Khi được thân con người 
    Là được cơ hội tốt 
    Cho công việc tu hành 
    Nếu bỏ cơ hội ấy 
    Thật không gì điên hơn.

    24. Nếu đã biết như vậy 
    Mà vẫn ngu si, lười 
    Khi thần chết gõ cửa 
    Sẽ đau khổ dường bao. 

    25. Lửa địa ngục hừng hực 
    Đốt thân tôi nhiều kiếp 
    Và ngọn lửa ăn năn 
    Càng hành hạ tâm can. 

    26. Thật khó hiểu vì sao 
    Tôi có được thân người 
    Khi nhận biết điều này 
    Thì rơi vào địa ngục!

    Diệt trừ ái dục

    27. Phải chăng các bùa chú 
    Khiến tôi bị si mê 
    Ai làm tôi mù lòa? 
    Ma nào ẩn thân tôi?

    28. Những kẻ thù tham sân 
    Không tay chân mặt mũi 
    Không dũng cảm thông minh 
    Sao chúng sai sử tôi? 

    29. Chúng ngự trị tâm tôi 
    Thường làm tôi tổn hại 
    Mà tôi không biết giận 
    Đó là nhẫn nhục sai 
    Quả thật là đáng trách. 

    30-31. Trời, người dù hợp lại 
    Nhất tề tấn công tôi 
    Vẫn không thể đẩy tôi 
    Vào địa ngục vô gián.

    Nhưng phiền não ái dục 
    Lại ném tôi vào đó 
    Nơi mà núi Tu Di 
    Cũng cháy không còn tro. 

    32. Bè lũ của ái dục 
    Sống dai dẳng vô cùng 
    Vô thỉ đến vô chung. 
    Kẻ thù trong đời tôi 
    Không sống lâu đến thế! 

    33. Theo kẻ địch ngoài đời 
    Chúng còn chia lợi lộc, 
    Ngược lại địch tham dục 
    Chỉ luôn tạo khổ đau 
    Cho người phục dịch nó. 

    34. Kẻ thù dai dẳng ấy 
    Là cội nguồn bất hạnh 
    Nó ở ngay tâm tôi 
    Tôi an nhiên sao được? 

    35. Nó là kẻ cai tù 
    Kẻ hành quyết tội nhân 
    Nó ngự trị tâm tôi 
    An lạc làm sao được?

    36-38. Ái dục chưa tận diệt 
    Tôi phải tinh tấn hơn! 
    Kẻ kiêu ngạo bị mắng 
    Liền nổi giận, trả thù 
    Khi hạ đối thủ xong 
    Mới an lòng yên ngủ.

    Những chiến sĩ ra trận 
    Tàn nhẫn diệt quân thù 
    Dù những kẻ địch ấy 
    Tự nhiên cũng phải chết. 

    Họ phóng giáo, bắn tên 
    Không đào tẩu tháo lui 
    Khi chiến thắng chưa đạt. 

    39. Vậy thì chính tôi đây 
    Quyết tâm diệt ái dục 
    Tôi quyết chí không lùi 
    Dù đau đớn, thất vọng.

    40. Con người vì mưu sinh 
    Phải chài lưới, làm ruộng 
    Phải cố chịu đói lạnh 
    Nay tôi vì chúng sinh 
    Sao lại tránh khổ cực 
    Không gánh vác nhọc nhằn? 

    41-42. Dù tôi chưa giải thoát 
    Song đã nguyện cứu độ 
    Chúng sinh khắp mười phương 
    Vượt khỏi biển ái dục. 

    Tôi chưa tự lượng sức 
    Mà lòng đã nguyện thề 
    Vậy tôi điên hay không? 
    Dẫu vậy tôi vẫn quyết 
    Không ngừng diệt ái dục 
    Nơi chính bản thân mình. 

    43. Như chiến sĩ hờn căm 
    Quyết chiến thắng tất cả 
    Tôi giữ một say mê 
    Diệt ái dục đến cùng. 

    44. Thà tôi bị thiêu đốt 
    Bị moi ruột, chặt đầu 
    Nhưng quyết không khuất phục 
    Giặc ái dục bạo tàn. 

    45-46. Kẻ địch khi bị thua 
    Rút lui, tìm nơi ẩn 
    Rồi khi phục hồi sức 
    Quay lại để phục thù. 

    Nhưng ái dục thì không 
    Khi nó bị đánh bại 
    Nó chui vào trong tâm 
    Vốn yếu hèn của tôi 
    Và lẩn trốn nơi đó. 
    Ái dục thật hèn hạ 
    Duy chỉ có Trí tuệ 
    Mới tiêu diệt nó thôi. 

    47. Nó không ở ngoại cảnh 
    Không nằm trong các căn 
    Không ở giữa các căn 
    Hoặc bất cứ nơi khác.

    Vậy nó từ đâu đến? 
    Khiến cho đời đảo điên? 
    Nó chỉ là ảo ảnh!

    Hỡi tâm của tôi ơi! 
    Không nên sợ ái dục 
    Hãy giải phóng nó đi 
    Hãy tu chứng Trí tuệ; 
    Đừng để ái dục xô 
    Đẩy tôi vào địa ngục. 

    48. Thường tư duy như vậy 
    Nên cố sức tu hành 
    Giữ trọn giới Bồ tát; 
    Không tuân lời lương y 
    Làm sao dứt được bệnh?

  • 6. CHƯƠNG NĂM: CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC

    CHƯƠNG NĂM 
    CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC

    Gìn giữ tâm ý

    1. Ai giữ giới Bồ tát 
    Phải giữ gìn tâm ý 
    Nếu không, không duy trì 
    Bất cứ giới luật nào.

    2. Voi điên tuy gây hại 
    Nhưng không thể nào bằng 
    Con “voi tâm“ phóng dật 
    Mang đến bao tai ương. 

    3. Luôn dùng thừng chánh niệm 
    Cột chặt “voi tâm“ điên 
    Thì tai ương biến mất 
    Phước lành hiện đến liền. 

    4-5. Điều phục được tâm ý 
    Là điều phục tất cả 
    Sư tử, voi, gấu, rắn 
    Và tất cả kẻ thù 
    Cùng lính canh địa ngục 
    Quỷ Dạ xoa, La Sát 
    Đều bị trói tất cả.

    6. Phật đã tuyên bố rằng 
    Hiểm họa và lo sợ 
    Với khổ đau vô tận 
    Đều do tâm phát sinh. 

    7-8. Hình cụ trong địa ngục 
    Do ai tạo tác nên? 
    Nền sắt nóng hỏa ngục 
    Nữ nhân kia từ đâu? 

    Phật dạy rằng tất cả 
    Do ác tâm biến ra 
    Bởi thế trong ba cõi 
    Tâm mình đáng sợ nhất. 

    9-10. Nếu bố thí cao cả 
    Đạt được nhờ xóa nghèo 
    Chẳng lẽ Phật xưa kia 
    Không đạt hạnh bố thí 
    Vì thế gian vẫn nghèo? 

    Bởi vậy tâm bố thí 
    Cả tài sản, công đức 
    Là bố thí rốt ráo 
    Phát xuất từ nội tâm. 

    11. Lùa cá tôm đến đâu 
    Để khỏi bị săn giết? 
    Vĩnh viễn dứt ác tâm 
    Là thành tựu giới độ. 

    12. Sân si đầy thế gian 
    Làm sao hàng phục hết? 
    Hàng phục được tâm sân 
    Là hàng phục tất cả. 

    13-14. Làm sao đủ da thuộc 
    Để phủ kín địa cầu? 
    Nhưng chiếc dép da này 
    Sẽ bao trùm mặt đất. 

    Cũng vậy với ngoại cảnh 
    Tuy chưa làm chủ được 
    Nhưng làm chủ tâm mình 
    Có gì quí giá hơn?

    15. Làm thiện bằng thân, miệng 
    Nhưng tâm lại tán loạn 
    Thì khó đạt được phước 
    Để lên cõi Phạm Thiên (5) 
    Trong khi chỉ một mình 
    Tâm thanh tịnh cũng đủ.

    16. Phật dạy dù tụng niệm 
    Tu khổ hạnh lâu năm 
    Mà tâm cứ tán loạn 
    Thì cũng vô ích thôi. 

    17. Những ai tìm hạnh phúc 
    Chạy trốn mọi khổ đau 
    Sẽ tiếp tục lạc đường 
    Nếu không hiểu cái tâm 
    Kỳ diệu chứa mọi pháp.

    Chánh niệm và tỉnh giác

    18. Bởi thế nên cẩn thận 
    Gìn giữ trọn tâm ý 
    Giữ giới tu luyện tâm 
    Đâu cần tu pháp khác. 

    19. Giữa đám đông hỗn loạn 
    Ta gìn giữ vết thương 
    Không để ai đụng đến; 
    Giữa cuộc đời hung ác 
    Ta phải giữ tâm mình 
    Như ta giữ vết thương. 

    20. Ta gìn giữ vết thương 
    Vì sợ người đụng đau 
    Sao ta không giữ gìn 
    Vết thương của tâm ta 
    Cho khỏi bị đè bẹp 
    Dưới chân núi địa ngục? 

    21. Nếu hành trì như vậy 
    Ta cứng rắn, tinh tấn 
    Dù ở giữa người ác 
    Hay ở giữa người lành. 

    22. Thà để mất lợi dưỡng 
    Mất tài sản, thanh danh 
    Mất thân xác, mạng sống 
    Quyết không để mất tâm. 

    23. Tôi chấp tay nguyện cầu 
    Cho những ai ước mong 
    Gìn giữ được tâm ý 
    Đều luôn luôn duy trì 
    Chánh niệm và tỉnh giác. 

    24. Người đau không đủ sức 
    Làm bất cứ việc gì 
    Cũng vậy, bất cứ ai 
    Thiếu chánh niệm, tỉnh giác 
    Sẽ không còn đủ sức 
    Để làm những việc lành. 

    25. Người tâm không chánh niệm 
    Không còn ghi trong trí 
    Lời giáo huấn tu hành 
    Như nước rỉ bình nứt. 

    26. Biết bao người thông thái 
    Sùng tín và tinh tấn 
    Nhưng vì không chánh niệm 
    Nên phạm tội ô uế. 

    27. Tên giặc không chánh niệm 
    Luôn rình cướp tỉnh giác 
    Vét sạch phước tích lũy 
    Đưa người vào nẻo ác. 

    28. Ái dục như lũ giặc 
    Cướp gia tài phước đức 
    Hủy hoại tâm chánh niệm 
    Phá đường đến cõi lành . 

    29. Tuyệt không để chánh niệm 
    Rời khỏi cửa tỉnh giác; 
    Nếu nó đi lang thang 
    Phải gọi nó quay lại; 
    Nó phải nghĩ cảnh khổ 
    Trong ba cõi địa ngục 
    Để an trú chánh niệm. 

    30. Hạnh phúc thay những ai 
    Sống cạnh thầy đáng kính 
    Tuân theo lời giáo huấn 
    Để trau dồi chánh niệm. 

    31-32. “Chư Phật, chư Bồ tát 
    Nhìn thấu suốt mọi điều 
    Ta đứng trước các ngài 
    Đâu dấu được điều chi”. 

    Nếu có suy nghĩ ấy 
    Sẽ sinh lòng hổ thẹn 
    Và trong tâm luôn luôn 
    Có mặt của chư Phật. 

    33. Chánh niệm như lính canh 
    Trước cửa ngõ của tâm 
    Nhờ đó mà tỉnh giác 
    Mãi mãi được có mặt.

    34. Nếu ý xấu manh nha 
    Phải thấy ngay tai họa. 
    Vậy phải giữ chánh niệm 
    Như cây bám chặt đất . 

    35. Không bao giờ nên nhìn 
    Dáo dác và mông lung 
    Mắt thường nhìn thẳng xuống 
    Như trong lúc ngồi thiền. 

    36. Để cho mắt nghỉ ngơi 
    Thỉnh thoảng nhìn chân trời 
    Khi có người xuất hiện 
    Hãy nhìn thẳng chào hỏi. 

    37. Trên đường, nên đứng lại 
    Nhìn rõ khắp bốn phương 
    Lúc dừng nghỉ dưỡng sức 
    Hãy quan sát sau lưng . 

    38. Kiểm tra kỹ trước sau 
    Rồi nhận định hoàn cảnh 
    Tùy nhu cầu hành động 
    Mà tiến tới hay lui. 

    39-40. Trước khi ta hành động 
    Nên ý thức rõ ràng 
    ”Đây tư thế của thân” 
    Và trong khi hành động 
    Cũng luôn luôn quán xét 
    Tư thế của thân mình. 

    Cũng vậy, thường quán xét 
    Tâm ý như voi điên 
    Buộc vào trụ chánh niệm 
    Không cho nó chạy loạn. 

    41. Người tu tập thiền định 
    Luôn luôn giữ chánh niệm 
    Thường quán sát tự hỏi 
    Tâm ý mình ở đâu? 

    42. Lúc nguy, khi lễ lạc 
    Hoặc trong khi bố thí 
    Khó giữ được chánh niệm 
    Nên buông giới hạnh nhỏ. 

    43-44. Quyết định làm việc này 
    Không nên nghĩ việc khác 
    Tâm trí phải chuyên chú 
    Làm xong từng việc đã. 

    Được vậy việc mới thành 
    Nếu không, thì hai việc 
    Chẳng việc nào hoàn tất 
    Chánh niệm chẳng gia tăng. 

    45. Hãy quyết tâm từ bỏ 
    Xem kịch, nói chuyện phiếm 
    Hãy tinh tấn đoạn trừ 
    Tâm tham đắm thứ ấy. 

    46. Hãy nhớ lời đức Phật 
    Từ bỏ việc vô nghĩa 
    Như bức cỏ, vẽ đường 
    Đập đất đá vỡ tan. 

    47. Trước khi muốn đi đứng 
    Hoặc trước khi nói năng 
    Phải kiểm soát tâm ý 
    Đưa nó vào chánh niệm. 

    48. Nếu ý khởi tham ái 
    Tâm manh nha nổi giận 
    Hãy tạm dừng nói, làm 
    Như cây đứng lặng yên. 

    49-50. Khi tâm ý lăng xăng 
    Ngạo mạn hoặc kiêu căng 
    Tự mãn hoặc thô bạo 
    Lém lĩnh hoặc lừa dối 

    Tự khen và chê người 
    Nói những lời khinh bạc 
    Nói những lời gây gổ 
    Hãy như cây đứng yên. 

    51. Muốn lợi lộc, danh tiếng 
    Muốn sai sử người khác 
    Muốn kẻ khác hầu hạ 
    Hãy như cây đứng yên. 

    52. Khi muốn nói và làm 
    Khiến người mất lợi ích 
    Để mưu cầu lợi mình 
    Hãy như cây đứng yên. 

    53. Khi bồn chồn lười biếng 
    Nhát sợ, không biết thẹn 
    Nói vô nghĩa, thiên vị 
    Hãy như cây đứng yên. 

    54. Khi thấy tâm ô nhiễm 
    Lăng xăng việc vô nghĩa 
    Hãy dùng phép đối trị 
    Kiên trì an định tâm. 

    55-57. Không nên để phân tâm 
    Vì những việc tranh chấp 
    Hãy luôn đem an vui 
    Làm cho người hạnh phúc. 
    Với đức tin thâm sâu 
    Vững vàng và kiên quyết 
    Biết xấu, sợ nhân quả.

    Đừng sinh tâm chê bai 
    Kẻ ngược ngạo, ngu si 
    Nên mở lòng thương họ 
    Vì họ bị vô minh. 

    Vả lại tôi đã nguyện 
    Vì lợi mình lợi người 
    Tôi không nên phạm tội 
    Vậy phải luôn quán tưởng 
    Rằng tôi là vô ngã 
    Tôi là một ảo tưởng. 

    58. Nên luôn tư duy rằng 
    Nhiều kiếp mới thành người 
    Vậy phải giữ tâm sáng 
    Vững như núi Tu Di.

    Thân

    59. Hỡi này tâm ý ơi 
    Ngươi tự vệ ra sao 
    Khi kên kên háu đói 
    Mổ xé thân thể ngươi? 

    60. Sao ngươi xem thân này 
    Là bản ngã của ngươi? 
    Ngươi với nó khác nhau 
    Mất nó ăn nhằm gì! 

    61. Này tâm ý ngu si 
    Ngươi xem khúc gỗ sạch 
    Không phải là thân ngươi 
    Nên ngươi không bám víu 
    Sao lại bám bộ máy 
    Cấu tạo từ bẩn dơ? 

    62-63. Hãy dùng tâm quán tưởng 
    Tách da ra khỏi thịt 
    Dùng trí tuệ làm dao 
    Tách thịt rời khỏi xương. 

    Rồi chẻ tách xương ra 
    Phân tách tủy bên trong 
    Quan sát cho thật kỹ 
    Thực chất nó là gì? 

    64. Dẫu tìm tòi cẩn thận 
    Vẫn không thấy bản chất 
    Của bất cứ vật nào. 
    Tại sao còn tham luyến 
    Nâng niu tấm thân này? 

    65. Ngươi không thể nào ăn 
    Thân thể dơ bẩn này 
    Không uống máu, ăn lòng 
    Vậy giữ nó làm chi? 

    66. Tốt nhất xem thân này 
    Là thức ăn quạ, cáo 
    Chỉ nên giữ thân này 
    Giúp ta làm việc thiện. 

    67. Dù ngươi bám giữ thân 
    Thần chết cũng không tha 
    Cướp lấy thẩy cho quạ 
    Ngươi làm gì được đây? 

    68-69. Khi tớ bỏ ra đi 
    Chủ không cho cơm áo 
    Thân này sẽ bỏ ngươi 
    Cưng dưỡng nó làm gì? 

    Trả đủ lương cho nó 
    Chớ cho thêm quá mức. 
    Ôi tâm của ta ơi! 
    Đối với thân của ngươi 
    Hãy xử sự như thế. 

    70. Hãy xem thân như thuyền 
    Dùng để chở chúng sinh 
    Đưa họ từ bờ khổ 
    Sang bên bờ giải thoát. 

    71. Hãy tự chủ thân tâm 
    Luôn lộ vẻ vui tươi 
    Đừng cau mày giận dữ 
    Hãy làm người bạn tốt, 
    Chân thành của chúng sinh. 

    72. Khi di dời ghế giường 
    Đừng gây tiếng động lớn 
    Mở cửa cũng nhẹ nhàng 
    Luôn tránh tiếng ồn ào. 

    73. Sếu, mèo và kẻ trộm 
    Hành động rất lặng lẽ 
    Để đạt được mục tiêu 
    Bồ tát cũng nên thế . 

    74. Làm học trò tất cả 
    Cung kính nhận lời khuyên 
    Của bậc thầy hướng dẫn 
    Dù ta chẳng yêu cầu.

    Nguyên tắc ứng xử

    75. Ai khéo giảng chánh pháp 
    Ta nên ngõ lời khen 
    Ai làm phước làm lành 
    Ta vui mừng ca tụng. 

    76. Kín đáo khen người khác 
    Vì công đức của họ 
    Nghe người khác khen mình 
    Tự xét xứng đáng không? 

    77-78. Ai làm được việc gì 
    Mang lại nguồn hạnh phúc 
    Không thể mua bằng tiền 
    Thì ta hãy cùng vui 
    Với công đức kẻ ấy. 

    Làm vậy không gây hại 
    Đời sau được vui hơn 
    Nếu sinh lòng ganh tị 
    Ta sẽ gặt khổ đau 
    Đời sau càng khổ nữa. 

    79. Nói năng phải minh bạch 
    Dễ nghe, thấm tận tim 
    Phát xuất nơi từ tâm 
    Nhu hòa và chính xác. 

    80. Hãy nhìn ngắm chúng sinh 
    Với lòng dạ từ bi 
    Và nghĩ rằng nhờ họ 
    Mà ta sẽ thành Phật. 

    81. Phước lớn được thành tựu 
    Nhờ tín tâm vững bền 
    Nhờ đối trị việc ác 
    Nhờ cúng ba ruộng phước (6) 

    82. Phát xuất tận đáy lòng 
    Ta thường làm việc thiện 
    Điều lành hãy tự làm 
    Không giao cho kẻ khác. 

    83. Bố thí và trì giới 
    Phải tăng tiến mỗi ngày 
    Đừng chê nhỏ, theo lớn 
    Nên thực hiện mọi hạnh. 

    84. Nhận thức được như vậy 
    Nên hiến mình làm thiện 
    Có thể phạm giới cấm 
    Vì lợi ích chúng sinh. 

    85. Chỉ ăn những gì cần 
    Chia sớt thức ăn uống 
    Cho những vị tu sĩ 
    Cho kẻ khổ, cô đơn 
    Cho người rơi xuống thấp 
    Bồ tát cho tất cả 
    Trừ ba bộ áo quần. 

    86. Thân phục vụ chánh pháp 
    Nên không để tổn thương 
    Nhờ vậy mau thực hiện 
    Ước nguyện cứu chúng sinh. 

    87. Không hy sinh thân mạng 
    Cho kẻ thiếu từ bi 
    Bồ tát chỉ xả thân 
    Vì mục đích tối thượng. 

    88. Không thuyết pháp cho người 
    Có thái độ bệnh hoạn 
    Đội mũ, không cung kính 
    Cầm gậy, cầm binh khí . 

    89. Không thuyết pháp cho người 
    Khác phái ở một mình 
    Không nói pháp thâm sâu 
    Cho kẻ thiếu thông minh 
    Nhưng cũng phải cung kính 
    Mọi pháp dù sâu cạn (7)

    90. Không nên giảng Tiểu thừa 
    Cho người đủ điều kiện 
    Lãnh hội pháp Đại thừa 
    Không được thu hút người 
    Bằng cách giảng sai kinh 
    Và sai chú Mật tông (8) 

    91. Không được nhổ nước bọt 
    Và vứt tăm xỉa răng 
    Bừa bãi nơi công cộng 
    Không được phép phóng uế 
    Lên đất đai canh tác 
    Và nguồn nước sạch trong. 

    92. Khi ăn chớ đầy miệng 
    Há miệng, nhai ra tiếng 
    Ngồi không đong đưa chân 
    Không xoa tay vào nhau. 

    93. Không đi xe, ngủ đêm 
    Chung với người khác phái 
    Hầu tránh sự dị nghị 
    Khiến người mất niềm tin. 

    94. Không nên dùng ngón tay 
    Chỉ đường hoặc ra lệnh 
    Mà phải tỏ lịch sự 
    Đưa nguyên bàn tay phải . 

    95. Không đưa tay vẫy gọi 
    Trừ khi gọi gấp rút 
    Búng ngón tay thành tiếng 
    Bằng không mất uy nghi. 

    96. Hãy ngủ trong chánh niệm 
    Nằm đúng theo tư thế 
    Như khi Phật nhập diệt 
    Lúc tỉnh giấc, dậy liền. 

    97. Phật dạy vô số hạnh 
    Không thể nào kể hết 
    Pháp thanh lọc tâm này 
    Nên gắng thực hành ngay. 

    98. Ngày như đêm ba lần 
    Tụng niệm Kinh Ba Phần (9) 
    Y theo tâm Bồ đề 
    Giải trừ dần ác nghiệp. 

    99. Bất cứ hoàn cảnh nào 
    Do ta hoặc người tạo 
    Phải tinh tấn thực hành 
    Những lời đức Phật dạy. 

    100. Bất cứ giáo pháp nào 
    Đưa đến sự giải thoát 
    Con Phật đều thực hành 
    Được vậy, sẽ gặt phước. 

    101. Bồ tát làm mọi hạnh 
    Vì lợi ích chúng sinh 
    Trực tiếp hay gián tiếp 
    Và hồi hướng tất cả 
    Vì sự nghiệp giác ngộ. 

    102. Dù phải mất tính mạng 
    Bồ tát không xa lìa 
    Các bậc thiện trí thức 
    Tinh thông nghĩa đại thừa. 

    Nguồn gốc giới luật

    103. Để biết cách hầu Thầy 
    Nên học những phép tắc 
    Trong truyện Cát Tường Sinh (10) 
    Và thêm các kinh khác. 

    104. Nên đọc các tạng kinh 
    Có trình bày giới luật 
    Trước hết hãy tìm đọc 
    ”Thánh xứ hư không tạng”. 

    105. Kinh “Học xứ tập yếu” 
    Đã diễn rộng lý do 
    Vì sao phải tu hành 
    Vậy cần đọc bộ luận 
    ”Chúng học xứ tập yếu”. 

    106. Hoặc cũng nên tìm đọc 
    ”Nhất thiết kinh tập yếu” 
    Và cũng cần đọc kỹ 
    Song luận của Long Thọ . 

    107. Kinh luận trên ghi rõ 
    Điều cấm, điều nên theo 
    Tu đúng lời kinh dạy 
    Giữ lòng tin trên đời. 

    108. Định nghĩa của chánh niệm 
    Tóm gọn lại như sau: 
    Luôn quán sát thật kỹ 
    Trạng thái Thân và Tâm. 

    109. Tụng niệm để thực hành 
    Đọc suông không có ích 
    Nếu chỉ đọc toa thuốc 
    Làm sao trị bệnh lành?

  • 7. CHƯƠNG SÁU : NHẪN NHỤC

    CHƯƠNG SÁU 
    NHẪN NHỤC 

    Sân hận 

    1. Một cơn giận phá hủy 
    Công đức ngàn kiếp tu 
    Tích lũy từ bố thí, 
    Từ cúng dường Thế tôn. 

    2. Sân hận vô cùng ác 
    Nhẫn nhục vô cùng lành 
    Bởi thế bằng mọi cách 
    Phải siêng tu nhẫn nhục. 

    3. Ngày nào trong tâm ta 
    Nọc hận thù tồn tại 
    Ta sẽ không ngủ yên 
    Mất an lành, hạnh phúc. 

    4-5. Một người chủ nổi giận 
    Có thể bị giết chết 
    Bởi kẻ được ông giúp 
    Mà trở nên giàu sang 
    Và người khác kinh trọng. 

    Với tấm lòng sân hận 
    Dù ban ơn cho ai 
    Họ cũng không hạnh phúc 
    Bạn bè cũng lánh xa.

    6. Sân hận là kẻ địch 
    Tạo nên nhiều khổ đau 
    Ai khắc phục sân hận 
    Vui đời này, kiếp sau . 

    7. Những thứ không vừa ý 
    Hoặc lòng tham bị chận 
    Đều nuôi dưỡng sân hận 
    Và làm khốn khổ tôi. 

    8. Vì vậy tôi muốn diệt 
    Những chất nuôi dưỡng này. 
    Sân hận duy chỉ biết 
    Làm hại tôi mà thôi. 

    Nhẫn nhục

    Nhẫn nhục đối với đau khổ

    9. Dù gặp cảnh ngược đãi 
    Nên giữ tâm an vui. 
    Bực tức không sinh lợi 
    Lại cướp mất phước lành. 

    10. Nếu có cách cứu chữa 
    Những tình huống rắc rối 
    Thì khổ đau làm gì? 
    Nếu không có giải pháp 
    Khổ đau không lợi chi! 

    11. Ta không muốn cho mình 
    Cũng như cho bạn bè 
    Bị khổ đau, khinh dễ 
    Bị chửi mắng, vu oan ; 
    Duy chỉ có kẻ thù 
    Muốn chúng ta như thế. 

    12. Hạnh phúc khó đạt thay 
    Đau khổ thường xảy đến 
    Nhưng giải thoát chỉ đạt 
    Khi thắng vượt khổ đau 
    Bởi vậy, tâm ta ơi 
    Hãy dũng cảm kiên định! 

    13. Người nào tu khổ hạnh 
    Thờ nữ thần Durga (11) 
    Tự thiêu, xẻ thịt mình 
    Không hy vọng giải thoát; 
    Sao ta không can đảm 
    Chịu khổ vì giải thoát? 

    14. Nhờ tập luyện thường xuyên 
    Điều gì cũng thành tựu 
    Trước cố chịu khổ nhỏ 
    Sau chịu được khổ lớn. 

    15. Những loại khổ tầm thường 
    Do muỗi mòng, rít cắn 
    Hoặc đói khát, nhức ngứa 
    Chúng không vô dụng đâu! 

    16. Chẳng nên mất nhẫn nhục 
    Khi khổ vì nóng lạnh 
    Hay kiệt sức bệnh đau 
    Hoặc tra tấn, ngục tù 
    Nếu ta mất nhẫn nhục 
    Đau khổ càng tăng thêm. 

    17-18. Có người thấy máu chảy 
    Lòng dũng cảm càng tăng; 
    Có người thấy máu chảy 
    Lại té xỉu bất tỉnh.

    Điều ấy tùy thuộc tâm 
    Vững mạnh hay yếu đuối 
    Bồ tát phải tự chủ 
    Vượt qua mọi khổ đau. 

    19. Dù trải qua thống khổ 
    Bậc trí vẫn an nhiên 
    Quyết đánh giặc phiền não 
    Không lo sợ tật nguyền.

    20. Kẻ anh hùng hiển vinh 
    Nhờ chiến công oanh liệt 
    Còn chiến sĩ nhát gan 
    Chỉ đâm thây đã chết. 

    21. Khổ cũng có điều hay: 
    Giúp ta trừ kiêu mạn 
    Mở lòng thương chúng sinh 
    Bỏ ác và kính Phật. 

    Nhẫn nhục trước bất công

    22. Ta không giận gan, tim 
    Và bộ phận trong người 
    Dù chúng là nơi sinh 
    Bao đau đớn, bệnh tật 
    Sao đối với hữu tình 
    Lại nổi lòng sân hận? 
    Họ cũng là nạn nhân 
    Của đau đớn tật nguyền.

    23. Dù không ai muốn bệnh 
    Bệnh vẩn đến hoành hành; 
    Dù không mong sân hận 
    Sân hận vẫn phá phách. 

    24. Nào có ai nghĩ trước: 
    “Bây giờ ta nổi sân” 
    Và sân đâu toan tính: 
    ”Bây giờ ta xuất hiện” 

    25. Tất cả mọi lỗi lầm 
    Và hành động độc ác 
    Đều do nhân duyên sinh 
    Không có gì tự phát. 

    26. Nhân duyên lúc tập hợp 
    Không hề có ý nghĩ: 
    “Ta sinh một thứ gì” 
    Một cái gì được sinh 
    Trước đó đâu có nghĩ: 
    “Ta phải được sinh ra” 

    27. Những gì được gán gọi 
    Là chất liệu nguyên sơ 
    Hoặc gán là “Cái Ta” 
    Đều không tự sinh ra 
    Sau khi nghĩ: “Ta sinh”. 

    28. Bởi vì trước khi sinh 
    Không có gì hiện hữu 
    Vậy cũng không có gì 
    Khởi ý muốn được sinh 
    Bởi vì luôn bám víu 
    Vào cái Ta vĩnh cửu 
    Nếu không thể tách rời 
    Đối tượng của “Cái Ta” 
    Là chất liệu nguyên sơ 
    Và mãi mãi như vậy. 

    29. Nếu cái ta vĩnh hằng 
    Thì nó phải bất động 
    Giống như là hư không; 
    Làm sao cái bất động 
    Lại có thể hành động 
    Ngay trong khi nối kết 
    Với những nhân duyên khác. 

    30. Nếu tiếp xúc duyên khác 
    Cái ta vẫn như xưa 
    Vậy thì trong hai thứ 
    Cái Ta và duyên khác 
    Ai tác động ai đây? 
    Nếu bảo “Ta” tác động 
    Thì điều này không đúng; 
    Cái Ta không tác động 
    Vì nó không thể có 
    Một lúc hai tự tánh 
    [Bất động và biến đổi]. 

    31. Như vậy mọi sự vật 
    Đều sinh từ nhiều duyên 
    Và bất cứ duyên nào 
    Cũng lệ thuộc duyên khác; 
    Ý thức được như vậy 
    Ta không bị phiền nhiễu 
    Vì tất cả hiện tượng 
    Đều chỉ là ảo tưởng 
    Sinh từ những ảo thuật! 

    32. (Hỏi) Nếu mọi vật là ảo 
    Thì “Ai” chế ngự giận? 
    Và nếu nói chẳng có “ai” 
    Thì cần chi trừ giận?

    (Đáp) Thực ra cần trừ giận 
    Vì dòng thác nhân quả 
    Vẫn luôn luôn tiếp diễn 
    Nhờ chế ngự được giận 
    Mà cắt đứt khổ đau . 

    33. Bởi vậy khi nhận thấy 
    Bạn, thù muốn hại ta 
    Hãy nghĩ là duyên sinh 
    Và giữ tâm thanh tịnh. 

    34. Nếu mọi sự phát sinh 
    Do ý muốn con người 
    Thì thế giới an lạc 
    Bởi chẳng ai chọn khổ. 

    35-36. Vì vô ý tự hại 
    Bởi vật nhọn, gai đâm 
    Vì giận, đói nữ sắc 
    Nên cấu xé lẫn nhau 
    Chịu đói khát khổ sở;

    Có kẻ lại tự tử 
    Như thắt cổ, nhảy sông 
    Hoặc uống những chất độc 
    Hay gây ra tội ác. 

    37. Dưới bạo lực ái dục 
    Con người tự hủy mình 
     - Hủy cái thân quý báu - 
    Thế thì sao tránh khỏi 
    Làm hại những người khác?

    38. Kẻ điên vì ái dục 
    Luôn tìm cách tác hại 
    Nếu không thương xót được 
    Thì đừng nên giận họ . 

    39. Nếu bản chất kẻ ấy 
    Là chuyên hãm hại người 
    Giận họ cũng vô lý 
    Khác nào giận lửa đốt . 

    40. Nếu bản chất họ lành 
    Phạm lỗi vì vô tình 
    Giận họ cũng vô lý 
    Khác nào giận không khí 
    Bị nhiễm khói sặc sụa. 

    41. Khi bị đánh bằng gậy 
    Ta oán người cầm gậy 
    Song chính là cơn giận 
    Đã sai khiến họ đánh 
    Vậy nên ghét cơn giận. 

    42. Xưa tôi làm khổ người 
    Nay người hãm hại tôi 
    Tôi đành phải nhận lãnh 
    Quả báo tôi đã gieo. 

    43. Vũ khí của kẻ kia 
    Và thân này của tôi 
    Cả hai là nguyên nhân 
    Tác thành sự đau khổ 
    Kẻ kia có vũ khí 
    Còn tôi có thân này 
    Vậy phải giận ai đây? 

    44. Thân như vết thương nặng, 
    Chạm nhẹ cũng đau điếng 
    Mù quáng tôi ôm giữ 
    Thử hỏi khi nó đau 
    Tại sao tôi tức giận? 

    45. Tôi không muốn khổ đau 
    Nhưng vì sự ngu muội 
    Mà tạo ra nguyên nhân 
    Gây nên sự đau khổ. 
    Đó là lỗi của mình 
    Sao lại giận người khác? 

    46. Chính hành động của tôi 
    Đã tạo nên địa ngục 
    Và rừng kiếm, núi đao 
    Vậy nên giận ai đây? 

    47. Chính hành động của tôi 
    Đã khiêu khích người khác 
    Và khiến họ hại tôi 
    Họ bị đọa địa ngục 
    Vậy tôi đã hại họ. 

    48. Nhờ những kẻ hại tôi 
    Mà tôi tu nhẫn nhục 
    Trừ được nhiều tội lỗi; 
    Vì tôi đã nhẫn nhục 
    Nên họ sa địa ngục 
    Chịu đau khổ lâu dài. 

    49. Chính tôi làm hại họ 
    Khi họ làm lợi tôi 
    Sao tôi còn lật lọng 
    Hỡi cái tâm hồ đồ. 

    50. Nhờ tâm được thanh lọc 
    Tôi không đoạ địa ngục 
    Tôi đã tự cứu mình 
    Kẻ kia được thứ chi? 

    51. Nếu ăn miếng trả miếng 
    Tôi chẳng cứu vớt họ 
    Họ phải chịu đọa đày 
    Còn tôi thì thất bại 
    Trên con đường tu tập.

    Nhẫn nhục qua nhận thức thực tại

    52. Tâm không có hình thể 
    Nên không bị tổn thương 
    Nếu bám chắc vào thân 
    Khi thân này đau khổ, 
    Tâm sẽ bị khổ đau. 

    53. Lời khinh khi, thô ác 
    Tiếng mắng chưởi, vu oan 
    Không làm hại thân được 
    Sao tâm lại nổi sân? 

    54. Có kẻ dèm pha ta 
    Nhưng sự “không ưa “ ấy 
    Từ nay đến đời sau 
    Có cắn xé ta đâu 
    Sao ta ganh ghét họ? 

    55. Nếu ta ganh ghét họ 
    Vì sợ mất lợi lộc 
    Lúc chết lợi cũng mất 
    Nghiệp ác vẫn còn hoài. 

    56. Tốt nhất thà chết sớm 
    Hơn sống làm nghề ác 
    Sống lâu đâu thoát được 
    Khổ đau của cái chết . 

    57-58. Hai người nằm chiêm bao 
    Kẻ thấy vui trăm năm 
    Người sướng trong khoảnh khắc 
    Nhưng khi bừng tỉnh giấc 
    Hạnh phúc đều biến tan . 

    Cuộc đời như giấc mộng 
    Dù tuổi thọ ngắn dài 
    Khi sinh mạng chấm dứt 
    Hạnh phúc đều tiêu tan. 

    59. Dù tiền rừng bạc biển 
    Dù lạc thú lâu dài 
    Lúc chết tay trống trơn 
    Mình trần như bị cướp. 

    60. Có kẻ quan niệm rằng 
    Nhờ của để mà sống 
    Để giải ác, tích thiện 
    Nhưng nổi sân vì lợi 
    Thì phước mất, tội sinh. 

    61. Nếu chỉ vì mưu sinh 
    Mà làm chuyện thất đức 
    Một đời sống như vậy 
    Cuối cùng lãnh ác đọa 
    Sống như thế ích chi? 

    62. Ta ghét kẻ nói xấu 
    Làm ta mất tín nhiệm 
    Sao ta không ghét kẻ 
    Nói xấu bao người khác? 

    63. Sao ngươi vẫn bình thản 
    Với kẻ chê người khác 
    Bởi ngươi không dính vào; 
    Sao ngươi không nhẫn nhịn 
    Với kẻ vu oan ngươi 
    Mà chính ngay kẻ ấy 
    Bị ái dục chi phối? 

    64. Đối với người phá tượng 
    Đập chùa, chê chánh pháp 
    Ta không nên nổi giận 
    Bởi vì bậc Giác ngộ 
    Không vì vậy khổ đau. 

    65. Với kẻ xúc phạm Thầy 
    Và người thân của ta 
    Ta nên dằn cơn giận 
    Mà nên quán chiếu rằng 
    Đó là nhân duyên sinh. 

    66. Khổ sinh từ nhân duyên 
    Cố ý hay vô tình 
    Chúng sinh không thể thoát 
    Chỉ chúng sinh hữu tình 
    Mới ý thức được khổ 
    Vậy ta nên nhẫn chịu. 

    67. Người làm ác bởi si 
    Kẻ nổi giận vì mê 
    Vậy ai người có lỗi 
    Vậy kẻ nào vô tội? 

    68. Xưa ta đã tạo nghiệp 
    Nay ta nhận quả báo 
    Mọi sự sinh từ nghiệp 
    Sao ta trách giận người? 

    69. Khi đã hiểu như vậy, 
    Ta cố làm việc lành 
    Cầu mong mọi chúng sinh 
    Biết yêu thương lẫn nhau. 

    70-71. Một ngôi nhà bốc lửa 
    Có thể lan nhà bên 
    Ta phải rút tranh rạ 
    Và thứ dễ bắt lửa; 
    Cũng vậy phải loại ngay 
    Bao ý niệm tham đắm 
    Bắt mồi cho lửa sân 
    Thiêu rụi kho công đức. 

    72. Kẻ tử tù được thả 
    Sau khi bị chặt tay 
    Phải chăng là bất hạnh? 
    Kham chịu khổ thế gian 
    Để thoát khổ địa ngục 
    Phải chăng là bất hạnh? 

    73. Nay ta không chịu nổi 
    Một chút khổ nho nhỏ 
    Sao ta không diệt sân 
    Vì nó là nguyên nhân 
    Sinh ra khổ địa ngục? 

    74. Vì sân nên ngàn lần 
    Tôi đã bị đau khổ 
    Vì lửa địa ngục đốt. 
    Điều này chẳng lợi gì 
    Cho ta và kẻ khác! 

    75. Đau khổ của đời này 
    So ra tương đối nhẹ 
    Mà còn đem lợi lớn; 
    Vậy ta nên vui vẻ 
    Nhẫn chịu khổ nhỏ này 
    Vì nó giúp xua tan 
    Đau khổ của chúng sinh. 

    Ganh tỵ

    76. Có những kẻ hân hoan 
    Và không ngớt ca ngợi 
    Công đức của người khác. 
    Tâm ý của ta ơi! 
    Sao không biết hân hoan 
    Nhập cuộc khen ngợi này! 

    77. Đó là một niềm vui 
    Không thể nào chê trách 
    Đó là nguồn hạnh phúc 
    Mà thánh nhân không chê 
    Đó cũng là phương tiện 
    Để thu phục lòng người. 

    78. Nếu ngươi không chấp nhận 
    Niềm an vui kẻ khác 
    [Bởi vì ngươi ganh tỵ] 
    Thì ngươi sẽ mất sạch 
    Tất cả những phước đức 
    Hiện rõ hay ẩn tàng. 

    79. Ai khen công đức ta 
    Ta mong họ an vui 
    Ai khen công đức người 
    Sao ngươi lại thờ ơ? 

    80. Ta phát tâm Bồ đề 
    Cầu mọi loài an vui 
    Nay chúng sinh hạnh phúc 
    Sao ngươi lại sân hận? 

    81. Lúc đầu ngươi phát tâm 
    Cầu mọi người thành Phật 
    Được ba cõi cúng dường; 
    Nay sao ngươi sầu khổ 
    Khi người khác được cúng?

    82. Đối với gia đình ngươi 
    Ngươi phải lo cấp dưỡng 
    Nay kẻ khác cung phụng 
    Sao ngươi lại nổi sân? 

    83. Không cầu mong chúng sinh 
    Được một chút toại ý 
    Thì sao cầu mong chúng 
    Được thành tựu giác ngộ? 

    84. Các lễ vật cúng dường 
    Không đến tay khất sĩ 
    Ắt còn tại thí chủ 
    Chúng không thuộc phần ta 
    Ta bận tâm làm gì 
    Với việc cho hay không? 

    85. Khất sĩ có nên chăng 
    Bỏ phước báo cúng dường? 
    Thí chủ có nên chăng 
    Kềm hãm hạnh bố thí? 
    Ngươi còn hận nỗi gì! 

    86. Ngươi chẳng hối lỗi mình 
    Do nghiệp ác gây ra 
    Lại tranh chấp với người 
    Biết tô bồi phước đức? 

    87-88. Kẻ thù ngươi gặp nạn 
    Có gì để ngươi vui? 
    Không phải vì ngươi muốn 
    Mà tai nạn xảy ra. 

    Dù kẻ kia bị nạn 
    Theo ý ngươi mong muốn 
    Thì ngươi được lợi gì? 
    Và nếu ngươi nói rằng 
    “ Thế là tôi mãn nguyện” 
     Thì tai ương lớn hơn 
    Bám chặt ngươi sau này. 

    89. Đó là lưỡi câu sắc 
    Mà ái dục tung ra 
    Lúc cá đã cắn câu 
    Ngục tốt mua nấu nhừ 
    Trong nồi đồng địa ngục. 

    90-91. Khen ngợi và vinh quang 
    Không tăng thêm công đức 
    Không nâng cao tuổi thọ 
    Và khỏe mạnh, sống lâu 
    Cũng không khiến thân thể 
    Được vui thú, khinh an. 

    Tuy chúng là những thứ 
    Mà người khôn ở đời 
    Tìm thấy được lợi thế 
    Và với kẻ mua vui 
    Thì rượu chè bài bạc. 

    92. Vì mưu cầu danh vọng 
    Mà mất của, tán mạng. 
    Danh vọng nuốt được chăng? 
    Chết rồi ai vui hưởng ?

    93. Khi lâu đài cát sụp, 
    Trẻ nít liền khóc than 
    Tâm ta như tâm chúng 
    Khi danh vọng suy tàn. 

    94. Lời khen là tiếng vang 
    Nó chẳng có trí óc 
    Vậy thì nó làm sao 
    Có thể khen tôi được? 
    Nhưng với ý nghĩ rằng 
    Ai đó vui vì tôi 
    Thì đó là lý do 
    Khiến cho lòng tôi vui.

    95. Nếu niềm vui của tôi 
    Đến từ vui của người 
    Thì dù trường hợp nào 
    Tôi vẫn được vui tươi 
    Vậy sao tôi không vui 
    Khi có người sung sướng 
    Mở lời khen kẻ khác? 

    96. À thế ra cuối cùng 
    Ta vui vì được khen 
    Một thái độ như vậy 
    Khác gì trò trẻ con? 

    98. Danh vọng và lời khen 
    Quấy nhiễu tâm thanh tịnh 
    Làm suy nỗi lo sợ 
    Trước sinh tử luân hồi 
    Chúng nẩy sinh ganh tỵ 
    Đối với người đức độ 
    Vì vậy bao công đức 
    Được chính tôi tạo ra 
    Sẽ trở thành mây khói.

    Kẻ thù là ân nhân

    99. Những kẻ nào chống đối 
    Và chôn danh vọng tôi 
    Chính họ là những người 
    Ngăn tôi vào nẻo ác. 

    100. Người tầm cầu giải thoát 
    Không để lợi danh buộc 
    Sao ta lại tức giận 
    Kẻ cởi trói cho ta? 

    101. Khi tôi muốn đi đến 
    Một nơi đầy thống khổ 
    Nhờ phước lành của Phật 
    Khiến người muốn hại tôi 
    Đóng cửa chận đuờng đi 
    Không cho vào chốn khổ 
    Tai sao tôi giận họ? 

    102. Bảo rằng: “Họ cản trở 
    Công đức tôi muốn làm” 
    Cũng không nên giận họ 
    Vì con đường tôi chọn 
    Là tu hạnh nhẫn nhục 
    Vậy sự ngăn chận ấy 
    Là điều kiện rất tốt 
    Giúp cho tôi tu hành. 

    103. Tự mình đã gây lỗi 
    Lại không nhẫn nhịn người 
    Là tôi tự cản trở 
    Việc tu tạo phước đức. 

    104. Cái này không thể có 
    Nếu cái kia không có 
    Và nếu cái này có 
    Thì cái kia là nhân; 
    Kẻ hại ta là nhân 
    Giúp ta tu nhẫn nhục 
    Sao bảo họ phản phúc? 

    105. Người xin đến đúng thời 
    Không ngăn việc bố thí 
    Khất sĩ đi truyền giới 
    Không phải là trở ngại 
    Cho người muốn xuất gia. 

    106. Những kẻ đi ăn xin 
    Có mặt khắp mọi nơi 
    Ngược lại rất khó tìm 
    Những kẻ muốn hại người 
    Đâu có ai hại tôi 
    Nếu tôi không hại ai. 

    107. Kẻ thù tự đến tôi 
    Như kho báu trong nhà 
    Không nhọc công tìm kiếm 
    Kẻ thù ấy giúp tôi 
    Trên đường đến giác ngộ! 

    108. Có kẻ thù và tôi 
    Mới tác thành hạnh nhẫn 
    Quả báo công đức ấy 
    Nên dành cho kẻ thù 
    Đã tạo duyên tu nhẫn. 

    109. Nếu nghĩ rằng kẻ thù 
    Không có ý giúp tôi 
    Để triễn khai hạnh nhẫn 
    Nên không đáng coi trọng 
    Thì tôi cũng không nên 
    Cung kính với chánh pháp 
    Vì chánh pháp vô tư 
    Trong việc tôi tu hành. 

    110. Nếu không trọng kẻ thù 
    Bởì muốn hãm hại tôi 
    Vậy làm sao tu nhẫn? 
    Tu với y sĩ ư 
    Kẻ hết lòng chữa bệnh? 

    111. Khi nhận biết ác ý 
    Của kẻ thù nghịch ta 
    Hãy phát khởi nhẫn nhục 
    Họ là nguồn nhẫn nhục 
    Vậy nên cung kính họ 
    Như cung kính chánh pháp. 

    Yêu thương chúng sinh

    112. Bởi vậy đức Phật dạy 
    Chúng sinh và chư Phật 
    Đều là ruộng phước tốt 
    Nhờ cúng dường cả hai 
    Nhiều người sẽ giác ngộ. 

    113. Nhờ chúng sinh và Phật 
    Mà ta đạt hạnh Phật 
    Sao chỉ cung kính Phật 
    Mà không kính chúng sinh? 

    114. Chủ trương của chư Phật 
    Không đồng với chúng sinh 
    Song tác động ngang nhau 
    Đều giúp ta thành Phật. 

    115. Chúng sinh không số lượng 
    Nên cúng dường tất cả 
    Nhờ vậy mà nhận được 
    Phước đức lớn vô biên 
    Công đức Phật vô lượng 
    Nhờ cúng dường đức Phật 
    Cũng được phước không lường. 

    116. Chư Phật và chúng sinh 
    Tất cả đều giúp ta 
    Thành tựu được hạnh Phật 
    Song không chúng sinh nào 
    Có thể so với Phật 
    Vì biển công đức Phật 
    Vốn vô lượng vô biên. 

    117. Tuy vậy với chúng sinh 
    Có chút ít công đức 
    Thì ba cõi hợp lại 
    Không đủ để cúng dường. 

    118. Tất cả mỗi chúng sinh 
    Đều có sẵn Phật tính 
    Nên cúng dường chúng sinh 
    Là cúng dường Phật tính. 

    119. Phật là bạn chúng sinh 
    Ban vô lượng ân đức. 
    Vậy muốn báo ơn Phật 
    Hãy cứu giúp chúng sinh. 

    120. Hãy làm lợi chúng sinh 
    Mới đủ báo ơn Phật 
    Phật từng bỏ thân mạng 
    Tự vào ngục Vô gián 
    Để cứu độ chúng sinh 
    Vậy ta nên cứu độ 
    Cho tất cả sinh linh 
    Và ngay cả kẻ thù. 

    121. Phật cứu độ chúng sinh 
    Không tiếc nuối thân mình 
    Sao tôi vẫn ngạo mạn 
    Không phục vụ chúng sinh? 

    122. Người vui, Phật vui theo 
    Người khổ, Phật thương xót 
    Giúp muôn loài hạnh phúc 
    Thì Phật cùng hân hoan 
    Làm đau khổ chúng sinh 
    Tức làm tổn thương Phật. 

    123. Khi thân bị lửa vây 
    Làm sao vui sướng được 
    Khi thấy chúng sinh khổ 
    Các bậc Đại Từ Bi 
    Không thể nào an lạc. 

    124. Quá khứ tôi gây khổ 
    Cho bao nhiêu chúng sinh 
    Vô tình làm buồn Phật 
    Nay tôi xin sám hối 
    Xin Phật tha thứ cho. 

    125. Để dâng Phật niềm vui 
    Từ nay đến tương lai 
    Tôi phục vụ muôn loài 
    Với trái tim thành khẩn 
    Dầu tôi bị chà đạp 
    Vẫn ráng làm Phật vui. 

    126. Phật với tâm Đại bi 
    Xem chúng sinh như mình 
    Tất cả có Phật tính 
    Sao ta không tôn kính? 

    127. Tôn thờ Đức Thế tôn 
    Đạt mục tiêu giải thoát 
    Xoá đau khổ trần gian 
    Là nhiệm vụ của tôi. 

    128-129. Vị đại thần của Vua 
    Đàn áp, hại dân chúng 
    Kẻ nhìn xa trông rộng 
    Chẳng thay đổi được gì 
    Bởi sau lưng ông ấy 
    Còn thế lực của Vua. 

    130. Đối với kẻ yếu đuối 
    Đã gây nên tội lỗi 
    Cũng không nên tiêu diệt 
    Bởi vì sau lưng hắn 
    Là thế lực quỷ sứ 
    Đang giữ cửa địa ngục 
    Và cửa Phật từ bi 
    Bởi vậy với chúng sinh 
    Ta cần phải phục vụ 
    Như ta là kẻ hầu 
    Của vị vua dễ cáu. 

    131. Sự trừng phạt của vua 
    Được so sánh nổi chăng 
    Với thống khổ địa ngục 
    Do quả báo hành động 
    Ngược đãi hại chúng sinh? 

    132. Sự ban ơn của vua 
    Đủ so sánh được chăng 
    Với thành tựu Phật quả 
    Từ hành động lợi tha 
    Giúp chúng sinh an lạc? 

    133-134. Khoan nói đến Phật quả 
    Kết tựu từ hành động 
    Quý trọng mọi chúng sinh 
    Ngay trong cõi đời này 
    Kẻ nhẫn nhục nhận được 
    Bao hạnh phúc tràn đầy 
    Của một vị Đế vương 
    Ví như được danh vọng 
    Được sắc đẹp, vui tươi 
    Được sức khỏe, trường thọ.

  • 8. CHƯƠNG BẢY: TINH TẤN

    CHƯƠNG BẢY 
    TINH TẤN

    1.Sau khi đạt nhẫn nhục 
    Phải tu hạnh tinh tấn 
    Sức mạnh của chuyên cần 
    Là nguồn gốc giác ngộ 
    Nếu tinh tấn không có 
    Công đức sẽ không sinh 
    Như khi gió lặng thinh 
    Thì không có chuyển động.

    2.Vậy Tinh tấn là gì ? 
    - Là làm lành, tránh dữ. 
    - Đối nghịch là lười biếng, 
    Chán nản, không tự tin, 
    Hướng về nẻo bất chính.

    Những lực đối kháng

    3. Nhàn rỗi, ham hưởng lạc 
    Ưa ngủ, thích dựa người 
    Khiến cho lòng thờ ơ 
    Trước luân hồi thống khổ.

    4.Bị tật xấu săn đuổi 
    Sụp vào bẩy thọ sinh 
    Sao ngươi không biết mình 
    Rơi vào miệng thần chết?

    5.Ngươi thấy chăng đồng bạn 
    Lần lượt bị giết hại 
    Sao ngươi vẫn dửng dưng 
    Như trâu trước đồ tể ?

    6.Bị tử thần rình rập 
    Lối thoát bị phủ vây 
    Sao ngươi vẫn thích thú 
    Ăn ngủ và yêu đương ?

    7.Thần Chết chuẩn bị xong 
    Liền tìm ngay đến ngươi 
    Khi ấy bỏ biếng lười 
    Cũng đã là quá muộn!

    8-10. “Việc này tôi chưa đạt 
    Việc kia vừa khởi công 
    Việc khác còn dang dở“ 
    Tử thần đột nhiên đến 
    Khiến lòng tôi suy nghĩ: 
    “Ôi! Mạng ta hết rồi“

    Nhìn người thân tuyệt vọng 
    Lệ đẫm má u sầu 
    Thấy sứ giả tử thần 
    Ray rức nhớ tội ác 
    Tai vang tiếng địa ngục 
    Cuống quít biết làm gì?

    11. Như cá nằm cát nóng 
    Thống khổ biết dường nao 
    Kinh thay lửa địa ngục 
    Dành riêng cho tội nhân!

    12. Như da non trẻ thơ 
    Bỏng nước sôi đau xót 
    Làm sao an nhiên được 
    Trước quả báo địa ngục?

    13. Lười mà muốn được thưởng 
    Khác nào đứa trẻ thơ 
    Thích được nước sôi dội. 
    Thần chết đến thình lình 
    Lại tưởng mình trường sinh! 
    Ngươi đương nhiên phải chết!

    14. Hãy sử dụng thân này 
    Như một chiếc bè con 
    Để mau vượt biển khổ; 
    Chiếc bè này mai sai 
    Thật vô cùng khó kiếm 
    Này hỡi kẻ ngu ơi 
    Đừng ngủ trong lúc này!

    15. Hãy theo Pháp cao thượng, 
    Nguồn an lạc tuyệt đỉnh 
    Hãy bỏ thói hư hèn 
    Dẫn đưa đến khổ đau.

    Phương pháp hỗ trợ cho sự  
    tu tập Tinh tấn

    16. Hãy tu tập thiền định 
    Hãy can đảm tự tin 
    Và làm chủ chính mình 
    Hãy thực hành bình đẳng (12) 
    Đổi vị trí cho nhau 
    Đặt người vào chỗ ta 
    Ta đổi chỗ với người 
    Xem người cũng như ta.

    Tự tin

    17-18. Đừng để nhụt ý chí 
    Vì lo lắng băn khoăn 
    “Mình giác ngộ được chăng?“ 
    Bởi vì Phật tuyên bố 
    Điều chân thật sau đây: 
    Nhờ sức mạnh Tinh tấn 
    Mà côn trùng, ruồi muỗi 
    Có ngày được giác ngộ.

    19. Tôi được sinh làm người 
    Biết phân biệt xấu tốt 
    Nếu sống hạnh Bồ Tát 
    Chẳng lẽ không giác ngộ ?

    20. Nếu nói : “Tôi lo sợ 
    Phải bố thí tay chân” 
    Đó là thiếu suy xét 
    Không cân phân nặng nhẹ.

    21.Trải qua vô số kiếp 
    Tôi đã muôn triệu lần 
    Bị đâm, đốt, cưa, xẻ 
    Song vẫn chưa giác ngộ.

    22. Ngược lại, khổ hôm nay 
    Giúp tôi được giác ngộ; 
    Khổ này có giới hạn 
    Như thể lấy gai đâm 
    Phải chịu đau khi mổ

    23. Y sĩ muốn trị bệnh 
    Dùng liệu pháp gây đau 
    Vậy cố chịu khổ nhỏ 
    Để diệt trừ khổ lớn.

    24. Người y sĩ tài ba 
    Không cần liệu pháp ấy; 
    Bằng phương pháp dịu êm 
    Cũng chữa lành bệnh nặng.

    25. Đấng Y Vương dạy rằng 
    Đệ tử lúc ban đầu 
    Nên bố thí thực phẩm, 
    Khi tu tập nhuần nhuyễn 
    Mới bố thí thịt da.

    26. Khi tâm đã thuần thục 
    Xem thân như cỏ cây 
    Thì khó chi bố thí 
    Thân thể và thịt xương! 

    27. Lúc ấy bậc Bồ Tát 
    Thoát ly mọi khổ đau 
    Của cả thân và tâm. 
    Chính tà kiến chấp ngã 
    Làm thân tâm khổ sầu.

    28. Nhờ tạo được phước đức 
    Nên thân hưởng khinh an 
    Nhờ tinh tấn tu tập 
    Nện tâm hưởng thanh tịnh; 
    Vì lợi ích chúng sinh 
    Bồ Tát vào sinh tử 
    Nhưng chẳng hề khổ đau.

    29. Nhờ năng lực bồ đề 
    Tẩy trừ nghiệp ác xưa 
    Tạo vô lượng công đức 
    Nên hơn hàng Thanh Văn.

    30. Có bậc Hiền giả nào 
    Lại sinh lòng chán nản 
    Khi cỡi xe Bồ đề 
    Lướt qua mọi mỏi mệt 
    Đi từ hạnh phúc này 
    Đến bao hạnh phúc khác?

    Các năng lực

    31. Để cứu độ chúng sinh 
    Cần có bốn năng lực: 
    Là nguyện vọng, quyết tâm 
    Hoan hỷ và điều độ; 
    Qua thể nghiệm khổ đau 
    Và quán sát lợi ích 
    Phát sinh từ việc thiện 
    Mà nguyện vọng lớn lên.

    32. Muốn tăng trưởng tinh tấn 
    Hãy trừ lực đối nghịch 
    Bằng sáu lực sau đây: 
    Nguyện, tự tin, hỷ, xả 
    Hy sinh và giới hạnh.

    Nhu cầu làm điều thiện

    33. Phải diệt trừ vô số 
    Lỗi của mình và người; 
    Trong việc thanh lọc này 
    Để diệt mỗi một lỗi 
    Phải cần vô số kiếp.

    34.Trong khi tôi chưa có 
    Một mảy may tinh tấn 
    Để thực sự diệt lỗi, 
    Song không hiểu tại sao 
    Tim tôi không vỡ tung 
    Trước vô số khổ đau?

    35. Khó thay việc góp nhặt 
    Hằng hà sa công đức 
    Cho tôi và cho người 
    Trong khi chỉ để đạt 
    Mỗi một công đức thôi 
    Phải tu vô lượng kiếp.

    36. Vậy mà tôi chưa hề 
    Tu được công đức nào 
    Vô ích thay cái kiếp 
    Được mang thân con người!

    37. Tôi chưa được hạnh phúc 
    Dâng lễ cúng dường Phật 
    Vẫn chưa cung kính Pháp 
    Chưa cứu giúp người nghèo.

    38. Tôi chưa đem an toàn 
    Đến những người lo sợ 
    Và chưa đem hạnh phúc 
    Đến người bị đọa đày. 
    Tôi trở thành bào thai 
    Cũng chỉ để đau khổ.

    39.“Vì trong kiếp quá khứ 
    Không hướng về Phật Pháp 
    Nên nay chịu thiệt thòi!“ 
    Ai nhận thức như vậy 
    Sẽ không ngơ Chánh Pháp.

    40. Đức Phật chỉ dạy rằng 
    Thệ nguyện làm điều lành 
    Là nguồn gốc phước đức 
    Nguyện này được khởi sinh 
    Từ quán chiếu thường xuyên 
    Về nhân quả hành động.

    41. Hành động của kẻ ác 
    Luôn đem lại hậu quả 
    Là hy vọng tiêu tan 
    Là khổ đau, ngao ngán.

    42. Do tâm nguyện hướng thiện 
    Mà làm nhiều việc lành 
    Đến đâu cũng gặp được 
    Những phước báo hiện tiền.

    43. Những kẻ làm điều ác 
    Dù cầu mong hạnh phúc 
    Đến đâu cũng khổ đau 
    Do gặp quả báo ác.

    44. Nhờ luôn làm việc lành 
    Nên Bồ tát hóa sinh 
    Trong lòng sen thơm ngát (13) 
    Với thân thể đẹp tươi 
    Trong hào quang chư Phật 
    Được nuôi nấng vinh quang 
    Bằng pháp âm vi diệu 
    Và sống như con Phật 
    Trước mặt đấng Như Lai.

    45. Nhưng khi gieo nghiệp ác 
    Hậu quả sẽ bi đát 
    Bị ngục tốt Diêm Vương 
    Lột da, lóc thịt xương 
    Uống nước đồng sôi sục 
    Quỵ ngã trên sàn nóng 
    Bị gươm dao nung đỏ 
    Chém băm thịt nát nhừ.

    Quyết tâm

    46. Qua quán sát nhân quả 
    Ta cần phải phát nguyện 
    Quyết chí tu hạnh lành 
    Theo Kinh Kim Cương Tràng.

    47. Trước khi làm việc gì 
    Hãy xét mọi khả năng; 
    Tốt hơn thà không làm 
    Hơn bỏ dở công việc.

    48. Nếu cứ bỏ dở việc 
    Sẽ trở thành thói quen 
    Suốt đời đời kiếp kiếp; 
    Từ nghiệp ác như vậy 
    Đau khổ mãi gia tăng 
    Việc nào cũng dở dang 
    Thì giờ đành lãng phí!

    49. Cần giữ ba quyết tâm : 
    Vì công việc của mình 
    Vì phiền não của mình 
    Vì năng lực của mình 
    “Tôi phải làm một mình“. 
    Đó chính là ý chí 
    Thúc đẩy tôi hành động.

    50. Đời không thể tự giúp 
    Bởi bị phiền não buộc 
    Vậy tôi phải giúp đời 
    Vì có khả năng hơn 
    So với kẻ lang thang.

    51.Thấy người làm việc hèn 
    Sao tôi nỡ ngồi yên 
    Phải chăng tôi ngã mạn 
    Nghĩ mình hơn kẻ khác 
    Tốt nhất đừng kiêu căng.

    52. Đối với cắc kè chết 
    Con quạ lầm tưởng mình 
    Là đại bàng dũng mãnh 
    Khi tâm ta yếu hèn 
    Thì một buông lung nhỏ 
    Cũng đủ làm hại ta.

    53. Tại sao lại buông lung 
    Không tinh tấn hành thiện? 
    Tôi cần phải tự tin 
    Và hăng hái tu hành 
    Dù gặp trở ngại lớn 
    Đều có thể vượt qua.

    54. Với tín tâm kiên cố 
    Tôi khắc phục buông lung 
    Nếu không thể thắng nó 
    Không thể vượt Tam giới.

    55. “Tôi phải thắng tất cả 
    Tôi không để bị thua“ 
    Chính kiến tôi như thế. 
    Tôi là sư tử con 
    Con của đấng Chiến thắng.

    56. Bất cứ chúng sinh nào 
    Bị kiêu căng chế ngự 
    Đều thật sự yếu hèn. 
    Kẻ nào vững tự tin 
    Sẽ không để gục thua 
    Trước kẻ thù kiêu ngạo.

    57.-58. Kiêu ngạo dẫn ta đến 
    Số phận rất tồi tệ 
    Dù rằng được làm người 
    Cũng chẳng được vui tươi 
    Ăn cơm thừa canh cặn 
    Xấu xí và suy nhược 
    Bị khinh chê khắp nơi 
    Đó chính là số phận 
    Của những kẻ kiêu căng.

    (Hỏi) “Còn những kẻ khiêm tốn 
    Thuộc hạng người tự tin 
    Thì họ như thế nào?“

    59.( Đáp) Họ là những anh hùng 
    Đầy chiến công oanh liệt 
    Thắng kẻ thù kiêu ngạo 
    Phá hủy sự lớn lên 
    Của ngã mạn đáng sợ 
    Rồi họ sẽ tuyên bố 
    Chiến công họ trọn thành 
    Cho thế gian đều biết (14).

    60. Dù phiền não phủ vây 
    Họ không hề chiến bại 
    Hùng dũng như sư tử 
    Đứng giữa một bầy chồn.

    61. Họ không để phiền não 
    Chiến thắng chế ngự mình 
    Như giữ gìn đôi mắt 
    Lúc cấp bách gặp nguy.

    Hoan hỷ

    62. Khi quyết làm việc gì 
    Bồ Tát say mê làm 
    Tâm để trọn vào đó 
    Giống như người đánh bạc 
    Mê say quyết ăn thua.

    63. Vì mưu cầu hạnh phúc 
    Không ngại làm công đức 
    Hạnh phúc đến hay không 
    Lòng tự tại thong dong; 
    Duy chỉ có việc làm 
    Mới chính là hạnh phúc; 
    Vậy nếu không làm gì 
    Làm sao đạt hạnh phúc?

    64. Lạc thú của trần gian 
    Như mật trên dao bén 
    Người đời nếm không chán; 
    Nhưng đối với công đức 
    Dẫn dắt đến an vui 
    Bồ Tát chán sao được?

    65. Vì vậy xong việc này 
    Bồ Tát làm việc khác 
    Như voi bị nắng thiêu 
    Bắt gặp được ao mát 
    Liền ào ngay xuống tắm.

    Quên mình

    66. Say sưa làm kiệt sức 
    Bồ Tát nghỉ xả hơi 
    Để rồi lại tiếp tục; 
    Công đức nào hoàn thành 
    Bồ Tát để sang bên 
    Sẵn sàng nhận việc khác.

    Hoàn toàn quên mình

    67. Bồ Tát luôn đề phòng 
    Cú đòn của lạc thú 
    Và phản công hữu hiệu 
    Như kiếm sĩ tài ba 
    Trước kẻ địch lão luyện.

    68. Trong trận, kiếm lỡ rơi 
    Kiếm sĩ vội nhặt lại 
    Bồ Tát cũng như vậy 
    Khi kiếm chánh niệm rơi 
    Liền nhặt lại tức khắc 
    Vì sợ sa địa ngục.

    69. Như thuốc độc vào máu 
    Sẽ lan khắp toàn thân 
    Phiền não gặp tà kiến 
    Sẽ ngập tràn trong tâm.

    70. Kẻ tu hạnh Bồ Tát 
    Phải hết sức chú ý 
    Như người mang bát dầu 
    Bị dọa chém rơi đầu 
    Nếu làm rơi một giọt.

    71. Như rắn bò lên bụng 
    Tức tốc hất nó đi 
    Cũng vậy, phải xua ngay 
    Cơn lười biếng, uể oải.

    72. Mỗi khi lỡ buông lung 
    Nên tự trách bản thân 
    Và suy nghĩ chín chắn 
    Về lỗi lầm đã làm 
    Để không còn tái phạm.

    73. Vì vậy nên thân cận 
    Các bậc thiện tri thức 
    Để học cách tu tập 
    Giữ gìn được chánh niệm.

    74. Trước khi làm công đức 
    Phải chú tâm nhớ lại 
    Lời dạy về chánh niệm 
    Và sẵn sàng tinh tấn.

    75. Như bông tơ nhẹ nhàng 
    Bay thuận theo làn gió 
    Mọi việc của Bồ Tát 
    Tất cả đều thuận theo 
    Sức mạnh của Tinh Tấn 
    Nhờ vậy lực nhiệm mầu 
    Cũng được tự phát huy.

  • 9. CHƯƠNG TÁM: THIỀN QUÁN

    CHƯƠNG TÁM 
    THIỀN QUÁN

    1. Phát huy tinh tấn rồi 
    Bồ Tát tu thiền quán ; 
    Người mà tâm tán loạn 
    Bị giam chốn buồn phiền.

    Sống ẩn dật

    2. Nhờ thân, tâm xa lìa 
    Với cuộc đời trần thế 
    Bồ tát sống ẩn dật 
    Nên tán loạn không sinh.

    Thân sống thoát ly

    3. Vì luyến ái tự ngã 
    Vì tham lợi tham danh 
    Nên bám víu trần thế; 
    Hãy theo bậc trí tuệ 
    Quán chiếu điều sau đây:

    4. “Ai có tâm vắng lặng 
    Với trí tuệ sáng suốt 
    Mới diệt được buồn phiền” 
    Vậy cần phải bắt đầu 
    Bằng tu tập an định; 
    Những vị đã hoan hỷ 
    Sống ly cách thế gian 
    Tu theo phương pháp này 
    Đã đạt tâm an định.

    Từ bỏ luyến ái

    5. Thân ta đã giới hạn 
    Vậy ta đâu thể nào 
    Yêu người cũng hạn định 
    Dù tái sinh ngàn lần 
    Cũng khó gặp người xưa.

    6. Tìm không gặp, sẽ buồn 
    Không giữ được chánh định 
    Nếu gặp, cũng đau khổ 
    Vì tâm tư sục sôi 
    Bao đòi hỏi thuở xưa.

    7. Vì không thấy thực tại 
    Nên con người lãng quên 
    Nỗi sợ hãi địa ngục ; 
    Vì luyến ái người yêu 
    Đành chịu tiếp khổ lụy.

    8. Mãi bận bịu người thân 
    Đời trôi qua vô nghĩa 
    Vì bè bạn không bền 
    Đành xa Pháp vĩnh cửu.

    9. Ai sống như người ngu 
    Số phận sẽ tồi tàn 
    Ai không sống giống họ 
    Họ không thèm trọng vọng 
    Nhưng được lợi ích gì 
    Khi thân cận kẻ ngu?

    10. Phút trước còn là bạn 
    Phút sau thành địch thù 
    Vui cũng chuốc oán cừu 
    Khó thỏa lòng nhân thế.

    11. Ta khuyên họ điều phải 
    Họ giận, kéo ta lui 
    Nếu không nghe lời họ 
    Họ bừng bừng nổi sân 
    Và rơi vào ngõ ác.

    12. Ganh ghét người hơn mình 
    Cạnh tranh kẻ bằng mình 
    Khinh thị người thua mình 
    Được khen thì khoái trá 
    Bị chê lại giận dữ 
    Với kẻ ngu như vậy 
    Làm bạn có ích chi?

    13. Giao du với kẻ ngu 
    Sẽ tự tâng bốc mình 
    Và hạ thấp người khác, 
    Ưa bàn chuyện thế tục 
    Những trò vô ích này 
    Quanh quẩn với người ngu.

    14. Những giao du như vậy 
    Chỉ sản sinh bất hạnh 
    Tốt hơn, sống một mình 
    Tâm hạnh phúc, sáng trong.

    15. Hãy lánh xa người ngu 
    Nếu gặp chỉ vui chào 
    Không phải để thân mật 
    Mà vì lòng an nhiên.

    16. Như ong lấy mật hoa 
    Tôi sống với mọi người 
    Vì phục vụ chánh pháp 
    Bình thản như trăng soi.

    Từ bỏ lợi danh

    17. “Ta giàu có, danh vọng 
    Ai cũng cầu cạnh ta » 
    Kẻ nào nghĩ như vậy 
    Sẽ sợ trước thần chết.

    18. Vì tâm ý lỗi lầm 
    Không biết chân hạnh phúc 
    Nên khoái lạc tầm cầu 
    Đều biến thành đau khổ 
    Gấp ngàn lần lớn hơn.

    19. Do đó bậc Hiền giả 
    Không vướng bận tham ái ; 
    Tham ái gây lo sợ 
    Chúng đều đáng buông bỏ 
    Hãy giữ vững thiền quán.

    20. Nhiều người thật giàu sang 
    Danh vang khắp thiên hạ 
    Cuối cùng họ về đâu 
    Với những lợi danh ấy?

    21- 22. Thiếu gì kẻ khinh tôi 
    Sao tôi vui được khen? 
    Thiếu gì kẻ khen tôi 
    Sao tôi buồn bị chê ?

    Chúng sinh muốn đủ điều 
    Phật cũng không chiều nổi 
    Huống chi tôi ngu đần 
    Lo lắng làm sao được 
    Cho trần thế đảo điên?

    23. Kẻ nghèo họ khinh khi 
    Người giàu họ nói xấu 
    Bản chất tráo trở đó 
    Khiến tôi không thể gần.

    24. Đức Như Lai từng dạy 
    Người ngu không có bạn 
    Họ thân thiện với ai 
    Đều chỉ vì tư lợi.

    25. Cỏ cây không nghĩ xấu 
    Cũng không khó kết bạn 
    Ôi chừng nào tôi được 
    Sống an lành với chúng?

    Sống nơi hoang vắng

    26. Chừng nào tôi thảnh thơi 
    Đến ở nơi am vắng 
    Dưới tàng cây, hang động 
    Không lưu luyến trần gian.

    27. Bao giờ tôi mới được 
    Đến những vùng nguyên sơ 
    Không ai giành làm chủ 
    Không nhà cửa, tự do.

    28. Bao giờ tôi mới được 
    Ở yên không sợ hãi 
    Vỏn vẹn một bình bát, 
    Một chiếc áo cà sa 
    Mà kẻ trộm không thèm 
    Thậm chí không che thân 
    Đến, đi đều tự tại.

    29. Bao giờ tôi đến gần 
    Bãi tha ma đầy xác 
    Để quán tưởng thân này 
    Chẳng khác nào xương kia 
    Tất cả đều hoại diệt.

    30. Mai kia tôi chết đi 
    Thân tôi sẽ vữa nát 
    Hơi thối bốc nồng nàn 
    Khiến chó cũng tránh chê 

    31. Thân này, lúc đang sống 
    Thịt xương dính với nhau 
    Lúc chết thì tan rã 
    Quyến thuộc nào khác chi.

    32. Lúc sinh đã một mình 
    Lúc chết vẫn đơn độc 
    Thống khổ này ai chia 
    Thân quyến nào ích gì 
    Chỉ cản trở tu tập.

    33. Lữ khách trên đường dài 
    Tạm trú nơi lữ quán 
    Người đi trong luân hồi 
    Tạm trú trong một đời.

    34. Lúc nào tấm thân này 
    Chưa được bốn người khiêng 
    Chưa ai đưa tiễn khóc 
    Thì nên vào rừng tu.

    35. Ở đó không người than 
    Cũng chẳng có kẻ thù 
    Một mình sống ẩn dật 
    Với đời như đã chết 
    Không ai buồn đớn đau.

    36. Chung quanh đều vắng vẻ 
    Chẳng ai phiền khóc than 
    Nên khi tưởng niệm Phật 
    Tâm tán loạn liền ngưng.

    37. Hãy nên sống ẩn dật 
    Ít bận, dễ an lành 
    Giữa đồi nương xinh đẹp 
    Tâm định tĩnh khinh an.

    Tâm sống thoát ly

    38. Buông bỏ mọi lo âu 
    Tâm sẽ được chuyên chú 
    Tinh tấn tu thiền định 
    Chế ngự mọi đảo điên.

    Ái dục

    39. Ái dục sinh ra họa 
    Cho đời này, kiếp sau 
    Đây tù tội chết chóc 
    Kia địa ngục khổ sầu.

    40. Cũng chỉ vì ái dục 
    Mà ngươi đã khẩn cầu 
    Bao ông tơ bà nguyệt 
    Xe chỉ kết lương duyên 
    Hãy xem xét thật kỹ 
    Điều ấy có nên không 
    Hay đem đến tiếng xấu?

    41. Tính mạng dù hiểm nguy 
    Gia tài dù khánh tận 
    Tất cả vì ái dục 
    Tất cả vì khoái lạc 
    Chỉ ôm được người đẹp 
    Là khoái chí tiêu hồn.

    42. Kẻ ngươi ôm ngày xưa 
    Cũng chỉ là bộ xương 
    Vô chủ, không tự tính. 
    Nay chết hiện nguyên hình 
    Sao ngươi không ôm tiếp?

    43. Mãi đến ngày lễ cưới 
    Người đẹp mới ngẩng đầu 
    Ngươi kéo khăn che mặt 
    Mới thấy được khuôn trăng 
    Lúc chết quấn vải liệm 
    Ngươi thấy mặt ấy không?

    44. Dung mạo sau khăn che 
    Xưa làm mê hoặc ngươi 
    Nay kên kên mở ra 
    Ngươi hãy ngắm kỹ đi! 
    Sao ngươi lại bỏ chạy?

    45. Ngày xưa ai lén nhìn 
    Ngươi vội vàng che dấu 
    Nay kên kên mổ ăn 
    Hỡi kẻ ghen nhan sắc 
    Sao không bảo vệ đi?

    46. Ngươi nhìn khối thịt vữa 
    Kên kên tranh giành ăn: 
    Xưa kia ngươi nhọc công 
    Trang điểm bằng vòng hoa, 
    Hương liệu và nữ trang.

    47. Nhìn xương trắng bất động 
    Sao ngươi lại hãi kinh 
    Mà trước kia không sợ? 
    Sao không nghĩ rằng đó 
    Là tử thi di chuyển!

    48. Xưa nàng mặc xiêm y 
    Xinh đẹp làm ngươi thích 
    Nay xác thân trơ trụi 
    Ngươi có thích hay chăng 
    Mê chăng thây choàng áo?

    49. Nước miếng và phân tiểu 
    Do thức ăn sinh ra 
    Sao ngươi thích nước miếng 
    Mà lại ghê tởm phân?

    50. Những kẻ thương yêu nhau 
    Không thích gối nệm sạch 
    Vì thiếu hơi người tình 
    Từ thân thể tỏa ra. 

    51. Kẻ mê nhục dục nói: 
    “Cái gối tuy mềm mại 
    Nhưng không thể tạo được 
    Giấc nồng đôi uyên ương”. 
    Họ giận cả cái gối!

    52. Ngươi không ưa thứ bẩn 
    Sao lại ôm thân người 
    Có gân xương kết nối 
    Với da thịt đắp lên?

    53. Thân thể ngươi không sạch 
    Ngươi chưa hài lòng sao 
    Còn ham chi túi da 
    Không sạch của người khác?

    54. Nếu bảo chỉ thích nhìn 
    Và vuốt ve da thịt. 
    Sao ngươi không vuốt ve 
    Xác chết chẳng còn hồn?

    55. Vậy ngươi thích cái gì 
    Là tâm người yêu chăng? 
    Tâm không thể sờ, thấy 
    Mọi thứ được cảm nhận 
    Qua tất cả giác quan 
    Đều không phải là tâm! 
    Vậy ôm ấp thân kia 
    Chẳng nghĩa lý gì hết!

    56. Nếu không nhận thức được 
    Thân người khác không sạch 
    Đó chưa phải lạ kỳ 
    Nhưng chẳng biết mình dơ 
    Mới thực là kỳ lạ.

    57. Hỡi cái tâm suy đốn 
    Sao lại bỏ đóa sen 
    Vừa mới nở trong nắng 
    Để thích túi da dơ?

    58. Ngươi không muốn sờ mó 
    Đất cát đầy dơ bẩn 
    Sao ngươi muốn mó sờ 
    Tấm thân tiết đồ dơ?

    59. Ngươi không thích dơ bẩn 
    Tại sao ôm vào lòng 
    Tấm thân của người khác 
    Tiết đủ thứ không sạch?

    60. Con dòi sống trong phân 
    Ngươi không thể ưa thích 
    Tại sao thích thân này 
    Đầy chất phế thải dơ?

    61. Ngươi đã không ghê tởm 
    Thân không sạch của mình 
    Sao khát khao cơ thể 
    Không sạch của người khác?

    62. Long não và gia vị 
    Gạo thơm, thức ăn ngon 
    Từ miệng khạc nhổ ra 
    Làm đất bị ô nhiễm.

    63. Thân không sạch cũng vậy 
    Ai ai cũng tự thấy 
    Nếu lòng còn nghi ngờ 
    Hãy đi vào nghĩa địa 
    Quan sát những thây chết.

    64. Sao ngươi thích thân người 
    Mặc dù đã ý thức 
    Khi da bị lóc ra 
    Trông thật đáng kinh hãi!

    65. Thân không tự nhiên thơm 
    Ngát hương nhờ nước hoa 
    Chỉ vì mùi hương lạ 
    Mà đắm say thân nàng!

    66. Mùi hôi hám tự nhiên 
    Không kích thích lòng dục 
    Không khiến mê thân thể 
    Đó là niềm hạnh phúc 
    Bày chi chuyện độc hại 
    Xức dầu thơm lên thân!

    67. Mùi hương trầm tỏa ngát 
    Can hệ gì đến thân? 
    Tại sao nhân mùi hương 
    Mà sinh lòng thích nàng?

    68- 69. Thân người để tự nhiên 
    Với mặt, da trần trụi 
    Móng, tóc dài lê thê, 
    Răng vàng khè lốm đốm 
    Thân tự nhiên như thế 
    Trông đáng sợ vô cùng !

    Tại sao phải mệt nhọc 
    Bỏ công săn sóc nó ? 
    Vậy khác chi mài gươm 
    Để tự giết bản thân! 
    Ôi! Đời đầy lũ điên 
    Lúc nào cũng hồ hởi 
    Tự mê hoặc chính mình!

    70. Thấy xương ngoài nghĩa địa 
    Lòng ngươi sinh khiếp sợ 
    Sao lại vui khi thấy 
    Những bộ xương di chuyển 
    Đầy dãy khắp xóm làng.

    71. Hơn nữa tấm thân này 
    Dầu cho không được sạch 
    Phải trả tiền mới có 
    Đời này phải phục dịch 
    Đời sau càng khổ hơn 
    Trong các cõi địa ngục.

    72. Trẻ con không khả năng 
    Làm việc kiếm ra tiền 
    Nhờ đâu chúng hạnh phúc? 
    Lớn lên đời trôi qua 
    Trong công việc kiếm sống 
    Tuổi già đến bên chân 
    Sắc dục làm chi nữa?

    73. Có kẻ tham nhục dục 
    Suốt ngày làm kiệt sức, 
    Tối về nhà mệt mỏi 
    Lăn ngủ say như chết.

    74. Có kẻ vào quân đội 
    Khổ sầu xa vợ con 
    Tháng năm lòng dằn vặt 
    Mong đoàn tụ mỏi mòn.

    75. Có kẻ vì lợi lộc 
    Ngu si tự bán thân 
    Lợi lộc chưa hề thấy 
    Chỉ biết hầu hạ người.

    76. Có một số bà vợ 
    Bán thân làm tôi tớ 
    Trên bước đường đi xa 
    Phải sinh đẻ cấp bách 
    Dưới cây chốn rừng hoang.

    77. Có kẻ tìm vinh quang 
    Xông pha giữa chiến trường 
    Không màng đến tính mạng, 
    Vì đi tìm vinh quang 
    Mà gặp cảnh tù đày!

    78. Vì tham lam lợi danh 
    Nên thân bị tàn tật 
    Bị gươm đâm, tù đày 
    Hoặc giáo đâm, lửa đốt.

    79. Hãy nên nhận rõ rằng 
    Tài sản là bất hạnh 
    Vì nhọc nhằn tom góp 
    Sợ mất phải giữ ôm 
    Vì say mê tài sản 
    Nên không có phút giây 
    Tâm giải thoát khổ đau .

    80. Tham dục sinh phiền não 
    Khoái ít, khổ đau nhiều 
    Khác chi bò kéo xe 
    Được thưởng cho nhúm cỏ.

    81. Chỉ vì chút cảm khoái 
    - Mà thú vật dễ đạt - 
    Nhưng người phải bôn ba 
    Đày đoạ thân, tâm mình!

    82.- 83. Vì tấm thân bèo bọt 
    Mà chịu khổ trường kỳ 
    Rơi vào các địa ngục 
    Chịu số phận hẩm hiu.

    Trong khi chỉ cố gắng 
    Chịu đựng một ít khổ 
    Vì công việc tu hành 
    Thì sẽ thành Chánh giác. 
    So với hàng Bồ Tát 
    Kẻ tham dục phải chịu 
    Khổ cực nặng nề hơn 
    Mà chẳng đạt chánh quả.

     84. Dù dao kiếm, kẻ thù 
    Dù thuốc độc, vực sâu 
    Nếu so với ái dục 
    Không thể nguy hiểm bằng.

    85. Nên nhàm chán ái dục 
    Lìa tranh chấp, nhọc nhằn 
    Vui với cảnh ruộng đồng 
    Và núi rừng an tịnh.

    86. Đi bộ giữa gió rừng 
    Như được quạt êm mát 
    Thong dong trên phiến đá 
    Như sân thượng cung vua 
    Dưới ánh trăng tịnh thanh 
    Mùi hương trầm ngan ngát 
    Nghĩ đến việc giải thoát 
    Cho tất cả chúng sinh.

    87. Tùy ý ở lâu mau 
    Trong căn nhà hoang vắng 
    Hay tại một gốc cây 
    Hoặc trong những hang đá 
    Tâm không bận giữ của 
    An nhiên đi đó đây.

    88. Tự tại ở hay đi 
    Không vướng bận một ai 
    Đó là niềm hạnh phúc 
    Mà ngay cả Vua Trời 
    Cũng không thể hưởng được.

    Thiền quán

    89. Nhờ quán chiếu lợi ích 
    Của đời sống ẩn tích 
    Nên vọng tưởng tiêu trừ 
    Tập trung tu thiền định :

    Quán chiếu bình đẳng

    90. Trước hết nên quán chiếu 
    Tôi với người bình đẳng (15) 
    Ai ai cũng giống nhau 
    Đều tìm vui, tránh khổ 
    Vì vậy phải bảo vệ 
    Chúng sinh cũng như mình. 

    91. Thân gồm nhiều bộ phận 
    Nhưng khi bảo vệ chúng 
    Tôi xem chúng như “một” ; 
    Cũng vậy với chúng sinh 
    Tuy phân biệt nhiều loài 
    Song cùng chung sướng khổ 
    Nên xem chúng như “một”.

    92. Dù cái khổ của tôi 
    Không hành thân kẻ khác 
    Nhưng vì yêu “cái Ta” 
    Nên thật khó kham nỗi.

    93. Và cái khổ người khác 
    - Mà tôi không cảm nhận - 
    Nhưng vì yêu “cái Ta” 
    Nên họ cũng khó kham.

    94. Phải trừ khổ cho người 
    Như trừ khổ cho tôi 
    Phải giúp đỡ người khác 
    Vì họ cũng như tôi 
    Đều cùng là chúng sinh.

    95. Tôi và người giống nhau 
    Đều mưu cầu hạnh phúc 
    Vậy có gì khác biệt 
    Khi đều tìm hạnh phúc?

    96. Tôi và người giống nhau 
    Đều sợ nguy, sợ khổ 
    Vậy vì lý do nào 
    Khiến tôi chỉ cứu tôi 
    Mà không cứu người khác?

    97. Đừng nói : “Không cứu người 
    Vì nỗi khổ của họ 
    Không liên quan đến tôi, 
    Tại sao tôi bảo vệ 
    Và che chở cho họ?" 
    Cũng vậy, nỗi đau khổ 
    Của thân thể kiếp sau 
    Sẽ không hành hạ tôi 
    Nếu kiếp này tôi tu.

    98. Nếu bảo rằng : “Kiếp sau 
    Thân tôi vẫn là tôi” 
    Điều ấy e không đúng 
    Vì thân lúc chết đi 
    Không phải thân tái sinh!

    99. Bảo rằng: “Kẻ nào đau 
    Thì họ phải tự chữa” 
    Vậy khi chân bị đau 
    Tay không can hệ gì 
    Sao tay phải xoa chân?

    100. Bảo: “Điều vừa biện minh 
    Mặc dù phi lý thật 
    Song bởi vì chấp ngã 
    Nên nó được sinh ra”. 
    Nhưng những gì phi lý 
    Dù của ta hay người 
    Phải cực lực trừ bỏ.

    101. Tràng hạt và đội quân (16) 
    Thật ra là ảo tưởng 
    Của sự nối liên tục 
    Và của sự kết hợp. 
    Đau khổ cũng như vậy 
    Không ai là chủ thể 
    Của những sự khổ đau? 
    Vì vậy, ai là kẻ 
    Cảm nhận được khổ đau ?

    102. Khổ đau không có chủ 
    Nó chẳng thuộc về ai. 
    Chỉ riêng tính khổ đau 
    Mới cần được tiêu trừ 
    Vậy cần chi phân biệt 
    Giữa tôi và kẻ khác?

    103. - (Hỏi) “Nhưng nếu không có ai 
    Là người gánh chịu khổ 
    Tại sao phải diệt khổ ?”

    (Đáp) Vì chúng sinh bình đẳng 
    Nếu cấn phải diệt khổ 
    Ta phải diệt khắp nơi. 
    Nếu không thì không cả. 
    Không thể diệt cho mình 
    Mà bỏ lơ người khác.

    104. - (Hỏi) “Mở lòng từ như vậy 
    Nỗi khổ chỉ to thêm 
    Vậy từ bi làm chi! ”

    (Đáp) Nỗi khổ dù to hơn 
    Vì lòng từ mở rộng 
    Song thấm thía gì đâu 
    So với khổ muôn loài.

    105. Nếu một người chịu khổ 
    Để nhiều người khỏi khổ 
    Thì kẻ có lòng từ 
    Sẽ gánh trọn khổ ấy.

    106. Bồ tát Diệu Hoa Nguyệt (17) 
    Biết vua sắp hại mình 
    Dù vậy vẫn hy sinh 
    Chấp nhận chịu đau khổ 
    Để cứu khổ nhiều người.

    107. Với tâm được điều phục 
    Nhờ tu hạnh bình đẳng 
    Thấy chúng sinh như mình 
    Bồ Tát vào địa ngục 
    Để cứu độ chúng sinh 
    Nhẹ nhàng như thiên nga 
    Sà xuống ao sen mát.

    108. Giải thoát cho riêng mình 
    Đâu có nghĩa gì lớn; 
    Giải thoát cho chúng sinh 
    Bồ Tát đươc niềm vui 
    Dạt dào như biển cả.

    109. Giúp người được giải thoát 
    Bồ Tát không kiêu căng 
    Chuyên tâm làm công đức 
    Không mong được đáp đền.

    110. Tôi biết bảo vệ mình 
    Trước bao sự nhục mạ 
    Vậy với tâm từ bi 
    Tôi càng bảo vệ người.

    111. Tuy không là thực thể 
    Song nương theo tập quán 
    Nên ta đã chấp nhận 
    Tinh huyết của người khác (18) 
    Cấu tạo thành “cái Ta”.

    Hoán vị giữa ta với người

    112. Vậy tại sao không nhận 
    Thân người là thân ta? 
    Hoán đổi thân của mình 
    Thành ra thân của người 
    Đâu phải là chuyện khó?

    113. Nếu thấy mình xấu xa 
    Người là biển công đức 
    Thì nên tập thương người 
    Và từ bỏ chấp ngã.

    114. Ai cũng nhận tay chân 
    Là bộ phận thân thể 
    Sao không thừa nhận rằng 
    Chúng sinh là thành phần 
    Của toàn bộ thế giới.

    115. Thói quen khiến ta nhận 
    Thân vô ngã là “Ta” 
    Sao không tập thói quen 
    Xem người cũng là ta ?

    116. Nhờ thực hiện vô ngã 
    Ta sẽ không kiêu căng, 
    Không đợi chờ đền đáp 
    Khi làm lợi cho người.

    117. Trước đớn đau lo lắng 
    Ta biết bảo vệ mình. 
    Vậy đối với chúng sinh 
    Cũng phải luyện tâm ý 
    Biết bảo vệ, yêu thương.

    118. Vì vậy đấng Bảo Vệ 
    Đại Bi Quán thế Âm 
    Đã tặng danh hiệu mình 
    Để giúp đỡ chúng sinh 
    Tiêu trừ bao sợ hãi.

    119. Trước nhiệm vụ khó khăn 
    Ta không nên trốn chạy 
    Với thói quen như thế 
    Ta không sợ một ai 
    Dù xưa kia nghe tên 
    Ta đã từng khiếp vía.

    120. Ai muốn nhanh cứu mình 
    Và cứu nhanh người khác 
    Nên đổi người thành ta 
    Và đổi ta thành người 
    Đó là bí quyết tốt.

    121. Vì yêu quí thân mình 
    Nên sợ bị nguy hiểm. 
    Thân là gốc sinh sợ 
    Sao không ghét nó đi?

    122. Cũng chỉ vì thân này 
    Mà ta đã chống chọi 
    Với đói khát, đau bệnh. 
    Dùng trăm phương nghìn kế 
    Bắt giết cá, chim, thú 
    Rình đường và cướp giựt.

    123. Hoặc vì cầu lợi danh 
    Nhẫn tâm giết cha mẹ 
    Trộm tài vật Tam Bảo 
    Đến nỗi bị đốt thiêu 
    Trong địa ngục Vô gián

    124. Đã là kẻ thông minh 
    Thì không thể bảo vệ 
    Và cưng dưỡng thân này 
    Phải xem nó là địch 
    Và hãy khinh khi nó.

    125. Ai nghĩ rằng: “Nếu cho 
    Thì còn gì để ăn?” 
    Với lòng ích kỷ ấy 
    Sẽ vào đường ngạ quỷ; 
    Ai nghĩ rằng: “Ta ăn, 
    Vậy bố thí gì đây?” 
    Với lòng thương người đó 
    Sẽ vào đường Vua Trời.

    126. Vì mình mà hại người 
    Sẽ vào cõi địa ngục; 
    Vì người mà chịu cực 
    Sẽ hưởng được hạnh phúc.

    127. Vì tham địa vị cao 
    Nên kiếp sau thấp hèn ; 
    Cầu cho người được trọng 
    Kiếp sau được tôn sùng.

    128. Sai người khác phục dịch 
    Kiếp sau làm tôi đòi ; 
    Hiến mình để phụng sự 
    Kiếp sau được quan quyền.

    129. Ai lo hạnh phúc riêng 
    Sẽ khổ vì ích kỷ 
    Ai sung sướng trên đời 
    Đều nhờ nghiệp hy sinh 
    Đem hạnh phúc cho người.

    130. Đâu cần nói nhiều lời 
    Hãy nhìn sự khác biệt 
    Giữa người ngu, bậc thánh 
    Người ngu vì lợi riêng 
    Thánh nhân vì lợi người.

    131. Không đổi vui của mình 
    Lấy khổ đau kẻ khác 
    Thì ta sẽ không thể 
    Thành tựu quả Chánh giác, 
    Sẽ trôi trong luân hồi 
    Và mãi không an vui.

    132. Tạm gác chuyện đời sau 
    Ngay trong đời hiện tại 
    Làm tôi tớ biếng lười 
    Thì không được lợi lộc 
    Vì chủ không trả công.

    133. Kẻ mê muội từ chối 
    Việc giúp nhau tạo phúc 
    Lại chuyên làm khổ nhau 
    Nên chuốc lấy tai ương 
    Thật vô cùng khủng khiếp.

    134. Bao bất hạnh ở đời 
    Như thống khổ, hiểm nguy 
    Đều sinh từ chấp ngã. 
    Vậy sao ta chấp ngã?

    135. Nếu khư khư chấp ngã 
    Thì không thoát được khổ 
    Như chưa tránh xa lửa 
    Có lúc bị đốt thiêu.

    136. Để xoa dịu khổ đau 
    Của tôi và của người 
    Tôi phải hiến thân mình 
    Cho bao nhiêu kẻ khác 
    Và xem họ là tôi.

    137. Này tâm ý ta ơi!, 
    Ngươi nên phải tin rằng 
    “Ta buộc ngươi với người” 
    Vậy ngươi chỉ được quyền 
    Nghĩ đến lợi cho người.

    138. Mắt và các giác quan 
    Chúng đã thuộc về người 
    Mắt không còn nhìn thấy 
    Những lợi riêng cho tôi 
    Bàn tay này cũng vậy 
    Nó thuộc kẻ khác rồi 
    Nên không còn hoạt động 
    Làm lợi ích cho tôi.

    139. Từ nay thân thể này 
    Tôi hiến cho muôn loài 
    Hãy đem nó sử dụng 
    Vì giải thoát chúng sinh.

    140. Hãy chọn người thấp hơn 
    Rồi đặt tôi vào họ 
    Và đặt họ vào tôi. 
    Nhờ vậy tôi không ngại 
    Khi tu tập thiền quán 
    Về kiêu căng, ghen ghét.

    141. Hãy nghĩ như thế này (19) : 
    “Tôi không được kính trọng 
    “Tôi không giàu bằng người; 
    “Kẻ ấy được khen thưởng 
    “Còn tôi bị chê trách 
    “Kẻ ấy được hạnh phúc 
    “Còn tôi lại khổ sở.

    142. “Tôi làm lụng nhọc nhằn 
    “Kẻ ấy sống nhàn hạ 
    “Tôi thân bại danh liệt 
    “Kẻ ấy được tán dương.

    143. “Ta phải làm gì đây 
    “Với kẻ bất tài ấy? 
    “Ai cũng có tài riêng. 
    “Đối với rất nhiều người 
    “Tôi còn kém thua họ 
    “Nhưng cũng hơn nhiều người.

    144. “Sự suy yếu giới luật 
    “Và kiến giải của tôi 
    “Phát sinh từ ái dục 
    “Chứ không sinh từ tôi. 
    “Nếu nó chữa giúp tôi 
    “Dù đau đớn thế nào 
    “Tôi cũng sẵn sàng chịu.

    145. “Với tôi nó [cái Ta] không chữa 
    “Sao lại khinh miệt tôi? 
    “Nó có nhiều ưu điểm 
    “Song lợi gì cho tôi?

    146. “Nó không có lòng từ 
    “Đối với kẻ xấu số 
    “Đang kẹt trong đường ác. 
    “Hơn nữa nó hãnh diện 
    “Về ưu điểm của mình 
    “Cao hơn bậc hiền đức.

    147. “Đối với kẻ ngang hàng 
    “Nó [cái Ta] tìm cách lấn lướt 
    “Thậm chí bằng tranh cãi 
    “Để nâng cao ưu điểm 
    “Và thắng lợi, thanh danh.

    148. “Tôi sẽ bằng mọi cách 
    “Tuyên dương khắp thiên hạ 
    “Tính ưu việt của mình 
    “Và không cho ai biết 
    “Tính ưu việt của nó.

    149. “Tôi lại phải che dấu 
    “Những lỗi lầm của mình 
    “Để tôi được trọng vọng 
    “Thế là tôi giàu sang 
    “Và được người cung kính 
    “Chứ không phải là nó.

    150. “Tôi hoàn toàn thoả mãn 
    “Vì nó bị khinh khi 
    “Bị thế gian biếm ngạo 
    “Bị phỉ báng đó đây.

    151. “Bởi kẻ khốn cùng này 
    “Muốn so đọ với tôi 
    “Thử hỏi xem sắc đẹp 
    “Hay trí tuệ, hiểu biết 
    “Dòng họ, tài sản nó 
    “Làm sao bằng tôi được?”

    152. “Mỗi khi nghe mọi người 
    “Ca tụng ưu điểm tôi 
    “Tôi sướng ran cả người 
    “Vui dựng cả tóc gáy. 

    153. “Nếu nó còn tài sản 
    “Tôi sẽ dùng bạo lực 
    “Để chiếm đoạt tất cả. 
    “Nếu nó phục dịch tôi 
    “Tôi cho nó đủ sống.

    154. “Tôi phải đuổi nó khỏi 
    “Niềm hạnh phúc an vui 
    “Và chất lên lưng nó 
    “Những nhọc nhằn của tôi. 
    “Nó phải bị chìm nổi 
    “Trong sinh tử luân hồi 
    “Vì nó hàng trăm lần 
    “Đã làm tôi thiệt hại“.

    155. Hỡi này tâm ý ơi ! 
    Trải qua vô số kiếp 
    Ngươi tầm cầu tư lợi 
    Chịu bao nhiêu nhọc nhằn 
    Chỉ để gặt đau khổ.

    156. Hãy nhận lấy lời khuyên 
    Hoán vị với người khác 
    Làm đúng theo Phật pháp 
    Tất được lợi mai sau. 
    Lời Phật dạy không sai.

    157. Nếu xưa tôi tu tập 
    Hoán đổi mình với người 
    Tất thành bậc giác ngộ 
    Không khổ như ngày nay.

    158. Ngươi bám chặt ý thức 
    Rằng cái “Ta” kết tụ 
    Từ tinh huyết mẹ cha 
    Vậy ngươi cũng nên tập 
    Xem kẻ khác là ta.

    159. Hãy như điệp viên lạ 
    Quan sát kỹ thân này 
    Thấy có gì lợi ích 
    Hãy đem cho chúng sinh.

    160. Cái Ta luôn nghĩ rằng : 
    Ta tốt, họ xấu xa 
    Họ hèn, ta cao trọng 
    Ta làm, họ ở không 
    Vì vậy với cái “Ta” 
    Hãy hoàn toàn ghét nó.

    161. Cần phải đuổi cái “Ta” 
    Ra khỏi niềm hạnh phúc 
    Và trói chặt nó vào 
    Đau khổ của người khác. 
    Hãy canh chừng cẩn mật 
    Việc mờ ám của nó.

    162. Hãy đổ lên đầu nó 
    Mọi lỗi lầm kẻ khác 
    Và khai trước đức Phật 
    Mọi sai trái của nó 
    Dù nhỏ nhặt đến đâu.

    163. Hãy dìm tiếng tốt nó 
    Bằng cách nâng cao lên 
    Tiếng tốt của người khác ; 
    Hãy bắt nó hầu hạ 
    Làm tôi tớ chúng sinh 
    Đáp ứng mọi nhu cầu.

    164. Không vì vài hạnh tốt 
    Của “cái Ta” lỗi lầm 
    Mà vội vàng khen ngợi. 
    Nếu nó có hạnh tốt 
    Cũng đừng cho ai hay.

    165. Tóm lại, cần phải đổ 
    Lên đầu của “cái Ta” 
    Tất cả những phương hại 
    Mà nó mang đến người

    166. Đừng cho nó quyền hành 
    Để thành kẻ lắm miệng 
    Hãy bắt nó e thẹn 
    Kín đáo và rụt rè 
    Như cô dâu mới cưới.

    167. “Phải làm như thế này” 
    “Phải đứng như thế kia” 
    “ Không được làm gì cả” 
    Phải khống chế “cái Ta“ 
    Bằng cách đối xử ấy 
    Và nếu nó vi phạm 
    Phải trừng phạt nó ngay.

    168. Này tâm của tôi ơi! 
    Nếu ngươi không làm vậy 
    Như đã được ủy thác 
    Thì sẽ bị trừng trị 
    Vì bao nhiêu lỗi lầm 
    Rốt cuộc nằm tại ngươi.

    169. Ngươi muốn đi đâu đó? 
    Ngươi không thoát ta đâu! 
    Ta đập tan tành hết 
    Thói kiêu ngạo của ngươi 
    Thời ngươi hủy hoại ta 
    Nay đã qua lâu rồi.

    170. Ngươi hãy bỏ hy vọng 
    Tìm lợi riêng cho mình 
    Ngươi đã bị bán rồi 
    Dù ngươi rất tuyệt vọng 
    Cũng chẳng ai quan tâm.

    171. Nếu ta thiếu thận trọng 
    Không bán ngươi cho người 
    Chắc chắn ngươi trao ta 
    Cho quỷ sứ địa ngục. 
    Không nghi ngờ gì nữa !

    172. Đã bao nhiêu lần rồi 
    Ngươi bán ta cho chúng 
    Ta đã bị hành hạ ; 
    Nay nhớ lại thù xưa 
    Ta quyết tiêu diệt ngươi ; 
    Hỡi cái tâm ích kỷ 
    Chỉ biết làm nô lệ 
    Cho lợi riêng của mình!

    173. Nếu ngươi muốn yêu ngươi 
    Và muốn bảo vệ mình 
    Đừng chiều chuộng “cái Ta” 
    Đừng che chở “cái Ta”.

    Tổng kết

    174. Thân càng được che chở 
    Nó càng nhỏng nhẽo hơn 
    Nó càng bị sa đọa.

    175. Và nó càng sa đọa 
    Ái dục nó càng tăng 
    Cả tài sản quả đất 
    Cũng không thỏa mãn nó.

    176. Ai ham đắm điều gì 
    Mà không thể có được 
    Thì chuốc lấy thất vọng ; 
    Kẻ dứt hết cầu mong 
    Sẽ được phước vô biên.

    177. Hãy ngăn chận phóng túng 
    Trong vấn đề hưởng lạc 
    Để phục vụ thân xác. 
    Hãy mong cầu những gì 
    Mà ta không muốn nhận.

    178. Thân xác này không sạch 
    Trông đáng sợ làm sao ! 
    Cuối cùng chết cứng đơ 
    Và trở thành tro bụi. 
    Tại sao ôm giữ nó 
    Và xem nó là “Ta” ?

    179. Dù sống hay là chết 
    “Bộ máy” này ích gì? 
    Nó khác gì cục đất? 
    Ôi ý thức chấp “Ta” 
    Hãy diệt đi cho rồi !

    180. Vì phục dịch thân này, 
    Tôi chịu bao đau khổ. 
    Dù bị ghét, được thương 
    Nó cũng như khúc gỗ. 
    Tôi cũng không được gì !

    181. Dù che chở thế nào 
    Hay vứt cho quạ ăn 
    Nó chẳng biết thương, ghét 
    Một tấm thân như thế 
    Thương mãi để làm chi?

    182. Nó không hay, không biết 
    Khi nó bị lăng nhục 
    Song tôi sôi tiết lên 
    Khi nó được tôn vinh 
    Thì tôi rất hả dạ 
    Vì ai tôi như thế?

    183. Ai thương thân xác tôi 
    Kẻ ấy trở thành bạn 
    Ai thương thân của họ 
    Sao không là bạn tôi?

    184. Bởi thế, tôi thản nhiên 
    Cống hiến thân xác này 
    Vì sự nghiệp giải thoát 
    Cho tất cả chúng sinh. 
    Từ nay tôi mang nó 
    Như là một công cụ 
    Dù nó đầy lỗi lầm.

    185.-186 Thôi đã đủ lắm rồi 
    Nếp sống kẻ phàm phu 
    Nay theo chân Hiền giả 
    Khắc ghi lời giáo huấn 
    Chánh niệm luôn giữ gìn 
    Chống lại tính dã dượi 
    Và lừ đừ ngủ gật. 

    187. Để chướng ngại tiêu trừ 
    Tâm phải rời tà kiến 
    Tinh tấn luôn phát huy 
    Chuyên cần tu chánh định.

  • 10. CHƯƠNG CHÍN :TRÍ TUỆ

    CHƯƠNG CHÍN
    TRÍ TUỆ

    DẪN NHẬP

    1. Đức Phật tuyên bố rằng 
    Các hạnh Ngài khuyên dạy 
    Đều đưa đến trí tuệ. 
    Bồ Tát mong trừ khổ 
    Phải phát huy trí tuệ.

    HAI CHÂN LÝ

    Định nghĩa

    2. Có hai loại chân lý 
    Tương đối của thế gian (20) 
    Và chân lý tuyệt đối (21) 
    Tuyệt đối vượt tương đối; 
    Đối tượng của trí thức 
    Không phải là chân lý; 
    Nhưng chân lý thế gian 
    Được xem là trí tuệ.

    Trình độ nhận thức khác nhau

    3.-4.Tương ứng hai chân lý 
    Cũng có hai hạng người 
    “Thiền gia” và “người thường” 
    Thiền gia hay bác bỏ 
    Quan niệm của người thường; 
    Thiền gia có hai cấp 
    “Thấp”, “cao” tuỳ trí tuệ; 
    Thiền gia và người thường 
    Cả hai đều công nhận 
    Hiện hữu của các pháp 
    Nhưng người thường khẳng định 
    Các pháp là chân lý; 
    Song thiền gia quan niệm 
    Thế giới là mộng ảo 
    Tất cả là hiện tượng 
    Chúng không có tự tính 
    Nhưng vì muốn giác ngộ 
    Thiền gia phải tu học 
    Dùng chúng làm phương tiện 
    Để dần dần tiến lên.

    5. Người thường nhìn các pháp 
    Xem chúng là có thật; 
    Ngược lại, các thiền gia 
    Xem chúng là ảo tưởng 
    Đó là sự khác biệt 
    Giữa thiền gia, người thường.

    Phản bác lập trường 
    chấp vào thật hữu 

    6. Theo quy ước thế gian 
    Mọi đối tượng cảm nhận 
    Được xem như có thật 
    Song dưới mắt trí tuệ 
    Thì quy ước ấy sai 
    Như xem bẩn là sạch.

    7. Để người thường hiểu đạo 
    Phật giảng pháp vô thường. 
    Nhưng trong mỗi sát na 
    Pháp cũng không có thật.

    - (Hỏi) Phải chăng ý ấy nói 
    Pháp có trong thoảng chốc 
    Là chân lý thế gian? 
    Điều này thật mâu thuẫn 
    [Đối với sự cảm nhận 
    Về chân lý tuyệt đối].

    8. (Đáp) Mâu thuẫn ấy không có 
    Vì thiền gia nhận thức 
    Rằng chân lý thế gian 
    Vốn không có tự tính 
    Mọi pháp đều vô thường 
    Có đó liền tan biến 
    Khác nhận thức người thường 
    Nếu không anh mâu thuẫn 
    Với quan niệm thế gian 
    Khi anh đánh giá rằng 
    Nữ sắc không sạch sẽ 
    [Trong khi người thế gian 
    đánh giá họ là sạch]

    9.- (Hỏi) Làm sao đạt công đức 
    Khi thờ một vị Phật 
    Được xem như ảo tưởng? 
    Và sẽ như thế nào 
    Đối với vị Phật thật?

    (Đáp) Cúng dường vị Phật thật 
    Sẽ có công đức thật 
    Cúng dường vị Phật ảo 
    Sẽ có công đức ảo.

    - (Hỏi) Nếu như một hữu tình 
    Được xem như ảo tưởng 
    Làm sao nó chết được? 
    Và có thể tái sinh?

    10. (Đáp) Người ảo chỉ tồn tại 
    Cho đến khi nhân duyên 
    Còn phối hợp đầy đủ. 
    Đâu vì sự liên tục 
    Của nhân duyên kéo dài 
    Mà có thể khẳng định 
    Con người hiện hữu thật!

    11. Khi giết hại người ảo 
    Không thể bị tội lỗi 
    Vì họ thiếu tâm ý. 
    Song với một hữu tình 
    Trang bị tâm ý ảo 
    Thì tội phước phát sinh.

    12.-13. – (Hỏi) Thần chú và ảo thuật 
    Không thể có công năng 
    Tạo tác ra tâm ảo!

    (Đáp) Tâm ảo vốn đa dạng 
    Sinh từ nhiều loại duyên 
    Chỉ một duyên đơn độc 
    Không thể sinh tất cả.

    14.-15. - (Hỏi) Theo chân lý tuyệt đối 
    Thì tất cả chúng sinh 
    Đều ở trong Niết Bàn 
    Và chúng chỉ luân hồi 
    Theo chân lý thế gian, 
    Vậy Phật cũng luân hồi, 
    Như thế ích lợi chi 
    Khi tu hạnh Bồ Tát?

    (Đáp) Chừng nào duyên chưa dứt 
    Ảo tưởng vẫn tồn tại. 
    Khi duyên bị gián đoạn 
    Thì ảo tưởng không còn, 
    Nhưng Phật đã dứt sạch 
    Mọi nhân duyên ảo tưởng 
    Nên không còn luân hồi.

    Phản bác lập trường Duy Thức

    Duy Thức (viết tắt: DT) 
    Trung Quán (viết tắt :TQ)

    16. (TQ) Nếu pháp không có thực (22) 
    Cả tâm ảo cũng không 
    Vậy ai biết được ảo?

    (DT) Mặc dù pháp bên ngoài 
    Chỉ là hiện tượng ảo 
    Song là bóng dáng tâm 
    Nên vẫn tồn tại riêng!

    17. (TQ) Nếu ngay cả tâm thức 
    Và ảo tưởng là một 
    Vậy cái gì bị biết? 
    Đức Thế Tôn từng dạy 
    Tâm không thấy được tâm!

    18. Cũng như một lưỡi gươm 
    Không thể tự chém mình. 
    Tâm không thể quán tâm.

    (DT) Tâm tự chiếu rọi tâm 
    Như ánh đèn tự chiếu!

    19. (TQ) Điều ví dụ này sai 
    Ánh đèn không tự sáng 
    Vì không bị tối che!

    (DT) Màu xanh tự nó xanh 
    Như ngọc lưu ly xanh 
    Không lệ thuộc vật khác.

    20. Cũng thế ta nhận thấy 
    Có cái tùy nhân duyên 
    Và có cái độc lập!

    (TQ) Ví dụ này cũng sai. 
    Màu xanh không tự tánh 
    Xanh nhờ ngọc lưu ly (làm duyên) 
    Nếu nó thiếu nhân duyên 
    Không thể tự hóa xanh!

    21. (DT) Nếu nói tâm tự biết 
    Thì cũng có thể nói 
    Ánh đèn tự chiếu sáng!

    (TQ) Ví như thừa nhận rằng 
    Ánh đèn tự chiếu sáng 
    Nhưng ai biết điều ấy? 
    Ai nói tâm tự chiếu?

    22. Nếu không có đối tượng 
    Nhận biết tâm tự chiếu 
    Thì tâm chiếu hay không 
    Đều chẳng thành vấn đề. 
    Giống như bàn chuyện phiếm 
    Về sắc đẹp bé gái 
    Của phụ nữ vô sinh (23) !

    23.-24.(DT) Nếu tâm không hiện hữu 
    Làm sao nhớ chuyện xưa?

    (TQ) Ký ức được xuất hiện 
    Vì nhờ mối tương duyên 
    Với cảnh vật bên ngoài 
    Mà đã từng trải nghiệm 
    Như gấu nhiễm độc chuột (24) .

    25. (DT) Người có tâm siêu nhiên (25) 
    Thấy được tâm người khác 
    Chẳng lẽ họ không thấy 
    Tâm của mình hay sao?

    (TQ) Mắt nhờ bôi nước phép 
    Thấy kho tàng dưới đất 
    Nhưng mắt không thể thấy 
    Nước phép bôi trên mắt.

    26. Trong thế giới kinh nghiệm 
    Chúng tôi không phủ nhận 
    Những điều được nhận biết 
    Từ giác quan cảm thụ 
    Từ lưu truyền đáng tin. 
    Song chúng tôi bác bỏ 
    Giả định chúng là thật 
    Vì đó là nguyên nhân 
    Tạo nên sự khổ đau.

    27. Nếu các anh nghĩ rằng 
    Ảo tưởng chẳng khác tâm 
    Song chúng tôi nhận xét 
    Chúng không thể giống nhau 
    Nếu ảo tưởng thật có 
    Thì nó phải khác tâm 
    Nếu ảo tưởng giống tâm 
    Nó đâu còn là nó.

    28. (TQ) Dầu cảnh ảo không thật 
    Song nó vẫn bị thấy 
    Dầu tâm không thật có 
    [Theo chân lý thế gian] 
    Tâm vẫn thấy cảnh ảo.

    (DT) Luân hồi của hiện hữu 
    Phải dựa vào hiện thực 
    [Tức là dựa vào tâm] 
    Nếu không thì luân hồi 
    Chẳng khác nào hư không 
    [Tức là không thể có 
    Tác dụng của nghiệp quả].

    29. (TQ) Làm sao cái không thực 
    [Như luân hồi chẳng hạn] 
    Phải dựa nền tảng thật 
    Để có được tác dụng 
    [Tạo ra vật có thật]? 
    Như vậy theo các anh 
    Tâm không cần đối tượng 
    Vậy là tâm độc lập.

    30. Và nếu tâm độc lập 
    Với tất cả đối tượng 
    Thì tất cả chúng sinh 
    Đều đã thành Phật rồi. 
    Và nếu thật như vậy 
    Thì được công đức gì 
    Khi chỉ có tâm thôi?

    Phương pháp của Trung Quán

    31. (Hỏi) Làm sao dứt phiền não 
    Một khi biết được rằng 
    Thế gian là ảo tưởng 
    Giống như người phù thủy 
    Say mê một ảo nữ 
    Do mình tạo tác ra?

    32. (Đáp) Trong trường hợp như vậy 
    Người phù thủy chưa dứt 
    Sự luyến ái đối tượng 
    Gán người mình tạo ra 
    Là hữu thể thật sự. 
    Hơn nữa có nhận thức 
    Yếu ớt về Tánh Không 
    Nên khi thấy ảo nữ 
    Liền khởi lên say mê.

    33. Khi tu tập Tánh Không 
    Đến trình độ kiên định 
    Sẽ trừ được cái thấy 
    Sự vật vốn thực có 
    Tu tập càng nhuần nhuyễn 
    Sẽ nhận thức rõ rằng 
    Không pháp nào thực có 
    Thì cuối cùng ý niệm 
    Về Tánh Không cũng tan.

    34. Đến khi hết vấp phải 
    Bất cứ hiện hữu nào 
    Mà có thể phủ nhận 
    Thì cái không-hiện-hữu 
    Cũng tan biến trong tâm.

    35. Khi cái có, cái không 
    Không còn khởi trong tâm 
    Thì đâu còn cái gì 
    Có thể khởi lên nữa 
    Và tâm thật thanh tịnh.

    36. Cũng như cây như ý (26) 
    Làm thoả mãn ước vọng 
    Của bao nhiêu chúng sinh 
    Vì lời nguyện của Phật 
    [Thuở tu hạnh Bồ Tát] 
    Và lòng thành chúng sinh 
    Mà thân Phật ảnh hiện 
    [Để giải thoát chúng sinh]

    37. Có người Bà La Môn 
    Xây tháp chim đại bàng 
    [Để giải trừ chất độc] 
    Dù ông chết đã lâu 
    Xá lợi Garuda 
    Do ông đã trì chú 
    Vẫn tác dụng trị độc.

    38. Lúc còn là Bồ Tát 
    Đức Phật đã thành tựu 
    Bao hạnh nguyện bồ đề 
    Dù Ngài đã nhập diệt 
    Nhưng xá lợi của Ngài 
    Vẫn luôn luôn tiếp tục 
    Đem lợi đến chúng sinh.

    39.- 40. (Hỏi) Thờ lạy tượng vô tri 
    Sao lại được công đức?

    (Đáp) Theo kinh điển đã dạy 
    Nơi chân lý tương đối 
    Hay chân lý tương đối 
    Công đức của thờ lạy 
    Hoàn toàn giống như nhau 
    Dù với Phật tại thế 
    Hay sau khi nhập diệt.

    MỤC ĐÍCH GIẢI THOÁT CỦA 
    TIỂU THỪA CŨNG CẦN PHẢI  
    CÓ NHẬN THỨC VỀ TÁNH KHÔNG  
    TL: Thắng Luận 
    TQ: Trung Quán

    41. (TL) Nhờ tu Tứ Diệu Đế 
    Cũng đủ đạt giải thoát 
    Cần chi đến trí tuệ 
    Thấy rõ được Tánh Không?

    (TQ) Kinh Bát Nhã dạy rằng 
    Thiếu tuệ giác Bát Nhã 
    Thì không thể giác ngộ

    Tính chân chánh của Đại thừa

    42. (TL) Song giáo lý Đại Thừa 
    Không do Phật thuyết giảng 
    Nên không đáng tin cậy.

    (TQ) Vậy vì lý do nào 
    Khiến Tiểu Thừa đáng tin?

    (TL) Vì tất cả hai phái 
    [Tiểu Thừa và Đại Thừa] 
    Đều xác nhận như vậy.

    (TQ) Vậy thì lúc trước đây 
    Các anh chưa chấp nhận 
    Không lẽ kinh điển ấy 
    Không phải lời Phật dạy?

    43. (TL- Thắng Luận) Chúng vẫn đáng tin cậy 
    Vì chúng được truyền thừa 
    Liên tục không gián đoạn.

    (TQ) Lý do các anh tin 
    Kinh điển của Tiểu Thừa 
    Chẳng khác chúng tôi tin 
    Kinh điển của Đại Thừa; 
    Chúng cũng được các Tổ 
    Nối tiếp nhau truyền thừa 
    Không bao giờ gián đoạn; 
    Lại nữa theo các anh 
    Tất cả kinh điển nào 
    Được hai phái chấp nhận 
    Cũng đều là chân lý, 
    Vậy thì phải chấp nhận 
    Cả kinh điển Vệ Đà 
    Và kinh điển ngoại đạo.

    44. (TL-Thắng Luận) Kinh điển của Đại Thừa 
    Thường hay bị tranh cãi 
    Vì vậy không đáng tin.

    (TQ) Vậy kinh của các anh 
    Cũng nên từ bỏ luôn 
    Vì chúng bị ngoại đạo 
    Và nội phái tranh cãi.

    Sự chưa trọn của Tiểu Thừa

    45. Gốc rễ của giáo lý 
    Mà đức Phật giảng dạy 
    Bắt nguồn từ Niết Bàn 
    Và đời sống tu hành 
    Của các vị xuất gia 
    [Đã sạch mọi phiền não]. 
    Điều này hiếm người đạt 
    Bởi vì tâm của họ 
    Còn bám víu đối tượng (27)

    46.- 47. (TL) Các bậc A La Hán 
    Dù không hiểu Tánh Không 
    Cũng vẫn được giải thoát 
    Vì đã diệt phiền não 
    Nhờ tu Tứ Diệu Đế.

    (TQ) Dù phiền não chấm dứt 
    Song chắc gì hết khổ? 
    Nhiều vị vẫn thọ khổ 
    Do nghiệp lực quả báo 
    Từ quá khứ vẫn còn 
    [Thông qua sự lưu truyền 
    Mà chúng tôi được biết 
    Chính ngài Mục Kiền Liên 
    Tuy thành A La Hán 
    Song vẫn còn thọ khổ].

    48. (TL-Thắng Luận) Ái sinh từ cảm thọ 
    Những A La Hán ấy 
    Vẫn còn có cảm thọ 
    Tâm còn bám đối tượng 
    [Nên không đạt Niết Bàn]

    48. (TQ) Không hiểu biết Tánh Không 
    Thì tâm bám sự vật 
    Tâm chỉ tạm lắng yên 
    Trong những khi nhập định 
    Rồi trở lại như trước. 
    Vậy muốn chấm dứt khổ 
    Phải tu quán Tánh Không. 

    Chớ sợ Tánh Không

    Câu 49-52.: Bỏ (28)

    53. (Hỏi) Vừa chấp vào hiện hữu 
    Vừa sợ hãi Tánh Không 
    Nên không thể giác ngộ 
    Vẫn nhận lấy đau khổ 
    Chìm đắm trong luân hồi.

    54. (Đáp) Sự phản bác như vậy 
    Thực không có căn cứ 
    Vậy không nên ngại ngần 
    Thiền quán về Tánh Không.

    55. Tánh Không là liều thuốc 
    Dùng đối trị Vô minh 
    Của chướng ngại phiền não 
    Và chướng ngại hiểu biết (29) 
    Muốn đạt “Nhất Thiết Trí” 
    Phải thiền quán Tánh Không.

    56. (Phản bác) Tánh Không gây đau khổ 
    Nó khiến tôi lo sợ.

    (Đáp) Tánh Không làm lắng dịu 
    Tất cả mọi khổ đau 
    Tại sao lại sợ nó?

    57. Chừng nào còn tin rằng 
    “Cái Ta” là có thật 
    Chừng ấy còn sợ hãi 
    Về cái này cái kia. 
    Nếu nhận thức rõ rằng 
    "Cái Ta" không có thật 
    Vậy ai gánh nỗi sợ? 
     
     

    CHỨNG MINH VỀ TÁNH KHÔNG

    Chứng minh về sự Vô ngã của một "Cái Ta" có thật

    "Cái Ta" không phải vật chất – 
    Phản bác lại chủ nghĩa vật chất

    58-60. Răng, tóc, móng, máu xương 
    Đều không phải là "Ta" 
    Mủ, đờm, nước miếng, mỡ 
    Nước tiểu, phân, thịt, gân 
    Hơi nóng, chín lỗ hổng … 
    Và tất cả sáu thức 
    Cũng không phải là “Ta”

    Ngã cũng không phải là tinh thần – 
    Phản bác phái Số Luận (30)

    61. (TQ) Nếu nhĩ thức là “Ta” 
    Thì luôn nghe âm thanh (31) 
    Cả lúc nó vắng mặt 
    [Vì các anh cho rằng 
    "Cái Ta" là vĩnh cửu] 
    Nếu đối tượng cái biết (32) 
    Không còn có mặt nữa 
    Làm sao có cái biết? 
    Vậy vì lý do nào 
    Gọi đó là nhĩ thức?

    62. Nếu xem rằng cái biết 
    Là những gì không biết 
    Thì gỗ cũng phải biết 
    Vậy có thể khẳng định 
    Nếu không có quan hệ 
    Với đối tượng nào đó 
    Thì không có cái biết.

    63. (Số Luận) Vì lẽ nào "Cái Ta" 
    Khi thấy biết màu sắc 
    Lại không nghe âm thanh?

    (TQ) Tại sao cùng một lúc 
    Thấy được mà không nghe?

    (Số Luận) Vì âm thanh lúc ấy 
    Không có mối quan hệ.

    (TQ) Như vậy thì "Cái Ta" 
    Không phải là nhỉ thức.

    64. Cái mà bản tánh nó 
    Vốn thâu nhận âm thanh 
    Sao lại thấy hình sắc?

    (Số Luận) Cùng một người đàn ông 
    Có thể xem là cha 
    Vừa cũng xem là con.

    (TQ) Như thế là giả danh 
    Theo chân lý tuyệt đối 
    Không thể nào như vậy.

    65. Bởi vì theo các anh 
    Thực tại là ba đức (33) 
    Từ bi, mê, bóng tối 
    Đã tạo ra vật thể 
    Chẳng là cha hay con 
    Cả ba không sẵn có 
    Tính chất nghe âm thanh.

    66. (Số Luận) Cũng như một diễn viên 
    Đóng nhiều vai thay đổi 
    Tánh thâu nhận âm thanh 
    Có thể chuyển thành ra 
    Tánh nhận thấy hình sắc.

    (TQ) Thường thay đổi tính chất 
    Thì không thể vĩnh hằng. 
    Vậy điều anh nói rằng 
    Trong cùng một cái ta 
    [Hay trong một diễn viên] 
    Chứa đựng nhiều tính chất 
    Là điều chưa từng có.

    67. Nếu tánh chất đổi khác 
    Thì không thực có được. 
    Vây xin anh chỉ giúp 
    Thực tánh nó là gì? 
    Bản chất nó là gì?

    (Thường Luận) 
    Đó chính là tánh biết (32)

    (TQ) Nếu thức là bản chất 
    Thì chúng sinh như nhau 
    Cùng một thứ độc nhất!

    68. Vã lại mọi chúng sinh 
    Hữu tâm hay vô tâm 
    Đều như nhau là “Một” (34) 
    Vì bản chất hiện hữu 
    Của chúng đều giống nhau. 
    Nếu hình thái khác biệt 
    [Các tánh nghe, thấy, ngửi…] 
    Được xem là không thực 
    Thì nền tảng của nó ["cái Ta"] 
    Làm sao có thực được.

    Phản bác phái Thường Luận

    69. Hơn nữa cái vô tâm 
    Cũng không phải là “Ta” 
    Vì nó không hay biết 
    Như khúc gỗ vô tri.

    (Thường Luận) 
    Dầu bản chất vô tri 
    Song khi kết với tâm 
    Liền có ngay nhận thức.

    (TQ) Điều này thật vô lý 
    Vì khi không có tâm 
    Nhận thức cũng bị diệt.

    70. Nếu "Cái Ta" không đổi 
    Thì tâm giúp được gì 
    Cho "Cái Ta" như thế? 
    Nếu xem cái bất động, 
    Không nhận thức là “Ta” 
    Vậy thì hư không kia 
    Cũng phải xem là “Ta”!

    Không cần có "Cái Ta" cũng có  
    được nhân quả của công đức

    71. (Thường Luận) Nhưng không có "cái Ta" 
    Thì không có liên hệ 
    Giữa nhân và quả được. 
    Vì khi làm xong việc 
    Kẻ tạo nghiệp ("cái Ta") không còn 
    Vậy ai nhận quả đây?

    72. (TQ) Tạo nghiệp và nhận quả 
    Thuộc hiện hữu khác nhau 
    [Năm Uẩn (35) của đời này 
    Là kẻ đã tạo nghiệp 
    Và năm Uẩn đời sau 
    Là người nhận quả báo] 
    Anh bảo có "cái Ta" (có Ngã) 
    Song không ai nhận quả 
    Tôi bảo không có “Ta” (Vô Ngã) 
    Và không ai tạo nghiệp 
    Cũng không ai nhận quả 
    Vậy tranh luận "cái Ta" 
    Chỉ là một việc thừa.

    73. (Thường Luận) [Như trong kinh có nói] 
    Ai đã tạo ra nghiệp 
    Thì phải nhận quả báo.

    (TQ) Theo lời Phật đã dạy 
    Trong một dòng tương tục 
    [Của đời sống một người] 
    Thì ai làm nấy chịu 
    [Vì muốn ngăn người ấy 
    Chối bỏ luật nhân quả] 
    Chứ Phật không phải dạy 
    "Cái Ta" là vĩnh hằng.

    74. Ý niệm của quá khứ 
    Cũng như của tương lai 
    Đều không phải là “Ta” 
    Vì chúng không có thực 
    Nhưng ý niệm hiện tại 
    Cũng không phải là “Ta”. 
    Ví dù nó là “Ta” 
    Nghĩ xong nó biến mất 
    Và “Ta” cũng mất luôn.

    75. Ví như thân cây chuối 
    Khi bẹ bị lột hết 
    Nó không hiện hữu nữa. 
    "Cái Ta" chẳng khác hơn 
    Khi bị phân tích kỹ 
    Thì không thấy nó đâu 
    Vậy nó không thật có. 
    [Không thể nào tìm thấy 
    "Cái Ta" trong năm Uẩn]

    Không có “Cái Ta” cũng có thể 
    phát triễn được tâm từ bi

    76. - (Hỏi) Nếu chúng sinh không thực 
    Vậy xót thương ai đây?

    (TQ) Đó là những chúng sinh 
    Được nêu từ mê lầm 
    Của chân lý thế gian. 
    Tuy chúng không có thật 
    Song là đối tượng tốt 
    Của mục đích tu tập 
    [Để đạt quả Bồ Tát].

    77. - (Hỏi) Nếu chúng sinh không thật 
    Vậy thì ai là người 
    Theo đuổi mục đích ấy?

    (Đáp) [Theo chân lý tuyệt đối] 
    Thực không có chúng sinh. 
    Tất cả mọi nỗ lực 
    Đều dựa trên si mê. 
    [Theo chân lý tương đối] 
    Ta không nên khước từ 
    Sự mê mục đích ấy 
    [Tức tu hạnh Bồ Tát] 
    Vì muốn dứt khổ đau.

    78. Phát sinh từ si mê 
    Nên bám víu "cái Ta". (27) 
    Ý thức chấp “Ta” tăng 
    Là nguyên nhân khổ đau 
    Vậy phải trừ diệt nó. 
    Do đó cách tốt nhất 
    Là tu quán Vô ngã. 
     
     

    Chứng minh về tính Vô ngã của 
    vạn pháp thông qua Bốn Niệm  
    Xứ: thân, thọ, tâm, pháp

    Về thân

    Tranh luận với trường phái Thường Luận

    79.-80. Thân không phải là chân 
    Đùi, vế, eo, lưng, bụng 
    Thân không phải là tay 
    Ngực, nách, vai, cổ, đầu… 
    Vậy thứ nào là thân?

    81. Nói thân là tất cả 
    [Thì không thể đúng được] 
    Vì mỗi một bộ phận 
    Đều ở vị trí riêng. 
    Còn cái thân độc lập 
    Thì nằm ở chỗ nào?

    82. (Với Tiểu Thừa) 
    Nếu thân xem là “Một” 
    Nằm riêng trong mỗi phần 
    Vậy có bao nhiêu phần 
    Phải có bấy nhiêu thân.

    83. Vậy thì thân không nằm 
    Bên ngoài hay bên trong 
    [Của tất cả bộ phận] 
    Song lìa các bộ phận 
    Tâm cũng không hiện hữu. 
    [Vậy các anh hãy chỉ] 
    Thân hiện hữu cách nào?

    84. Thân thể không thực có 
    Vì cấu tạo đặc biệt 
    Nên lầm nhận có thân 
    [Ví như đầu, mình, chân …] 
    Như trong tối lầm nhận 
    Cây cột là hình người.

    85. Chừng nào duyên còn hợp 
    Cột vẫn trông như người. 
    Bao lâu mà tay chân 
    Đầu mình… còn tập hợp 
    Chừng ấy còn nhận lầm 
    Đó chính là thân người.

    86. Và bàn chân là gì? 
    Là tập hợp các ngón 
    Mỗi một ngón là gì 
    Nếu không là các lóng?

    87. Chẻ lóng chân thành bụi 
    Rồi chẻ mãi không ngừng 
    Nhỏ tựa như hư không 
    Vậy tìm đâu lóng chân?

    88. Bởi vậy muôn hình sắc 
    Khác nào bóng chiêm bao! 
    Ai là bậc có trí 
    Không thể bám víu chúng 
    Thân còn không có thật 
    Huống chi sự phân biệt 
    Giữa đàn ông, đàn bà.

    Về cảm nhận (cảm thọ)

    89. (TQ) Nếu đau đớn có thật 
    Sao nó không hành hạ 
    Một kẻ đang sướng vui? 
    Nếu thú vui có thật 
    [Như các món ăn ngon] 
    Sao không gây thích thú 
    Cho kẻ đang u sầu?

    90. Nếu bảo rằng cảm giác 
    Khổ vui vẫn tồn tại 
    Song không thể nhận ra 
    Khi chúng bị lấn áp 
    Bởi cảm giác mạnh hơn. 
    Nhưng đâu là cảm giác 
    Khi không cảm nhận được?

    91. (Đáp) Vẫn cảm nhận được chứ! 
    Vì trong khi đang vui 
    Khổ vẫn còn tồn tại 
    Trong trạng thái cực yếu 
    [Vì khổ bị lấn áp 
    Bởi cái vui mạnh hơn].

    (TQ) Vậy cái khổ cực yếu 
    Không thể gọi là khổ 
    Bởi vì một cảm giác 
    Không thể cùng một lúc 
    Vừa khổ cũng vừa vui.

    92. [Theo một quan niệm khác] 
    Khổ không thể xuất hiện 
    Khi cảm giác đối lập (vui) 
    Đang xuất hiện trong tâm. 
    Điều này cũng sai lầm 
    Vì đó là ảo tưởng (36) 
    [Xem khổ chưa hiện hữu 
    Cũng là một cảm giác]

    93. Để trừ khử ảo tưởng 
    Cần trao dồi trí tuệ 
    Để thấy “tánh không thực” 
    Của tất cả sự vật. 
    Vì vậy các Thiền gia 
    Luôn tự nuôi dưỡng mình 
    Bằng nhập định quán xét 
    Về ảo tưởng cảm nhận.

    94. Giác quan và đối tượng (37) 
    Khi chúng xúc chạm nhau 
    Sẽ sinh ra cảm nhận (cảm thọ) 
    Nếu chúng có khoảng cách 
    Làm sao chúng chạm nhau? 
    Nếu không có khoảng cách 
    Ắt chúng phải là một. 
    Như vậy thì cái nào 
    Gặp gỡ với cái nào?

    95. Các hạt bụi cực nhỏ (38) 
    Không thể chia nhỏ nữa, 
    Khép kín và đồng dạng 
    Không thể xuyên nhập nhau. 
    Vì không xuyên nhập nhau 
    Nên không thể hoà hợp 
    Nếu không có hòa hợp 
    Thì không có cảm nhận.

    96. Nếu vị nào thấy có 
    Hai vật hết chia được 
    Mà xuyên nhập với nhau 
    Làm ơn chỉ cho xem!

    97. Nhận thức vốn vô hình 
    Không thể nào kết nối 
    Với đối tượng vật chất. 
    Càng không thể nối kết 
    Với tất cả giác quan 
    Như phân tích bên trên (39) 
    Vậy những gì thành tựu 
    Thông qua sự tập hợp 
    Đều không thể có thật. 
    Cũng không có sự vật 
    Của tổ hợp vi trần 
    Vì chúng không thực có. (40)

    98. Xúc chạm không có thật 
    Thì cảm giác tìm đâu? 
    Cảm giác không thật có 
    Thì tội gì hành thân 
    Để tìm cầu khoái lạc? 
    Vậy ai chịu đau khổ? 
    Cái gì gây khổ đau?

    99. Không có người cảm nhận 
    Cảm giác cũng không nốt 
    Đứng trước cảnh ngộ này 
    Ôi hỡi lòng tham ái 
    Sao không tan biến đi?

    100. Ta thấy và cảm được 
    Vì tất cả đối tượng 
    Và tâm giao tiếp nhau 
    [Trong tổng hợp nhân duyên] 
    Mà biến thành cảm giác 
    Chúng đều không thật có 
    Như ảo ảnh cơn mơ.

    101. Cảm giác trong quá khứ 
    [Mà ta hồi tưởng lại] 
    Và cảm giác tương lai 
    [Mà ta đang mong cầu] 
    Đều là sự nhớ tưởng 
    Chúng không phải cảm giác 
    Có được nhờ trải nghiệm 
    Hơn nữa chính cảm giác 
    Không thể tự trải nghiệm 
    Cũng như mọi đối tượng 
    Cũng không thể nào có 
    Kinh nghiệm của cảm giác.

    102. Thế nên không có người 
    Trải nghiệm những cảm giác 
    Và không cảm giác nào 
    Có thể xem thật có. 
    Vậy cái nhóm năm Uẩn 
    Không thể là "Cái Ta". 
    Vậy sao có cảm giác 
    Khoái lạc hay đau khổ?

    Về tâm 

    103. Tâm không nằm trong mắt 
    Không nằm trong đối tượng 
    Hay giữa hai thứ ấy 
    Tâm không thể tìm thấy 
    Trong thân hay ngoài thân 
    Hay bất cứ nơi nào.

    104. Tâm không phải là thân 
    Cũng không phải khác thân 
    Nó cũng không hòa hợp 
    Hoặc khác biệt với thân 
    Tâm không là gì hết, 
    Hoàn toàn không thực có 
    Vậy bản chất chúng sinh 
    Vốn đã là Niết Bàn.

    105. Nếu nhận thức đã có 
    Trước đối tượng của nó 
    Vậy nó dựa vào đâu 
    Để có thể phát sinh? 
    Nếu nhận thức phát sinh 
    Cùng lúc với đối tượng 
    Như vậy thì cả hai 
    Dựa vào đâu để sinh?

    106. Nếu sinh sau đối tượng 
    Nhận thức dựa vào đâu 
    Để có thể khởi sinh? 
    [Vì đối tượng không còn].

    Về pháp (đối tượng)

    107. Qua sự phân tích trên 
    Thì tất cả sự vật 
    Đều không thực khởi sinh.

    (Hỏi) Nếu sự vật không sinh 
    Thì chân lý thế gian 
    Cũng không thể có được. 
    Song tại sao lại có 
    Cả hai loại chân lý 
    [Là chân lý thế gian 
    Và chân lý tuyệt đối 
    Theo truyền thống Trung Quán?] 
    Vậy chân lý thế gian 
    Có phải được sinh từ 
    Chân lý thế gian khác? 
    [Tức là được nhận thức 
    Đã có sẵn tạo ra?] 
    Vậy làm sao chúng sinh 
    Có thể đạt Niết Bàn?.

    108. (TQ Đáp) Sự nhận xét như vậy 
    Phát xuất từ suy nghĩ 
    Của người chưa giác ngộ 
    Một chân lý thế gian 
    Không thể độc lập có; 
    Một sự vật nào đó 
    Nếu nó là hệ quả 
    Của một chuỗi nhân duyên 
    Thì chân lý thế gian 
    Có mặt ngay tức khắc. 
    Không có nhân quả ấy 
    Thì chân lý thế gian 
    Cũng không thể hiện hữu.

    109. (Phản bác) Bởi vì tâm nhận xét 
    Và vật bị nhận xét 
    Đều lệ thuộc lẫn nhau.

    (TQ) Quả thực đúng như vậy 
    Đó là nhận xét chung 
    Thế gian ai cũng biết

    110. Nếu dùng một nhận xét 
    Để tiếp tục nhận xét 
    Cái đã được nhận xét 
    Thì quá trình nhận xét 
    Không bao giờ chấm dứt.

    111. Nếu đối tượng nhận xét 
    Không còn cơ sở nào 
    Cho nhận xét tiếp theo 
    [Vì nó thật trống rỗng] 
    Thì cái tâm nhận xét 
    Không còn nương vào đâu 
    Để có thể tồn tại 
    [Vì hết sạch đối tượng] 
    Tâm cũng không sinh nữa 
    Đây chính là Niết Bàn.

    112. Nếu ai chủ trương rằng (41) 
    Vật và tâm có thật 
    Sẽ gặp tình trạng rối: 
    Nếu đối tượng thật có 
    Nhờ nương vào nhận thức 
    Vậy thì bằng cách nào 
    Để nhận thức có thật?

    113. Hoặc nhận thức có thật 
    Nhờ nương cái nó biết 
    Vậy thì bằng cách nào 
    Cái được biết có thật? 
    Và nếu như cả hai 
    Nương nhau để mà có 
    Thì chúng không thật có.

    114. Ví như người không con 
    Không được gọi là cha 
    Và con từ đâu sinh 
    Nếu không có người cha? 
    Cũng vậy, tâm và vật 
    Không hiện hữu độc lập.

    115. (DT) Mầm phát sinh từ hạt. 
    Nhờ mầm mà thấy hạt 
    Tại sao không chấp nhận 
    Nhận thức là có thực 
    Vì nó được phát sinh 
    Từ sự vật được biết?

    116. (TQ) Có thể chấp nhận rằng 
    Sự hiện hữu của hạt 
    Được biết nhờ thấy mầm; 
    Nhưng mà nhờ cái gì 
    Để có thể biết rằng 
    Nhận thức là thực có 
    Thông qua sự hay biết 
    Từ cái bị nhận thức? 
     
     

    Chứng minh bằng biện luận 
    Với 4 vị thế

    Sự vật không thể tự sinh 
    nếu không có nguyên nhân

    117. Thuyết Vô nhân (42) chủ trương 
    Tất cả mọi sự vật 
    Tự sinh không cần nhân.

    (TQ) Qua tri giác ta biết 
    Thế giới được hình thành 
    Từ nhiều nhân khác nhau 
    Như sen từ hoa, cọng ...

    118. (Hỏi) Cái gì đã tạo ra 
    Sự khác biệt của nhân?

    (TQ) Đó là sự khác biệt 
    Của các nhân trước nữa.

    (Hỏi) Tại sao nhân sinh quả?

    (TQ) Qua năng lực nhân trước.

    Sự vật không được sinh ra từ 
    một nguyên nhân vĩnh cửu 
    - không từ Trời - phản bác phái Thường Luận

    119. Thuyết Thường Luận (43) chủ trương 
    Tất cả mọi sự vật 
    Đều do Trời sinh ra.

    (TQ) Nếu Trời là nguyên nhân 
    Sáng tạo ra sự vật 
    Vậy vị ấy là ai?

    120. (Thường Luận) Chính là năm Đại chủng (44) 

    (TQ) Vậy đâu cần chứng minh 
    Sự hiện hữu của Trời 
    Và đâu cần mệt nhọc 
    Để tìm cách đặt tên 
    Năm Đại chủng là Trời!

    121. Hơn nữa năm Đại chủng 
    Vô thường và bất động, 
    Không cần được quan tâm, 
    Không linh thiêng, không sạch 
    Trời đâu phải như thế?

    122. Hư không cũng bất động 
    Nên không phải là Trời 
    Cũng không phải Tự ngã. 
    Nếu như bảo rằng Trời 
    Không thể nghĩ bàn được 
    Vậy nói đến làm chi 
    [Sự sáng tạo của Trời]?

    (Hỏi) 123. Trời sáng tạo những gì?

    (TL Đáp) Ngài tạo ra Tự ngã 
    [Tức "Cái Ta" vĩnh hằng], 
    Tạo quả đất, Đại chủng

    (TQ) Sáng tạo Tự ngã ư? 
    - Theo như các anh nói 
    Đại chủng là vĩnh hằng 
    Vậy đâu cần tạo ra!

    Sáng tạo Đại chủng ư? 
    - Chúng đều vĩnh cửu mà!

    Sáng tạo nhận thức ư? 
    - Nhận thức được phát sinh 
    Thông qua các đối tượng!

    Sáng tạo vui, khổ ư? 
    - Chúng đều là kết quả 
    Của nghiệp lành, nghiệp dữ! 
    Vậy Trời tạo gì nữa?

    124. Nếu tất cả nguyên nhân 
    Không có sự bắt đầu 
    Thì làm sao kết quả 
    Có sự bắt đầu được?

    125. Nếu sinh nhờ duyên hợp 
    Thì duyên là nguyên nhân 
    Chứ không phải là Trời 
    Nhân duyên phối hợp đủ 
    Thì sự vật sinh ra; 
    Không có phối hợp ấy 
    Sự vật sẽ không thành 
    Dù có Trời hay không.

    126. Nếu sự vật sinh ra 
    Không do ý của Trời 
    Thì Trời đâu có quyền! 
    Nếu do ý của Trời 
    Thì Trời lệ thuộc ý! 
    Vậy không có vị Trời 
    Độc lập và sáng tạo.

    Không từ vi trần (nguyên tử) 

    127. Những ai chủ trương rằng 
    Vi trần là nguyên nhân 
    Mãi mãi tạo muôn vật. 
    Vi trần không thực có 
    Nên đã bị bác bỏ (39) 

    Không từ vật chất tối sơ  
    vĩnh cửu - Phản bác phái Số Luận

    128. Số Luận chủ trương rằng 
    Chủ thể của vạn vật 
    Chính là sự quân bình 
    Của ba đức nguyên thỉ 
    Đó là lòng từ bi, 
    Say mê và bóng tối; 
    Khi chúng mất cân bằng 
    Thì thế giới được sinh (33) 

    129. (TQ) Một vật nếu thực có 
    Thì không thể cùng lúc 
    Có cả ba bản tính; 
    Ba đức không thực có 
    Bằng không thì mỗi đức 
    Phải gồm đủ cả ba.

    130. Ba đức đã không thực 
    Thì cái gì được tạo 
    [Như âm thanh, hình sắc] 
    Sẽ không được nghe thấy; 
    Hơn nữa vật vô tri 
    Như quần áo chẳng hạn 
    Không thể có vui, khổ.

    131.- (Số Luận) Phải các anh nói rằng 
    Bản chất vật vô tri 
    [Ví dụ như quần áo] 
    Là nguyên nhân vui, khổ?

    (TQ Đáp) Chúng tôi đã dẫn chứng 
    Là chúng không có thực 
    Nên đã chỉ trích rồi; 
    Hơn nữa theo các anh 
    Khoái lạc là nguyên nhân 
    Của áo quần vô tri 
    Chứ đâu phải áo quần 
    Là nguyên nhân khoái lạc?

    132. Thực ra thì khoái lạc 
    Cũng sinh từ áo quần 
    Vì nếu không có chúng 
    Cũng chẳng có khoái lạc 
    Vả lại nào ai thấy 
    Khoái lạc là trường tồn.

    133. Nếu khoái lạc trường tồn 
    Sao không cảm nhận mãi? 
    Nếu bảo nó lúc ấy 
    Ở trạng thái cực yếu 
    Vậy vì lý do nào 
    Có lúc mạnh lúc yếu?

    134. Nếu trạng thái khoái lạc 
    Chuyển mạnh sang thành yếu 
    Vậy hai trạng thái ấy 
    Đương nhiên là vô thường; 
    Sao không thừa nhận đi 
    Vạn vật là vô thường?

    135. - (Số Luận) Mặc dù các trạng thái 
    Yếu mạnh đều vô thường 
    Song bản chất khoái lạc 
    Vốn thật là vĩnh hằng.

    (TQ) Dù ở trạng thái nào 
    Chúng vẫn là khoái lạc 
    Trạng thái đã vô thường 
    Nên khoái lạc vô thường.

    136. Theo như các anh nói 
    Từ cái toàn rỗng không 
    Chẳng thể sinh gì cả 
    Thế mà lại chấp nhận 
    Các trạng thái mạnh yếu 
    Tiềm ẩn trong khoái lạc 
    Nếu quả có trong nhân 
    Thì hoá ra ăn cơm 
    Có khác gì ăn phân.

    137. Và các anh nên mua 
    Hạt bông vải mà mặc 
    Thay vì mua vải vóc.

    - (Số luận) Vì thế gian si mê 
    Nên không thể nhận thấy 
    Y phục trong bông vải 
    [Tức quả nằm trong nhân].

    (TQ) Và ngay cả những kẻ 
    Nhận mình thấy chân lý 
    Cũng có thái độ ấy.

    138. Ngay cả người thế gian 
    Cũng có nhận thức này 
    Qua nhận thức như vậy 
    Nên thấy quả trong nhân 
    Nếu cái thấy họ sai 
    Thì những gì thấy biết 
    Đều là không thực có.

    139. - (Số Luận) Vậy theo phái Trung Quán 
    Thì tất cả nhận thức 
    Dắt dẫn đến trí tuệ 
    Đều vô giá trị sao? 
    Như vậy thì Tánh Không 
    Của tất cả sự vật 
    Đương nhiên cũng là sai!

    140. (TQ) Nếu như không hiểu được 
    Một sự vật là sai 
    Thì không thể suy ra 
    Cái sai ở chỗ nào; 
    Vì vậy khi biết được 
    Cái sai nằm ở đâu 
    Thì cái sai rành rành.

    141. Ví như người nằm mộng 
    Thấy đứa con mình chết 
    [Mà y vốn không con] 
    Thì ý nghĩ con chết 
    Ngăn chận được ý nghĩ 
    Rằng con mình còn sống 
    Dù là điều ấy sai.

    142. [Tóm lại] phân tích trên 
    Đã trình bày rõ rằng 
    Mọi sự vật hiện hữu 
    Đều phải có nhân duyên 
    Và bên trong mỗi duyên 
    Hay tập hợp của duyên 
    Đều hoàn toàn trống rỗng. 
    [Những gì] ngoài nhân duyên 
    Không đến từ đâu cả 
    Không ở cũng không đi.

    Biện luận về sự phát sinh qua “duyên”

    143. Vật sinh từ ảo tưởng 
    Hoặc sinh từ nhân duyên? 
    [Lúc sinh] từ đâu đến? 
    [Lúc diệt] đi về đâu? 
    Đó là điều phải xét.

    144. Đủ duyên chúng xuất hiện 
    Hết duyên chúng rã tan 
    Thực tại là giả tạo 
    Như bóng hiện trong gương 
    Vậy thứ gì chân thật?

    Bác thuyết Hữu Nhân và Vô Nhân 
    - Biện luận về sự phát sinh của Hữu và Vô -

    145. Một vật nếu thực có 
    Thì cần gì đến nhân 
    Nếu nó không thực có 
    Cần nhân để làm gì?

    146. Dù với muôn triệu nhân 
    Cũng không thể biến đổi 
    Cái không thành cái có.

    147. Nếu một vật hiện hữu 
    Đang ở trạng thái không (Vô) 
    Vậy lúc nào thành có (Hữu)? 
    Cái không chẳng thể mất 
    Nếu cái có không sinh.

    148. Cái có không xuất hiện 
    Vì cái không chẳng mất. 
    Mọi chúng sinh cũng vậy 
    Không thể có hai tính 
    Vừa có lại vừa không.

    149. Bởi vậy diệt hay sinh 
    Không hề có thực chất 
    Cũng vậy, toàn thế giới 
    Rốt ráo không sinh diệt.

    150. Với sự quán sát kỹ 
    Thì bao nhiêu số phận 
    Chỉ là những ảo ảnh 
    Chẳng khác bóng chiêm bao 
    Tương tự như cây chuối 
    Không hề có cốt lõi; 
    Bởi vậy trong Tánh Không 
    Không có sự khác biệt 
    Giữa những kẻ đã vào 
    Hay chưa vào Niết Bàn. 
     
     

    TỔNG KẾT VÀ  
    LỜI KHUYÊN CUỐI CÙNG

    151. Vậy thì trong Tánh Không 
    Sự vật không thực có 
    Vậy có gì để mất? 
    Nào ai được khen, chê? 
    Người nào kính lễ tôi? 
    Kẻ nào khinh miệt tôi?

    152. Ai vui và ai khổ? 
    Ai kẻ trọng, người khinh? 
    Hãy phân tích thực tính 
    Còn ai là kẻ tham 
    Còn gì để mà tham?

    153. Quán sát kỹ nhân gian 
    Thì ai là hữu tình? 
    Ai chết và ai sinh? 
    Ai là người đã sống? 
    Ai là mẹ, là cha 
    Và ai là bè bạn?

    154. [Hỡi người tìm sự thật] 
    Hãy cùng tôi nhận chân 
    Sự vật như hư không 
    Tất cả đều trống rỗng 
    Vì mưu cầu hạnh phúc 
    Nên lâm cảnh tranh giành 
    Chuốc buồn vui tán loạn.

    155. Do khoái lạc đòi hỏi 
    Nên tạo ra nghiệp ác 
    Phải trải qua tháng ngày 
    Đầy lo âu, thất vọng 
    Hành hạ, giết hại nhau!

    157. Đôi khi sinh cõi lành (45) 
    Hưởng thụ nhiều lạc thú 
    Rồi đến khi nhắm mắt 
    Nhận số phận hẩm hiu 
    Tràn đầy bao thống khổ.

    157-158. Hố thẳm của đoạ đày 
    Nhan nhản trong cuộc sống 
    Rơi vào khó thoát ra. 
    Nhưng đang trong luân hồi 
    Làm sao tránh khỏi nó?

    159. Hơn nữa sự mê chấp 
    Về sự vật thực có 
    Lại luôn luôn trái ngược 
    Với sự hiểu Tánh Không; 
    Nếu trong cuộc đời này 
    Tôi không thể thấu đạt 
    Về chân lý tuyệt đối 
    Thì tôi phải tiếp tục 
    Chìm đắm biển luân hồi.

    161. Cuộc sinh tồn đời này 
    Dẫy đầy bao khủng khiếp 
    Như biển khổ mênh mông; 
    Sức người lại quá yếu, 
    Mạng sống ngắn, mong manh 
    Đua chen sống vội vã 
    Lo chăm sóc thân thể 
    Mệt nhọc vì mưu sinh 
    Chịu đói khát, suy yếu 
    Quanh quẩn chuyện ngủ, ăn; 
    Hứng bao điều bất hạnh 
    Giao du kẻ ngu đần 
    Vô nghĩa ngày tháng trôi 
    Rất khó tìm giờ giấc 
    Để suy nghĩ thực tại 
    Vậy tìm đâu phương thức 
    Ngăn chận tâm tán loạn?

    162. Đây Ma vương rình rập 
    Xô ta vào bất hạnh 
    Kia nẻo tà dọc ngang 
    Thật khó hòng thắng vượt.

    163. Không dễ sinh cõi phước (45) 
    Gặp Phật càng hiếm hoi 
    Sóng thần của phiền não 
    Làm sao cản ngăn đây? 
    Ôi triền miên khổ đau !

    164.-165. Đáng thương thay chúng sinh 
    Lăn lộn trong sóng khổ 
    Mà không hề hay biết 
    Như người tu khổ hạnh 
    Nhúng người vào nước lạnh 
    Hoặc lao vào lửa nóng 
    Dù vô cùng khổ đau 
    Song nghĩ là an vui!

    166. Có kẻ nghĩ rằng mình 
    Không bao giờ già chết 
    Song họ sẽ chóng gặp 
    Khi Thần Chết đứng bên 
    Và Thần Chết lấy mạng.

    166. Chừng nào tôi dập tắt 
    Lửa khổ đốt chúng sinh 
    Bằng trận mưa công đức 
    Trút xuống từ tầng mây 
    Phước lành tôi tích lũy?

    167. Chừng nào tôi có thể 
    Trình bày về Tánh Không 
    Về tích lũy công đức 
    Cho tất cả chúng sinh 
    Bỏ quan niệm sai lầm 
    Là vạn vật thực có? 

  • 11. CHƯƠNG X: HỒI HƯỚNG

    CHƯƠNG X 
    HỒI HƯỚNG

    1. Công đức do viết luận 
    „Nhập Bồ Tát Hạnh“ này 
    Xin hồi hướng chúng sinh 
    Mong tất cả bước vào 
    Con đường của Bồ Tát.

    2. Nguyện nhờ công đức này 
    Mà tất cả chúng sinh 
    Đang chịu bao đau bệnh 
    Hành hạ thân và tâm 
    Được an vui vô tận.

    3. Nguyện họ luôn hạnh phúc 
    Suốt sinh tử luân hồi. 
    Nguyện họ luôn an lạc 
    Như chư vị Bồ Tát.

    4. Nguyện chúng sinh khắp nơi 
    Đang ở trong địa ngục 
    Được niềm vui cực lạc 
    Cõi Sukhavati.

    5. Nguyện kẻ bị run rét 
    Trong địa ngục giá băng 
    Đều được hơi sưởi ấm; 
    Nguyện chúng sinh nóng nực 
    Trong địa ngục đốt nung 
    Được mây lành Bồ Tát 
    Giáng mưa làm dịu mát

    6. Nguyện rừng lá gươm đao 
    Thành vườn hoa tráng lệ; 
    Nguyện cây cành giáo mác 
    Biến thành cây như ý 
    [Làm thoả mãn ước mơ].

    7. Nguyện địa ngục thành vườn 
    Với hồ sen tỏa hương 
    Với thiên nga, nhạn, hạc 
    Hát ca vui rộn ràng.

    8. Nguyện địa ngục đốt nung 
    Biến thành kho châu ngọc; 
    Nguyện cho nền sắt nóng 
    Thành thủy tinh lung linh ; 
    Nguyện địa ngục xay nghiền 
    Thành điện đền thờ Phật.

    9. Nguyện mưa đá núi lửa 
    Biến thành trận mưa hoa ; 
    Nguyện chiến trường gươm giáo 
    Thành lễ hội tung hoa.

    10. Nguyện chúng sinh chìm nổi 
    Trong dòng sông địa ngục 
    Nước nóng bỏng sục sôi 
    Nấu tiêu tan thịt da 
    Xương lòi ra trắng hếu 
    Nhờ công đức của tôi 
    Được sinh lên cõi trời 
    Sông Madukini.

    11. Nguyện ngục tốt Diêm Vương 
    Và kên kên, chim quạ 
    Hình dáng thật dữ dằn 
    Trong bóng đen thâm u 
    Bỗng nhiên tan biến hết; 
    Chúng ngẩng lên hỏi nhau 
    “Ánh sáng kỳ diệu này 
    Từ đâu chiếu rọi đến?” 
    Và tất cả bỗng thấy 
    Bồ Tát Kim Cương Thủ 
    Uy nghiêm đứng trên không. 
    Nhờ năng lực hoan hỷ 
    Rửa sạch hết lỗi lầm 
    Chúng cùng bay theo Ngài.

    12. Nguyện tội nhân địa ngục 
    Gặp được mưa hoa sen 
    Chan hoà với nước thơm 
    Rơi xuống rưới tắt lửa 
    Liền hân hoan, khoan khoái. 
    Các tội nhân tự hỏi 
    “Ai đã làm thế này?”. 
    Chúng ngẩng nhìn hư không 
    Thấy Bồ Tát Quan Âm 
    Tay cầm hoa sen vẫy. 
    Chúng vô cùng cảm phục 
    Nhận hạnh phúc bất ngờ.

    13. Nguyện hữu tình địa ngục 
    Vui thấy Đức Văn Thù. 
    Chúng lớn tiếng gọi nhau: 
    “Bạn ơi! Mau lại đây 
    Chiêm ngưỡng Đức Văn Thù 
    Ngài đến cứu chúng ta ! 
    Ngài Văn Thù Đồng Tử 
    Trong hào quang tỏa rạng 
    Đã phát tâm Bồ Đề 
    Có năng lực diệt khổ 
    Và đưa đến an vui. 
    Ngài với tâm từ bi 
    Triệt để cứu muôn loài“. 
    14. "Bạn ơi! Hãy nhìn kia 
    Dưới gót sen của Ngài 
    Vương miện trăm vị Trời 
    Đang cúi xuống đảnh lễ 
    Tiếng Thiên nữ ca ngợi 
    Mê ly khắp điện đền 
    Mưa hoa rắc đầu Ngài 
    Mắt Ngài óng từ bi” 
    Bao tội nhân địa ngục 
    Đều đứng dậy reo hò.

    15. Nguyện chúng sinh địa ngục 
    Nhờ công đức của tôi 
    Thấy Phổ Hiền Bồ Tát 
    Hoá hiện vầng mây lành 
    Trút mưa thơm dịu mát 
    Khiến chúng đều hân hoan.

    16. Nguyện tất cả chúng sinh 
    Lià sợ hãi, đau đớn 
    Như tại châu Kuru.

    17. Nguyện loài vật hết sợ 
    Cảnh ăn thịt lẫn nhau 
    Nguyện cho loài ngạ quỷ 
    An vui như những người 
    Ở Bắc Câu Lưu Châu.

    18. Nguyện Đức Quán Thế Âm 
    Rưới nước cam lồ mãi 
    Khiến ngạ quỷ no ấm 
    Tắm được dòng sữa mát.

    19. Nguyện kẻ mù được thấy 
    Nguyện người điếc được nghe 
    Nguyện các bà mang thai 
    Sinh nở không đau đớn 
    Như Hoàng Hậu Ma-gia.

    20. Nguyện người trần thân trụi 
    Áo cơm có đầy đủ 
    Được những gì cần thiết 
    Cho cuộc sống yên bình.

    21. Nguyện người đau thoát bệnh 
    Tù nhân được tự do 
    Kẻ yếu được mạnh ra 
    Mọi người thương mến nhau.

    22. Nguyện người sợ hết sợ 
    Người trói được tháo dây 
    Người yếu được mạnh lên 
    Nguyện người người nhớ đến 
    Giúp nhau làm việc thiện.

    23. Nguyện cho khách lữ hành 
    Đến đâu cũng an lành 
    Nguyện cho người buôn bán 
    Thu lợi nhuận dễ dàng.

    24. Nguyện những kẻ đi thuyền 
    Đạt được nhiều mục tiêu 
    Thuyền bình an cập bến 
    Đoàn tụ cùng thân quyến.

    25. Nguyện hành khách lạc đường 
    May gặp đoàn đi buôn 
    Thoát lo sợ bị cướp 
    Hay thú dữ cọp beo 
    Hành trình được xuôi thuận.

    26. Nguyện chư Thiên, Thánh Thần 
    Hộ trì kẻ bệnh hoạn 
    Kẻ say sưa, cùng bấn 
    Người già yếu, trẻ thơ 
    Kẻ ngu si, quẫn trí.

    27. Nguyện chúng sinh thoát khỏi 
    Tám hoàn cảnh hiện hữu 
    Không thuận cho việc tu (46) 
    Nguyện họ đủ đức tin 
    Đủ từ bi, trí tuệ 
    Hoàn hảo trong hình tướng 
    Thuần thục cách hành xử 
    Nhớ lại được đời trước.

    28. Nguyện chúng sinh có được 
    Những kho tàng vô tận 
    Là hư không, tự do 
    Nguyện họ sống hoà hợp 
    Không tuyệt vọng, lệ thuộc. 

    29. Nguyện chúng sinh yếu đuối 
    Được trở thành mạnh mẽ; 
    Nguyện khất sĩ tiều tụy 
    Được đẹp tươi vô cùng.

    30. Nguyện tất cả thiếu nữ 
    Được trở thành nam nhi; 
    Nguyện kẻ địa vị thấp 
    Đạt được địa vị cao 
    Không thành kẻ kiêu mạn.

    31. Nguyện tất cả chúng sinh 
    Nhờ phước đức của tôi 
    Mà dứt sạch điều ác 
    Luôn thích làm điều lành.

    32. Nguyện tất cả chúng sinh 
    Không lìa tâm Bồ Tát 
    Hiến thân cho giải thoát 
    Thường được Phật gia hộ 
    Không vướng bẫy ma vương.

    33. Nguyện tất cả hữu tình 
    Được sống lâu vô tận 
    Luôn luôn được hạnh phúc 
    Chữ “chết’ không hề nghe .

    34. Nguyện mười phương thế giới 
    Đầy rừng cây như ý 
    Vang diệu âm thuyết pháp 
    Của chư Phật, Bồ tát.

    35. Nguyện toàn cõi địa cầu 
    Không gồ ghề sỏi đá 
    Bằng phẳng như lòng tay 
    Dịu êm đầy ngọc báu.

    36. Nguyện pháp hội Bồ Tát 
    Mở ra khắp nơi nơi 
    Điểm trang cho mặt đất 
    Bằng hào quang các ngài.

    37. Nguyện tất cả chúng sinh 
    Nghe pháp âm vi diệu 
    Vang bất tận từ rừng 
    Từ chim muông, ánh sáng 
    Từ trời rộng mênh mông.

    38. Nguyện chúng sinh kề cận 
    Chư Phật và Bồ Tát 
    Với lễ vật cúng dường 
    Nhiều như mây bốn phương 
    Dâng lên đấng đạo sư.

    39. Nguyện chúng sinh được mưa 
    Rơi xuống đúng thời vụ 
    Mùa màng được sung túc; 
    Nguyện thế giới giàu sang 
    Vua quan đều chính trực.

    40. Nguyện thuốc thang công hiệu 
    Nguyện thần chú ứng linh 
    Nguyện quỷ ma, phù thủy 
    Đều phát tâm từ bi.

    41. Nguyện tất cả chúng sinh 
    Không gặp điều bất hạnh 
    Bị tội lỗi, đau bệnh 
    Bị đàn áp khinh khi 
    Không còn tâm độc ác.

    42. Nguyện tu viện, chùa chiền 
    Tu học được hưng thịnh 
    Tăng chúng sống vững bền 
    Mọi việc đều thành tựu.

    43. Nguyện tăng sĩ siêng tu 
    Đạt trí tuệ càng nhiều 
    Thích giữ gìn giới luật 
    Diệt trừ sạch tán loạn 
    Tâm trí được khinh an.

    44. Nguyện cho các ni cô 
    Không tranh chấp lẫn nhau 
    Thu lợi từ giáo pháp ; 
    Nguyện những vị khất sĩ 
    Luôn đầy đủ giới hạnh.

    45. Nguyện người bị phạm giới 
    Biết ăn năn sám hối 
    Nguyện họ sinh cõi lành 
    Không còn phạm giới thêm.

    46. Nguyện những vị xuất gia 
    Học rộng và uyên thâm 
    Được tặng phẩm, bố thí 
    Được tâm ý sạch trong 
    Vang mười phương tiếng tốt.

    47. Nguyện chúng sinh không khổ 
    Và không gặp gian nan 
    Vì số kiếp tồi tàn 
    Với thân người duy nhất 
    Trở thành bậc Chánh giác.

    48. Nguyện tất cả chúng sinh 
    Luôn cúng dường chư Phật 
    Được hạnh phúc khôn lường 
    Nhờ phước Phật vô biên.

    49. Nguyện Bồ Tát hoàn thành 
    Ước nguyện cứu thế gian; 
    Nguyện tất cả chúng sinh 
    Được chư Phật, Bồ Tát 
    Xót thương và cứu độ.

    50. Nguyện cho hàng Độc Giác, 
    Và Thanh Văn an lạc 
    Luôn luôn được Trời, người, 
    A Tu La cúng dường.

    51. [Cuối cùng] Nguyện cho tôi 
    Nhận được sự gia hộ 
    của Văn Thù Bồ Tát 
    Nhớ lại những đời trước. 
    Nguyện đời nào cũng tu 
    Để chứng Cực Hỷ Địa (47)

    52. Nguyện suốt mọi thời gian 
    Định lực đều duy trì; 
    Nguyện đời đời kiếp kiếp 
    Có được chốn thanh tịnh 
    Để thuận lợi tu hành.

    53. Nguyện khi tìm học Pháp 
    Đều được Đức Văn Thù 
    Giải ngộ những chướng ngại 
    Và được ngài hộ trì.

    54. Nguyện như Đức Văn Thù 
    Đi khắp mọi chân trời 
    Làm lợi cho chúng sinh 
    Tôi mong được như ngài.

    55. Ngày nào hư không còn 
    Ngày nào quả đất còn 
    Ngày đó tôi tiếp tục 
    Diệt khổ của trần gian.

    56. Nguyện đau khổ chúng sinh 
    Chín muồi nơi thân tôi; 
    Nguyện phước đức Bồ Tát 
    Mãi mãi đem hạnh phúc 
    Đến tất cả chúng sinh.

    57. Nguyện giáo pháp Như Lai 
    Là linh dược duy nhất 
    Trừ đau khổ thế gian 
    Được trường tồn, ca ngợi 
    Được xuyển dương, hộ trì. 

    58. Nay tôi xin kính lễ 
    Đức Văn Thù Sư Lợi 
    Nhờ ân đức của ngài 
    Mà tâm tôi hướng thiện; 
    Kính lễ thiện tri thức 
    Nhờ ân đức các vị 
    Mà tâm tôi lớn lên. 
     
     

    ***

    CHÚ THÍCH :

    (01) Phật: Trong Luận „ Nhập Hạnh Bồ Tát“, ngài Santideva đã dùng nhiều danh hiệu khác nhau để thay cho danh hiệu „Phật“, ví dụ như: đức Thế Tôn, bậc Chiến Thắng, đức Như Lai, bậc Đạo Sư, Hiền Giả v..v.. 
    (02) Những vị Thừa Kế đức Phật bao gồm những vị thừa kế lời Phật dạy như hàng Thanh Văn, Độc Giác Phật và những vị thừa kế tâm của Phật như hàng Bồ tát. 
    (03) Các nơi Bồ tát ở: Là những nơi chốn và địa điểm sống và tu tập của Bồ tát Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm (Siddhàrtha Gautama) trước khi giác ngộ thành vị Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. 
    (04) Tam Bảo: gồm có Phật, Pháp và Tăng 
    (05) Phạm Thiên: Là một hình thái hiện hữu của thế giới các vị Trời tối thượng 
    (06) Ba ruộng phước (Phước điền): Là những vị mà Phật tử nên cúng dường để được phước đức lớn cho đời này và đời sau. Thứ nhất là cúng dường Phật, Pháp Tăng (Kỉnh điền). Thứ hai là cúng dường cha mẹ (Ân điền). Thứ ba là cúng dường những kẻ nghèo khó (Bi điền) 
    (07) Pháp cạn, sâu: Chỉ cho Tiểu Thừa và Đại Thừa 
    (08) Chú thuật Mật tông: Đó là những câu tụng niệm có âm thanh chứa đựng một sức mạnhhuyền bí của vũ trụ hay của Phật tính với công năng ủng hộ kẻ tu niệm 
    (09) Kinh Ba Phần: Là kinh gồm có ba phần: sám hối, phát nguyện và hồi hướng 
    (10) Truyện Cát Trường Sinh: Trong Kinh Hoa Nghiêm 
    (11) Nữ thần Durga: Là Nữ thần của Đạo Karnapa, Nam Ấn Độ 
    (12) Đổi vị trí cho nhau: Là một trong những phương tiện giúp đỡ tu tập, được miêu tả rõ trong Chương 8, từ câu 90-100 và từ câu 101-139 
    (13) Hoá sinh trong lòng sen: Đây là cảnh hóa sinh tại cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà 
    (14) Chiến công trọn thành: Tức là đạt được sự giác ngộ, thành Phật và truyền dạy giáo lý(Chuyển Pháp Luân) 
    (15) Xem chương VII, câu 16 
    (16) Xem chương IX, câu 73 
    (17) Bồ tát Diệu Hoa Nguyệt (Supuspacandra): Mặc dầu biết vua Curadatta rất ác độc, song vẫn cương quyết thuyết pháp vì lợi ích cho chúng sinh và đã bị vua hành hạ. 
    (18) Tinh huyết của cha mẹ 
    (19) Từ câu 141 đến câu 154 (trong ngoặt kép): Nơi đây ngài Santideva đã tự đặt mình vào địa vị của một người khác rồi hướng về „cái Ta“ (ngã) mà nói 
    (20) Chân lý thế gian: Còn gọi là tục đế, chân lý tương đối, chân lý bao phủ 
    (21) Chân lý tuyệt đối: Còn gọi là chân đế, thắng nghĩa đế 
    (22) Đây là cuộc tranh luận giữa Tôn giả Santideva (Trung Quán) và phái Duy Thức. Duy thức chủ trương rằng mỗi sự vật và hiện tượng bên ngoài đều là ảo tưởng. Chúng không có thật mà chỉ là bóng dáng của tâm. Chỉ có tâm mới hiện hữu thật sự 
    (23) Phụ nữ vô sinh: Là phụ nữ không thể nào sinh con được. Vì vậy sự bàn luận về sắc đẹp của đứa con gái của một phụ nữ vô sinh chỉ là chuyện vui đùa 
    (24) Đây là ví dụ về một con gấu bị chuột cắn làm độc. Gấu ngủ suốt mùa đông. Đến mùa xuân, khi nghe tiếng sấm nó tỉnh dậy và cảm thấy đau đớn mới nhớ lại đã bị chuột cắn. Ký ức của con người cũng tương tự như vậy 
    (25) Tâm siêu nhiên = Tha tâm thông 
    (26) Nơi đây Tôn giả Santideva phản bác lại phái Tiểu thừa đã quan niệm rằng sau khi đức Phật nhập Niết Bàn thì Ngài không còn làm lợi ích cho chúng sanh được nữa. 
    (27) Bám víu đối tượng hay sự vật = chấp pháp. Bám víu cái Ta = Chấp ngã 
    (28) Theo Prajanàkarumati thì các câu 50, 51 và 52 là những câu đã được tác giả khác từ ngoài đưa vào 
    (29) Chướng ngại hiểu biết = Sở tri chướng 
    (30) Số luận (Samkhya) là một học thuyết phi Phật giáo do Rishi Kapila thành lập vào thời cổ Ấn Độ, tin rằng mọi hiện tượng - trừ cái ngã trường cửu bất biến - được tạo thành từ một thần ngã Prakrti hay là thực chất tối sơ thấm khắp mọi sự. Khi tiếp xúc với thực chấtnày thì một loạt những biểu hiện như tri thức, cảm quan và đối tượng cảm giác phát xuất từ đấy và được cái ngã cảm thọ. Thực chất tối sơ là một chất liệu trường cửu, phổ biến tạo nên mọi sự và là bản chất của các pháp trong thế giới kinh nghiệm. Ngã là nguyên lý tâmbất biến trở nên liên kết với ngoại giới do sự đồng nhất sai lầm của nó với biểu hiện của thực chất tối sơ. (Theo: Thích Nữ Trí Hải: Nhập Bồ Tát Hạnh, Trang nhà Quảng Đức, Chương 9: Trí Tuệ, câu 60). Xem thêm Tìm hiểu sáu phái Triết học Ấn Độ, Thích Mãn Giác, 2002, Trang nhà Quảng Đức. 
    (31) Âm thanh: Là đối tượng của sự nghe = Trần cảnh 
    (32) Cái biết, Tánh biết= nhận thức 
    (33) Ba đức (nguyên lý) tối sơ của Số luận là: rajah, sattwa và tamah. Tùy theo dịch gỉa mà có nhiều cách dịch khác nhau. Cách dịch ở đây dựa theo E. Steinkellner với ba thuật ngữ: Güte, Leidenschaft và Finsternis (Santideva: Eintritt in das Leben zur Erleuchtung - Bodhicarỳavatàra. Eugen Diederichs Verlag, 1981, trang 125.) 
     Thích Nữ Trí Hải dịch là: ưu, hỷ, ám. Sách đã dẫn, câu 64 
     Thích Trí Siêu dịch là thanh tịnh, tạo tác u mê (Thích Trí Siêu: Bồ Tát Hạnh, Trang Nhà Quảng Đức, chương 9: Trí huệ, câu 64) 
    (34) “Một”: Theo Trung Quán, một sự vật có thật (có tự tính) còn được gọi là “Một”. Tự nó là nó, không do nhiều điều kiện khác (nhân duyên khác) phối hợp mà thành 
    (35) Năm Uẩn: Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức 
    (36) Ảo tưởng: Được sinh ra từ tưởng tượng, từ tà kiến hoặc do chấp trước 
    (37) Giác quan = Căn: tai mắt, mũi, lưỡi thân 
     Đối tượng: ví dụ như sự vật = Trần: như âm thanh, màu sắc, mùi vị, va chạm 
    (38) Hạt bụi cực nhỏ = vi trần hoặc cực vi trần và lân hư trần, nhỏ đến mức dường như không có gì cả 
    (39) Xem lại các câu 86 – 88 của chương chín 
    (40) Xem lại các câu 58 – 88 của chương chín 
    (41) Phản bác phái Hữu Bộ. Phái này quan niệm rằng tâm và vật là hai thực thể khác biệt 
    (42) Phái Vô Nhân: Phái này chủ trương rằng tất cả các pháp không do nhân gì sinh ra, họ bảo: “Mọi sự vật như mặt trời mọc, nước chảy xuống núi, hạt đậu tròn, gai nhọn và lông đuôi con công … không do ai làm ra cả, chúng tự nhiên sinh (Thích Nữ Trí Hải, sđd, chương 9, câu 116) 
    (43) Thường Luận: Phái này tin rằng mọi sự do thần Tự Tại Thiên sinh ra. Vị này có năm đức là thiêng liêng, trong sạch, đáng kính, trường cửu, độc nhất và là sáng tạo chủ của mọi sự (Thích Nữ Trí Hải, sđd, chương 9, câu 118) 
    (44) Bốn Đại chủng: gồm có đất, nước, lửa, không khí và không gian 
    (45) Cõi lành, Cõi phước = Bát phước sanh xứ: Tám cõi nhờ có phước đức mà được sinh đến đó, gồm có cõi người giàu sang, cõi trời bốn vị Thiên Vương, cõi trời Đao-lỵ, cõi trờiDạ-Ma, cõi trời Đâu-Suất, cõi trời Hoá-Lạc, cõi trời Tha-Hoá và cõi trời Phạm Thiên (Theo Đoàn Trung Còn: Phật học Từ điển, Saigon 1966, tập I, trang 243) 
    (46) Tám hoàn cảnh xấu (Bát nạn): Tám cảnh ngộ ngăn chận sự tu học để được giác ngộ, gồm có Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Châu Uất đan việt (Châu Bắc-cu-lư) người ở châu này sung sướng mãi nên tu học không được, cảnh trời Trường thọ (Vô tưởng thiên), nơi đây không có tâm tưởng nên không tu học được, đui, điếc, câm, Thế trí biện thông (ỷ mìnhthông minh biện bác theo thế sự mà không lo tu học, trước Phật và sau Phật, hai thời này không có sự bành trướng của đạo Phật nên không thể tu học (Đoàn Trung Còn, sđd, tr. 235) 
    (47) Cực Hỷ Địa: Sơ Địa của Bồ Tát

    Links: Về Ngài Tịch Thiên 

Mục lục

Nhập Bồ Tát hạnh
  • 1. Tiểu sử Tôn giả Tịch Thiên
  • 2. CHƯƠNG MỘT : LỢI ÍCH CỦA TÂM BỒ ĐỀ
  • 3. CHƯƠNG HAI: SÁM HỐI TỘI NGHIỆP
  • 4. CHƯƠNG BA: PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
  • 5. CHƯƠNG BỐN: THỰC HÀNH TÂM BỒ ĐỀ
  • 6. CHƯƠNG NĂM: CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC
  • 7. CHƯƠNG SÁU : NHẪN NHỤC
  • 8. CHƯƠNG BẢY: TINH TẤN
  • 9. CHƯƠNG TÁM: THIỀN QUÁN
  • 10. CHƯƠNG CHÍN :TRÍ TUỆ
  • 11. CHƯƠNG X: HỒI HƯỚNG

Tìm kiếm

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 04949
  • Online: 21