Thuật sống siêu việt
04/06/2016 | Lượt xem: 18
Danh mục: Sách viết
Tác giả: HT.Thích Phước Tú
Lời giao cảm
Sống mà hóa tán được 5 hợp thể (Ngũ Uẩn), tiêu tan được 5 ngăn che (Ngũ Ấm), đó là : THUẬT SỐNG SIÊU VIỆT.
Qua được tất cả "Ách khổ" là "Siêu thuật sống".
Con người Bồ Tát Quán Tự Tại (Quán Thế Âm) – AVALOKITEVARA - có được đời sống như vậy.
Ngài đã bằng Trí Huệ siêu việt (Ma Ha Bát Nhã) mà sống - Đây là thứ Trí Huệ TÁNH KHÔNG.
Chúng ta ai là người đang còn đau khổ, bị khổ sinh tử bức bách, hãy học mà sống theo cách của Ngài. Khổ là sự thật cần phải thoát ra!
Nam Mô Phật
-
1. KINH TÂM MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
1. KINH TÂM MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
(KINH TÂM TRÍ SIÊU VIỆT ĐẾN BỜ KIA)
(MAHA PRAJNAPARAMITA SUTRA)
***
KINH LÒNG SÁNG RỘNG ĐẾN BỜ KIA
***
Bồ Tát Quán Tự Tại là:
Người hành Bát nhã ba la mật đà
Đến khi nhuần nhuyễn sâu xa
Thấy TÁNH năm Uẩn đều là TÁNH KHÔNG
Các khổ liền được khai thông
Bao nhiêu ách nạn đều hông còn gì
Phật rằng Xá Lợi Phất này!
TÁNH Sắc và TÁNH KHÔNG đây cùng là
TÁNH KHÔNG - TÁNH Sắc một nhà
Cái TÁNH Sắc ấy chính là TÁNH KHÔNG
TÁNH KHÔNG - TÁNH Sắc thảy đồng
Thọ, Tưởng Hành, Thức TÁNH cùng như trên
Xá Lợi Tử nên biết thêm,
TÁNH KHÔNG của các thứ trên thế này:
Chẳng sanh ra – chẳng diệt đi
Chẳng dơ – chẳng sạch có gì chùi lau
Chẳng thêm – chẳng bớt làu làu.
Trong TÁNH KHÔNG lại như sau, như vầy:
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đây
Năm Uẩn hổng có TÁNH này LẶNG TRONG
Uẩn hông có nên Căn hông
Ý, Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân có nào!
Căn hông, Trần lại có sao?
Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, bao Pháp Trần
Căn, Trần, Thức chẳng có phần
Ý thức, Nhãn giới bao lần cũng hông
Vô minh sinh chốn bụi hồng
Đến vô minh tận cũng đồng là hông
Lão tử, Lão tử tận hông
Mười hai Nhân duyên cũng hông luôn mà!
Tứ Đế ấy pháp Phật đà
Khổ, Tập, Diệt, Đạo thảy là pháp hay
Cũng hông trong ấy vậy thay!
Huống là có Trí, Đắc gì trong đây?
Do hổng có chỗ đắc này
Bồ Đề tát đỏa y vầy: Ma ha
Bát Nhã ba la mật đa
Lòng hông quái ngại chỉ là rỗng rang
Hổng quái ngại chẳng vương mang
Nên hông sợ hãi lòng đang là Thiền
Xa rời mộng tưởng đảo điên
Đến tột cảnh giới Niết Bàn an vui.
Các vị Phật trong ba đời
Y vào Bát Nhã siêu vời mà nên
Đắc thành Chánh Giác ngôi trên
Hãy biết như vậy gieo duyên Phật Đà
Bát Nhã ba la mật đa
Là chú đại thần và là đại minh
Là chú vô thượng siêu linh
Chú vô đẳng đẳng thần tình nào hơn
Hay trừ khổ quả khổ nhơn
Là sự chơn thật thật chơn chú là:
“Bát Nhã ba la mật đa”
Lời chú Bát Nhã nói ra như vầy:
Yết đế yết đế, ba la yết đế
Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha
-
2. THUẬT SỐNG SIÊU VIỆT
2. THUẬT SỐNG SIÊU VIỆT
Ta nói trời nói đất gì thì 8 hình thức khổ vẫn có trong Ta.
Ta làm trời làm đất gì thì 8 khổ vẫn có trong Ta.
(Tám khổ: SANH – GIÀ – BỆNH – CHẾT – THƯƠNG – GHÉT – THAM CẦU – NGŨ ẤM XÍ THẠNH).
Còn đủ tám món này tức ta còn khổ. Hay gọn lại còn NGŨ ẤM XÍ THẠNH, tức còn 5 Ấm: SẮC – THỌ - TƯỞNG – HÀNH – THỨC bừng bốc cháy là còn khổ.
Ấy là còn bị Thân xác và Tâm hồn bức bách là còn khổ.
Hay gọn nhất là: còn Tâm bất an, tinh thần bất ổn là còn khổ.
Còn bất an là còn khổ.
BẤT AN = KHỔ
Vậy, muốn thoát khổ, hết khổ, không khổ
- Chỉ có cách là:
SỐNG MÀ KHÔNG BẤT AN
Để.
SỐNG mà KHÔNG BẤT AN, phải sống làm sao?
- Chỉ có, và chỉ có một cách là: Vô hiệu hóa Ngũ Ấm. Hóa giải năm món chướng ngăn.
Vô hiệu hóa và hóa giải bằng cách nào ngắn, gọn, nhanh nhất?
- Chỉ có, và chỉ có một đường là:
NGỘ TỰ TÁNH KHÔNG
Tức “Hay ra” cõi TRONG LẶNG nơi lòng.
Bằng đời sống TRONG LẶNG RỖNG RANG sống trong đời thường. Ngay đây không Ta, không Người, không Vật, không vấn đề, không sự kiện, không vui buồn.
Đời sống Ta chỉ còn là đời sống tợ hư không. Nhỏ như lỗ kim, lớn như bầu trời vẫn là hư không, nên nhỏ bằng lớn, nhỏ lớn bình đẳng.
NHỎ = TO = KHÔNG
Đời sống Ta bình đẳng trọn vẹn. Nỗi bất bình trong Ta không còn, Ta chỉ là một đời sống thênh thang. Và Ta tức là cuộc sống.
Tất cả sinh hoạt thế gian đều trải mình trong cuộc sống. Cuộc sống vì vậy là “nền” của tất cả đời sống, cảnh sống.
Thế, Ta là tất cả (là NỀN).
Và, Tất cả là Ta
TA = TẤT CẢ
1 = VÔ SỐ
= 0
TẤT CẢ = TA
VÔ SỐ = 1
Khổ đau tự tan biến.
SANH – GIÀ – BỆNH – CHẾT chỉ còn thuần là hình thức, là màn cảnh trên sân khấu đời không hơn không kém. Chúng không còn cầm chân trói buộc diễn viên nữa.
Và diễn viên vốn là ông Bầu, người đầy đủ khả năng để dệt vẽ nên những màn cảnh lớp lang trên sàn diễn.
THƯƠNG – GHÉT – THAM CẦU đưa tới vui buồn. Vui buồn là khán giả.
Khán giả cũng vốn là ông Bầu. Ông Bầu đã trở về chức năng chính thực của mình thì khán giả tự tiêu mất, biến mất.
Khán giả biến mất, vui buồn không xảy ra. Tức Thương, Ghét, Tham cầu bị vô hiệu hóa, và trở thành không. Đời sống tình cảm không, lòng tham cầu bặt, Sân – Si – Mạn – Nghi… tan biến. Đời sống Tinh Thần trở nên vắng lặng an bình.
Bất an không còn. Chỉ là An bình.
Khổ được triệt tiêu. Hết khổ.
Giờ đây chỉ một Ông Bầu từ sàn diễn, cảnh diễn, diễn viên, khán giả.
ÔNG BẦU là tất cả
Ông Bầu làm nên tất cả. Tất cả chỉ là Ông Bầu.
Cuộc đời, sân khấu đời chỉ là như vậy.
Sống được như vậy là sống đời siêu việt ngay trong cuộc đời. Ấy là siêu thuật sống.
***
Nhưng làm sao để “Ngộ” Tự TÁNH KHÔNG?
- IM!...Im!...Im!...Im!...!!!
CÙNG NHAU
Rõ ràng Nó:
“Biết” ngủ mà, nên ngủ được ngon.
Và “Biết” thức mà, nên Thức tỉnh.
Ngủ Thức là hai việc, hai hình thức. “Biết” ấy không hai, chỉ Nó mà thôi.
Cái “Biết” luôn luôn biết
Đừng lo Nó không biết.
Tối kỵ chớ “hiểu” Biết
“Hiểu về” cái Biết. Ôi! Đáng tiếc
Lẩn thẩn, ngu si, thật tiếc ghê!
Con từ bụng mẹ mà ra, phải. Đúng thế!
Nhưng con có biết bụng mẹ thế nào, được không?
Bụng mẹ sanh con
Sanh hàng trăm đứa
Sức sống phi thường
Lường không thể được!
Đừng ngu sanh “hiểu” thế nào
“Biết” mẹ công đức không sao đo lường
“Biết” không phiền não hằng thường
Không Thiện không Ác không đường Tử sinh
“Biết” là Tánh thật chính mình
Rỗng rang không lặng rộng thinh khắp trùm
“Nói”, “hiểu” về Biết ấy khùng
Ấy là điên đảo đồng cùng Vô Minh
Thôi ! Thôi ! Dứt hiểu, tuyệt tình
Câm mồm, bặt ý, diệt sinh chớ màng
Muốn hòa vào cõi Niết Bàn
Hãy: Như như, bất động An TÂM mà vào
Thôi! Thôi nhé! Chớ ồn ào
Nào !
Hư không bàng bạc muôn trùng
Sao Ta lại hỏi: “hư không chỗ nào?”
“Hư không” không phải đây sao?
Họng Ta, mũi đó, ui chao! Đầy mình!
Này: Ta ngậm miệng nín thinh
Hỏi Ta? Họng nói, mắt nhìn cái chi?
Uát!
Lại:
Lặng Trong không thể tìm
Rỗng Lặng hông thể thấy
KHÔNG LẶNG bất động dao
RỖNG TRONG hằng tỏa sáng
Chớ lo hông Rỗng Lặng
Đừng nhìn Rỗng Lặng Trong
Hổng nên lòng thưởng thức.
Giấc ngủ đã nên ngon
Cứ ngon giấc ngủ dài
Chớ xem ngon thế nào.
Tối kỵ “hiểu” ngủ ngon.
Hư không rỗng lặng thênh thang
Luôn luôn tỏa sáng không gian ngời ngời
Vạn vật cho đến đất trời
Đâu đâu chốn chốn thời thời Hư không
Ai hay Trời đất mênh mông
Thong dong trải khắp núi sông tuyệt vời
Trời sanh ! Hư !
-
3. BỔN TÂM
3. BỔN TÂM
A ! TÂM – Bổn TÂM
TÂM ta! TÂM ta! Chính thật TÂM ta
Là TÂM cội gốc cội nguồn bấy lâu
TÂM này từ thuở đất trời chưa phân
Có Bổn TÂM mới có thân ta này
Và mới thành sinh hoạt trong đời sống
TÂM nguồn năng lực vô bờ tạo sinh
TÂM này bàng bạc hư không rộng trùm
TÂM này chứa khắp hà sa giống loài
Loài giống nào cũng ra từ một TÂM
TÂM đây trong sạch làu làu suốt soi
Ba ngàn thế giới trông coi tỏ tường
Như xem coi trái trong lòng bàn tay
Một cọng lông sợi tóc cũng không lầm
Cùng con vi khuẩn vi trùng cũng phân
Sáng soi tỏ rạng phân minh rõ ràng
Nhỏ thì hơn tóc hơn tơ vi trần
Lớn thì rộng chứa hư không đất trời
Suốt soi tam thế không ngằn mé chi
Quá khứ, hiện tại, vị lai thấu cùng
Chuyện đời biết hết từ thời hồng hoang
Xuyên hiện tại, suốt mé bờ vị lai
Rõ ràng nghiệp chủng từng muôn giống loài
Suốt thông hành nghiệp chuyển di sáu đường
TÂM này chứa Phật cùng là chúng sanh
Chứa luôn cảnh giới Phật thành, Phật tu
Mười phương cõi Phật ba đời cũng TÂM
TÂM hay TÂM giỏi TÂM mầu thần thông
Diêm vương Thiên đế không mong lộng quyền
Quỷ Ma Thần Thánh Tiên hiền cũng thôi
Khắp trời khắp đất TÂM thông hàng đầu
Thế nên dù ở Luân hồi chuyển xoay
Thì TÂM cũng vẫn là TÂM thuở nào
Cũng là trong sạch trắng ngần suốt soi
Luân hồi nhân quả có đâu buộc ràng
Tánh TÂM nào có hấn hề gì đâu
Tánh vẫn Không Rỗng sáng trong sạch làu
Tánh KHÔNG vốn thật Tánh TÂM từ nào
Hông phiền hông não hông sầu khổ chi
Rỗng rang bằn bặt vô minh si nào
Tham sân các thứ nhân phiền có đâu
Khổ đế, Tập đế cũng hông có nào
Diệt đế, Đạo đế sạch ròng rỗng không
Pháp thế gian xuất thế gian đều hông
Hổng có một pháp vật gì trong đây
TÂM này hạnh phúc trần đời không hai
Vì TÂM không diệt không sinh hoại gì
TÂM hằng vĩnh cửu thường còn chẳng thay
Dù cho Trời sập Đất lay
TÂM này vẫn mãi chẳng phai chẳng tàn
TÂM này quý tột hơn vàng
Hơn châu hơn ngọc, Ngọc Hoàng cũng thua
TÂM này TÂM Thật chính Ta
Ai mà nhận được hay ra an nhàn
Tình tang cất bước lên đàng
Giúp đời xuôi ngược độ hàng sinh linh.
-
4. TÁNH – TÂM – NGỘ - TU
4. TÁNH – TÂM – NGỘ - TU
TÁNH là NỀN
Nền là nơi, là chỗ, là nguồn
Từ “Nền” các thứ có ra đầy
Nền là cái thật, cái hông đổi
Cái hông mất, khi các thứ mất
Cái hông dời, khi các thứ dời
Và hông khác, khi các thứ khác
Cái hông sinh, khi các thứ sinh
Nền là chân thật, các thứ giả
Nền khiết tinh không nhuốm nhiễm nhơ
Nền trống sạch thứ nào cũng hông
Chính tại Nền các thứ đều hông
Nền hông cái sạch cái dơ nào
Nền lớn rộng to hơn các thứ
Vì chúng là cái có trong Nền
Nền trùm chứa bao dung tất cả
Nền là bất động chẳng di dời
Để rõ “Nền” theo thí dụ sau:
Là nền nhà, nền xây nhà cửa
Nền mạ, nền mọc lên lúa mạ
Nền giấy, nền có ra chữ viết
Và có ra tranh ảnh màu mè
Nền màn Ti vi có ảnh hình
Nền mặt nước có bọt, sóng xao
Nền đất có cỏ cây vạn loại
Có người có vật có muôn loài
Nền Trời có mây có mưa, sương
Có trăng sao mặt trời nắng gió
Có trái đất có vạn hành tinh
Có trùng trùng điệp điệp sinh linh
Loại hữu tình vô tình đều có
Có biết bao sinh hoạt, hoạt sinh
Bao sự kiện, cùng bao hiện tượng
Nói chung nền Trời chứa tất cả
(Nền Trời hông chỉ là Trời xanh
Mà Nền Trời là cái rỗng không)
Nền Trời rỗng rộng rất mênh mông
Hông bờ hông mé hông hư hoại
Chứa hằng sa vật lại rỗng trong
Hông ô hông uế hông gì ráo
Lại như gương Nền hiện các bóng
Và như nền da mọc tóc lông
Nền gia tộc ấy là dòng họ
Họ là Nền tên gọi có ra
Họ hông thay đổi, tên muôn thứ
Và như Nền máy nổ động cơ
Từ Nền, máy hoạt động sản sinh
Ra muôn sản phẩm, lắm tiện nghi
Lại như Nền điện nguồn ánh sáng
Điện năng nguồn lực bao máy móc
Rồi như bụng mẹ Nền con cái
Máu thịt mẹ nguồn máu thịt con
Nền… vân vân và lại vân vân
TÁNH là NỀN là Nền như vậy
♠♠♠
Con người có TÁNH hay không TÁNH ?
Vạn vật thứ nào hông có TÁNH,
Con người sao lại TÁNH thì hông ?
TÁNH người có chứ sao hông có ?!
(TÁNH này hông phải nết na nghe,)
(TÁNH như đã nói ở trên kìa)
Người có là người, ấy có TÂM
Cái TÂM là cái tên trừu tượng
Là tên cái “vô hình” cái nguồn Ta
Từ đây mà có ra sinh hoạt
Có sinh bao thứ cuộc đời mình
Có vui buồn, sướng khổ điêu linh
Có Ma, có Phật, súc sinh, Trời
Có ra sáu cõi ba đường dữ
Có cõi Luân hồi có khổ đau
TÂM là “cái” ta hông biết
Hông hay hông thấy vậy mà “linh”
Bày ra đủ chuyện thành muôn vẻ
Vậy TÂM là cái gì đây hở ?
Là “cái” thì không biết cái gì !
Vì vậy chữ TÂM chỉ “hư” thôi
Chỉ là vỏ bọc, giả danh mà
Chính ruột mới là cái “thực” đây
Ruột ấy là TÁNH, là năng lực
Và “TÁNH’ cũng là “văn tự” thôi.
Cũng là vỏ bọc cũng là giả danh
Vậy, cái thực “thiệt thực” là gì ?
Là cái RỖNG cái KHÔNG trong lòng
Cái KHÔNG cái RỖNG lặng trong
Xác định cái TÁNH Tự TÂM này
Việc đây cũng giống như gương ấy.
TÂM: là toàn thể cả cái gương
TÁNH: là cái suốt trong chiếu ngời
Ngay TÂM rõ TÁNH RỖNG KHÔNG
Như, ngay gương rõ suốt trong soi
TÁNH ta Không Rỗng lặng suốt trong
Tuy Rỗng Không mà thực nhất đây
Như hư không trong lặng mênh mông
TÁNH rỗng mà luôn bất biến
Luân hồi sáu cõi hông thay đổi
TÁNH TÂM mình giống hệt Hư không
Cũng là trong lặng cũng lặng trong
LẶNG TRONG–TRONG LẶNG mênh mông lắm.
Soi suốt ba ngàn thế giới không
Quá khứ, hiện tại vị lai thông
Như như bất động hông lay chuyển
TÁNH mang tất cả nghĩa Hư không
♠♠♠
Nếu TÁNH TÂM mình giống hư không,
Thì Hư không bao hàm vạn vật
TÁNH TÂM này cũng vạn vật chứa dung
Vạn vật mang cùng TÁNH hư không
Thì vạn vật cũng mang TÁNH mình
Nên vạn vật được thấy: là TÂM
TÂM đâu TÁNH đó tỏ vật hình
Thấy nghe hay biết đều TÂM TÁNH
Chỗ thấy chỗ nghe ấy TÁNH TÂM
Vậy nên, cảnh là cảnh Tự TÂM
Không là TÂM, thì sao biết cảnh !
Đã biết cảnh thì chính là TÂM
TÁNH TÂM thường biết, thường soi sáng
Sáng tỏ trong ngoài, sáng mênh mông
Bao nhiêu Trần cảnh cái bị biết
Đâu ngoài Tánh Biết, Biết thường hằng
“Vật nào không mang Tánh hư không”
Thì Niệm, Niệm nào không từ TÁNH
Niệm Niệm thảy mang TÁNH Rỗng Không
Thế nên Niệm Niệm đều hông thiệt
Như mây bay, mang TÁNH hư không
Nên mây hông thiệt, có rồi tan
Vậy Tánh KHÔNG là Thật trong TÂM
Có Niệm là Vọng là giả có
Có mà hổng thiệt cũng như hông
Thế mà hông biết bấy lâu lầm
Lấy giả làm thiệt làm Mình, làm Ta.
Hông màng cái thiệt, dậy oan gia
Niệm sinh là giả lấy làm Ta
TÁNH là thật lại lầm bỏ qua
Thật là, Ta đã ngu quá lắm ! ! !
Khác nào:
Nhà cất từ đất lại quên nền
Cho nhà là thật, cái lâu bền
Chữ viết từ giấy cũng nền quên
Cho chữ là thiệt, cái còn hoài
Bọt nổi từ nước lại quên ướt
Cho bọt là thiệt, cái chắc còn
Bóng có trong gương, lại quên gương
Cho bóng đẹp bền, là cái thiệt
Lúa mạ có lên từ nền ruộng
Mà cho lúa thiệt lúa mãi còn
Cho tên là thiệt quên nền Họ (Tánh)
Lỗi này nặng lắm mất Tổ Tông
Đâu còn thừa tự khai kho báu
Đành nghèo xơ xác khổ vô cùng
Mẹ sanh con mà con quên mẹ
Quên cội nguồn bất hiếu tội mang
Dụng cụ điện tử nguồn điện chuyển
Lại quên nguồn điện là ngu dốt
Vạn vật có ra, trái đất nền
Mà cho vật thiệt, vật mãi còn,
Bao nhiêu tinh tú và trời đất
Đều lấy hư không làm thể nền
Mà tưởng đất trời là thứ thiệt
Bỏ quên rỗng trống Tánh hư không.
Tất cả “lầm” đều “chẳng thiệt”
Cuối cùng, cái cái diệt tiêu tan
Chỉ còn cái “khổ”, cái lầm than !
Ta ngu như vậy, ngu quá đỗi !
Quên Tánh chấp Tướng tưởng mình hay.
Chấp “giả” làm “chơn” uổng ra công
Xác định rõ ràng: TÁNH tức NỀN
TÁNH là Nền Niệm khởi Niệm sinh
Bao nhiêu niệm niệm dù sinh khởi
Cũng từ nền Tánh, nền Chơn Tánh
Niệm dù Thiện dù Ác dù chi
Dù Ma dù Quỷ Thần Tiên gì
Niệm xấu Niệm tốt Niệm buồn vui
Niệm thanh Niệm trọc Niệm gì gì…
Thảy từ Nền Tánh dấy sinh nên
Nên Niệm Niệm phải mang Tánh nền
Như bao thí dụ đã nêu trên
Trong TÂM nền Tánh là KHÔNG Rỗng
Nên rồi Niệm phải Rỗng Không thôi
Rỗng Không thì Niệm nào có thiệt
Bằng rõ Tánh rồi Niệm tiêu ma.
“Rõ Tánh ngay Niệm” cố nhận ra
Nhận ra được Tánh, Niệm tan liền
Việc này quan trọng rất vô cùng
Xác định được vầy mới thật hay,
Mới hông uổng việc ta tu tập
“Niệm niệm đều mang lấy Tánh KHÔNG”
“Thấy Tánh Niệm, Niệm tan chớp mắt”
Hay ra cái Thật, Giả tiêu thôi !
***
Tu nên nhớ, chớ lầm Tánh KHÔNG
Tánh KHÔNG nhận được ấy “Ngộ” KHÔNG
“Ngộ” là hay được là hay ra
“Nhận ra” KHÔNG Tánh “Hay Ra” Tánh
“Hay ra” cái “Thật” ở mình đây
Cái Thật lâu nay bỏ lửng quên
Cái Thật “Linh Tri” rất nhiệm mầu
Cái Thật này hổng Tử hổng Sinh
Hổng có đau khổ hông phiền não
Hông tội hông phước hông Thiện Ác
Hông có sáu đường ba cõi chi
Hông Nghiệp, hông nhân Tham, Sân, Si…
Trí mầu đầy đủ xóa vô minh
Lặng yên bất động mênh mông lắm
Tánh này quý nhất trần đời đó
Là Châu Như Ý, hòn ngọc ước
Tánh này kho báu của chúng sinh
“Hay ra”, ấy “Ngộ”, tức rõ mình
Rõ Tánh KHÔNG rõ TÂM linh mầu
Ấy là rõ Tánh từ Bổn TÂM
Tỏ cội nguồn, tỏ Nền LẶNG TRONG
(Ngộ, ấy “Hay ra” với “Nhận ra”
Nhưng, “Nhận” còn cách mình với Ta
“Hay ra” mới thật Ta trong Ta
“Hay”, ấy Ta chính Ta, Ta “đây”
Hông có khoảng cách, chỉ: “đây này!”
***
“Hay ra” khác với “hiểu ra” nghe !
“Hay” là cái Trí Tánh, ấy vô sinh
“Hiểu” là vọng thức, là diệt sinh
“Hiểu” là ý nghĩ, Niệm sanh ra
“Hiểu ra”, “hiểu biết” hãy lìa xa
“Hay ra”, “Hay Biết” là Chơn thật
Ấy mới là Ta là thật Ta).
♠♠♠
Ngộ rồi thì sống bằng “Hay” ngộ
Bằng “Hay Biết”, Biết ròng công phu
Đấy gọi là Tu, ấy Chơn Tu
Là Tánh Biết, Biết hằng Trong Lặng
Biết Lặng Trong không gì chẳng Biết
Biết mà hông vọng tưởng Niệm chi
Khi ăn, khi nói, nín, đi, nằm
Trong động trong tịnh thảy hành chăm
Biết vầy thường Biết, ấy “Liễu Tri”
“Liễu liễu thường Tri” pháp Đạt Ma
“Rõ ràng luôn Biết” nên tự tại
“Vô Tâm, mà Biết” pháp cao xa
Là Ma ha Bát Nhã Trí mầu
Ba la mật đa qua bến Giác
Biết Tánh Uẩn thảy đều là Tánh KHÔNG
Năm Uẩn liền hóa thành hông hết
Hòa nhập Tánh KHÔNG sáng tỏ lòng
Hông Ngã, hông Nhơn, hông Ngã Sở
Là đúng “Hành thâm Bát Nhã” đây
Khổ nàn qua hết ách tiêu vong
An vui tự tại đời giải thoát
♠♠♠
Nhưng làm sao để Ngộ Tánh KHÔNG
Việc này chớ hỏi nơi người khác
Người khác cho ta cái “bánh vẽ”
Chớ khen “bánh vẽ” đẹp ngon sao
Nhìn chăm nước miếng chèm nhèm chép
Có lợi gì đâu thứ bánh này
Có làm no dạ đỡ lòng đâu !
Hãy từ “bánh vẽ” nhìn vào túi
Bánh ở ngay mình bánh mới no
Ngộ Tánh KHÔNG! Ngộ Tánh KHÔNG nào ?
Thôi đi! Đau đáu tìm chi mệt
Tánh Không, không Tánh kiếm tầm chi!
Muôn duyên lặng hết! – Trả lời đi !
Hỏi lại mình, hỏi lại đi nào.
Tánh KHÔNG! Tánh KHÔNG! Trả lời sao ?
Trong ngoài duyên bặt, Ta hết biết !
“Hết biết !” Ô ! Là…! Là…Ố !Ô !
♠♠♠
Ngộ rồi Tu, Tu bằng cái Ngộ
Tức Tu bằng Tánh, bằng Rỗng KHÔNG
Bằng sống Lặng Trong, và Trong Lặng
Ấy bằng “An TÂM tại vọng tình”
Ngay đây “liền đó không ba chướng”
Diệu thuật này của Lục Tổ đây
Truyền nhân đắc pháp dòng Sơ Tổ
“Liễu liễu Thường Tri” vận dụng tài
Tu vầy thành Phật trong nhấp nháy
(Theo đây tu chẳng là trừ vọng
Chẳng là diệt Niệm để cầu Chơn
“Cầu Chơn diệt Vọng”, đều chẳng phải
Chỉ “sống bằng Tánh” có vậy thôi !)
Bởi thế nhà Thiền truyền lẫn nhau:
“Bất lập văn tự,
Giáo ngoại biệt truyền
Trực chỉ nhơn TÂM
Kiến Tánh thành Phật”.
“Kiến Tánh” thành Phật, thành Phật nhanh.
Một niệm tu một niệm thành ngay
Nhưng ta nhiều niệm “liền” chưa được
Nếu sống bằng Tánh suốt không rời
Liền liền liên tục Tánh sống ra
Thì quả là thành Phật liền liền
Dù sao “Ngộ Tánh” sẽ thành Phật
Chuyên Tu bằng Tánh Phật sẽ thành
Thế nên “Ngộ Tánh” để thành Phật
“Để thành Phật” nhân từ “kiến Tánh”
“Kiến Tánh” là Thấy Tánh, Ngộ Tánh
Muốn “Ngộ” muốn “Thấy” phải từ TÂM
“Ngay TÂM, ngộ Tánh” riêng ngoài Giáo
“Giáo ngoại biệt truyền” ngoài văn tự
“Bất lập văn tự” chớ mắc lời
Chớ dính văn chữ hãy xa rời
Văn chữ chỉ là vỏ bọc
Chỉ là bánh vẽ hay lá gói
Lá gói tuy là có vóc hình
Nhưng không là bánh chỉ lá thôi
Cần lột lá quăng, thịt bánh bày
Ăn đi ! Bánh đó sẽ làm no
Ấy khéo biết “Bất lập văn tự”
Và khéo nhận “Giáo ngoại biệt truyền”
“Ý tại ngôn ngoại” khéo hay ra
“Ý” ngoài lời nói, ấy “tại” Ta
Lời văn dẫu có rườm rà mấy
Cũng không diễn tột cái “Là Ta”
“Là Ta” cần biết hay không ?
Buông tay vực thẳm mênh mông đất trời.
-
5. TỨ TƯỚNG
5. TỨ TƯỚNG
Khi tu vướng tướng là thường
Tướng là cái mắc chắn đường tiến tu
Lúc tu thực hiện công phu
Phải rành Tứ tướng, nhà tù Nhị biên
Biết rồi đỡ bớt quàng xiên
Đỡ vương Tứ tướng đỡ liền Nhị biên
Nhẹ nhàng Tứ tướng tu chuyên
Cho đến Tứ tướng hết duyên sạch làu
Ấy là lúc chứng Đạo vào
Tứ tướng là bốn: “Ngã” đầu, tiếp “Nhân”,
“Chúng sanh”, “Thọ giả” rất thân
Luôn luôn xoắn chắc bất phân dính liền
Ngã, Nhân xác lập “Nhị biên”
Thành có “hai pháp” đảo điên liên chuyền
Từ “hai” sanh khởi liên miên
Thành muôn ngàn thứ não phiền khổ đau
Hãy diệt Tứ tướng cho mau
Khi diệt hãy biết trước sau thế nào
NGÃ: mình - chủ thể - Niệm trào
NHÂN: người- đối tượng - thứ nào đối ta
CHÚNG SANH: các thứ sinh ra
THỌ GIẢ: cảm giác lưu và buồn vui
Mình khi đối trước một người
Ấy, thành Nhân Ngã; nói cười ….: Chúng sanh
Chúng sanh bao thứ bu quanh
Vấn đề, sự kiện luận bàn đây kia…
Để rồi Thọ cảm phân chia
Có thương có ghét, xa lìa buồn vui
Thọ giả lưu trữ giữ nuôi
Tứ tướng xoay chuyển ngược xuôi chồng chồng
Nhân nhân, quả quả quyện lồng
Bốn tướng sau trước lòng vòng diệt sinh
Bởi chưng Niệm dấy chấp vin
Trùng trùng niệm khởi vọng tình chấp theo
Nhân Duyên chấp dính dẽo đeo
Duyên duyên tăng thượng Duyên leo Duyên trèo
Duyên trèo như thể trầu cau
Vì năng lực Nghiệp gây vào mà nên
NGHIỆP là nhân chính chớ quên
Cộng thêm duyên nữa, Nghiệp Duyên khổ đời
“Nghiệp” là “máy động” ai ơi !
Hãy ghi nhớ lấy chớ lơi điều này
Nghiệp Niệm máy động phải hay
“Máy động” thành Niệm, Niệm lay thành dòng
NIỆM Ngã Nhân cứ chất chồng
Chúng sanh vô số thảy đồng Niệm thôi
Thọ giả củng cố cái Tôi
Lưu giữ thương ghét khổ vui Niệm hoài
NIỆM sinh, sinh Niệm dài dài
Cái dòng Nhân Ngã “ có hai” kinh hồn
Nhị biên, Nhân Ngã một phồn
Nhị biên, Tứ tướng, mồ chôn anh hào
Tham sân chấp bám biết bao
Tập Nhân ác nghiệp không sao kể nào
Luân hồi sáu nẻo lao đao
Cũng từ Tứ tướng Niệm trào mà nên
Khi Tu nêu Tứ tướng lên
Đo mình, đây thước đừng quên điều này,
Xem ta dính tướng không đây?
Có không phải biết phải hay ra liền
Tứ tướng là thứ xích xiềng
Trói người khó thoát não phiền khó ra
Đối Nhân đối cảnh thử ta
Có Chúng sanh, Niệm vọng ra không nào ?
Có Thọ giả Niệm dấy trào ?
Phải không có chút Niệm nào mới hay
Đối pháp tu, ngó tâm này
Có sanh cảnh giới vọng dầy vọng thưa?
Có thanh tịnh, đã yên chưa ?
“Tịnh” “yên” nếu thấy, ấy đưa lối tà
Vì “Nhân” đã có ló ra
“Chúng sanh” sinh đó phải mà lặng đi
Chớ sanh “Thọ giả” mà nguy
DỨT KHÔNG TỨ TƯỚNG XẢ VÌ NHỊ BIÊN
Động – Tịnh hãy diệt đi liền
Dù Ma dù Phật hành Thiền phải không
Ngã – Nhân hai tướng mới hông
(Như vậy danh lợi mới không lộn sòng
Thị phi, tình chấp tiêu vong)
Vả chăng “sở đắc” trong lòng phải không
Cảnh chứng, người chứng cũng hông
Tứ tướng được sạch lòng trong, Giác tròn
Bấy giờ phiền não sạch mòn
Tham, Sân , Si Mạn… không còn hành ta
Trần lao ta mới thật xa
Bồ Đề chốn cũ quê ta được về.
-
6. TU
6. TU
Tu tạm chia hai:
- Chính tu
Và
- Trợ tu.
***
Chính Tu ấy sống bằng TÂM
“SỐNG BẰNG TÂM” ấy pháp thậm thâm diệu mầu.
Pháp này “vô pháp” vô cầu
Hành từng hơi thở, thở vào thở ra
Vào ra chỉ một TÂM ta
Là TÂM bất động cũng là Như Lai
Nhớ: Sống “Bằng”, chớ sống sai
Nếu là sống “với” có hai mất rồi.
Pháp này vốn pháp “không hai”
Không Ngã không Pháp không ai…tuyệt vời
Chính tu là vậy, thế thôi
Thở ra tỏa sáng, hít thời sáng trong
Hít thở luôn trống luôn không
TÂM KHÔNG bằn bặt mênh mông đất trời
Tu vầy chẳng thể nên lời
Bặt suy dứt nghĩ MÌNH - NGƯỜI lửng quên
LẶNG TRONG – TRONG LẶNG làm nền
Khi đi đứng, lúc ngồi nằm nói năng
Dầu cho sinh hoạt lăng xăng
Lặng trong – Trong lặng luôn hằng Lặng Trong
Tu vầy tức ngộ Tánh KHÔNG
Tức tu TÂM đó chính Tông là vầy
Công phu xác lập như đây
Thế là KHỔ - TẬP sâu dầy chóng tiêu.
Vì rằng DIỆT – ĐẠO đốn siêu
Từ nguồn vắng lặng “xuất chiêu” như thần
“Chiêu” này vốn thật chiêu chân
Là “vô chiêu” đó “Pháp Thân” tỏa tràn
“Vô công dụng hạnh” đối Trần
“Trần” liền hóa tán tiêu tan trần hoàn
Đồng thời Nhân Quả - Quả Nhân
Chóng tròn Đạo quả, đây chân Đạo vàng
♠♠♠
Trợ tu vô số muôn ngàn
Pháp tu hàng hàng vì pháp “có hai”
Trợ tu đối trị đổi thay
Tùy duyên tùy ý chọn ngay pháp nào
Pháp Quán, pháp Niệm, thấp cao
Pháp nào cũng tốt miễn sao dùng vừa
Pháp là phương tiện gọi “Thừa”
Thừa Tiểu, Thừa Đại, “Thừa” đưa như đò
Xe, ghe đưa khách đỡ giò
Lại như câu hò dìu dặt ru con
Miễn sao con ngủ cho ngon
Câu hò bất kể là non là già
Là hay là dở cao xa
Phà, ghe cũng vậy miễn là qua sông
Xe dầu nhỏ lớn mặc lòng
Hễ sao đến được bến mong, đủ rồi
Nhưng dùng phải nhớ lúc thôi
Qua sông, đến điểm thì tôi “bỏ” đò
Con ngủ thì “nghỉ” hát hò
Xả bỏ, dứt nghỉ chớ lo ôm ghì
“Xả pháp” hãy cố nhớ ghi
Không “xả” thành bịnh ích chi tu hành
♠♠♠
Muốn tu phải hiểu cho rành
Chớ có giựt giành này nọ kia đây
Tu là tu ở mình này
Ở tại TÂM đây chớ gây khổ người
Vạn duyên buông hết đi thôi
Chớ lăng nhăng dính kéo lôi đùm đề
Một lòng hướng nẻo quê về
Quyết tu cho trọn Bồ đề Đạo ta
♠♠♠
Khi tu hãy nhớ rõ ra
Chính tu cùng Trợ giúp ta hành Thiền
Chính tu là gốc là trên
Đây là pháp chính chớ quên chớ lờ.
Là sữa mẹ nuôi con thơ
Lo hành nghiêm chỉnh chớ mơ màng gì
Tuy nhiên có lúc có thì
Chính tu không phát vậy thì chuyển qua
Bằng Trợ tu để giúp ta
Như sữa mẹ tắt, đường hòa nước cơm.
Tạm thời chờ giọt sữa thơm
Nhờ vào sữa thú chữa cơn đói lòng
Chính tu, một pháp còn không
Chỉ như sữa mẹ, đường hông, cơm nào
Sữa mẹ nếu lại tuôn trào
Chính tu nút sữa nuốt vào nuôi thân
Trợ tu, sữa thú thôi cần
Nước cơm, đường cát để gần trợ duyên
Đường tu phải “khéo” và “siêng”
Như nuôi con nhỏ phải chuyên phải rành
Hiểu cách nuôi con thật sành
Ứng dụng tu hành quyết sẽ thành công.
♠♠♠
Ngàn năm xương trắng máu hồng
Phôi pha nắng gió trời không dặt dìu
A tăng kỳ kiếp khổ nhiều
Bước lên đại Đạo tiêu diêu trần hoàn.
-
7. TU SAO?
7. TU SAO?
Tu không phải là tạo một thói quen mới.
Dù là một thói quen tốt.
Một thói quen gọi là Thiện,
Để trừ đi một thói quen xấu,
Gọi là trừ Ác, diệt Ác, ngừa Ác.
Không !
Tu không phải tạo thói quen, gây thói quen.
Vì THÓI QUEN, ấy tức NGHIỆP
Mà Tu phải không nghiệp, dù nghiệp Thiện
Nên Tu không phải Tạo Tác, không làm ra, làm nên.
Là Chơn Tu không phải Tạo Tác, không làm ra, không làm nên.
“Để làm ra tốt, ra Thiện gọi là Tu”. Đây chỉ là khía cạnh ban sơ rất tạm thời.
“Chơn Tu” không lập thói quen.
“Thói quen” là tối kỵ.
Thói quen là cánh cửa đóng lối vào.
Muốn vào, cánh trái và mặt phải mở toang.
Muốn Tu, vào cửa Đạo phải bặt, lặng vì thói quen.
Chớ sống bằng hiểu biết tốt, Thiện – Thói quen thuộc hiểu biết. “ Hiểu biết” là vọng – không phải là thứ thiệt.
Hãy sống bằng “Hay Biết” – bằng cái Thường Biết, luôn luôn Biết. Là TÁNH Biết.
Cái này (Tánh Biết) không phải do tập, do làm nên. Mà nó là cái sẵn có. Và là cái không bao giờ mất.
Cái này như hư không bất động, sừng sững không lay, đầy ắp như hư không. Cái này không có được sinh ra và không có bị diệt đi.
Cái này không bao giờ bị thay đổi, hư hoại nên gọi là TÁNH. Cái TÁNH, trong đó không có Thiện, không có Ác.
Không dơ – không sạch, không phải – không quấy, không phiền não, không Bồ Đề, không nhiễm ô. Không Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi v.v…
Không Ta, không Người, không vật, không sự kiện, không vấn đề, không cảm giác. Không Ma – Không Phật – Không Pháp – Không cảnh giới – Không thời gian.
Không có gì “gọi là” cả.
Cái TÁNH này Rỗng Không bằn bặt như hư không trong lặng bàng bạc. Nó lại mênh mông bất tận, trùm khắp đất trời, phủ choàng vạn vật.
TÁNH này không khổ vui theo tình đời.
Bặt vui dứt khổ, tạm gọi là An lạc, là Cực lạc.
Chỉ sống được bằng TÁNH này là Giải thoát, là An lạc, Cực lạc.
“Hay ra” được TÁNH này gọi là Ngộ.
Ngộ TÁNH này, sống được bằng TÁNH này gọi là TU.
SỐNG BẰNG TÁNH là TU
(Nhớ “sống bằng” chứ không phải “sống với”)
Bằng danh từ, TÁNH này được gọi là TÁNH KHÔNG (theo văn chữ Hán Việt).
Trong nhà Thiền nói: Kiến Tánh thành Phật (Thấy Tánh (để) thành Phật) là Tánh này.
Mà Đức Lục Tổ Huệ Năng gọi là Tự Tánh.
Để rõ ràng hơn ta có thể gọi là:
TỰ TÁNH KHÔNG
Tự Tánh KHÔNG tức là cõi lòng Rỗng Lặng ở ngay ta. Cõi này là cõi lặng lẽ mà sáng soi suốt thấu không lầm một mảy vọng trần. Đây là cõi “ xưa nay không một vật”, được gọi nôm na là TRONG LẶNG hay LẶNG TRONG.
Trong, Lặng là hai đặc tính của TÁNH này.
TRONG: Tỏ sáng, chiếu soi.
LẶNG: Không lay, không một vật.
Nếu nói theo văn chữ Hán thì Trong là Huệ mà Lặng là Định. Vậy Trong – Lặng tức là Huệ - Định hay Định – Huệ.
Công phu theo đây, tức Tu theo đây là pháp tu mà Tổ Huệ Năng đã dạy và Ngài đã gọi là: ĐỊNH - HUỆ đẳng dụng ( Định – Huệ đồng dùng).
Đây là tức Định tức Huệ, tức Huệ tức Định. Chính là Định Huệ không hai, không ngoài nhau, không rời nhau, không trước sau, ở thế lồng bóng trong nhau như gương phẳng lặng và soi chiếu.
Nhận ra, hay ra Tánh Không tức là rõ TRONG LẶNG ngay chính ta. Hay ra Trong Lặng rồi hãy sống bằng TRONG LẶNG – LẶNG TRONG. Đây mới là đời sống đích thực.
Chỉ biết trong ta, trước mặt, xung quanh ta, nhứt cử nhứt động đều là TRONG LẶNG.
Hãy giữ sống bằng TRONG LẶNG
SỐNG BẰNG TRONG LẶNG
Như người lái xe, lái máy bay, lái tàu, người đi luôn luôn giữ khoảng không trước mặt mà vươn tới.
Hãy giữ khoảng KHÔNG trước mặt
(Mất khoảng không là bị tai nạn, đụng người đụng vật…,bị tắt nghẽn lối giao thông).
Đời sống LẶNG TRONG, một đời sống rỗng rang mênh mông, thênh thang, không vướng dính một thứ, hãy cố mà sống.
Có LẶNG TRONG
Tức có GIẢI THOÁT
Vì:
Ngũ Uẩn vô hiệu hóa
Ngũ Uẩn mất tác dụng
Ngũ Uẩn thành hổng có
Năm Uẩn che bấy thuở
Được chuyển hóa Rỗng Trong
Năm Uẩn đồng hư không
Hư không hòa hư không
Có việc gì đâu nào !
LẶNG TRONG VÀ TRONG LẶNG
LẶNG TRONG
!!!
-
8. Ý NGHĨA TU
8. Ý NGHĨA TU
“ Tu là sửa”
- Phải
Nhưng có hư mới có sửa – Tu sửa
Không hư mà sửa, sửa thành hư.
Thành tự phá, tự hoại – phá hoại.
Lại,
Sửa từ xấu hư cho tốt lành
Sửa tốt hơn chưa sửa mới thành
Sửa mà xấu tan tành thì sao ?
- Là phá hoại chớ nào phải sửa
Nghĩa ý chữ Tu là như vậy.
Nên: Tu hành phải rõ nghĩa này
Khi Tu phải nhớ hành như đây
Lại,
Trước khi Tu, sửa nên coi khám
Cái nào là cái hư, bị hư
Cái nào là cái chẳng giờ hư
Chớ ! Không khám coi cắm cổ làm
Không coi không khám là đổ nợ !
Cẩn thận ! Chớ Tu, chớ sửa càn.
Khi Tu nhìn lại Thân Tâm kỹ
Cái nào hư hay cái chẳng nào hư ?
- Thân thì hư, Tâm chẳng giờ hư
Bước nhứt rồi, đến bước thứ hai
Khám kỹ Tâm coi có gì nào ?
Có cái hư cái không hư chăng ?
- Có
- Cái hư là cái hay sinh diệt
- Cái chẳng hư ấy chẳng diệt sinh
NIỆM sinh diệt ấy đúng cái hư
Cái này phải sửa phải Tu đây
Cái chẳng diệt sinh ấy Vô sinh
Vô sinh không hoại, không tu sửa.
Bước hai xong lại liền bước ba.
Bước ba là bước chuyên Tu, sửa
Thực hiện tay nghề dụng cụ đây.
- Với Thân tu sửa cái gì giờ ?
Sửa tay, chân, mình, miệng – Tu thân.
Không dâm, không giết, không trộm cướp
Không nói dối, thêm bớt ác hung
Dùng giới luật bù lon xiết nền
- Với Tâm tu sửa sao cho tốt ?
Chỉ Tâm sinh diệt sửa mà thôi
Gọi tu Tâm là “Tu” Tâm này
Tâm này nhiều lắm món hư đây
Đếm không thể xuể nhiều vô số
Căn bản có mười thứ nặng thôi:
Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân kiến,
Biên kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ,
Tà kiến mười món phá quậy nhiều
Dùng Tam Tụ Tịnh Giới mà Tu
Rồi Tứ niệm xứ, Thiền, Quán, Niệm
Bao thứ pháp môn thảy tập trung
Pháp môn tu Tâm nhiều vô số
Khéo chọn pháp môn khéo ứng dùng
Pháp nào phù hợp là pháp tốt
Tu sửa Tâm này lắm công phu
Siêng năng, An, Hỷ mà Tu sửa
Tu đến khi Mười ổn mới xong
Tham, Sân, Si không còn phá quậy
Đó là Tu với Tâm sinh diệt
Tâm hết diệt sinh ấy mới rồi
Từ hư sinh diệt, giờ nên tốt
Tâm hết quậy người khổ đảo điên
Tập nhân tan biến thôi đau khổ
Nhớ: hồi chưa Tu, Tập nhân nhẹ
Giờ Tu rồi Tham Sân dẫy đầy
Si mê, chấp Ngã còn hơn nữa
Tu vầy phải biết đã tu sai
Sửa mà lại xấu hơn xưa trước
Đáng tiếc ra công uổng phí rồi
♠♠♠
Còn cái “VÔ SINH” ấy mới sao ?
Không hư, không sửa chớ còn sao ?
Ở đây ló mó thành tai họa
Chỗ này có phải chỗ Tu đâu
TÂM VÔ SINH chớ có bày Tu
Có ngu mới thọt tay chỗ này
“Không hư Tu sửa thành phá hoại”
Nhớ nghĩa này không ? Hãy nhớ nghe !
Tài xế nếu hỏi xe mình chạy
- Xe mình không hư phải sửa gì ?
Chủ nhà nếu hỏi cái nhà rằng:
- Nhà chắc đẹp phải sửa sao đây ?
Người có thân lành mạnh hỏi rằng:
- Thân không đau phải trị, sửa gì ?
Ba kẻ hỏi, ba kẻ gì “ngu” vậy !
Phải không ? Đừng ngu đừng lẩn thẩn
Ngay khi ấy thế nào là phải ?
Có phải: Tài xế cho xe chạy
Chủ nhà đi đứng nằm tùy tiện
Người thong dong làm việc tùy nghi ?
♠♠♠
Nếu rõ VÔ SINH là đó đó.
Thì chớ ngu mà hỏi mà nhìn
Hãy ập vào ôm chầm mau gấp
Hòa nhập đời tu vào ấy ngay
Không Tu nữa. Tu thành tai họa
Chỉ sống và sống bằng VÔ SINH
“SỐNG BẰNG” VÔ SINH chính thức Tu
Tu mà không Tu, đây chơn Tu
Chữ Tu giờ đây thành Siêu Việt
Không còn nghĩa thường xã hội dùng
Tu với nghĩa này mới đúng Tu
Chỗ gọi rằng Đốn Ngộ Đốn Tu
Hay là “xứng Tánh khởi Tu” đây
TU vầy mới chính thực “Tu Tâm”
♠♠♠
Tu Tâm là sống bằng TÂM
Là TÂM Bản Thể thuần mầm Vô Sinh
Không còn tu vọng sửa tình
Sửa Tâm (ý), sửa Tánh(nết), sửa mình, sửa Thân
Vọng Tình, Tâm, Tánh, ngụy chân
Hòa tan nhập diệu nhất TÂM một nhà
Chữ Tu Đạo Phật sâu xa
Nghĩa Tu đơn giản cũng là nghĩa thâm
Nghĩa Tu vi diệu tại TÂM
“Hành thâm Bát Nhã” Tu thầm ai hay
-
9. TU THEO ĐƯỜNG PHẬT
9. TU THEO ĐƯỜNG PHẬT
Tu theo đường Phật, Tu làm sao đây ?
- Thật giản đơn, thật là đơn giản thôi
Chỉ là: “ Dứt dữ làm lành” chuyên tu
“Bỏ hết điều ác, làm hết việc lành”
“Giữ lòng trong lặng rỗng không sạch làu”
Pháp tu chừng đó chẳng chi cần nhiều
Lại “Tu lòng Rỗng” Rỗng lòng mà Tu
Một chữ Rỗng, chữ KHÔNG quá đủ rồi
Đơn giản vô cùng rất đơn giản thay !
“ Đơn giản” mà dễ hay khó đây ?
- Thật là không dễ, không dễ đâu nào !
Càng đơn giản lắm, càng nhiều khó khăn
Chữ Nho nhứt (–) một khó ai viết tài.
Thật ra, khó tại “Chấp” thôi có gì
Cứ khư khư chặt chấp hoài không buông
Nếu ai gan dạ buông tay chấp cầm
Một phen quăng ném một phen xong liền
Thiện – Ác hai thứ quăng vèo một khi
Thì Trời xanh lồng lộng rộng thênh thang
Lòng liền ngay đó Rỗng Không làu làu
Lòng Rỗng lòng Không đúng pháp chơn tu
Với hạng người này tu là không khó
Vũ khí giết người quăng bỏ ném đi
Thì tội lỗi làm sao sanh được nào
Ngay đó bình an, liền thành vô sự
“Phóng hạ đồ đao” lập địa thành “Phật”
Quăng đao đồ tể thành Phật tại chỗ
Lý này không khó thấy khó hiểu gì
Chỉ vì không gan lòng nhiều bám chấp
Nếu hay thấu lý quăng đao Đạo thành
Bằng không thì theo lối Tu từ từ
Từ từ đoạn Ác, từ từ Tu Thiện.
Đường tu này khăn khó lắm đây
Đường Tu trên trước như đường hàng không
Đường tu này như là đường đi bộ
Phải qua rừng qua núi qua đèo
Biết bao là ngăn trở cùng trở ngăn
Lại vướng người vướng vật vướng quỷ ma
Vướng hùm thiêng nước độc vướng côn trùng
Đường đi vô số nạn tai khổ nàn
Phải trừ Ác diệt Ác, Ác nhiều thay
Đem Thiện diệt Ác, Ác Thiện tương tranh
Giằng co cấu xé chiến tranh không ngừng
Tu vầy công cán gian nan đủ điều
Ác là làm khổ người khổ cả mình
Tham lam trộm cướp giết dâm hại người
Mưu mô xảo quyệt mánh mun đủ trò
Nói gian nói dối nói hung rủa nguyền
Nói ly gián cùng chia lìa ân nghĩa
Sân, Si, Mạn Nghi, Thân kiến, Biên kiến
Kiến thủ, Giới cấm thủ, thêm Tà Kiến
Mười Nhân Ác gốc cùng mười nghiệp hung
Biến thành điều Ác muôn trùng khiếp thay
Tu thì phải diệt những này cho xong
Diệt những này ấy chính là Tu Thiện
Lại phải còn làm Thiện với đời thêm
Cứu nhân độ thế, bố thí tế bần
Đem vui cứu khổ khiến người an tâm
Chúng sanh vô số, việc Thiện phải nhiều
Nhiều đến vô cùng, nhiều thôi biết mấy
Ác – Thiện thứ nào cũng là vô số
Tu đến khi nào xong, ôi chao ! Ôi chao !
Nhưng rồi cũng phải tu thôi ngán gì.
Đường tu thăm thẳm mình thì cứ đi
Giữ lòng trong lặng, lặng trong đi hoài
“Tự tịnh kỳ ý” có lo chi nào
Là pháp lành nhứt trong bao pháp lành
Lòng sạch không Thiện, không Ác không gì
Gặp Ác thì diệt gặp hung thì trừ
Gặp Thiện thì làm, làm Thiện mãi thôi !
Chỉ cần lòng sạch, lòng trong được rồi
Lo gì Thiện hết Ác mòn mà chi
Ác thì hết được Thiện thì khó không
Thiện chỉ hết khi nào hết chúng sanh
Chúng sanh tâm thì ta còn hết được
Chỉ lòng luôn rỗng lặng chúng sanh tiêu
Vì chúng sanh niệm ấy chính là Niệm sinh
Tu thì tiêu Niệm, Tưởng, Tình tiêu theo
Đến đây lòng Thiện được vuông tròn rồi
Lòng chí Thiện ấy là TÂM Rỗng Lặng
Nhưng còn chúng sanh người vật sáu loài
Thì vô biên vô số không cùng tận
Không bao giờ hết, không hết chúng sanh
Thế nên việc Thiện độ đời không xong
Phải làm Thiện hoài, làm suốt vị lai
Nhưng chẳng bao giờ mong tận Thiện chi
Mong “Tận Thiện” đó coi chừng Tham chấp
Có chấp tức có Ác vì Niệm có sanh
Niệm sanh “Ý tịnh” mất đi, Si rồi
“Chấp” tức Tham, Tham thì sẽ có Sân
Thế là phiền não rõ ràng Ác đây
Vậy nên “Tự tịnh kỳ ý” là Thầy
Dẫn đường đưa lối lên đường độ sinh
Ấy là Trí huệ Tự TÂM soi đường
Từ đây hành Thiện thường thường
Từ Bi cứu khổ độ sinh không cùng
Hư không dù có hao mòn
Tâm nguyền hành Thiện vẫn còn như xưa
Tu theo đường Thiện Phật thừa
“Làm lành lánh dữ” là đưa mình người
***
“Tu thành Phật” việc này không đòi hỏi
“Bồ Đề TÂM” phát nguyền thành Phật
Nhưng chúng sanh còn nhiều thành Phật khoan
Khi nào độ tận chúng sanh mới thành
Chúng sanh chưa tận chưa thành Phật
Biết hành pháp Phật đã hay lắm rồi
Bằng Pháp Phật ta sống đời hông chán
Vì không Nhân, không Ngã, không Chúng sanh
Nên không Thọ giả không buồn vui chi
Chừng ấy cũng đủ, thành Phật làm gì
Chúng sanh còn như đàn em lóc nhóc
Mình vui chi ở địa vị cao sang
Hãy cùng em, lo cho em cái đã
Tuy nhiên, nếu cần hạnh Phật độ sanh
Thì ta cũng tạm ở ngôi Phật đà
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”
Thành Phật ấy là điều thành tối thượng
Là đỉnh cao tột cùng con đường Phật
Đường ta đi theo Phật, Đạo nguyện thành
Để thành Đạo ta nguyện độ chúng sanh
Để độ chúng sanh phải sạch não phiền
Muốn diệt não phiền ta phải học Tu
Con đường Phật ta đi là như vậy.
-
10. HÀNH TRÌNH KHÔNG ĐIỂM TỚI
10. HÀNH TRÌNH KHÔNG ĐIỂM TỚI
Khi đi hãy giữ bước đi
Ngó ngay đường trước nhìn chi bước người
Nương vòm không trống bước dời
Bỏ lề phải trái chân thời tiến lên
Thong dong thư thả là trên
Chớ gấp, dễ vấp chẳng nên hành trình
An vui tươi tắn với mình
Siêng năng bước mãi tận tình bước say
Bước hoài đích điểm không lay
Dù cho đường dốc lối gai chông nhiều
Dù cho mưa gió sớm chiều
Ngăn chân chặn bước cứ liều tiến lên
Tỉnh táo, gắng gổ mới nên
Dù cho tình huống chênh vênh thế nào
Lương thực đủ chớ có nao
Mệt nghỉ, buồn ngủ, không sao nản lòng
Chướng ngại Ma Quỷ hãy phòng
Yêu tinh quái ác vây vòng hại ta
Nên phải có mắt nhìn xa
Thấy cho tường tận phe ta phe thù
Thù – bạn vẫn vững công phu
Phát huy hùng lực Trí tu thêm hoài
Nhớ rằng nguồn Trí rộng dài
Nối ráp nguồn lực Phật Ngài đã ban
Trổ tài Phật pháp Tâm an
Thì Ma thì Quỷ quỵ chân Phật đài
Nhược bằng sơ thất chẳng may
Sa chân lọt bẫy vào tay Quỷ Thần
Đừng nao đừng núng đến Thân
Vững Tâm thủ chí chẳng cần thở than
Khóc là nhục chớ oán van
Thân là tạm bợ giả tan có ngày
Dù cho Thân nát xác phai
Làm mồi cho Quỷ cúng trai cho Thần
Không sao! Tâm cứ vững trân
Đã vào chốn ổ Ma quân lối tà
Lần hồi hãy kiếm cách ra
Quyết tâm, dốc chí giết ma phá tà
Ở động Ma giữ hồn ta
Xác thân bất chấp, nó là oan gia
Thân là ổ tội đó mà
Nên y ở lẫn với Ma một nhà
Phải vậy thôi, chớ xót xa
Thân tan thành bụi cũng là điều hay
Chí vững hồn giữ chẳng lay
Đường ta, ta quyết chí này quyết đi
Tin Ta bất tử bất di
Chẳng bao giờ chết, thị phi có gì
Phật pháp hay hóa ám si
Tâm ta hết tối ta thì sáng ra
Sáng soi tỏ lối đường ta
Trừ Ma diệt Quỷ tránh xa Thần tà
Ta ra từ chốn hang ma
Nên trừ tận ổ con cha sạch dòng
Từ đây Ma Quỷ tuyệt tông
Không còn khuấy rối hết mong hại người
Nhìn Ma ta khẽ mỉm cười
Ơi Ma ! Ơi Quỷ ! Trò chơi này tàn
Thật ra Ma Quỷ nào đâu
Chỉ là phóng ảnh tâm màu tối đen
Ấy là vọng tưởng vọng lên
Dù là Ma gọi được tên có hình
Cũng là tâm ảnh vọng tình
Rõ rồi Ma Quỷ là mình với ta
Quỷ Ma chung ở một nhà
Nay Tâm sáng tỏ Quỷ Ma tiêu tàn
Giờ đây ta lại lên đàng
Tiến về phía trước băng ngàn vượt sông
Ta đi đi với trời KHÔNG
Không mong điểm tới, không trông chốn về
Đi, đi chỉ biết một bề
Đi cùng bạn lứa cùng về quê hương
Quê về vẻ đẹp khác thường
Hoa thơm cỏ thắm thiên đường kém xa
Ấy là quê chốn Ta Bà
Chung vui sum họp một nhà hư không.
-
11. BIẾT – HAY BIẾT
11. BIẾT – HAY BIẾT
Không chỉ Biết một mà Biết cả hai
Biết trái, Biết phải
Biết trong, Biết ngoài
Biết thiện, Biết ác
Biết lợi, Biết hại
Biết trên, Biết dưới
Biết chơn, Biết vọng
Biết cả hai mặt. Biết trọn vẹn
Biết hổng hai Hay Biết. Biết
***
“Hay Biết”, ấy Biết thường hằng
Biết ăn Biết ngủ, Biết đằng kia đây
Biết thức, Biết dậy, Biết hay
Biết học, Biết hiểu, Biết rầy, Biết la
Có “Biết” mới biết có Ta
Có thành sinh hoạt có ra cuộc đời
Biết – Hay Biết khó diễn lời
Vì rằng nói nín chẳng rời Biết – Hay
BIẾT – HAY BIẾT nhiệm mầu thay !
Là nguồn năng lực xưa nay trường tồn
Biết là “nguồn sống” – Tinh hồn
Là TÂM là Tánh, mà khôn nên lời
Là “ sự thật” nhất trên đời
Như hư không thật muôn thời muôn nơi
BIẾT – HAY BIẾT thật tuyệt vời
Không hư, không hoại không dời đổi chi
Không sinh không diệt kia đây
Không già, không bệnh không đầy đọa ta
Không sầu khổ, không Tứ ma
Không phiền không não lìa xa ách nàn
Sống bằng HAY BIẾT NIẾT BÀN
Vậy mà hổng biết lẫn lầm si mê
Chấp vào “hiểu biết” một bề
“Khuếch trương cái Ngã” là về vô minh
Vô minh nên phải linh đinh
Đây là cái khổ chúng sinh sáu đường.
“Hiểu biết” “ Hay Biết” tỏ tường !
Lầm đây là khổ hãy thường xét soi.
“Hay Biết” không tính không suy
Không sinh “ vọng niệm” không suy không tìm
“Hiểu biết” suy tính liền liền
Niệm niệm nối tiếp liên chuyền rối tâm
“Hiểu biết” phải học phải tầm
Học thuộc mới biết mệt thần nhọc thân
Biết rồi hết biết chẳng cân
Lại thêm hiểu biết hay phân đây kìa
Đây phải, kia quấy chẻ chia
Có người có pháp có ta đủ điều
Sanh Tham bám dính chấp nhiều
Sân Si ngu muội thảy đều khổ thôi.
“Hiểu biết” là “giả” phải coi
Chớ bằng “Hiểu biết” mà toi công mình
“Hay Biết” như thật Thân hình
“Hiểu biết” như bóng hãy nhìn suốt coi
“Hay Biết” ánh sáng gương soi
“Hiểu biết” như bóng gương thôi, giả mà.
“Biết” trong “Hay Biết” thiệt Ta.
Là Trí chơn thật mở ra Niết Bàn
“Biết” trong “Hiểu biết” mộng vàng
Là trí giả dối mở đàng Vô Minh
Nhớ rằng: “Hiểu biết” có sinh
Là từ “ Hay Biết” mà hình thành ra
Có “Hay Biết” mới có va.
Nên va là thứ có mà thật không !
Chớ hy vọng chớ trông mong
Tựa nương “Hiểu biết” mà trông Niết bàn !
Hãy im thôi ! Chớ lằng nhằng
Dẹp đi văn tự nói năng rườm rà
Uát!
“Biết” hay không vậy cà ?
-
12. SỐNG SAO TU VẬY
12. SỐNG SAO TU VẬY
Sinh ra sao và sống thế nào
Hãy y như thế mà tu mà sống.
Cứ như thế và cứ như thế.
Sinh ra trong Không, sống như Không
Đi lại trong Không, sống như Không
Nói nín trong Không, sống như Không.
Suy nghĩ làm đầu mình trong Không
Hãy sống như Không, sống như Không.
Đã sống trong Không, như không sống
Đừng quên Không, nhớ sống cùng Không
Không trong đầu, và Không trong bụng
Không bên mình, và Không khắp cả mình
Không trùm tất cả, sống bằng Không
SỐNG BẰNG KHÔNG, mênh mông mênh mông
KHÔNG và ! Và
-
13. PHẬT – MA – TA
13. PHẬT – MA – TA
Anh là Phật hay là Ma
- Là Ma sao Đức Thích Ca dạy rằng :
Chúng sanh Tánh “Phật” thường hằng
- Là Phật sao lại như chằn giết nhau
Giết nhau gây chốn khổ đau,
Người – Mình đều khổ vậy đâu Thiên đàng ?
Ma – Phật cũng một anh làm
- Làm hung làm dữ ấy nhằm đường Ma
Thành Ma thì khổ hét la
Lộn mồng sanh tử la đà tử sanh
Ở trong sanh tử giựt giành
Lăn qua lộn lại cũng anh khác gì
- Làm hiền lánh dữ nhớ ghi
Tức đi đường Phật tức thì thoát ra
Thoát Ma về Phật không xa
“ Mê” ấy chính thật mà Ma đó mà
“Giác” là Phật Tánh hiện ra
“Phật” “Ma”, “Ma” “Phật” cũng là một Ta
“Mê” là lầm Tánh đang là
Là “Anh chân thật” là “Ta” thiệt là !
Cái “Ta chơn thiệt” vậy mà,
Không hay không biết gọi là “ Vô minh”
Vô minh nên có chúng sinh
Có rồi thì khổ linh đinh sáu đàng.
“Giác” là rõ Tánh thường hằng
Hay ra rằng “ Tánh Không” đang hiện bày
“TÁNH KHÔNG” rỗng lặng diệu thay
Vắng lặng bằn bặt trong ngoài suốt trong
Lặng trong – Trong lặng mênh mông
Hông người - hông vật TÁNH KHÔNG rộng trùm
LẶNG TRONG tỏa khắp hông cùng
Bất động bất biến vô chung sáng ngời
Đó là chỗ dứt TA – NGƯỜI
Không Nhơn, không Ngã, không Trời đất chi,
Chúng sanh, Thọ giả không gì.
Chúng sanh biến mất, một thì cũng thôi
Hết NGÃ, hết Ta, hết Đây
Hết NHƠN, Kia hết thì Người cũng không
CHÚNG SANH các thứ cùng hông
Vấn đề, sự kiện hết hòng đoanh vây
THỌ GIẢ, cảm giác biến bay
Không còn lưu trữ, buồn vui sạch làu
Thế là hết khổ hết đau
Thân Tâm nào nữa ? Biến đâu mất rồi !
Chấp Tâm (Ý) chấp cảnh đều thôi.
Còn đâu là chỗ cái “Tôi” vẫy vùng
Cái “ Tôi” diệt, Bản Ngã cùn
Ngã “mòn” Tôi sạch thì còn cái chi ?
Hêt ! Hết ! Hết ! Không còn gì !
Chỉ là TÂM Thể của thời hồng hoang.
Một TÂM RỖNG LẶNG THÊNH THANG
Đây là TÂM thật thường hằng bấy lâu
Được vậy gọi, tỏ ngộ sâu
Ấy là bật sáng đêm thâu hết rồi
Trời Huệ rực, Vô minh thôi
“Giác” bật “Tánh” tỏ “TÂM” rời cõi mê
Đây là phương lối trở về
Cái “ Ta chân thật” Bồ Đề quê hương
♠♠♠
Phật – Ma nên thấy tỏ tường
Hai đường hai lối nhưng nương một nền
Đường núi, đường biển dưới trên
Cùng nền Trái Đất hai bên một nền.
Chữ “ Thiện” chữ “Ác” viết tên
Cùng trên nền giấy trắng nên thế này.
Lại như chiếc lá sống đời
Sáng chua chiều chát chẳng rời lá đây
Thế nên phải khéo thấy vầy
Nhận ngay “ Tự Tánh” tỏ ngay “Thể Nền”
TÁNH – NỀN - không có hai bên
Dứt “hai”, bặt “ một” ấy lên Niết Bàn.
♠♠♠
Khéo là Phật Tánh rỡ ràng
Vụng thì Ma cõi hiện đàng khổ đau
“Mê” – Ma, “Giác” - Phật lẫn nhau
Cùng trong một Tánh mau mau nhận liền
Nào !
♠♠♠
Khéo là sao, vụng là sao ?
“ Khéo “ là bặt “Niệm” an mau chỗ này
“Vô sở trụ” ngay đây
“Buông” ! Buông tay vào thẳng – Này ! Vào đi !
Ô ! Ô ! A í a i !
………………..
Khi nào sống được chỗ này
“Phật” “Ma” tiêu láng “Ta” “Người” sạch đi
Thật rồi, dứt khổ, Từ bi
Tiêu dao tự tại độ người thong dong.
♠♠♠
Dè dặt chớ khá chấp Không
Lý thì biết đó nhưng lòng chẳng Không
Nặng oằn phiền não long đong
Coi chừng Ma dẫn vào vòng của Ma
Hãy niệm: Nam mô Phật Đà;
Ma ha Bát nhã Ba la mật đa…
-
14. TU VÀ MỘNG
14. TU VÀ MỘNG
Đêm nằm ngủ mớ đánh ma
Vật qua vật lại kêu la ớ ờ
Thấy rằng ma chạy có cờ
Tưởng mình hay lắm nào ngờ chiêm bao
Tỉnh ra nghe nhọc làm sao.
Bàn tay úp ngực tim đau mệt đừ
Ma đâu, ai giỏi, ai nhừ ?
Cũng mình thôi chớ nằm thừ ra đây.
Mở mắt rồi rõ việc này
Còn cho mình giỏi mình hay không nào ?!
Còn cho ma quỷ bôn đào
Là do mình đá nó nhào nó dông ?
- A ha ! Ma quỷ là không
Mỉm cười khép mắt, mộng hồng hiện ra
Ô là là ! Đức Phật Đà
Trang nghiêm thanh tịnh Ca Sa rạng ngời
Hào quang chiếu sáng khắp nơi
Đưa tay xoa đảnh ta thời tỉnh mê
Được Phật xoa đảnh hả hê
Rằng ta tài giỏi được về cõi trên
Được thành Phật được nêu tên
Mừng vui sụp lạy leo lên đài vàng
Ai ngờ bị vướng mùng màn
Chợt bừng con mắt ngỡ ngàng, mình mơ
Vậy mà cũng chút thẫn thờ
Nhìn quanh dường Phật còn chờ đâu đây
Thoảng nghe hương quyện đoanh vây
Nhỏm ngồi tìm kiếm mắt đầy hoa mơ
Eo ơi ! Thành Phật nãy giờ
Thì ra cũng mộng cũng mơ khác gì
Phật Ma đều mộng như y.
Chính thân này thật mình thì bỏ qua
Ngu a ! Ngu a ! Ngu mà !
Thân ta ! Thân Ta ! Thật ta thân này
Thôi đi ! Đứng dậy đi đi
Xếp mùng, xếp chiếu đắp y hành Thiền.
-
15. PHẬT PHÁP KHÔNG NHIỀU
15. PHẬT PHÁP KHÔNG NHIỀU
Nước cao tột đỉnh có mấy vua ?
- Xưa nước ngôi cao chỉ có một vua
Pháp siêu việt tột đỉnh có nhiều không ?
- Một pháp còn không, có đâu nhiều
Pháp siêu không một, hỏi nhiều chi
Pháp là bình đẳng đâu như nước
Có một, nhất cao đã bất bình
Bất bình nên nước mới tranh vua
Tranh vua, tranh đấu thành tranh chiến
Giặc giả tơi bời dân khổ đau.
Cả nước lầm than đời chật vật
Tổ quốc tan tành binh lửa thiêu
Vua cao một vị còn như thế
Huống nữa pháp nhiều, rối loạn sanh
Chớ ham pháp tột siêu nhiều thứ
“Phật pháp không nhiều” biết thế hay.
“Xưa nay không một vật” nhiều chi ?
Ích lợi gì đâu ít với nhiều.
Ít nhiều cao thấp sanh tranh chấp
Chấp tại lòng ta lại tranh người.
Chấp tranh, tranh chấp phá pháp thôi
Một Đạo tương tranh Pháp có hai
“Có hai” trái Đạo vào sao được !
Đạo thời vậy Đạo, Đạo nhất như
Không hai, không một khả dĩ vào
Pháp hai, pháp một thôi đi pháp
“Một cũng không” rồi có pháp nào ?
Thôi thôi ! Một pháp còn không có
Có chi nhiều ít siêu với cao.
Pháp Phật là Pháp làm sao ?
Nói siêu nói thấp nói cao nói mầu
Dù cho có chục cái đầu
Với mười cái miệng cũng đâu nên lời.
-
16. LUÔN THẤY LỖI MÌNH
16. LUÔN THẤY LỖI MÌNH
Tu là sửa, sửa lỗi lầm
Lỗi mình nhiều lắm, phải tầm cho ra
Tầm ra sửa lỗi cho ta
Sửa từ lỗi lớn cùng là lỗi con
Lỗi từ vô thỉ tạo còn
Cộng thêm lỗi mới, giũa mòn mới nên.
Tu hành thấy lỗi là trên
Lỗi to lớn nhất là quên “ TÂM” mình
Đã quên từ thưở sơ sinh
Từ bao đời kiếp vô minh nhận lầm
Cái TÂM chơn thật mà nhầm
Chấp Tâm vọng giả để làm ra ta.
Lầm này lầm lớn đây a !
Phải lo giải quyết hay ra lầm này
Lầm đây nên hiểu như vầy:
Vàng thật không nhận, vàng xi nhận vào
Bóng trăng trong nước chụp nhào
Cho là trăng thật ước ao thuở nào
Soi gương thấy bóng hồng hào
Say bóng quên mình đau đáu bóng gương
Lòng sanh mến, ý sanh thương
Bị gương trói chặt, vì vương bóng mình.
Chụp trăng bóng nước chìm sình
Vàng xi tưởng thật nên tình lý gian
Tất cả đều bị lầm than
Chỉ vì lầm lỗi “giả” “chân” không rành
Lầm Tâm cũng thế mà thành
Không phân chơn, giả nên đành khổ đau
Lo tu sửa lỗi này mau
Quên “TÂM Bản Thể” khổ sâu nhất đời.
TÂM này quý nhất đất trời
Hay ra TÂM thể ta thời mới an
Nếu không đời cứ lầm than
Lầm Tâm lỗi lớn lan tràn lỗi con
Lỗi, lỗi, lỗi nặng như non
Khổ sao chịu nổi như con khỉ già
Khỉ già khỉ đá ngày xưa
Bị Ngài Phật Tổ đưa tay úp đè
Đói khát mồm lưỡi thè lè
Cũng vì lỗi lỗi say mê bóng mình
Ấy là cũng bởi vọng tình
Sanh tham, chấp trước vọng sinh trùng trùng.
Vọng nghiệp đầy cả không trung
Tham Sân Si Mạn Nghi… cùng nổi lên
Tất cả dấy động lung tung
Làm cho điên đảo, phát khùng đảo điên
Quậy trời quậy đất liên miên
Muốn làm Thượng đế muốn lên Ngọc hoàng
Lỗi này lỗi biết cơ man
Lầm Tâm nên lỗi vượt ngang đất trời
Rõ rồi Ta phải thức thời
“VỌNG SANH” là lỗi kịp thời nhận ra
VỌNG là lỗi lớn đây nha !
TÂM CHƠN chưa hiện thì là VỌNG sanh
Tâm vọng nó thật khôn lanh
Nó hay tráo trở biến hành tứ tung
Cải trang đội lốt tớ trung
Thừa cơ quậy phá hành hung chủ Thầy
Nó như khỉ vượn cáo cầy
Lỗi lầm ấp lút mà rầy được đâu !
Rầy chưa được phải niềng đầu
Nó đâu ta nó mặc dầu ở nao
Dù cho sự thể thế nào
Ta đây lòng quyết phải cao tay đòn
Đánh nó đau tấm lòng son
Nhưng mà phải đánh những con cáo già
Không thì nó sẽ đốt nhà
Tan tành sự nghiệp ta ra nghèo nàn
“BIẾT” NIỆM là vọng rõ ràng
Niệm sinh liền Biết chẳng màng Niệm chi
Niệm Thiện niệm Ác niệm gì
Cũng đều là vọng giả thì chớ theo
Không theo, vọng niệm chết queo
Còn cái “biết” vọng chớ neo giữ hoài
Xả “Biết” mới xóa “có hai”
Ấy là cơ hội TÂM khai mở lòng
Pháp môn “bất nhị” khai thông
Giờ đây là Ngộ Tánh Không rõ nguồn
Nguồn TÂM ta giữ luôn luôn
Sống đời gắn bó TÂM tuôn Trí mầu.
Càng ngày Trí Huệ càng sâu
Lỗi dù nhỏ nhặt rõ đâu đó liền
Bây giờ thôi hết đảo điên
Tham Sân chấp Ngã Trí thiền xóa tan
Vô minh Si ám tiêu tàn
Nhướng lên đã thấy Tam thiên rõ ràng
Thứ nào thứ nấy đàng hoàng
Vọng Ma vọng Phật chẳng ràng được sao !
Độ Ma, đường Phật chóng vào
Chóng thành Chánh Giác ma nào nữa đâu
Nhờ luôn biết lỗi biết sâu
Giờ đây cái Biết nhiệm mầu “Linh Tri”
Mới hay biết lỗi thị phi
Lỗi Nhân lỗi Ngã lỗi ghi lỗi người
Lỗi chấp ta, lỗi khinh khi
Là căn bản để thực thi “Biết mầu”
“Biết mầu”, Tánh Biết không sầu
“Rỗng rang Thường Biết” Trí Mâu Ni mà
Mâu Ni – Tịnh Mặc Phật đà
Là Trí Phật đấy cũng là Trí TÂM
Trí TÂM chiếu sáng thậm thâm
Chiếu tan sầu khổ chơn TÂM tỏ bày
Lỗi lầm được hết từ rày
Vô minh hổng cẳng, Si nay cũng tàn
Giờ đây hát khúc tình tang
Vui chân rảo bước lên đàng tiêu dao.
-
17. SỐNG TU
17. SỐNG TU
Sống tu chớ biết chuyện người
Biết thêm phiền phức ích chi tu hiền
Nếu người quyết chí hành Thiền
Thôi đi việc nhỏ to liền thông qua
Phải quấy người, chớ nói ra
Diệt đi tật xấu sâu xa của mình
Xấu tốt là chuyện thường tình
Cần gì phải biết xem nhìn làm chi
Chuyện đời trong đục thị phi
Là chuyện nghiệp chướng ta thì chớ vương
Vương chi rước lấy sầu thương
Chuốc thêm phiền não nghẽn đường tiến tu.
Khi tu nhớ giữ công phu
Nhớ lo trì pháp chớ ngu nhớ người
Đường tu không nghĩ Thánh Trời
Thành Tiên thành Phật, thành người thường thôi.
“Người không phiền não” đủ rồi
Đây xem như chuẩn sống đời sống Tu.
♠♠♠
“Người không phiền não” không thù
Không thương không ghét không rù quến ai
Đời thường cứ sống lai rai
Ăn cơm mặc áo chẳng phai màu Thiền
Dung nghi lòng dạ luôn hiền
TÂM bình Trí sáng hiện tiền uy quang
Không chen không lấn đàng hoàng
Bước trâu, nhìn cọp thẳng hàng ngó ngay
Không xiên không xẹo kia đây
Người đâu TÂM đó TÂM xoay Người quày
TÂM – Người xoắn lấy đoanh vây
Chỉ TÂM người đấy không ai khác vào
Suốt ngày phải vậy chớ xao
Một mình mình sống quyện nhau với mình
Cô độc, cô đơn, cô tình
Độc cô, độc chiếc, bình sinh độc hình
Cô đơn dấn bước đăng trình
Thênh thang đường cái một mình mình đi
♠♠♠
“ Cô đơn” phải nhớ khắc ghi
Quyết không lôi kéo ai đi theo mình
Người tốt người xấu sá chi
Người hung người dữ hiền gì cũng thây
Nhớ ! Nhớ ! Chớ có lây nhây
Lằng nhằng dính líu vướng giầy vướng chân
Người xấu kẻ tốt quả nhân
Có “luật nhân quả” cân phân hết rồi
Khỏi bận chi họ lôi thôi
“Nhân nào Quả nấy” luân hồi trả vay
Rõ ràng không trật mảy may
Ấy “luật cuộc sống” chẳng sai chút nào
“Bụng làm dạ chịu” chớ sao !
Nghiệp nhân, nghiệp báo Nghiệp nào Báo y
Thế nên chẳng phải “bận” chi.
♠♠♠
“Người không phiền não” nhớ ghi
“Người thường” chỉ vậy không chi phi thường
Không địa vị không gá nương
“Đối nhân xử thế” lòng thương tràn trề
Thương người thương chỉ một bề
Không có cái “ghét” chen kề nằm bên
Lòng thương thuần khiết làm trên
Và thương bình đẳng không quên người nào
Người Thiện người Ác ra sao
Tốt xấu thế nào cũng vẫn thương thôi
Thương không điều kiện không “Tôi”
“Không vì Tôi” tôi quyết thương người
Tình thương “vô nhiễm” khơi khơi
Là Tình không “cảm” không rơi chấp tình
Tình thương lặng mất cái “Mình”
Không gây ai khổ không sinh ai buồn
Đức “HY SINH” khắc dạ luôn
Hy sinh của cải lợi buông xả quyền
Hy sinh thân mạng chư duyên
Hy sinh rốt ráo Tâm nguyền thực thi
***
Sống Tu, “sống đẹp” nhớ ghi
“TÂM bình thường là Đạo” cầu chi diệu huyền
Ngay đây đời sống muôn duyên
Tiếp duyên bằng sống “lặng yên” hành Thiền
-
18. NGƯỜI BÌNH THƯỜNG
18. NGƯỜI BÌNH THƯỜNG
Hãy là người bình thường!
- Chưa bình thường,
Hãy bình thường.
Bình thương ăn ở như thường
Bình thường sinh hoạt bình thường thường.
***
Bởi bình thường lắm bất thường
Ăn ở sinh hoạt đều trong bất thường
Bất thường vì chẳng tỏ tường
Không lường vọng tưởng vô thường sống theo
“Vô thường” tâm ấy gieo neo
Nên theo là khổ, khổ đeo nên khùng
Khùng lên đầu óc lùng tung
Giả thấy là thiệt, ác hung cho hiền
Đảo điên – điên đảo - đảo điên
Lùng tung lúng túng, quàng xiên vô chừng
Trở thành cuộc sống lừng khừng
Không hay không biết chưa từng Giác Tri
Sống bằng Niệm khởi ích gì ?
Chỉ vì Niệm dấy mờ đi Trí rồi
“Niệm” là giả vọng ấy thôi
Lại lôi làm giống làm tôi làm mình
Thế nên thân phận điêu linh
Sống theo vọng niệm là sinh “Bất thường”
Bất thường vì mất Chơn thường
Mãi lo sống với “vô thường” diệt sinh
Sống Vô thường dấy Tử sinh
Sinh Tử là khổ linh đinh sáu đường
Ấy là cuộc sống bất thường
Nếu hay giác ngộ Chơn Thường ở ta
“Chơn Thường” mới thật là Ta
Chơn thường khi đã nhận ra – bình thường
Chơn Thường không có vô thường
Không sinh không diệt không đường tử sinh
Nên không còn phải điêu linh
Chơn thường là Tánh chính mình bấy nay
Tiếc rằng chẳng mấy người hay
Vô thường chấp lấy sống ngày sống đêm
Uổng thay đánh mất êm đềm !
Trong khi Tánh thật một bên không tường !
Tánh thật vốn thật hằng thường
Thường luôn tỏ suốt thường thường suốt trong
Suốt trong lòng rỗng như không
Hổng có sinh niệm niệm hông có nào
Tham Sân Si chẳng dấy vào
Chẳng nhơ chẳng sạch làu làu lặng trong
Thường thường xuyên suốt rỗng không
Từ đây mà sống thì hông bất thường
Ấy là đời sống Chơn thường
Chơn thường ấy chính “bình thường” đó thôi
Bình thường mà sống chính tôi
Cái Tôi chân thật sống đời thật chơn
Bình thường ! Bình thường là hơn
Bình thường sống được là nhơn Niết Bàn
Ta nay muốn được thanh nhàn
“Bình thường” mà sống Đạo vàng kiếm chi
Đói ăn mệt lại ngủ khì
Ăn no ngủ khỏe tức thì nở da
Ấy Phật Di Lặc sinh ra
Lục Căn Trần Thức tiêu ma giữa đời
Chỉ còn có việc rong chơi
Vai lên túi vải gậy tay lên đường
Miệng luôn toe toét “phi thường”
Tụ năm tụ bảy hát xương minh “Thường”
- Bình thường ! A ! Í ! Bình thường !
***
-
19. TẬP TRUNG
19. TẬP TRUNG
Tu nào có phải tập trung !
Gom Tâm thâu Ý nhìn trừng một nơi
Cột Tâm châm hẫm không lơi
Trợn trừng chòng chọc bặt lời nghiến răng
Ghì Tâm bám pháp cố chăn
Tưởng rằng như vậy là ăn chắc rồi
Trâu nào còn dám lôi thôi,
Dám ăn lúa mạ dám lôi vạ vào !
Ngỡ mình tinh tấn tu cao
Nào ngờ tu trật, chỉ tào lao thôi
Dòm lại, tôi tự trói tôi
Càng ra công gắt càng còi cói thêm
Người tôi thu nhỏ hơn lên
Tôi teo vì xiết, tôi rên khổ thầm
Tu hoài sao vẫn khổ tâm
Buộc ràng ràng buộc càng thâm càng dầy…
May thay nhờ có lời Thầy
Chỉ cho mới thấy tu vầy là sai
Thầy rằng tu phải “không hai”
Không mình không pháp, không ai không gì
Thênh thang TÂM chẳng thị phi
Thị phi là bóng, TÂM thì rỗng không
Khi Tu phải tỏ phải thông
Rõ ràng TÂM thể ra công không hoài
Rõ TÂM tu mới hông sai
Không rõ TÂM hành, quả bay lối tà
Cất nhà phải thấy lăn (plant) nhà
Không thấy mà cất, cất ra cái gì ?
Cố cất thành cái quái chi
Chuồng bò không phải, nhà chòi cũng không !
Ra công rồi lại uổng công
Tu Tâm phải rõ “TÂM KHÔNG” mới là
Rõ TÂM trải khắp Ta bà
Lớn to khắp giáp hà sa cõi miền
Thế nên chớ có khùng điên
“Tập trung về một vọng liền hết sanh”
Đây là mắc chứng thông manh
Mù tối không rành thực giả là chi
Thân không rõ, chữa bệnh gì !
Đau đâu chặt đó quăng đi bỏ liền
Đau đâu cắt bỏ triền miên
Đây là trị bệnh lối điên rõ ràng
Bệnh không hết Thân hoại tàn
Người Tỉnh trị bệnh rõ Thân đàng hoàng
Bệnh đâu Thân đó rõ ràng
Nương Thân trị bệnh, bệnh nhân ấy mình
Bịnh là giả huyễn nên hình
Xem tuồng như có thật tình thì không
Từ Thân nhìn bịnh, bịnh hông
Người Tỉnh trị bệnh như không trị gì
Tôi sực tỉnh hết hồ nghi
Không còn nghi Pháp tôi thì xả buông
Một buông hai xả buông luôn
Xả Tâm chấp Pháp, hết chôn chính mình.
-
20. SỌ NGƯỜI THẬP CHÉO
20. SỌ NGƯỜI THẬP CHÉO
Bàn tay Phật Tổ mênh mông
Tề Thiên Đại Thánh nhảy không qua Ngài
Thần thông dẫu có đại tài
Cũng không qua được Như Lai Phật đà
Hư không có tận đầu là !
Chớ đừng tưởng bở họa ra Ngũ Hành
Năm non đè xác suýt tàn
Ngộ “Không” quy Phật, Pháp, Tăng thoát nàn
***
Thuở xưa khỉ đá làm tàng
Sợ chết, được phép dọc ngang vẫy vùng
Vào biển cả quậy Long cung
Vua rồng khiếp vía bàn cùng anh em
Đem dâng thiết bảng mới êm
Lại vào Địa ngục quậy thêm Diêm đình
Diêm la điện phải rung rinh
Diêm vương chạy tét quỷ binh chạy dài
Ỷ tài nhảy xổ lên ngai
Xem sanh tử số xé ngay giống hầu
Hầu vương khoái chí lầu bầu
Nhảy về Hoa quả động “Hầu” tàng ngang
Rượu vừa say xỉn mơ màng
Muốn quậy Thiên đàng muốn chiếm Thiên cung
Lòng khỉ quậy phá vô cùng
Bèn trương cờ hiệu trước hùng quân ma
TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH là Ta
“Thánh bự tày Trời” ấy là lão đây
Lão Tôn: Này hỡi lũ bây
Linh Tiêu đại điện ta thay Ngọc Hoàng
Phải làm Thượng đế chống chầy
Ngọc Hoàng hay được việc này nổi xung
Tên nào vọng tưởng điên khùng
Xưa nay ai dám nổi hung bao giờ
Ngọc Hoàng tập họp bất ngờ
Thiên Thần Thiên Tướng phất cờ diệt mau
Kim Tinh Thái Bạch thưa vào
Không nên dùng sức làm hao quân mình
Thượng đế truyền chỉ Kim Tinh
Hãy sớm xuống thế điều đình xem sao
Kim Tinh đến trước cờ đào
Đúng là ma quỷ lao chao khọt khè
Khỉ bầy khỉ đống lè nhè
Đầu trâu ma chúa ngồi kè Hầu vương
Quỷ ma sắp giở tai ương
Kim Tinh vui vẻ bước dường như không
Thái Bạch dụ khỉ thành công
Hầu Vương nhận chức Mã Ôn lên Trời
Bậc Mã Ôn giữ ngựa chơi
Trộm đào Vương Mẫu phá thời hội Tiên
Ở lâu chẳng được “Tề Thiên”
Buồn lòng sẵn rượu uống liền mấy lu
Lại còn đá đổ lu bu
Xách luôn mấy tỉnh bay vù về non
Khỉ con khỉ cháu véo von
Mừng vui Đại Thánh rượu ngon đãi liền
***
Trên Trời Thượng đế Chư Thiên
Hội Tiên bị phá tức liền hành quân
Thiên binh Thiên Tướng xuống trần
Đập ngay Hoa quả Thiên thần ra tay
“Đại Thánh” trong lúc cơn say
Vung tay thiết bảng chuyển lay đất trời
Thiên binh Thiên Tướng ới ời !
Chới với binh Trời khó chắc thành công
Mới hay Đại Thánh thần thông
Đánh nhau bao trận chưa xong trận nào
Trần nào Đại Thánh cũng nhào
Biến muôn hình dạng dễ nào bắt đâu
Dương Tiễn ví đánh không nao
Cả Trời xúm đánh không sao bắt hàng
Thiên la Địa võng lấp đàng
Không cho trốn chạy hốc hang chốn nào
Cuối cùng Bắc cực dự vào
Bửu bối quăng nhào Đại Thánh lăn quay
Hạo thiên khuyển táp cắn ngay
Dương Tiễn liên tay chụp cổ trói xiềng
Hầu Vương chịu phép dây tiên
Khiêng về thượng giới “chỉ” liền khảo tra
Chém chặt chẳng tróc được da
Không sao giết được bỏ va vô nồi
Nồi Bát quái ụt ụt sôi
Khỉ già trong ấy khỉ ngồi hướng Nam
Không lửa, khói lam nham
Làm thành mắt lửa tròng vàng sáng thêm
Trải bốn mươi chín ngày đêm
Lão quân Thái Thượng nghe êm tưởng nhừ
Mở nắp xem rõ thực hư
Nào ngờ nắp hé khỉ: “hừ!” đá tung
Lửa nồi củi lửa nắp vung
Văng tung bay khắp không trung xuống trần
Lão quân Thái Thượng mất thần
Quả yêu tinh khỉ trần hoàn không hai.
Bát quái đành chịu bó tay.
Khỉ ta tức khí hăng say đánh nhầu
Thiết bảng vũ lộng thần sầu
Thiên Thần, Thiên Tướng ôm đầu chạy lui
Hầu Vương trổ hết thần uy
Tiến vào phá điện Thiên Ty đập bừa
Linh Tiêu, Thượng Đế chạy dài
Thần Tiên tán quáng cũng ùa chạy theo
Thiên đình hết phép, khỉ leo
Quan Âm Nam Hải bay vào viện binh
Kịp thời Bồ Tát độ sinh
Cầm chân khỉ được, nhưng mình thì chưa
Khỉ già đầu lắc mỏ đưa
Đòi làm Thượng đế mới vừa lòng y
Quan Âm hứa sẽ thực thi
Làm mưu chậm lại để đi cầu Thầy
Phật thầy ở tận phương Tây
Là đức Phật tổ Như Lai ta bà
Để cứu Trời đất Phật qua
Ngồi tòa sen báu Phật đà hiện thân
Hầu vương máu nóng rần rần
Đón đầu Phật tổ đến gần nói ngay:
-“Này ông đức Phật Như Lai”
“Bảo ông Thượng đế nhường ngôi ta ngồi”
“Thượng đế làm vua lâu rồi”
“Nhường ta thì phải lẽ thôi, đúng rồi !”
Phật đà tươi tỉnh mỉm cười:
“Khỉ già láo táo giỏi thì thử đi”.
“Nay ta mở một cuộc thi”.
“Nếu ngươi thắng cuộc ta thì thuận ngay”
“Bảo ông Thượng đế nhường ngai”
“Ngươi mà nhảy khỏi bàn tay ta này”
“Nhảy qua là thắng, được ngai.”
Khỉ già cào mặt cào tai khoái lòng
“Tưởng gì, ta chắc thành công”
“Nhớ đừng có dối, ta không chịu nào”
“Tài ta ông hổng biết sao”
“Đằng vân giá võ thứ nào cũng thông”
“ ‘Cân đẩu vân’ nghề lão Tôn”
“Co chân một cái mười muôn tám ngàn”
“Đừng rườm tay hãy xòe nào”
“Bàn tay ông có ra sao mà hòng”
Tay Phật ngửa rỗng trắng trong
Khỉ già co cẳng lộn lồng trong không
Cân đẩu vân quả thần thông
Chư Thiên lóa mắt dòm không thấy gì
Thần thông khỉ đá ly kỳ
Ngọc Hoàng khiếp vía tim đi lộn vòng
Sợ rằng ngai bị tiêu vong
Về tay con khỉ hết mong ngồi vào
Quan Âm Bồ Tát lòng nao
Chưa biết thế nào khỉ giỏi thần thông !
Phật đà tươi tắn như không
Tay bung bung mãi rỗng không tràn đầy
Hư không đầy ắp bàn tay
Khỉ ta nhảy mãi dừng ngay cột đồng
Cho đây bờ mé hư không
Nhổ lông viết cột “Lão Tôn tới này”
Lại còn tiểu bậy ở đây
Làm dấu vì ngại Phật hay dối lừa
Thế rồi khỉ lại nhảy “dìa”
Ở trước Phật tổ tía lia chu mồm:
“Phật à! Ta đã tận vòm”
“Qua tay rồi đó ông nom coi nào”
“Giờ ông, ông nói làm sao?!”
“Mau bảo Ngọc Đế nhường mau ngai vàng.”
Phật đà nghiêm mặt mà rằng:
“Này con khỉ láo ngươi “đằng” tới đâu !”
“Đằng vân mi chỉ tới đây.”
Khỉ ta nhìn lại bàn tay Phật đà
“Rõ ràng những chữ viết ra”
“Cùng là bọt tiểu chính ta làm mà !”
“Ai da ! đây ngón thứ ba”
“Lưng chừng hơn nửa đâu ra khỏi bàn”
Buồn lòng đầu ngẩng mồm than
Phật đà liền úp tay vàng đè ngay
Ngũ Hành sơn biến từ tay
Nhốt khỉ Đại Thánh đêm ngày ở trong
Hầu vương bị nhốt mới xong
Mới yên trời đất mới không còn phiền
***
Khi tu phải nhớ Tề Thiên
Dù cho đã đến đã nên “được” rồi
“Sở chứng” “Sở đắc” hãy thôi
Dứt bặt cảnh giới hết “Tôi” chứng thành.
-
21. ĐỐI NHÂN XỬ THẾ
21. ĐỐI NHÂN XỬ THẾ
Vì chúng sanh phấn phát Đạo TÂM
Vì chúng sanh lên đường hành Đạo
Vì chúng sanh gắng trọn đường Tu
"Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ"
Đã vì chúng sanh, vì chúng sanh
Thì phải nhớ tưởng thương muôn loài
Đối đời xử tốt nhớ luôn luôn
Tính "Nhân bản" mình luôn thực hành
Tính "Chúng sanh bản" cũng luôn gìn
Đối nhân xử vật phải chí tình
Tôn trọng sự sống là trên hết
Kính thương người vật thảy sinh linh
Chớ hại người chớ giết chúng sinh
Chớ làm người khổ, người sanh não
Với người trọng kính làm trên hết
Người già người trẻ đều trân quý
Kẻ Nam kẻ Nữ thảy trọng vì
Đối người cụ thể gìn giới luật
Dè dặt oai nghi của thân mình
***
Đối Nhân xử Thế là việc khó.
Người xưa đã thốt lời xác chân:
"Nhân vi nan! Nhân vi nan!"
Ấy: Làm người khó! Làm người khó!
Và: "Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê"
Nhưng ta không phải "lấy lòng" người
Mà chỉ giữ gìn phận ta thôi
Phận ta là phận người hành Đạo
Thì phải sao cho trọn việc mình
Việc mình là "việc chúng sinh" ấy
"Xử tốt" với người chính việc ta
"Vừa lòng" vừa dạ ấy việc người
Ta lo làm trọn việc ta thôi
Việc ta xử tốt, làm bạn tốt
Quyết lòng không hại, không gây khổ
Dù người có muốn ta làm khổ
Năn nỉ khẩn cầu ta cũng không
Không gây khổ hại lại còn cứu khổ
Giúp người thoát khỏi cảnh mê lầm
Việc này việc tốt trên tất cả
Qua mê người sẽ không còn khổ
Nếu duyên chưa đủ tốt như đây
Tạm thời giúp được gì thì giúp
Giúp cơm áo bạc tiền vật chất
Giúp công sức, giúp ý giúp lời
Giúp qua hoạn nạn qua cảnh khổ
Giúp đỡ an bình, sợ hãi thôi
Giúp người bằng cả lòng chơn thật
Không chút quanh co không hậu ý
Giúp người như thể giúp ta thôi
Giúp người bằng tấm lòng trong sáng
Không vụ lợi không đòi điều kiện
Thấy người phải giúp, giúp vậy thôi.
***
Lòng ta tốt nhưng người không tốt
Người hại ta, người làm ta khổ
Nếu chưa hay thì chịu khổ đau
Nhưng nhất định không thù không hận
Không ghét hờn tức giận hung hăng
Không trả đũa không mưu không kế
Không ôm sầu, ôm não tủi lòng
Đừng phẫn chán thốt lời cay đắng:
"Làm người thì khó, làm chó thì dễ"
Hay: "Kiếp sau xin chớ làm người
Làm chi cũng được, hổng làm người"
Nhưng có buồn thì ta cứ khóc
Khóc một chút rồi thôi hãy nín
Dòng nước mắt chảy, lòng ta lặng
Khóc cho qua để biết tình đời
Biết rồi thôi, mỉm cười cho ta.
Vì ta, ta có tấm thân này
Mới làm cái đích cho người bắn
Nếu không thân người có làm gì
Ấy cái lỗi cũng là tại ta.
Tại Thân ta có sanh ra đời
Thì thôi! Chớ trách hờn làm chi
"Có thân phải khổ vì thân" thôi
Hãy cười lần nữa với ta đi
Và lắc đầu cười mỉm mà trừ
***
Biết mình còn dở ráng tu thêm
Ráng làm thêm tốt, làm thêm đẹp
Hy sinh thân phận với đời đi
Người ấy mình, mình ấy người thôi
Mình hại người, ấy chính hại mình
Mình tốt với người, ấy tốt mình
Ai chê mình dại mình ngu chi
Cũng chịu nhận có sao đâu nào.
Mình từ bụng mẹ nhớp nhơ ra
Thì thêm nhơ nhớp có sao mà!
Ai đem đổ cứt trên đầu ta
Ta đây một bụng thêm một bãi
Có chi là lạ, có chi dơ
Thân ta đồ giả có rồi không
Ráng tỉnh mà nhìn cái thật ta
Nhìn ra cái thật ở ta rồi
Thì cái Thật Ta chẳng có dơ
Chẳng ngu, chẳng dại, chẳng khôn gì
Cái Thật nơi ta vắng lặng không
Phủ trùm pháp giới trùm thiên hạ
Thế nên cái Thật phủ Ta Người
Thì Người cũng thật cũng như Ta
Cái Thật ở Người khác Ta nào
Thương thay người chẳng cùng hay biết
Mãi bằng cái giả sống làm Ta
Thương người có báu chẳng biết hay
Tội thay! Mù quáng phải linh đinh
Vì thương thân phận người quá đỗi
Lòng nào chuốc giận chuốc hờn chi
Chỉ tìm phương tiện khơi kho báu
Để giúp cho người hết khổ đau
Nhớ lời Phật dạy trong kinh điển
Rằng: "Chúng sanh giai hữu Phật Tánh"
Là chúng sanh đều có Tánh Phật
Và: "Ta là Phật đã thành xong
Các ngươi là Phật sẽ thành sau"
Ôi! Lời tha thiết biết là bao
Lời vàng chân thật biết chừng nào
Lời bằng Trí huệ Mâu Ni đó
Bằng ánh nhìn chan chứa Từ Bi
Bằng cõi lòng đùm bọc chúng sinh
Bằng ngón tay Đâu la miên điểm
Chỉ bày báu vật ở chúng sanh
Với lời dạy cao siêu chân xác
Ta lòng nào thù hại người đây
Ta lòng nào gây não chúng sanh!
Chỉ cảm thông khi người mù tối
Không nhận ra kho báu chính mình
Chỉ thương thôi khi Người nghèo khổ
Không biết mình châu ngọc đầy nhà
Bần cùng sanh oán sanh phiền não
Sanh ác sanh hung cũng phải thôi!
Ta hãy nên thương và tội nghiệp
Rõ người thế, người sẽ là Phật
Vì rằng người "Phật Tánh" sẵn rồi
Nên hổng lòng khinh khi miệt thị
Chỉ một bề trân trọng mà thôi
Chỉ một bề kính quý thân thương
Nguyền là bạn, bạn thân, bạn tốt
Để chỉ dùm kho báu ở Người.
Khi Tu nhớ đối xử đời
Trong tình huynh đệ tình người, Tình Thân
"Tình thương xóa bỏ hận thù"
Ghi lòng khắc dạ quyết tu hạnh này
Hạnh này là hạnh khó đây
Nhưng dù có khó cũng vầy mà tu
Trên đường hành Đạo công phu
Không Tu như thế thì Tu cái gì?
-
22. TÙY HỶ
22. TÙY HỶ
Sống tu "Tùy Hỷ" làm vui
Người làm việc Thiện được thì mình vui
Vui theo thành quả của người
Nên rồi mình sống chỉ cười vui thôi
Niềm vui sâu sắc nhất đời
Là vui chư Phật đã vì độ sanh
Tạo bao công đức cực lành
Kế vui Bồ Tát tu hành ra công
Trải bao công hạnh mênh mông
Cũng vì độ chúng độ không mỏi nhàm
Tình thương trải khắp Thánh phàm
Chỉ mong độ tận, gian nan không phiền
Bồ Tát không nguyện lo riêng
Mà chung tất cả lại siêng độ hoài
Nguyện không thành Phật lên ngai
Nếu chưa độ hết chúng lai Niết bàn
Bồ Tát một tấm lòng vàng
Đáng nên tùy hỷ muôn ngàn hỷ hoan
Cùng là các bậc Thánh Tăng
Các Ngài liễu ngộ huyền thâm Đạo mầu
Tu hành giải thoát cao sâu
Xả ly Tam giới chỉ cầu Phật thôi
Việc lành các vị nhứt đời
Phải nên tùy hỷ vui thời học theo
Nào là các bực Tỳ kheo
Bỏ đời theo Đạo chịu nghèo mà tu
Làm Tăng khất sĩ chu du
Xin cơm đàn việt, công phu pháp lành
Một lòng phá Ác tu hành
Bố ma ruồng quỷ, quyết thành Chánh Chơn
Tăng Ni Khất sĩ thiện nhơn
Bỏ Ác hành Thiện rất hơn trong đời
Nên hay tùy hỷ vui thời
Thiện Nam Tín Nữ những người tín Tâm
Một lòng phụng Đạo chuyên chăm
Hộ trì Tam Bảo năm năm tháng ngày
Với lòng Từ Thiện vui say
Cầu mong Pháp Phật nay mai hãy còn
Họ đều một tấm lòng son
Hãy nên tùy hỷ vui tròn, tròn vui
Hàng hàng lớp lớp người người
Ai làm được Thiện ta thời vui thôi
Kể cả kẻ Ác trong đời
Nếu được một Thiện ta thời cũng vui
Việc Thiện dù nhỏ lớn chi
Hễ là điều Thiện Hỷ Tùy vui theo
Chúng sanh tất cả trong đời
Tất cả giống loại Người, Trời, Súc sanh…
Hễ làm có được pháp lành
Thì ta bất kể Hỷ hành vui theo
Tùy hỷ trang sức luôn đeo
Để trừ ngã mạn mình gieo thuở nào
"Ta đây" tài giỏi biết bao
"Thiên tài vô thượng" không sao ai bằng
"Cống cao ngã mạn" hung hăng…
Bao nhiêu thứ chấp nhằm tăng Ngã mình
Chấp Ngã nên đã điêu linh
Tu rồi thì phải đừng sinh những này
Để trừ phụ bớt lỗi đây
Thì hành "Tùy Hỷ" như vầy thật hay
***
Ngoài ra cuộc sống thường ngày
Thấy ai làm được việc gì cũng vui
Việc dù chẳng dính Đạo chi
Việc đời danh lợi mình thì cũng vui
Việc thành chính đáng vui cười
Việc thành bất chính ta thời cũng vui
Nhưng vui bằng cái buồn! - Cười
Ví dầu thành bại của đời vẫn vui
Bại, ta đầu lắc cười ruồi
Để giữ bình đẳng Tâm vui ở mình
Thành bại cũng chỉ chúng sinh
Đời như trận bóng đội hình hai phe
Cười cho đội thắng cười toe
Cười cho đội bại cười ve vuốt chào
Trọng tài cười nụ suốt trao
Hãy nên như vậy hành vào đường Tu
***
Khi Tu đề khởi công phu
Dẹp đi đố kỵ, oán thù, ghét ganh
Lại không tranh chấp giựt giành
Nhất tâm tùy hỷ lòng lành hỷ an
"Trâu cột lại ghét trâu ăn"
Là việc sai trật, thế gian mất rồi!
"Gà ghét tiếng gáy", phải thôi
Đừng như súc vật, hại tôi giết mình
Trâu gà là lũ súc sinh
Chúng ngu không Trí, không tình ý chi
Mình người tu hạnh viễn ly
Phải thấy cho rõ, thị phi chớ màng
"Tùy Hỷ" công đức vô vàn
Gắng mà thực hiện giúp hàng phục Tâm
Hạnh này trợ Đạo thêm thâm
Mình người lợi cả ráng chăm chỉ hành.
-
23. TU SAO LÀ ĐÚNG
23. TU SAO LÀ ĐÚNG
Tu sao đúng với Phật đây?
- Tu đúng: đức TRÍ, đức BI thảy tròn
Trí là Trí Huệ sáng khôn
Sáng tỏ TÂM TÁNH khôn thông thân mình
TÁNH TÂM rỗng sáng Vô sinh
Suốt trong, không vật, không mình, không thân
Chiếu soi tỏ rạng trong ngần
Vô minh, phiền não khổ tan sạch làu
Thân tan tiêu biến theo nhau
Suốt soi bằn bặt trăng sao ba ngàn
Ba đời soi suốt thời gian
Không lầm một vật tiêu tan ách nàn
Vượt lên trời đất trần hoàn
Thành người bất tử chủ nhân chín loài
Bi: thương, nói đủ Từ bi
Từ bi lòng dạ thương đời chúng sinh
Từ: "ban vui" khắp sinh linh
Bi: là "cứu khổ" hữu tình chúng sanh
Từ Trí huệ khởi pháp lành
Vì Huệ tỏ suốt ngọn ngành chúng sinh
Từ: thương, rõ chúng điêu linh
Bi: thương mà cứu mê tình giải si
Từ Bi bằng Trí thực thi
Trí khởi Phương Tiện pháp đi cứu đời
Từ Bi - PHƯƠNG TIỆN không rời
Ấy pháp độ đời Trí Huệ sinh ra
Từ Bi với Pháp không xa
Chỉ từ Trí Huệ một nhà mà thôi
Bằng Trí Huệ sống chẳng rời
Nói năng dìu dắt chúng thời Từ Bi
TỪ BI - TRÍ HUỆ khác chi
Chỉ là Thể, Dụng khác gì nhau đâu
Trí: Thể, Bi: Dụng rất mầu
Trí như "thân thể", Bi đâu khác "làm"
"Thân" "làm" cứu tế nào hai
Nhưng "Thân" là chính, "Làm" thì phụ thôi
Không "làm" cũng được chẳng chi
Không "Thân" hổng được nhớ ghi điều này
Trí huệ là Trí Mâu Ni
Tịch Mặc - vắng lặng, tỏ soi nhiệm mầu
Nhớ rằng không phải Thức đâu
Đừng cho Ý thức tinh sâu mà lầm
Ý thức là Trí xảo thâm
Là tâm vọng tưởng là tâm ngụy rồi
Thức: Trí khỉ, vượn, ngựa thôi
Chớ lôi cả đám vào toi công mình
Cẩn thận TRÍ, THỨC phân minh
Trí - Ma Ha Bát Nhã mình thật đây
Là Trí siêu việt, Thức tày được sao?
Ấy là Trí Phật tột cao
Sạch Nhân sạch Ngã, sạch Tao sạch Mầy
Sạch Ngã - Ngã sở sâu dầy
Hoàn toàn Vô Ngã như vầy đúng đây
Độ sanh bằng Trí huệ này
Mới là đích thực Từ Bi Phật Đà
Nếu không sớm hiểu được ra
Tưởng Bi và Trí như là thường thôi
Thì hư hết chuyện ta rồi
Trí thành xảo quyệt, hồ ly tinh già
Bi thì thương, ái đường ma
Trí - Bi vào nẻo đường tà khó ra
Thay vì giải khổ Người, Ta
Trở thành gây khổ cho Ta cho Người
Thôi nha! Chớ khá dễ ngươi
Cẩn thận cho lắm! Chớ lười tầm sư!
TỪ BI - TRÍ HUỆ nhất như
Từ Bi là thứ tình hư không dài
Tình rỗng tình lặng láng lai
Nhưng tình không cảm, không ai cảm tình
Mình và khắp cả chúng sinh
Thảy đều rỗng lặng bặt mình bặt kia
Đến nhau bằng Trí Huệ chia
Như là ánh sáng chan hòa sáng trong
TRÍ BI chỉ một TÁNH KHÔNG
Mới là giải thoát sạch trong cõi lòng
Giải thoát xác định Đạo thông
Tu hành đủ TRÍ đủ BI không lầm
Là tu đúng, quyết không nhầm
Bởi vì hành đúng Tự TÂM hông ngoài
Ngoài TÂM có pháp thì sai
Vì rằng Pháp đã thành hai đi rồi
"Có hai" muôn thứ sanh sôi
Trùng trùng duyên khởi Niệm sôi ụt ùng
Niệm đầy lúng túng lùng tung
Ma sanh quỷ dấy, phát khùng phát điên
Não phiền chấp dính quàng xiên
Khác nào khỉ mắc bẫy xiềng mủ dây
Dính da dính dấp lây nhây
Bồn chồn khó ở khó xoay trở mình
Khổ ôi là khổ điêu linh
Vả chăng, Phật độ chúng sinh thuở nào
Cũng là "Trí trước, Bi sau"
Phật đà phát Trí Huệ cao nhiệm mầu
Được thành Chánh Giác tột sâu
Hết sầu hết khổ đâu đâu tỏ tường
Chúng sanh khổ khắp sáu đường
Phật đà rõ thấu lòng thương tràn đầy
Đứng lên với nguyện cao dầy
Từ Bi chan rải Phật Ngài độ sinh
Phương tiện khởi Pháp chí linh
Cứu người qua khổ linh đinh vơi mòn
Tiếng Ngài Bi Trí hãy còn
Là Đại Trí Huệ lòng son Đại Từ
Bi Trí đúng thật bất hư
Ta đây cũng vậy hãy như Phật đà
Trí Bi vốn của trong nhà
Y đây mà sống thì là đúng thôi!
Nhớ rằng Trí trước, sau Bi
Không Trí mà gọi là Bi nhầm rồi
Đường tu hãy diệt cái Tôi
Phá chấp Ngũ Uẩn diệt rồi là hay
Phá Tâm (ý) phá nát Thân này
Chớ có nuôi dưỡng mà gây phiền hà
Đường ta khác với lối tà
Là không phát triển thân và tâm chi
Đây là chuẩn để thực thi
Đúng, sai là chỗ có vì thân tâm?
Nhớ rằng cõi Pháp huyền thâm
"Đi không điểm đến" là châm ngôn mình
Bằng "Vô Sở Trụ" độ sinh
Hãy "Vô Sở Đắc" độ mình, nhớ nghe!
Nam mô Phật, xin chở che
Cho con huynh đệ hết mê từ rày
Nam mô đức Phật Như Lai
Cho con huynh đệ từ nay đúng đường.
-
24. TU VÌ ĐÂU?
24. TU VÌ ĐÂU?
Tu vì đâu?
- Tu là vì Đạo chẳng vì Thân
Và chẳng vì Tâm - Tâm ý thức
- Vì Thân khéo biết chớ sai lầm
"Xả thân cầu Đạo" lối mòn xưa
Thế nên tu phải xả Thân nghe!
Những chấp về Thân phải sớm chừa
Dặn lòng cho kỹ, ta luôn nhớ
Dù mới khởi tu hay đã lâu
Cũng phải nhớ hoài "phải xả Thân"
Vì Thân chướng ngại cho tu lắm
Chỉ vì cầu Đạo phải nào Thân
Nếu nặng tấm Thân thì chướng Đạo
Thế nên vì Đạo phải xả Thân
Tu Thân sao lại thành Đạo được!
Nhân Quả phải cùng tính chất nhau
Tu Thân thì phải thành Thân chứ
Nhưng mà Thân giả cuối cùng tiêu
Bao nhiêu công cán đều uổng phí
Vả, "Thân là rừng tội", chớ tu chi
Thân là nghiệp chướng tu làm gì
Thôi chớ khá vì cái Thân tu
"Có Thân nên khổ vì Thân" đó
Thánh Triết từ xưa đã nói rồi
***
Tu vì đâu?
Tu để vì Danh hay vì Đạo?
Để "có danh gì với núi sông"
Phải là định hướng của tu không?
- Không! Đã sai rồi con đường Đạo
Chẳng những không Danh, còn "chôn Danh"
Phải là "cất Danh xóa dấu vết"
Tu đến chỗ "hết mùi hết vị"
Huống là cố "dương Danh" cố vì Danh?
Cái Danh là Ngã là chướng Đạo
Hãy diệt đi thôi! Chớ dính vì
Cái Danh nó phá tan công đức.
Phải Vô Danh mới khá thành danh
Cái Danh chôn chết anh hùng đấy!
Cái Danh bóp nghẹt Phật chủng rồi
Cái Danh làm hại thanh danh Đạo
Cái Danh độc ác chính là ma
Cái Danh đưa đến Thiên ma đó
Rất dễ trở thành ngoại đạo gia
Hãy thôi Danh, vì danh kéo Lợi
Đủ Lợi Danh rồi hết là tu
Danh Lợi dập vùi chôn mãnh hổ
Lợi Danh vùi lấp nhốt hùng sư
Đầy Danh đầy Lợi, Đạo tít mù
Đạo đâu còn lại với Ta đâu!
Danh Lợi dầu rằng đầy hấp dẫn
Tiếng tăm vang dội khắp sơn hà
Sử xanh có thể còn ghi nữa
Nhưng mà đường Đạo cách quá xa
Tính ra thua lỗ thất bại to.
Danh hư Lợi ảo có làm chi
Như móc ban mai tiêu nắng sớm
Sống người hiểu Đạo đâu cần biết
Chết kẻ sành đời há thiết ghi
Danh bụi, Lợi trần ô uế Đạo
Cần lau quét sạch quăng đi rảnh
Thứ của báo đời có ích chi
Chỉ vì Danh Lợi làm Tâm đục
Phải quấy vọng tình, niệm tưởng sinh
Niệm ròng Nhân Ngã thêm xảo quyệt
Mưu mô tính toán thủ đoạn nhiều
Có thể hại người gây ân oán
Tạo nghiệp hết hiền hết giản đơn
Hết còn Đạo vị thôi Thiền vị
Nhân vị có khi cũng hỏng luôn
Ôi cha! Danh Lợi kinh, kinh khiếp
Nặng Danh nặng Lợi ấy nặng Thân
Thân Danh dồn đống càng thêm nặng
Nặng thì rơi xuống, lên sao được!
Đọa lạc đi rồi! Thôi hết tu.
Thà rằng làm ngốc lại làm ngu
Mà tu đúng Đạo, đi đúng đường
Còn hơn khôn dại mãi so lường
Để thành Danh Lợi gọi tài danh!
***
Chấp Danh chấp Lợi ấy chấp Tâm
Chấp Tâm tham vọng, Tâm ý thức
Tâm này xảo quyệt biết cơ man
Người xưa đã bảo là khỉ vượn
Là ngựa chứng, lại là hồ ly
Cáo già, chồn quỷ thảy tinh linh
Eo ơi! Phải khiếp tâm danh lợi!
Tu mà không khéo, chấp "Tâm" tu
Tu vì Tâm thức, vì Tâm ý
Đổ nợ có nùi, đáng sợ thay!
Tu vầy tu chỉ thêm tham lẫn
Chỉ đổi cái Tham biến dạng hình
Tính Tham tính chấp vẫn còn nguyên
Ngược lại đường tu vốn diệt Tham
Tham Danh chấp Ngã ấy tu tà
Khác nào nuôi giặc cướp trong nhà
Cướp hết tài bảo còn đâu nữa
Đạo đâu có được để mà thành
Có thành cũng chỉ là Ma Đạo
Hay là cái Đạo chẳng lối ra
Lùng tung lúng túng lòng khắc khoải
Lâu ngày chày tháng dạ không yên
Vì chấp "Tâm" tu là chấp Ngã
Chỉ là khuyếch đại cái Ta thôi
Vì Ngã tu, nên tu sanh Ngã
Ngã chấp mình, chấp cảnh giới tu
Thì thành chấp "chứng" thành chấp "đắc"
Thấy có Ta "thành" và Ta "được"
Tức thành Ngã Sở, thành "của Ta"
Có "Ta" và có cái "của Ta"
Là đi vào nẻo phàm phu mất rồi
Đạo giờ đây chỉ có sau lưng!
"Tâm là nguồn tội" quả đúng là
Từ đây tội lỗi không lường được
***
"Thân là rừng tội, Tâm nguồn ác"
Ôi chao! Sao lại tu Thân Tâm
Vì Thân vì Tâm mà khởi tu
Tu vầy tu lộn tu lầm đó
Hãy sớm hay ra chỗ tu Chơn
***
Tu vì đâu?
- Nhớ xưa đức Phật ta tu đó
Ngài có như Ta hông vậy nào?
Không đâu! Ngài không giống như mình
Như mình thì hết thành Phật Tổ!
Ngài tu, xả chấp đến tận cùng
Xả chấp Thân triệt để chí hùng
"Hành thân hoại thể" sắp tiêu vong
Chỉ còn thoi thóp nằm chờ chết
Ngài hành cụ thể như vậy đó
Để trừ cái chấp đã vì Thân
Để Thân xả sạch đồ cung nội
Tẩy trừ dính chấp thuở xa xưa
Cho Thân rỗng sạch chất vương thành
Xả Thân sạch, Ngài lại xả Tâm
Xả chấp Tâm, Ngài tọa Bồ Đề
Ngày đêm buông xả, xả tận cùng
Bao nhiêu thứ chấp đều xả hết
Không còn một vật gọi là "Mình"
Triệt tiêu Tâm Ngã, Tâm chấp Ngã
Ngã chấp tan tành, Vô Ngã hiện
Vô Ngã mênh mông sáng láng bừng
Ngài lên Chánh Giác, Đạo thành xong
Ngài tu vì Đạo vì chúng sanh
Vì chúng sanh khổ Ngài nguyền độ
Nên Ngài tìm Đạo, cầu Đạo tu
Để rồi Đạo tỏ Ngài thành Đạo
Cái "Đạo" Ngài thành ở đâu ra?
Là do Ngài tạo, Ngài tu ra?
Hay là Thượng đế đem dâng cúng?
Hoặc chúng quỷ thần xúm cúng dâng?
Hay Ngài tìm ở đâu ra nó?
Tìm trên trời dưới đất, trong rừng cây?
Hoặc tìm nơi người, thú vật, chim muông…
- Không! Không! Tất cả đều không hết
"Đạo" Ngài thành ấy Đạo từ Ngài
Đạo này đã sẵn từ muôn thuở
Từ dạo Người, Trời chẳng có ai
Chẳng có Ma, Thần, Thú, Như Lai
Trước Phật Oai Âm Vương, ấy Đạo
Đạo này nguồn muôn vạn vật
"Đạo từ Ngài", từ TÂM bản thể
Vì chúng sanh Phật phát Đạo TÂM
Phật hành cái Đạo thậm huyền thâm
Ngài thành Đạo cả TÂM Ngài sáng
Dấn bước độ đời độ chúng sanh
Đạo này Ngài Ngộ, Ngài đã tu
Nhưng làm sao để ngộ Đạo đây?
Đơn giản lắm! Thật là giản đơn
- Chỉ xả "Xả" Thân Tâm như đã nói
Dù trong một thoáng cũng hay rồi.
***
Một chữ "XẢ" dón gọn thôi
Ai mà Xả được Đạo đời hoát thông
Rõ Đạo rồi hãy ra công
Ắt thành Đạo quả thong dong Niết bàn
Đây là cái lối Đạo vàng
Mình dầu chưa được lên đàng Đạo tu
Cũng phải hiểu rõ chớ ngu
Chớ đi lộn nẻo chớ tu lộn đường
Tu lộn cũng lắm tai ương
Như xài đồ giả hay vương bực mình
Có khi phải khổ điêu linh
Nếu lầm phải chỉnh chớ sinh bướng càng
Đời tu đời quý hơn vàng
Có thương Ta thiệt, chớ màng Thân Tâm.
-
25. SỐNG
25. SỐNG
(ĐỂ SỐNG BẰNG TÁNH)
(MẮT) - Hãy trợn mắt, nhìn Cái Thấy tại chỗ thấy
(TAI) - Hãy giảo lỗ tai, nghe Cái Nghe tại chỗ nghe
(MŨI) - Hãy hỉnh lỗ mũi, hưởi Cái Hưởi tại chỗ hưởi
(LƯỠI) - Hãy cong lưỡi, nếm Cái Nếm tại chỗ nếm
(THÂN) - Hãy căng da, chạm Cái Chạm tại chỗ chạm
(Ý) - Hãy trừng niệm, niệm Cái Niệm tại chỗ niệm
(Biết Cái Hay Biết tại chỗ biết)
Và rồi Bằng (cái) HAY BIẾT – BIẾT
(mà biết Niệm, biết 6 Trần - biết Cảnh sắc)
HAY BIẾT - Biết
SỐNG = HAY BIẾT = TÁNH
HAY BIẾT xóa hiểu biết.
HAY BIẾT "Biết" thường hằng.
HAY BIẾT hông có Niệm.
HAY BIẾT sạch não phiền.
HAY BIẾT, "Biết" linh mầu.
Hay ra "Hay Biết" biết luôn
Thì đời hết khổ hết còn đảo điên.
Chỉ là lòng dạ vui yên
Thong dong mà sống an nhiên giữa đời.
-
26. TÁNH VÀ NIỆM
26. TÁNH VÀ NIỆM
Niệm đâu Tánh đó
Hãy ngay Niệm "Hay ra" Tánh
Lặng Niệm ấy Tánh bày
"An TÂM" chính tại Niệm
Bóng đâu gương đó
Ngay bóng ấy gương
Suốt trong hiện bóng, ấy Tánh gương
Tánh gương không bóng, không một bóng
Chỉ là soi suốt trong ngần ấy thôi
Tánh TÂM trong lặng suốt soi
Rỗng không bằn bặt mênh mông đất trời
Hông Thân hông Ý hông Tôi
Hông phiền hông não nên thôi khổ sầu.
***
Phật diễn pháp âm khắp rộng to
Tùy căn chúng sanh đều khiến hiểu
Đều khiến phát tâm trừ hoặc cấu
Nhưng Phật chưa từng sanh Tâm Niệm.
(Kinh Hoa Nghiêm)
-
27. TÂM ĐỘC ÁC
27. TÂM ĐỘC ÁC
Tâm (ý) ta Ác độc và độc Ác
Đã bao lần ta thủ thỉ khuyên
Đừng độc đừng Ác nhớ nghe Tâm
Đừng hại mình hại người nhớ nghe
Đừng làm khổ người làm khổ mình
Hãy nhớ nhớ nghe Tâm! Nhớ nghe!
Thế mà nó vẫn Ác vẫn hung
Nó vẫn cứ hại cứ hại người
Nó cứ làm khổ người khổ mình!
Tâm ta mất dạy như thế đó!
Thật là ngỗ nghịch thật khó lòng
Như người trần thế có con hung
Hư thân mất nết nói không nghe
Dạy gì không được tức gần chết
Tâm ta cũng vậy, nó con mình
Mà bảo mà răn nó chịu nào
Dạy phải dạy quấy nó chả nghe
Chả để vào tai vào lòng gì
Cứ lo làm Ác và làm Ác
Tức chết đi thôi tức quá trời!
Đồ khốn nạn! Khốn nạn thật mà!
Tâm hung Ác sao mi hung Ác thế?
Sao mi hiểm hại người ta vậy?
Sao mi gây khổ cho Người, Ta?
Sao mi không biết thương ai hết?!
Này Tâm! Ta nói cho mà biết:
Mày phải thương người thương người nha.
Người với người đâu phải ai xa
Cùng là dòng tộc cũng một nhà
Phải thương người chứ, nhớ nhớ nghe!
Có thương nhau mới trừ Ác độc
Mới không sanh hung hiểm hại người
Phải thương người để bù Ác độc
Nhớ nghe Tâm, nhớ lấy mà thương
Mà trừ Ác độc trừ hung hiểm
Ngươi mà không biết thương thiên hạ
Không biết bỏ Ác làm Thiện lành
Coi chừng sẽ xuống địa ngục đa
Sẽ bị gia hình khốn khổ nghe!
Ngươi làm Ác người ngươi sướng không?
Ngươi làm người khổ ngươi vui à?
Sướng vui kiểu đó chính ngươi điên
Người điên thì khổ hay là sướng?
- Chỉ có khổ thôi sướng nỗi gì!
Tâm ơi! Tâm hỡi là Tâm này:
Mày mau ráng tỉnh, ráng tỉnh nghe
Ráng mà biết rõ đâu Tà Chánh
Đâu Ác đâu hung đâu Thiện lương
Bỏ Ác làm Thiện nhớ nghe hôn
Tao nuôi tao dưỡng mày bấy thuở
Giờ muốn mày hiền, có vậy thôi.
Hãy biết giống dòng Ta vốn tốt.
Vốn hiền lương Thiện vốn an vui
Vốn không Ác độc không nguy hiểm
Vốn không gây hại cho ai cả
Không khổ mình cũng chẳng khổ người
Vốn là thanh tịnh vốn lặng yên
Không khuấy động không gây xáo trộn
Luôn thanh bình an ổn như nhiên
Dòng giống mình tốt thôi là tốt
Thượng đế bình sinh cũng phải khen
Diêm vương cũng nể cũng tán dương
Tộc mình vượt Thiên đế Diêm vương
Tốt và tốt lành ngoài khổ não
Tâm! Ta mong mi mau thức tỉnh
Hãy thôi đi vọng động Niệm trào
Hãy thôi đi cất tiếng thét gào
Hãy thôi đi phá dòng phá giống
Hãy thôi đi đổ giọt máu đào
Đừng làm tuôn máu cho dòng họ
Đừng làm nên tội phản tổ tông
Đừng làm báo hại Ta Người nữa!
Hãy thôi đi! Và hãy thôi đi.
Hãy lặng đi thôi! Hãy lặng đi.
-
29. THỦ ĐOẠN, TÂM LÝ
29. THỦ ĐOẠN, TÂM LÝ
Sống tu cố giữ tánh hồn nhiên
Chớ nên dùng thuật "Tâm lý chiến"
Và chớ dùng "thủ đoạn" với người
"Tâm lý" "thủ đoạn" là xảo ngụy
Là Tâm vọng tưởng là Niệm thôi!
Niệm sanh ấy có cái Tôi rồi
Ấy là "bản Ngã" ấy là Si
Ấy là bảo vệ cái Tôi thôi
Cùng là phát triển cái Tôi Ta
Cuốn theo Ngã sở - cái của Tôi.
Có Ngã, Ngã sở ấy "đại Si"
Là ngu si lớn là thêm khổ
Dù rằng "Tâm lý" có thành công
Có làm người phục người kính nể
Có nên được việc được lòng người
Nhưng mà đối Đạo đã trái xa
Sống bằng Tâm lý không chơn thật
Chỉ là dối mị gạt lường thôi
Ấy chỉ là thuật đời khôn dại
Dại khôn, khôn dại nên xa hẳn
Khi đã quyết lòng hạ thủ tu
Và với "thủ đoạn" nên chớ mắc
"Thủ đoạn" là xảo thuật là ngụy
Là "Ác" đó chẳng là Thiện đâu
Thủ đoạn là mánh khóe xảo gian
Nó nguy hiểm cho người cho ta
Nhớ: chớ có mưu này kế nọ
"Mưu kế" là việc thế gian rồi
Người đời dùng nó để tranh hơn
Để rồi khổ cả mình người thôi!
Dù "âm mưu" hay là "dương mưu"
Dù mưu tốt hay mưu thâm độc
Cũng là hư ngụy cũng là vọng
Cũng là trái Đạo trái TÂM chơn
Thế nên "mưu kế" nên xa hẳn
Người tu quyết chí để công phu
Thì phải tránh xa tánh tật này
Cố mà tránh, cố mà tránh xa
Dù rằng có bất lợi cho ta
Có thiệt thòi nguy hại cho mình
Cũng nên cố gắng mà xa đi
Tu hành ráng nhẫn nhẫn điều này
Đây điều tối kỵ việc công phu
Nhẫn này khó nhẫn khó khó thay
Nhưng mà phải nhẫn - nhịn đi thôi
Chớ dùng "Tâm lý", chớ xảo Tâm
Chớ dùng "thủ đoạn", chớ mưu mô
Chớ theo khôn dại đường thế tục
Hãy xả Tâm này - Tâm xảo ngụy
Người Tu theo đạo, dạ phải Chơn
Lòng phải sạch trong, trong sáng lòng
Phải thật hồn nhiên ta sống tu
Như lòng đứa trẻ trong trong sáng
Không biết mưu toan tính dại khôn
Đừng lo "khôn dại" kiểu đời thường
Chớ sợ không "khôn" ta nguy mất
"Xả thân cầu Đạo" nhớ không nào?
Thân ta nguy là cơ để "xả"
Xả chấp Thân chấp đời sống Ta
Ấy là xả được Ngã - Ngã sở
Thì chỉ có lợi, lợi đời Tu.
Lợi cho việc Đạo việc công phu
Thế là Tu phải chịu "ngu" thôi!
Nhưng chẳng sao đâu, chẳng thiệt đâu
Người xưa đã nhắc đã khuyên rồi:
"Lù khù có ông Cù độ mạng"
"Cù" đó chính là "Cù Đàm" Thích Ca
Thế nên yên chí mà hành Ngu
Ấy là ta mới thiệt là Tu
Tu vầy mới thật người hành Đạo
Mới thật là người khéo công phu.
***
Ta tu ta phải thật thà
Chấp nhận ngu mà hành Đạo công phu
Khi tu ta phải làm Ngu
Có Ngu mới dễ tiến tu Đạo vàng.
***
Nếu khi tu muốn dụng mưu
Thì, tam thập lục kế "dù" là hơn
Ba mươi sáu kế, kế "chơn"
"Chạy"! là thượng sách là nhơn tu hành.
-
30. CÁI TÔI
30. CÁI TÔI
Cái "Tôi" là cái chi chi
Sao mà rắc rối, hỏi mi vậy cà?
Mi sai mi sử người ta
Khiến người điên đảo khiến la: khổ đời!
Cái "Tôi" là cái gì Trời?
Sao mà nó quái quỷ thôi hết bàn
Trời rằng: Ta cũng phải than
"Cái Tôi" nó quậy nát tan Ta nè!
Cái "Tôi" nó chẳng e dè
Quậy luôn thượng đế, nó đè trần gian
Người Trời đều phải than van
Cái "Tôi" nó quậy tan hoang đất trời
Vậy thời ai đẻ cái "Tôi"?
Mà không biết dạy để rồi lung lăng?
Ai đẻ? Ai sanh biết chăng?
Là ai? Hãy nói lên rằng là ai?
Ai sanh, ai đẻ "Tôi" đây?
- Trời sanh? Đất đẻ? Phải vầy hay không?
Hông! Hông! Hổng phải đâu hông
Chẳng trời, chẳng đất, nó dòng giống chi?
Giống người, giống khỉ, giống gì?
Hổng người, hổng thú, vậy thì giống chim?
Giống gì đố kiếm đố tìm?
Cái "Tôi" đáng ghét khiến tim nhói lòng
Cái "Tôi" nó lắm đèo bòng
Bắt ta phải khổ lộn lồng ngày đêm.
-
31. ĐỜI TU NHƯ MỘT CÂY TRE
31. ĐỜI TU NHƯ MỘT CÂY TRE
Người khi hiểu Đạo như măng mọc
Măng mới có dù chưa thấy rõ
Sau đó mấy ngày măng lớn ra
Chừng ấy rõ ràng dáng hình măng
Măng to măng lớn lớn thăng thăng
Măng lớn đẫy đà dòm có thấy
Rồi măng cao cao đến mút đà
Không còn lớn nữa măng sựng lại
Giờ đây thấy măng như không lớn
Nó không lớn nhưng đâm mầm đâm nhánh
Lần lần nhánh lá mới trổ ra
Măng tuy không lớn nhưng sinh trưởng
Vẫn luôn phát triển để thành tre
Giờ đây chậm thấy măng phát triển
Mo nan lột rớt, măng đâm nhánh
Nhánh đâm thành đọt, đọt ra lá
Lá đủ lá đầy măng thành tre
Giai đoạn thành tre càng khó thấy
Càng khó trông nhìn tre phát triển
Nhưng tre non vẫn lớn để già
Vẫn phát triển luôn luôn phát triển
Sự phát triển này với gió giông
Măng không lá nên không bị gió
Tre lá nhiều nên gió quật giông đưa
Gió đưa giông quật tre thêm dẻo
Tre luyện thân mình để cứng thêm
Nhiều năm giông gió tre thêm cứng
Giông gió tô bồi tre dẻo thêm
Giông gió đến đâu cũng không gãy
Dù là bão táp với cuồng phong
Tre vẫn không nhào không bật gốc
Khi giông khi bão tre oằn oại
Tre quật ngã nghiêng quậy tứ hướng
Tưởng chừng tre sẽ bị tiêu ma
Tre sẽ tan tành gãy bật tung
Nhưng, gió dừng tre vẫn ung dung
Tre được vậy là tre luôn lớn
Luôn hút phong sương đất luyện mình
Luôn dồi mài với mưa giông gió
Giữa nguồn năng lượng Trời vô biên
Từ măng thành tre có quá trình
Có thời gian đổi thay hình dạng
Nhưng chất sống vẫn là chất sống
"Chất sống" không thay không đổi gì
Từ năng lực này măng thành tre
(Măng non hình dáng trông rất đẹp
Tre già vóc mã dòm xấu xí)
Thành tre vững chãi trong trời đất
Trong giữa cuộc đời mặc gió giông
Đời Tu, đời hành Đạo hành Thiền
Có thể như vầy để hiểu đây.
-
32. TA LÀ GÌ ?
32. TA LÀ GÌ ?
Ta không là Tăng, không là Phật
Ta không là Pháp, không Tam Bảo
Ta không là Người, không là Nam
Không là con trai của Má Ba
Không thân bằng và không quyến thuộc
Không là đệ tử của bậc Thầy
Và không là Thầy của những ai
Ta không là Bạn, Bạn của người
Của đất trời, muôn thú, vạn loài
Ta cũng không là một chúng sanh
Và cũng không là Ma hay Phật
Ta không là gì! Không là gì!
- Ta chỉ là cái rỗng vậy thôi!
Ta chỉ là cái Rỗng cái KHÔNG
Cái Rỗng Không cũng là không rỗng
Chẳng là TÂM là Bản TÂM gì
Chẳng là Tánh hay là Tự Tánh
Cũng chẳng là Bản thể, Bồ đề
Chẳng là Giác, Tánh Giác, Tánh TÂM
Chẳng là Trí, Trí huệ Như Lai
Không là Bát nhã Ba La Mật
Hay là Ma ha Bát nhã gì!
Và Ta hông có, hông có chi
Hông có Thiên đường hay Địa ngục
Ta hông có An vui, Đau khổ
Ta hông có sướng hay không sướng…
Ta chỉ là Rỗng và KHÔNG thôi!
Ngay cái gọi là KHÔNG cũng là hông.
Và cái Rỗng cũng là rỗng hông
Ta không là gì, hông có gì.
Ta không là gì! Không là gì!
Ta!
!!!
Không là gì nên không sinh hoạt
Không tới lui, qua lại, đi về
Không ăn không ngủ, không làm chi
Không là gì, nên chẳng thời gian
Ta không quá khứ, không hiện tại
Và tương lai cũng lại không thôi
Thời gian đã rỗng, không gian hông
Ta hông một tấc đất cắm dùi
Hông tài sản, hông gì hệ thuộc
Ta không xứ sở, không nơi chốn
Không đạo tràng, không cảnh giới chi
Không là gì, nên không Danh Lợi
Không Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp
Không là gì, nên ta không có
Không có gì, cũng chẳng có chi
Hổng có và hổng có cái gì
Cái tên "hổng có" cũng không luôn
Ta thật là "chơn" hổng có mà!
Hổng có! Hổng có! Và hổng có!
Ta chẳng là gì
Nên Ta chẳng có chi
Ta chỉ là:
KHÔNG RỖNG thôi!
!!!
Không rỗng thì Ta không là Ta
Không Ta thì Không Ta, tốt thôi!
Là lá la là la lá la
Tang tang tình tình tang tang tình
***
Nhưng
Ta là Trăng, sao, là vũ trụ
Là vạn loại Người, Trời tất cả
Ta là tất cả, là tất cả
Tất cả là Ta, ấy chính Ta
Ta tan Ta biến hòa vạn vật
Vạn vật trong Ta, Ta vạn vật
Ta! A í! A! "I" Ta.
-
33. ĐỂ ĐƯỢC YÊN TÂM HÀNH ĐẠO
33. ĐỂ ĐƯỢC YÊN TÂM HÀNH ĐẠO
Sống trên đời,
Để góp phần được yên tâm, bớt khổ
Để hành Đạo, để công phu hành trì
Hãy hiểu như thế này:
Khi mình sinh ra có mặt trên đời
Đó chính là đã bước lên đài võ
Chốn võ trường không ai mời ai bắt
Tự ta đăng ký ta lên cùng đấu
Thì,
Khi đấu có đánh qua và đá lại
Đó là lẽ đương nhiên của võ đài
Đã chấp nhận thi đấu ta phải chịu
Đã chịu rồi chớ than thở mà chi
Phải chấp nhận cho người ta đánh đấm
Mình đỡ được chịu nổi cùng không thôi
Là tùy sức tùy tay nghề đã luyện
Không trách hờn, không oán ghét đối phương
Không năn nỉ van xin và cầu khẩn
Nếu vụng về ta dở chịu thua thôi
Thắng được thì thắng, thua thì chịu thua
Thắng không phách lối, thua không đau khổ
Thắng hay thua đều chẳng sanh phiền não
Phải có tinh thần thượng võ thể thao
Đối phương dù có ra đòn nguy độc
Dù có hiểm hóc có nhiều gian manh
Thì cũng mặc, đó là việc đối phương
Ta không chửi, không thù không oán hận
Ta không ôm sầu chuốc não làm gì
Hãy tôn trọng đối phương ra tay hiểm
Dầu biết đòn độc ác ta không học
Không đánh trả bằng thủ đoạn đê hèn
Để thủ thắng đối phương bằng gian trá
Ta chấp nhận ngã thua thất thế nhào
Nếu không đủ tài hóa giải dương công
Dầu té ngã vẫn mỉm cười chào bạn
Nếu ta mạnh, ta tài giỏi hơn người
Thì hãy phản đòn, đòn quang minh lỗi lạc
Đánh đá bằng cung cách kẻ trượng phu
Bằng khí độ của hạng người quân tử
Thắng bại chỉ trên tinh thần nghệ thuật
Không sát thủ, không gây chết người bạn
Bạn đã thua, ta cười hiền chào bạn
Bắt tay bạn trong tinh thần mã thượng
"Không giết người dưới ngựa" ấy châm ngôn
Đã thắng rồi, nhưng không khinh khỉnh địch
Không hách dịch, không làm tàng phách lối
Trong trận đấu thua hay thắng vẫn điềm nhiên
Nếu ta giỏi ta hay bản lĩnh hơn
Ta có thể nhận người làm huynh đệ
Hoặc nhận người làm môn đệ dạy nghề
Ta nâng đỡ giúp người rèn nghệ thuật
Vì nghệ thuật, không kết thù kết oán
Chỉ kết bạn thêm bạn xóa oán thù
Sống một đời "vì nghệ thuật" thế thôi
Vì nghệ thuật, ta lại vì nhân sinh
"Vì nhân sinh" ta quyết tình nâng đỡ
Sống "thượng võ" trên võ đài như vậy
Sống đời thường trong xã hội nhân quần
Trên cuộc thế ta cũng nên sống vậy
Đời là một võ đài rộng lớn hơn
Một võ đài vô vàn là đối thủ
Mình lại là một người đi đường đạo
Thì đối thủ lại thêm nhiều quân Ma
Thế nên đối thủ ta trùng trùng điệp điệp
Biết bao là đối thủ ở bên ta
Đối thủ cả trong ngoài xáp lá cà
Đánh cận chiến một lần bao đối thủ
Dù áp lực đối phương có mãnh liệt
Ta cũng nên xử sự rất trượng phu
Rất là quân tử rất là chí nhân
Trên đường hành đạo trên đường công phu
Khi tu nhớ lấy chuyện đời thị phi
Dù phải dù quấy tốt xấu là chi
Người gây, người hại người trù ếm ta
Người muốn làm ta khổ ta đau đớn
Đó là chuyện của người cứ gây
"Người có tự do làm cho ta khổ"
Hãy tôn trọng việc này ở người ta
Riêng ta cũng có tự do ở mình
"Ta tự do rước khổ hay không rước"
Nếu ta rước thì ta khổ ta đau
Ta không rước thì ta không khổ
Rước khổ hay không là chuyện ở mình
Đừng càm ràm trách mắng ở người chi
Đừng oán người trách Trời ích chi đâu
Trời đâu có khiến mình nên sầu khổ
Hãy rõ ràng phân minh chớ lầm lẫn
Cứ vững tâm, vững dạ cứ lo tu
Bám sát pháp tu, gắng gổ công phu
Đừng ở đó khóc than thân trách phận
Khóc than rắm rít ích chi đâu nào
Tu để hết khổ, chớ nào để khổ!
"Chuyện gì chuyện cứ vẫn ráng lo tu"
Hãy thì thầm nhắc nhở ta điều đó
"Tu" là trên hết, "Tu" là qua hết
Chỉ có tu, có hành pháp môn thôi
Tu đi, Trời Phật sẽ thương tình mình
Sẽ giựt mình lên khỏi khổ khỏi đau
Ta Tu hay tu giỏi độ lại người
Độ người làm bạn làm trò của ta
Tu là để độ sanh nhớ nhớ nghe
Điều cần nhất chớ ôm điều oán hận
Hãy hồi hướng oán hận đến Niết bàn
Sàn đài thế giới Ta bà
Thật là phức tạp ráng mà tỉnh ra
Hãy như đài võ biết qua
Luyện Tâm bớt khổ giúp ta yên lòng
Yên lòng hành đạo Tu Không
Không mình không cả trần hồng - Chơn Không.
***
-
34. CHÍ LÀM TĂNG (II) 1999
CHÍ LÀM TĂNG (II) 1999
----------oO0----------
Là Tăng chinh hươi kiếm diệt quân tà
Chân ngập máu giặc thù chồng đống xác
Ta không yên ngồi làm Tướng quốc
Mặc triều nghi ổn định triều cương
Vỗ an dân trị yên trăm họ
Ta không đành chỉ là Tướng quân
Chống ngoại xâm cùng dẹp phản loàn
Ta không vui chỉ ngự ngai vàng
Chịu bá quan tung hô vạn tuế
Và không vui chỉ toàn hưởng thụ
Cũng không vui khi ngắm sơn hà
Ngắm bá tánh trăm quan nghển cổ
Chúc Thánh Thượng tuế tăng vạn tuế
Ta không vui du lịch nước nhà
Để thỏa chí sơn hà thịnh trị
Thở hít khí thanh bình an lạc
Không! Ta không muốn Ta yên phận!
- Ta muốn Ta ngự trên chiến mã
Vượt biên thùy mở rộng biên cương
Cùng chúng hùng binh Ta sinh sản
Lấy vó câu làm nhạc sa trường
Lấy ánh thép múa lên chiến trận
Ta muốn Ta tung hoành ngang dọc
Trên sa trường trên chiến địa thôi!
Ta muốn Ta Tây chinh Bắc phạt
Nam tiến Đông công mở biên thùy
Với hùng binh ta luyện hiên ngang
Chỉ có tiến không bao giờ thủ
Với thế công bão táp cuốn sa trường
Với vó ngựa thần uy nhầu chiến địa
Với khí thế bừng bừng quyết thắng
Ta phải thắng và Ta tất thắng
***
Ta không là Tướng là Vương, Vua
Ta là Đại Hãn, thật Đại Hãn
Một Đại Hãn ăn nằm lưng ngựa
Gió "gươm đao" quạt mát ngủ say
Và "chiến thắng" thức ăn ngon đó
Ăn no, ngủ khỏe, Ta mạnh tiến
Tiến không ngừng cùng vó ngựa lao
Phía trước thế nào Ta chẳng mao
Tiến và tiến ào ào tiến tới
Bất chấp đối đầu có mạnh sao
Ta Đại Hãn, đầu óc Trí Không
Một nháy mắt quyết xong tất cả
Thiên văn địa lý Ta thông tất
Khoa học kỹ thuật Ta cũng siêu
Các môn văn võ Ta biết suốt
Công xảo y minh Ta cũng chuyên
Binh thư đồ trận thuộc làu làu
Vận dụng biến ảo thật vô lường
Phát huy năng lực tuôn mưa xối
Cuốn đối phương, chướng ngại phăng phăng
Lại thêm chiến thuật Ta tinh nhạy
Đánh, bắt, bao vây Ta phong tỏa
Đối phương bỏ ngũ ngả về Ta
Biến đối phương thành quân Ta hết
Quân Ta càng ngày càng đông nghẹt
Càng thêm tinh nhuệ càng thiện chiến
Lại, quân Ta chẳng có tử vong
Là quân bất diệt bất sinh mà!
Là Thần binh trên bờ dưới nước
Trên không dưới đất thảy đều chuyên
Lương thực quân Ta: lương thực địch
Cứ đánh và ăn, ăn và đánh
Càng đánh càng hăng càng nhiều thức
Ăn mạnh, đánh bạo đối phương thua
- Hành quân thần tốc quỷ thần khiếp
Đối phương xiểng liểng thua và thua
Biên thùy mở rộng mở rộng hoài
Chinh phạt - mở biên cương, tiến mãi
Tiến đến vô cùng đến chân mây
Thời gian không biết bao giờ kết!
Nhưng,
- Ta không tham vọng, Tham đâu nhé
Chỉ tại - Tổ quốc - ấy Hư không
Đây là mặc khải Tiên Vương đó
Ta chỉ thi hành "mặc khải" thôi
Ai nghe mặc khải này rồi
Hãy nên tùy hỷ việc tôi đã làm.
***
Làm Tăng chí cả như đây
Đời này Ta nguyện y vầy không quên
Kiếp này dẫu chửa làm nên
Thì thêm kiếp nữa sinh lên tiếp làm
Đời đời kiếp kiếp chẳng nhàm
Làm hoài làm mãi không tham chóng thành
Đường đi trong chốn tử sanh
Không làm như vậy thì hành cái chi!
Nhớ lời Đức Phật Mâu Ni
Làm Tăng - con Phật - quyết đi đường Ngài
Đường Ngài ấy nẻo Như Lai
Đây là ngõ sáng trần ai nhứt đời
Nào nào chớ để lỡ thời
Làm Tăng hãy kịp bước dời tiến lên
- Nam mô Phật, con chẳng quên
Nguyện đi đường Phật nguyện nên đường mình.
***
Tay vung mạnh kiếm thần bay loang loáng
Vạn đầu rơi muôn vạn vạn đầu rơi
Tay kiếm dừng muôn vạn chiếc đầu tan
Đồng chiến trận biến thành đồng lúa chín.
-
35. BẤT LẬP VĂN TỰ
BẤT LẬP VĂN TỰ
Vì sao lại "Bất lập văn tự"?
Vì sao lại "Giáo ngoại biệt truyền"?
- Đơn giản! Thật là đơn giản thôi.
"Đơn giản" như là "đang giỡn" vậy
Pháp "khơi lòng" ấy phải "không lời"
Chữ "Lòng" nào phải là cái "Lòng"
Chữ "TÂM" nào phải cái TÂM đâu
Và chữ "Tánh" nào là cái Tánh
Kể cả chữ "Đạo" cũng thế thôi
Và chữ "Phật" cũng vậy thôi hà
Chữ "Phật" là ông Phật đó sao?
Chữ "Đạo" là cái Đạo ấy à?
Ví chữ "Mũi" đâu là cái mũi
Và chữ "Mắt" đâu là con mắt
Với chữ "Người" đâu phải con người
Chữ "chó" cũng đâu là con chó
Rồi chữ "Nhà" đâu phải cái nhà
Tất cả danh từ đều chẳng phải
Chẳng phải người, vật, cả muôn loài
Danh từ chỉ gợi ý gợi hình
Đâu là vật là hình thứ chi
Và cho đến cả động từ nữa
Chữ "Làm" đâu phải là làm đâu
Chữ "Nói" nào phải là nói đâu
Chữ "Ăn" nào phải là ăn đâu
Chữ "Đi" "Đứng" "Ngồi" chỉ vậy thôi.
Cho đến tính từ, hình dung từ
Cũng như vậy, chỉ là chữ thôi.
Chữ "Đẹp" "Xấu" phải đâu xấu, đẹp
Chữ "Vui" "Buồn" nào phải buồn, vui
Chữ "Xanh" "Vàng" đâu phải vàng, xanh
Chữ "Nam" "Nữ" nào phải nữ, nam
Chữ "Trai" "Gái" nào là trai gái
Mỗi chữ mỗi từ đều như vậy
Chỉ là gợi ý vậy thôi mà
Nguyên nó không là vật chi cả
Không là trạng thái là hành động
Nó chỉ thuần là ký hiệu thôi
Ngay đến mệnh đề cũng vậy mà
Một câu văn, bài văn cũng thế
Đều là ký hiệu gợi ý thôi
Thế nên người dốt biết là chi
Chỉ thấy ngoằn ngoèo chỉ vậy thôi
Có thấy người, vật gì trong đó
Có thấy vui buồn sướng khổ chi
Thế nên văn chữ chỉ suông thôi
Ngay nó vốn là không ý tứ
Nên nó không hồn chỉ xác thôi
Là vật vô tri sao chỉ được?
Làm sao biết nói Tánh, TÂM chi?!
Thế nên văn chữ xài không được
"Kinh giáo" thảy là văn chữ thôi
Đã là "văn chữ" thì ơi hỡi!
Làm sao chỉ được cái "TÂM" ta?!
Thế nên ngoài giáo riêng truyền vậy
Ở ngoài văn chữ lối "truyền riêng"
"Truyền riêng ngoài giáo" là diệu thuật
Đây mới khiến người nhận ra đây
Nhận ra "Cái ấy" ở ngay mình
Hay ra "Tánh" tại TÂM này bày
"Trực chỉ nhân TÂM" người ngộ Tánh
Từ đây y Tánh tu thành Phật
Cái lối chỉ này độc đáo ghê!
Ô hô! Văn tự quăng đi rảnh
Thôi nhé! Bám chi đồ vô bổ
Văn tự chấp nhiều càng to Ngã
Cái Ngã "khổng lồ" ấy "khổ lòng"
Kinh điển "không lời" mới "khơi Lòng"
Nhơn đây "ngộ đạo" mà "ngạo độ"
Tiếu ngạo Ta bà độ chúng sanh
Tình tang cất bước phiêu linh
Ta tan vào chúng ấy "mình" chúng sinh
"Chúng sinh" ấy chính là mình
Tình tang ta hát tang tình tình tang
***
Đức Phật của Ta, Ngài học gì?
Phải chăng Ngài học chữ: Gia: nhà
Quốc: nước, Tiền: trước, Hậu: sau, chăng?
Hay Ngưu: trâu, Mã: ngựa… Chi: chân?
Ngài đã học, và học chữ gì?
Phải chăng học: Như thị ngã văn
Học Phạn Pa-li và Săn-ri
Ngài đã học chữ chi, chữ gì?
- Không! Ngài không học những chữ này
Ngài không học chữ có trên đời
Ngài chỉ học không lời mà thôi
"Vô ngôn" "Vô tự" Ngài học thế
Ngồi gốc cây rừng Ngài chuyên học
Ngài học Người Trời chẳng biết hay
Quỷ Thần Ma Phạm đều chẳng rõ
Muôn thú hàm linh chẳng biết gì
Ngài học "Vô thư" kinh "Vô tự"
Sách mà Ngài học ở hư không
Ngài học bằng lòng rỗng lặng trong
Thuộc làu bài học, Ngài thành Đạo
Ngài thành nên Bụt - Bu-đa ấy
(Tiếng Bụt có ra ở nước Nam
Từ thuở ngày đầu chưa lập quốc
Ghi bằng nhơn đứng và chữ Phất (佛)
Người không biết "Bụt" đọc là "Phật"
Là theo văn chữ của Nho gia
"Bụt" tiếng Phạn ấy là Bu-đa (Buddha)
***
Có chữ diễn dịch lời Đạo lý
Tạm thời để hiểu cái "kia" kìa
Để trừ cái chấp sâu tà kiến
Hầu rõ thế nào chơn thật Ta
Thế nên kinh chữ như de thép
Để mà chặt sắt cắt chì thôi
Lại như gai nhọn để lể gai
Gai bắn ra rồi, gai cũng quăng
Cắt chặt được rồi, de thép thôi
Con đường văn chữ rất tạm thời
Rất là sự tướng rất là giả
Chỉ là ảo thuật, tạm diễn chơi
Khác nào bàn tay có chữ đâu
Tạm mượn ngòi viết quậy chữ hiện
Khi tay quậy viết ra muôn chữ
Tay dừng muôn chữ bặt không thôi
Chữ văn như vậy có thiệt gì
Nên thôi chớ bám nó mà chi
Năm tàn tháng lụn lòng thêm mệt
Đâu bằng quăng ném dứt một khi.
-
36. THUẬT VÌ NGƯỜI
36. THUẬT VÌ NGƯỜI
Đối người xử chúng ta nguyền:
Ra ơn bủa đức gieo duyên tốt lành
Để làm phương tiện độ sanh
Dùng Tình lay Ý chuyển thành Thiện Tâm
Để rồi Trí nhổ chấp lầm
Giúp người giác ngộ dứt mầm khổ đau
Bằng TÂM trong sáng sâu mầu
Bằng Tình chơn thật dãi dầu giúp nhau
Ấy là tám chữ dẫn đầu:
Ơn – cảm, Đức – hoá tinh sâu khôn lường
Tình – lay, Trí nhổ phi thường
Ơn thì bốn món mở đường lợi sanh:
Bố thí, Ái Ngữ, Lợi hành
Đồng sự, cả bốn pháp lành khéo tu
Bốn tốt người cảm thâm sâu
Ấy là Ơn - cảm bước đầu thành công
Lại thêm dùng Đức thong dong
Sống hòa đại Đạo một lòng Định yên
Nói, nín, động, lặng đều Thiền
Công Minh, Chính Trực hiện tiền uy quang
Tinh tấn, Dũng mãnh, Nhẫn an
Từ - Bi - Hỷ - Xả luôn ban cho người
Ấy là Đức – hóa vì đời
Như đây TÌNH – TRÍ không rời không xa
Dùng Tình lay cảm người ta
Dùng Trí nhổ diệt nghiệp ma ở người
Chỉ cho chỗ chẳng Trời Người
Chỗ hằng vắng lặng thảnh thơi an nhàn
Để người giác ngộ bình an
Được thôi khổ não, Niết bàn hiện ra
Thuật này, thuật diệu mầu nha !
Gắng mà thực hiện được ta được người
Nhớ:
Chớ dừng ở “Cảm” mà thôi
Vượt TÌNH, TRÍ “HÓA” người thời ngộ ra
Người rõ chân lý cao xa
Mới là xong việc của ta đối người
Và
Việc này là việc vì đời
Ráng mà thanh lọc “cái Tôi” “cái Mình”
Vì người vì chỉ chúng sinh
“Cái Tôi” nhớ cất “cái Mình” ráng quăng
-
37. HUYỀN
HUYỀN
Huyền trong huyền, huyền thật là huyền
Làm sao để nói hết nghĩa “Huyền”!
“Huyền” khó thấy bằng mắt, bằng tai
Bằng ghi nhận giác quan khó nhìn
Năm Căn không thể nào biết tới
Dù bằng Ý cũng khó nhận ra
Thế nên “Huyền” thật khó cảm thông
Chính đương sự khó lòng thông cảm
Huống người ngoài há dễ hiểu cho
Đã không hiểu nên không thông cảm
Mới gây điều rắc rối nọ kia
Gây nên uẩn khúc thành ra chuyện
Mà thực có gì quan trọng đâu
Chẳng có gì đáng nói nọ kia
Chẳng có gì phiền não dày vò
***
Huyền trong huyền, huyền diệu vô cùng
Cái tuyệt đối ngay trong tương đối
Cái phi thường ở chỗ tầm thường
Cái sâu mầu ẩn nơi cạn cợt
Cái cao siêu chính ngay hạ cấp
Cái giải thoát ở trong ràng buộc
Cái sạch trong ngay nơi ô uế
Cái thanh nhàn ở chỗ lu bu
Cái yên bình ở chỗ lao xao
…….
Cái Tánh thật ở ngay Tánh người
Cõi Niết bàn ở tạm tâm sầu
Và,
Cái Đạo mầu ở tại đời thường.
***
Điều này nếu đã tỏ tường
Thì đời đau khổ vô thường qua đi
Vì ngay Năm Uẩn thân ni
Ấy là Thân Pháp tức thì liền Không
Không còn coi trọng Thân lòng
Không còn có cảnh ẵm bồng đeo mang
Tấm Thân chẳng phải là vàng
Chẳng vì trân quý chẳng màng lợi danh
Danh thơm tiếng tốt chẳng thành
Cái uy cái tín, mong giành cũng thôi
Một đời chỉ sống bằng Tôi
Tôi là “Không cái”, ôi ! Thôi ! Cần gì
Cần gì ba chuyện thị phi
Phải quấy xấu tốt cần gì thứ chi
Cần gì Thiện Ác hợp ly
Cần gì những việc sầu bi theo đời
Sống thì cứ sống như chơi
Trò chơi thì vậy tùy thời mà chơi
Bao nhiêu tập quán ở đời
Bao nhiêu nết thói ta thời thông qua
Cần chi theo nếp người ta
Người mê người chấp người đà lầm to
(“Tập quán”, “nề nếp” éo o
Chỉ là bày đặt vò vo của người
Chỉ là vọng chấp rối bời
Chỉ là Niệm dấy, lòng thời nhiễm dơ
Có gì hay đẹp mà mơ
Có gì đúng thật ?! - Lờ mờ lơ mơ !)
Nào hay Sen ở bùn nhơ
Nào hay Ngọc sáng là nhờ đá ra
Hương sen ngát tự bùn nha!
Đá tuy xấu xí nhưng mà Ngọc sanh
Tìm hương từ chốn bùn tanh
Cũng là rất cực mới thành được công
Tìm ngọc từ đá không không
Để mà biết được là hông phải đùa
Có ngọc công chẳng phải vừa
Nhọc thân mệt trí bao mùa nắng mưa
(Dù vậy chớ có dây dưa
Tìm Ngọc ngoài đá, nhặt thưa tìm hoài
Dù tìm đến tột trời mây
Ngọc không thể thấy càng dây điên khùng
Tìm Sen cũng chớ lìa bùn
Ngoài bùn tìm ở thủy tinh vàng ròng
Tìm nơi lầu cát điện rồng
Sen không thể có trắng hồng hương đưa)
Việc nào giá nấy chẳng thừa
Trò chơi trả giá cho vừa mà chơi
Đã chơi, khóc mếu cũng chơi
Chơi cho xong trận hết đời cũng chơi
Khi chơi biết giữ thảnh thơi
Biết trò chơi ảo biết rồi thời thôi
Đường đi trong chốn rối bời
Hãy đi đừng bước thì đời vui ra.
***
Ngoài Trần riêng có cái Ta
Ấy là Ta ngốc Ta đà sanh ngu
Nên sinh các việc lu bu
“Ngoài Trần không nhiễm” ấy tu chưa cùng
Ấy là ở chỗ lưng chừng
Thấy chưa tột đỉnh, lừng khừng oan ương.
“Nơi Trần không nhiễm” không vương
Mới là cao tột mười phương là mình
Khác nào vũ trụ không hình
Rỗng rang không trống “Không” sinh khắp miền
Hư không từ chốn ngoài hiên
Trong nhà trong cửa, đâu riêng nơi nào
Từ quý tiện đến thấp cao
Bàn thờ nhà bếp nơi nao cũng vào
Cầu tiêu nhà tắm vũng ao
Hư không tràn ngập – “không” nào có sinh
Hư không ở mọi vật hình
Nhưng không nhiễm vật vẫn mình “Vô sinh”
“CƯ TRẦN BẤT NHIỄM” thần tình
Là Huyền là Diệu, Tánh Linh Diệu Huyền
Sống đời không nhiễm tùy duyên
Đói ăn, khát uống, não phiền thôi đi
Xuống lên bao cõi sá gì
Thiên đường, địa ngục buộc chi lo gì
Nghĩa “Huyền” rất mực huyền vi
Ai mà rõ được, “Đạo” thì chính đây.
16 tháng Giêng, Canh Thìn (2000)
-
38. KINH VÔ TỰ
38. KINH VÔ TỰ
Trang kinh Vô tự eo ơi !
Đọc hoài không hết, bao đời mới xong ?!
Đọc kinh bởi tự nơi lòng
Đọc trên lá bối, giấy hồng, pelure
Đọc trên lá chuối lá tre
Đọc trên sông nước tàu bè xuồng ghe
Đọc trên cỏ nội nắng khoe
Đọc trên mây gió lối về trăng sao
Hư không bàng bạc đọc vào
Hằng sa vạn vật chừng nào đọc xong
Eo ơi ! Vô tự mênh mông
Đọc không thể hết đừng hòng đọc xong !
Dù kinh Vô tự không dòng
Không văn không chữ thể đồng hư không
Đọc kinh chớ há ra công
Khi đọc nên đọc bằng lòng rỗng không
***
Bài kinh Vô tự vời trông
Có từ không kiếp cõi hồng còn trơ
Bài kinh Vô tự sờ sờ
Vậy mà không thấy không rờ được chi
Có khi lại thấy tức thì
Có khi lật tới lật lui lật hoài
Lật xuôi lật ngược thấy chi !
Chỉ vì óc rối đen sì thấy đâu
Bài kinh Vô tự khó thâu
Khó biên khó chép khó xâu thành hình
Khó thật khó ! Nó rộng thinh
Khó gom khó tóm khó nhìn đến nơi
Bài kinh Vô tự chơi chơi
Vậy mà khó đọc khó coi khó trì
Dẫu đọc được khó nghĩ suy
Khó mà đọc hết ạch ì mệt sao
Thuộc một lời, trật đôi câu
Học hoài không thuộc, chừng nào xong đây ?!
Dù rằng lời lẽ kinh hay!
“Dứt lòng sanh tử dứt rày tử sinh”
“Dứt lòng dạ khổ linh đinh”
“Dứt mầm sống chết dứt tình Nghiệp khiên”
“Dứt tâm điên đảo đảo điên”
“Dứt vô minh ám dứt liền nhân duyên…”
Nên tuy rằng khó cũng nguyền
Chăm lo cần học, học chuyên học hoài
Cũng may bài học không ngoài
Quanh ta đâu cũng là bài học đây
Ta quyết học học mỗi ngày
Mỗi giờ mỗi khắc chẳng phai tấc lòng
Đến khi Kinh với Ta lồng
Đoanh vây một thể quyện tròn trong nhau
Cùng mà gắng học mau mau
Bài kinh đơn giản siêu cao vô cùng
Tạo vật vốn dĩ thủy chung
Sinh Ta, sinh Vật lại cùng sinh Kinh
Đây là ân huệ tối linh
Để mà hóa giải linh đinh kiếp người
Hãy mau đón nhận mỉm cười
Như Ngài Ca Diếp tiếp lời Vô ngôn.
-
39. TẤM THÂN
39. TẤM THÂN
“Thân Ta nào phải của Ta”
Lý này khó thấy nhận ra mới tài
Không hay làm lắm điều sai
Giết hại cướp của tham tài tham dâm
Nói gian nói dối dữ dằn
Nói thêu nói dệt nói hằn thù nhau
Nói như dao bén kiếm đao
Giết người bằng lưỡi hại nhau bằng mồm
Miệng hùm nọc rắn răng chồn
Ngoặm cắn nhai nuốt thịt dồn đầy Thân
Vọng dấy nổi Si Tham Sân
Khiến Ta điêu đứng chết lần vì Thân
Thân ôi! Thân hỡi là Thân!!!
Chết rồi bị đọa cõi trần thương đau
Vậy mà Ta có tỉnh nào!
Thân thành cát bụi thì đâu là mình?
Mà lâu đã nhọc xác hình
Tạo lắm tội tình đọa lạc hà sa
Tấm Thân đâu phải của Ta
Nó là Tứ đại làm ra kia mà
Là Đất, Nước, Gió, Lửa ra
Nên Thân khi đói đất và nước vô
Khi lạnh sưởi lửa hong khô
Ngột ngạt đem gió khí ô-xy vào
Và rồi đi tiểu nước trào
Đại tiện phẩn kết thành cao đất mầu
Thở hơi gió tắt đèn dầu
Nhiệt thân 370 bách phân lửa nồng
Rõ ràng Thân Tứ đại không
“Của Ta” ai biết Thân trong cái gì?
Thân Ta nào của Ta chi!
Thế nên khi tiếng thở khì đứt hơi
Gió lại về gió rong chơi
Lửa theo đà gió ra phơi mặt trời.
Thân còn lạnh tẻo chết rồi
“Của Ta” sao lại không ngồi dậy đi?
Thế rồi lại rã thây thi
Nước tuôn về nước đất thì đất ôm
Thân Ta đâu? - chỉ mồ chôn
“Thân Ta” đâu mất, vong hồn xuống lên?
***
Với Thân chớ khá có quên
“Thân ta Tứ đại làm nên giả mà”
Lại “của Ta” sao lại tách xa
Khiến không thể được bịnh, già bảo hông
Mà hông có được đâu hòng
Rồi bảo đừng chết, nó hông nghe vào
Vẫn chết cứ chết, buồn sao!
Biết bao nhiêu thứ nói nào có nghe
Dù rằng ta đã bao che
Cho ăn uống mặc phủ phê đủ điều
Cho danh phận hưởng thụ nhiều
Cho tài cho sản chuộng chiều biết bao
Cho ăn cho học chuốt trau
Làm đẹp đủ thứ mà nào có nghe
Bảo ban năn nỉ, im re
Không thèm đếm xỉa chạy te bỏ mình
Bỏ mình chẳng chút lưu tình
Đi kêu quỷ sứ đến rinh vô tù!
Vì rằng vì nó mà ngu
Gian tham trộm cướp lu bu đủ điều
Giết người dối gạt dệt thêu
Tà dâm nham hiểm tạo nhiều oán hung
Tham Sân làm ác không cùng
Để lo cho nó cho chung tình mình
Ai ngờ nó lại bạc tình
Nó như đứa giặc nhà mình không hay
Nghĩ ra nó tệ ác thay!
Còn thua con chó hằng ngày mình nuôi
Chó nuôi cơm nguội đòn roi
Không bao giờ phản luôn coi giữ nhà
Luôn luôn trọng nể nghe ta
Sủa, la đừng sủa nó là im ngay
Bảo lui bảo tới ngoan thay
Ai như “Thân” nó có tai mà lờ
Chuyện Thân như vậy hết ngờ
Rõ ràng là thế, Thân nào đâu ta !
Hãy mau sớm tỉnh hay ra
Tấm Thân khi sống làm ta khổ nhiều
Nhờ Thân sướng chẳng bao nhiêu
Sướng là để khổ thêm điều khê nhiêu
Đến khi Thân chết Thân tiêu
Cũng làm ta khổ sáu chiều xuống lên
“Có Thân nên khổ vì Thân”
Điều này đã được cổ nhân nói nhiều
“Thân là rừng tội” khó siêu
Tam đồ đọa lạc liu điu khổ nàn
Khi ta chưa hiểu Đạo vàng
Thì Thân như vậy rõ ràng chẳng sai
***
Dầu cho sáng Đạo Như Lai
Thì Thân cũng thế không phai khác gì
Thân là Tứ đại cũng y
Cũng là giả tạm khác chi đâu nào
Cũng Già, Bệnh, Chết như nhau
Cũng tan cũng rã chậm mau chứ gì
Có khác một chút, nhờ y
Nương vào hành Đạo tạm thời như ghe
Để qua sông ái dòng mê
Qua rồi thì bỏ chẳng nê bên mình
Và nhờ vào nó độ sinh
Nhờ mà không bám không vin chặt vào
Rõ ràng phương tiện chẳng nao
Ta đây chủ nó làm sao quậy mình
Giờ đây ngoan ngoãn thực tình
Không còn ngổ ngáo hại mình như xưa
Đúng như xe chạy thuyền đưa
Đi đâu đưa đó nhặt thưa mặc lòng
Giờ đây nó hết đèo bồng
Hông còn nhõng nhẽo lộng lồng nọ kia
Trở thành tôi tớ sớm khuya
Trung thành tận tụy giúp ta miệt mài
Đói cho ăn uống tiêu xài
Bịnh cho uống thuốc nhưng không cưng chìu
Cư xử trong khoảng “biết điều”
Nhờ vào nên phải ít nhiều chăm lo
Tham dục thì miễn chẳng cho
Lợi danh, tình chấp ngăn rào nhỏ to
Đến khi già bệnh xuôi cò
Thì cho nó chết nó vô quan tài
Hay là cho nó sống dai
Hoặc là chết đứng chết ngồi mặc ta
Chưa chết bắt chết được va
Chết rồi giữ xác như ta còn hoài
Đối Thân như đối chiếc giày
Lành đi hư tuột hết xài bỏ ra
Bỏ giày chân trắng nõn da
Không còn bó chẹt khỏe a! Vui lòng
Thong dong Ta với Trời Không
Thênh thênh trong lặng lòng Trong Niết Bàn.
-
40. NIỆM VÀ BA THỪA
40. NIỆM VÀ BA THỪA
Trong Đạo Phật có ba Thừa: Tiểu Thừa, Đại Thừa, Tối thượng Thừa (Phật Thừa)
Có Thừa ấy tức từ có Niệm.
Do giải quyết Niệm mà thành ra có Thừa.
- Thấy Niệm là thật, diệt Niệm đi đó là Tiểu Thừa.
Ấy là hàng Thanh Văn.
- Thấy Niệm là huyễn, là giả mà ly Niệm.
Ly Niệm chứng Như huyễn tam muội là Đại Thừa.
Ấy tức là Bồ Tát Thừa.
- Đối với Niệm không thấy thật cũng không thấy giả.
Chỉ là thấy Tánh của Niệm thôi.
Tánh Niệm là Tánh KHÔNG.
Ấy chính là Tối thượng Thừa hay gọi là Phật Thừa.
Tiểu Thừa, Đại Thừa, Tối thượng Thừa đều nhằm vô hiệu hoá Niệm.
Vì Niệm là gốc của khổ đau.
Tuy nhiên ba lối nhìn không giống nhau cùng ba lối giải quyết về Niệm có khác nhau.
Thấy Niệm là thiệt, ấy Thanh Văn.
Thấy Niệm là giả huyễn, ấy Bồ Tát.
Thấy Tánh Niệm là KHÔNG, ấy chính là Phật.
-
41. PHỤ LỤC: PHẬT – TÂM – TRÍ HUỆ - NHƯ LAI
41. PHỤ LỤC
(Trích từ Kinh HOA NGHIÊM)
PHẦN I
(Kinh HOA NGHIÊM Tập 2 – trang 93)
VĂN THÙ SƯ LỢI Bồ Tát ứng thinh nói kệ:
Nếu dùng oai đức, sắc, chủng tộc
Để thấy đấng Điều Ngự trong đời
Đây là mắc bịnh thấy điên đảo
Người này chẳng biết pháp tối thắng.
Như Lai sắc, hình, những tướng tốt
Tất cả thế gian chẳng lường được
Ức na do kiếp đồng nghĩ lường
Sắc tướng, oai đức chuyển vô biên
Như Lai chẳng lấy tướng làm thể
Chính là pháp tịch diệt Vô tướng
Thân tướng oai nghi đều đầy đủ
Thế gian tùy thích đều được thấy
Phật pháp vi diệu khó lường được
Tất cả ngôn thuyết chẳng đến được
Chẳng phải hòa hiệp, bất hòa hiệp
Thể Tánh tịch diệt không các tướng
Phật thân Vô sanh, ngoài hí luận
Chẳng phải Uẩn tụ, pháp sai biệt
Được sức tự tại thấy quyết định
Sở hành vô úy lìa ngôn thuyết.
Thân Tâm đều bình đẳng
Trong ngoài đều giải thoát
Nhiều kiếp trụ chánh niệm
Vô trước, không hệ phược
Bực Tâm sạch sáng suốt
Sở hành không nhiễm trước
Trí nhãn đều cùng khắp
Rộng lớn lợi Chúng sanh.
Một thân là Vô lượng
Vô lượng lại là một
Rõ biết các thế gian
Hiện hình khắp tất cả
Thân này không từ đâu
Cũng không nơi tích tụ
Vì chúng sanh phân biệt
Thấy Phật có nhiều thân.
Tâm phân biệt thế gian
Tâm này vô sở hữu
Như Lai biết pháp này
Thấy thân Phật như vậy
*
Như Lai rất tự tại
Siêu thế vô sở y
Đủ tất cả công đức
Độ thoát nơi các cõi.
Không nhiễm cũng không trước
Vô tưởng vô y chỉ
Thể Tánh không thể lường
Ai thấy cũng ca ngợi.
Quang minh khắp thanh tịnh
Trần lụy đều rửa bỏ
Bất động lìa hai bên
Đây là Trí Như Lai.
Nếu ai thấy Như Lai:
Thân tâm lìa phân biệt
Thời với tất cả pháp
Thoát hẳn những nghi trệ.
Trong tất cả thế gian
Nơi nơi chuyển pháp luân
Vô tánh vô sở chuyển
Đạo sư phương tiện nói.
Nơi pháp không nghi lầm
Tuyệt hẳn những hí luận.
Chẳng sanh tâm phân biệt
Là niệm Phật Bồ đề.
Rõ biết pháp sai biệt
Chẳng chấp trước ngôn thuyết
Chẳng có một cùng nhiều
Đây là thuận lời Phật.
Trong nhiều không một Tánh
Một cũng không có nhiều
Bỏ cả hai như vậy
Khắp vào Phật công đức.
Chúng sanh và quốc độ
Tất cả đều tịch diệt
Vô y vô phân biệt
Vào được Phật Bồ đề.
Chúng sanh và quốc độ
Đồng dị đều chẳng được
Khéo quán sát như vậy
Là biết nghĩa Phật pháp.
Kinh HOA NGHIÊM Tập 2 – Trang 271
TRÍ HUỆ Bồ Tát nói kệ:
Tôi nghe pháp tối thắng
Liền sanh Trí huệ quang
Chiếu khắp mười phương cõi
Đều thấy tất cả Phật
Trong đây không chút vật
Chỉ có danh tự giả
Nếu chấp có Ngã Nhơn
Thời là vào đường hiểm.
Những phàm phù chấp trước
Chấp thân là thiệt vó
Phật chẳng phải sở thủ
Họ trọn chẳng thấy được.
Người này không huệ nhãn
Chẳng thể thấy được Phật
Ở trong vô lượng kiếp
Lưu chuyển biển sanh tử.
Hữu tránh nói sanh tử
Vô tránh là Niết bàn
Sanh tử và Niết bàn
Cả hai chẳng nói được.
Nếu theo danh tự giả
Chấp lấy hai pháp này
Người này không đúng thật
Chẳng biết Phật diệu đạo.
Nếu móng tưởng như vầy:
“Đây Phật, đây tối thắng”
Điên đảo chẳng phải thật
Chẳng thấy được Chánh Giác
Biết được thật thể này
Tướng Chơn như tịch diệt
Thời thấy đấng Chánh Giác
Vượt khỏi đường ngôn ngữ.
Ngữ ngôn nói các pháp
Chẳng hiểu được thiệt tướng
Bình đẳng mới thấy được
Như Pháp, Phật cũng vậy.
Thời quá khư chư Phật
Vị lai và hiện tại
Dứt hẳn gốc phân biệt
Thế nên gọi là Phật.
Kinh HOA NGHIÊM Tập 2 – Trang 438
HẠNH LÂM Bồ Tát nói kệ:
Ví như mười phương cõi
Tất cả những địa chủng
Tự Tánh vốn không có
Không chỗ nào chẳng khắp
Thân Phật cũng như vậy
Cùng khắp các thế giới
Những sắc tướng sai khác
Không dừng không chỗ đến.
Chỉ do vì các nghiệp
Nói tên là chúng sanh
Mà có được các nghiệp.
Nghiệp Tánh vốn không tịch
Chúng sanh chỗ y chỉ
Khắp làm các hình sắc
Cũng lại không chỗ đến.
Những hình sắc như vậy
Nghiệp lực khó nghĩ bàn
Liễu đạt căn bổn kia
Nơi trong không chỗ thấy.
Thân Phật cũng như vậy
Chẳng thể nghĩ bàn được
Những sắc tưởng sai khác
Hiện khắp mười phương cõi.
Thân chẳng phải là Phật
Phật cũng chẳng phải thân
Chỉ lấy Pháp làm thân
Thông đạt tất cả pháp
Nếu thấy được thân Phật
Thanh tịnh như pháp Tánh
Với tất cả Phật pháp
Người này không nghi lầm
Nếu thấy tất cả pháp
Bổn Tánh như Niết bàn
Đây thời thấy Như Lai
Rốt ráo vô sở trụ
Nếu tu tập chánh niệm
Sáng tỏ thấy Chánh Giác
Vô tướng vô phân biệt
Đây gọi Pháp vương tử.
Kinh HOA NGHIÊM Tập 2 – Trang 440
GIÁC LÂM Bồ Tát nói kệ:
Ví như họa sư kia
Phân bố những màu sắc
Hư vọng lấy dị tướng
Đại chủng không sai khác.
Trong đại chủng không sắc
Trong sắc không đại chủng
Cũng chẳng ngoài đại chủng
Mà có được màu sắc.
Trong TÂM không màu vẽ
Trong màu vẽ không TÂM
Nhưng chẳng rời nơi TÂM
Mà có được màu vẽ.
TÂM đó luôn chẳng trụ
Vô lượng khó nghĩ bàn
Thị hiện tất cả sắc
Đều riêng chẳng biết nhau.
Ví như nhà họa sư
Chẳng biết được Tự TÂM
Mà do TÂM nên vẽ
Các pháp Tánh như vậy.
Tâm như nhà họa sư
Hay vẽ những thế gian
Ngũ Uẩn từ TÂM sanh
Không pháp gì chẳng tạo
Như TÂM, Phật cũng vậy
Như Phật, chúng sanh đồng
Phải biết Phật cũng TÂM
Thể Tánh đều vô tận.
Nếu người biết TÂM hành
Bảo khắp các thế gian
Người nay thời thấy Phật
Rõ Phật chơn thật Tánh
TÂM chẳng trụ nơi thân
Thân chẳng trụ nơi TÂM
Mà làm được Phật sự
Tự tại chưa từng có.
Nếu người muốn tỏ biết
Tất cả Phật ba đời
Phải quán Pháp giới Tánh
Tất cả duy TÂM tạo.
Kinh HOA NGHIÊM Tập 2 – Trang 442
TRÍ LÂM Bồ Tát nói kệ:
Sở thủ chẳng thể lấy
Sở kiến chẳng thể thấy
Sở văn chẳng thể nghe
Nhứt tâm bất tư nghị.
Hữu lượng và vô lượng
Cả hai chẳng thể lấy
Nếu có ai muốn lấy
Rốt ráo chẳng thể được.
Chẳng nên nói mà nói
Đây là tự khi dối
Việc mình chẳng thành tựu
Chẳng khiến chúng vui mừng.
Có người muốn khen Phật
Vô biên diệu sắc thân
Tất cả vô số kiếp
Không thể thuật hết được.
Ví như châu như ý
Hay hiện tất cả màu
Không màu mà hiện màu
Chư Phật cũng như vậy
Lại như hư không sạch
Phi sắc chẳng thấy được
Dầu hiện tất cả sắc
Không ai thấy hư không.
Chư Phật cũng như vậy
Hiện khắp vô lượng sắc
Chẳng phải cảnh của TÂM
Tất cả chẳng thấy được.
Dầu nghe tiếng Như Lai
Âm thinh chẳng phải Phật
Cũng chẳng ngoài âm thinh
Biết được đấng Chánh Giác.
Bồ đề không lai khứ
Lìa tất cả phân biệt
Thế nào ở trong đó
Tự nói là thấy được.
Chư Phật không có Pháp
Phật chỗ nào có nói
Chỉ theo tự tâm chúng
Cho rằng Phật nói Pháp.
Kinh HOA NGHIÊM Tập 2 – Trang 437-438
LỰC LÂM Bồ Tát nói kệ:
……
Các Uẩn có Tánh gì
Tánh Uẩn chẳng diệt được
Vì vậy nói Vô sanh
Phân biệt các Uẩn này
Tánh nó vốn không tịch
Vì Không, nên chẳng diệt
Đây là nghĩa Vô sanh.
……
PHẦN HAIA. PHẬT – TÂM – TRÍ HUỆ - NHƯ LAI
(Trích Tập 6 KINH HOA NGHIÊM)
____________
(Trang 132)
Chư Phật tử! Trí huệ của đức Như Lai không chỗ nào là chẳng đến – vì không một chúng sanh nào mà chẳng có đủ Như Lai Trí huệ, chỉ do vọng tưởng điên đảo chấp trước nên không chứng được. Nếu rời vọng tưởng thời Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí liền hiện tiền.
(Trang 134)
Đức Như Lai do Trí nhãn thanh tịnh xem khắp pháp giới tất cả chúng sanh mà nói rằng:
Lạ thay! Lạ thay! Tại sao các chúng sanh này có đủ Trí huệ Như Lai, mà ngu si mê lầm chẳng hay chẳng thấy. Ta nên đem Thánh Đạo dạy cho họ lìa hẳn vọng tưởng chấp trước. Từ trong thân họ thấy được Trí bực Như Lai quảng đại như Phật không khác.
(Trang 136)
Như nước chảy ngầm
Ai đào đều được nước
Nước không niệm, vô tận
Công lực khắp mười phương
Phật Trí cũng như vậy
Ở khắp TÂM chúng sanh
Nếu ai siêng tu hành
Mau được Trí quang minh
(Trang 147)
Chư Phật tử! Như Chơn như: tiền tế bất sanh hậu tế bất động, hiện tại bất khởi. Như Lai hạnh cũng vậy: chẳng sanh, chẳng động, chẳng khởi.
(Trang 152)
Đại Bồ Tát phải biết đức Như Lai thành đẳng chánh giác nơi tất cả nghĩa không chỗ quán sát, nơi pháp bình đẳng không chỗ nghi lầm, không hai, không tướng, không làm, không thôi, không lượng, không mê, rời xa hai bên, an trụ nơi trung đạo, vượt khỏi tất cả văn tự ngôn thuyết.
(Trang 153)
Chư Phật tử! Phật Bồ đề tất cả văn tự chẳng tuyên được, tất cả âm thanh chẳng đến được, tất cả ngôn ngữ chẳng nói được, chỉ tùy chỗ sở nghi mà phương tiện khai thị.
(Trang 154)
Chư Phật tử! Lúc đức Như Lai thành Chánh giác, ở trong TÂM Như Lai thấy khắp tất cả chúng sanh thành Chánh giác. Nhẫn đến thấy khắp tất cả chúng sanh nhập Niết bàn đều đồng một Tánh. Một Tánh đây chính là không tất cả Tánh.
Không những Tánh gì? – Không Tánh tướng, không Tánh tâm, không Tánh sanh, không Tánh diệt, không Tánh ngã, không Tánh phi ngã, không Tánh chúng sanh, không Tánh phi chúng sanh, không Tánh Bồ đề, không Tánh pháp giới, không Tánh hư không, cũng lại không Tánh Chánh Giác. Vì biết tất cả pháp đều không Tánh nên được nhứt thiết Trí đại bi tương tục cứu độ chúng sanh.
(Trang 158)
Chư Phật Tử! Đại Bồ Tát phải biết TÂM mình, niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác, vì chư Phật Thế Tôn chẳng rời TÂM này mà thành Chánh Giác. Như TÂM mình, TÂM của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Chánh Đẳng Chánh Giác, rộng lớn cùng khắp không chỗ nào chẳng có, chẳng rời, chẳng dứt, không thôi nghỉ, nhập pháp môn phương tiện bất khả tư nghì.
B. TÌNH TRẠNG CHỨNG NGỘ - THÀNH PHẬT(Trang 191) PHẨM LY THẾ GIAN
*DIỆU NGỘ VIÊN MÃN
Tuyệt hẳn hai hạnh (dứt có 2). Đạt pháp tướng.
- An trụ nơi chỗ trụ của Phật
- Được bình đẳng
- Đến chỗ không chướng ngại, pháp (các thứ) chẳng thể chuyển.
- Chỗ làm vô ngại lập bất tư nghì.
- Thấy khắp tam thế
- Thân hằng đầy khắp tất cả quốc độ
- Trí hằng sáng thấu tất cả pháp, rõ tất cả hạnh, hết tất cả nghi.
- Thân không thể lường, Trí đồng với chỗ cầu của tất cả Bồ Tát.
- Đến bỉ ngạn rốt ráo không hai của Phật, đầy đủ bình đẳng giải thoát của Như Lai.
- Chứng bực Phật bình đẳng thường không trung biên, tột nơi pháp giới, khắp hư không giới.
-
42. HẠNH CỦA ĐẠI BỒ TÁT
10 HẠNH CỦA ĐẠI BỒ TÁT
Phẩm Thập Hạnh – Kinh Hoa Nghiêm
1 - HOAN HỶ HẠNH (Bố thí): Làm đại thí chủ, bố thí tất cả. Lòng bình đẳng, không hối tiếc, chẳng trông mong quả báo, tiếng tăm, lợi tức. Chỉ vì lợi chúng sanh, vì học tập bổn hạnh của chư Phật. Không Ngã tưởng, Nhơn tưởng, Chúng sanh tưởng, Thọ giả tưởng. Không thấy tự thân, vật bố thí, người thọ thí. Vì xả bỏ Thân Tâm mà bố thí.
2 - NHIÊU ÍCH HẠNH (Trì giới): Hộ trì tịnh giới, lòng không nhiễm trước Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc. Không vì ngũ dục, thà bỏ thân mạng chớ trọn không làm não hại chúng sanh. Tự giải thoát và khiến người được giải thoát.
3 - VÔ VI NGHỊCH HẠNH (Nhẫn nhục): Khiêm hạ, cung kính, chẳng tự hại, chẳng hại người, chẳng hại mình người. Dầu nay tôi bị khổ nhục, tôi phải nhẫn thọ, vì thương xót chúng sanh, vì lợi ích chúng sanh, vì để tự giác ngộ và khiến người giác ngộ. Phải biết thân này không tịch, không ngã sở, không thiệt, tánh trống rỗng, không hại.
4 - VÔ KHUẤT NHIỄU HẠNH (Tinh tấn): Trọn chẳng não hại chúng sanh mà tinh tấn, chỉ vì dứt tất cả phiền não mà tinh tấn, chỉ vì biết tất cả chúng sanh chết đây sanh kia mà tinh tấn.
5 - LY SI LOẠN HẠNH (Thiền định): Thành tựu chánh niệm, tâm không tán loạn, kiên cố bất động, tối thượng thanh tịnh rộng lớn vô lượng không có mê hoặc. Để được chánh niệm chẳng làm não loạn một chúng sanh khiến họ mất chánh niệm, chẳng hoại chánh pháp, chẳng đoạn thiện căn, Tâm luôn luôn tăng trưởng Trí Huệ rộng lớn.
6 - THIỆN HIỆN HẠNH (Trí huệ - Phương tiện - Từ bi): Ba nghiệp Thân, Ngữ, Ý đều thanh tịnh, trụ và thị hiện đều Vô Sở Đắc. Biết được ba nghiệp đều vô sở hữu. Vì không hư vọng nên không hệ phược. Chỗ thị hiện đều vô tánh vô y. Trụ Tâm như thiệt, trụ nơi chánh vị chơn như pháp Tánh. Phương tiện xuất sanh mà không nghiệp báo bất sanh bất diệt, trụ Niết bàn giới, trụ tịch tịnh, trụ nơi Tánh Chơn thiệt vô Tánh, đường ngôn ngữ dứt… là phương tiện thiện xảo, chẳng lìa TÂM Đại Bồ Đề, luôn chẳng thối chuyển tâm giáo hóa chúng sanh, càng thêm tăng trưởng TÂM đại Từ bi, làm chỗ nương về cho tất cả chúng sanh.
7 - VÔ TRƯỚC HẠNH (Không dính mắc): Thấy Phật nghe pháp và thấy Bồ Tát chúng hội trang nghiêm đều không chấp trước. Thấy thế giới uế trược cũng không chán ghét.
Vì trong Phật Pháp: Không cấu – Không tịnh, Không tối – Không sáng, Không khác – Không đồng, Không thiệt – Không vọng, Không an ổn – Không hiểm nạn, Không chánh đạo – Không tà đạo.
Dầu có ngôn thuyết mà không chấp ngôn thuyết. Vào chúng sanh mà không chấp chúng sanh đạo. Rõ biết tam muội, hay nhập hay trụ mà nơi tam muội tâm không chấp trước.
Niệm niệm rõ thấu tất cả Phật Pháp. Chánh niệm hiện tiền không chấp lấy.
8 - NAN ĐẮC HẠNH (Khó được): Thành tựu căn lành khó được, căn lành khó phục, căn lành tối thắng, căn lành oai đức lớn, căn lành đồng một Tánh với tất cả Phật.
Tận tất cả kiếp lòng không mệt mỏi, với tất cả khổ chẳng sanh nhàm lìa, chỗ tất cả ma không bị dao động.
Bồ Tát giáo hóa chúng sanh không cùng tận, mà ở thế gian thường trụ chẳng diệt… chẳng rời Phật trụ, chẳng trái thế pháp, hiện khắp thế gian mà chẳng nhiễm trước thế gian.
9 - THIỆN PHÁP HẠNH (Pháp lành): Vì tất cả thế gian Trời Người Ma… mà làm ao pháp thanh lương, nhiếp trì Chánh Pháp, chẳng dứt Phật chủng.
Bồ Tát có thể thuyết các Pháp cho chúng sanh mà nơi ngữ ngôn vẫn không phân biệt.
Bồ Tát là nhà dìu dắt của tất cả chúng sanh vì khiến họ được Vô thượng giải thoát; là Thầy của tất cả chúng sanh vì khiến họ vào Pháp chơn thiệt, là ngọn đèn của tất cả chúng sanh vì khiến họ thấy rõ nghiệp báo, là ánh sáng của tất cả chúng sanh vì khiến họ soi rõ Diệu Pháp thậm thâm, là ánh sáng của tất cả các loài vì thị hiện Như Lai tự tại.
10 - CHƠN THIỆN HẠNH: Thành tựu lời chắc thật đệ nhứt, có thể làm đúng như lời, có thể nói đúng như làm.
Tôi phải làm cho tất cả chúng sanh trước được vô thượng Bồ đề vô dư Niết bàn rồi sau tôi sẽ thành Phật. Chẳng phải chúng sanh thỉnh tôi phát Tâm, tôi tự vì chúng sanh mà làm bạn. Chẳng chờ thỉnh, muốn khiến tất cả chúng sanh trước đầy đủ căn lành chứng Nhứt thiết trí…
Vì Bồ Tát này không rời bỏ bổn nguyện nên được vào bậc Vô thượng Trí huệ trang nghiêm, lợi ích chúng sanh khiến đều đầy đủ.
Chớ tỏ vẻ ta đây Từ Bi !
Hãy sống bằng Trí Huệ chân chính
Sẽ có Từ Bi chân chính.
Mục lục
- 1. KINH TÂM MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
- 2. THUẬT SỐNG SIÊU VIỆT
- 3. BỔN TÂM
- 4. TÁNH – TÂM – NGỘ - TU
- 5. TỨ TƯỚNG
- 6. TU
- 7. TU SAO?
- 8. Ý NGHĨA TU
- 9. TU THEO ĐƯỜNG PHẬT
- 10. HÀNH TRÌNH KHÔNG ĐIỂM TỚI
- 11. BIẾT – HAY BIẾT
- 12. SỐNG SAO TU VẬY
- 13. PHẬT – MA – TA
- 14. TU VÀ MỘNG
- 15. PHẬT PHÁP KHÔNG NHIỀU
- 16. LUÔN THẤY LỖI MÌNH
- 17. SỐNG TU
- 18. NGƯỜI BÌNH THƯỜNG
- 19. TẬP TRUNG
- 20. SỌ NGƯỜI THẬP CHÉO
- 21. ĐỐI NHÂN XỬ THẾ
- 22. TÙY HỶ
- 23. TU SAO LÀ ĐÚNG
- 24. TU VÌ ĐÂU?
- 25. SỐNG
- 26. TÁNH VÀ NIỆM
- 27. TÂM ĐỘC ÁC
- 29. THỦ ĐOẠN, TÂM LÝ
- 30. CÁI TÔI
- 31. ĐỜI TU NHƯ MỘT CÂY TRE
- 32. TA LÀ GÌ ?
- 33. ĐỂ ĐƯỢC YÊN TÂM HÀNH ĐẠO
- 34. CHÍ LÀM TĂNG (II) 1999
- 35. BẤT LẬP VĂN TỰ
- 36. THUẬT VÌ NGƯỜI
- 37. HUYỀN
- 38. KINH VÔ TỰ
- 39. TẤM THÂN
- 40. NIỆM VÀ BA THỪA
- 41. PHỤ LỤC: PHẬT – TÂM – TRÍ HUỆ - NHƯ LAI
- 42. HẠNH CỦA ĐẠI BỒ TÁT
Tìm kiếm
Tác giả
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 05100
- Online: 19