Truyện Đức Tổ Bồ Đề Đạt Ma Từ Ấn Độ Sang Trung Hoa ( Tập 01)

18/11/2024 | Lượt xem:

Danh mục: Sử

Lời đầu sách 

Đức Tổ Bồ Đề Đạt Ma là nhân vật lớn trong Đạo Phật Bắc tông. Ngài là một vị cao Tăng đắc đạo, được gọi là Đức Tổ Bồ Đề Đạt Ma, là vị Tổ thứ 28 của Ấn Độ. Ngài sang Trung Hoa là Sơ Tổ, vị Tổ thứ nhất của Thiền tông Trung Hoa. Ngài cũng là Tổ của nền võ học Trung Hoa. Ngài có cuộc sống khá kỳ bí. Lúc nhỏ

Ngài là một hoàng tử, con vua Hương Chí (Simhavarman II) trị vì đất nước Tamil vùng Nam Ấn Độ. Hoàng tử có tên là Bồ Đề Đa La. Ngài được học Phật pháp từ lúc thiếu thời cùng với hai anh. Lớn lên được vua cha tấn phong làm Thái tử. Hoàng tử không chịu quyết nhường cho anh. Nhưng vua cha vẫn tấn phong cho hoàng tử trở thành Thái tử để tiếp nối ngai vàng. Thái tử Bồ Đề Đa La là một đứa con hiếu hạnh. Tuy vậy, khi nhà vua muốn lập Thái tử phi (cưới vợ) thì Thái tử vẫn khước từ khiến cho vua cha buồn bã không được vui. Sau đó vua cha băng hà, Thái tử Bồ Đề Đa La xin phép mẫu hậu và hai anh được xuất gia để gọi là báo hiếu cho vua cha. Mẹ và hai anh đã ưng thuận, Ngài liền xin Tổ Bát Nhã Đa La, là vị Thầy học của mình, để được xuất gia. Tổ Bát Nhã Đa La, là vị Tổ Thiền tông đời thứ 27, đã hoan hỷ hứa khả.

Tổ Bát Nhã Đa La làm lễ thế phát xuất gia cho Thái tử Bồ Đề Đa La, năm này Ngài 20 tuổi,  và đặt Pháp danh là Bồ Đề Đạt Ma.

Sau đó, Bồ Đề Đạt Ma được Tổ Bát Nhã Đa La truyền y bát để làm Tổ đời thứ 28. Tổ Bát Nhã Đa La đã trao truyền những tinh hoa Phật học cho Bồ Đề Đạt Ma và dặn: “Sau khi Ta diệt độ 60 năm, ông hãy sang Trung Hoa mà giáo hóa”. Tổ Bồ Đề

Đạt Ma đã vâng theo lời Tổ Bát Nhã Đa La ở lại trong nước để hoằng hóa và huân tu, nghiên cứu thâm sâu về Phật Đạo rồi sau đó đi thuyền vượt biển sang đất nước Trung Hoa. Ở Trung Hoa, Ngài làm sáng lên về đạo Chiền và truyền rộng về võ thuật cho người Trung Hoa ở chùa Thiếu Lâm.

Đạo của Ngài phát triển song đôi với môn võ thuật Thiếu Lâm Tự tạo nên một uy danh lớn mạnh trên đất nước Trung Hoa thời bấy giờ ở vào thế kỷ thứ VI.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma quả là một con người siêu việt, bất phàm. Ngài thương yêu chúng sanh, muốn cứu khổ con người, từ đó cho đến sau này:

Đạt Ma đi ngược về xuôi

Giăng tay bốn biển quảy hài ngang vai

Đạt Ma hiển hiện xưa nay

Thênh thang trời đất – ai hay là Ngài.

Đây là một quyển tiểu thuyết để thể hiện tấm lòng lên Đức Tổ. Mong rằng các đọc giả có duyên nên tùy hỷ vào cuộc sống của đời Ngài để được thêm phần ích lợi cho bản thân.

Nam mô Phật.

  • 1. TIỂU SỬ TỔ BỒ ĐỀ ĐẠT MA

    TIỂU SỬ TỔ BỒ ĐỀ ĐẠT MA

    (BODHIDHARMA)

    [440(?)  - 536]

    *   *   *

     

    Ngài người xứ Nam Ấn Độ (India)

    Làng: Kovivakkam

    Thành Phố: Kanchipuram

    Bang: Tamil Nadu (Đối diện nước

    Sri Lanka)

    Giống Dân: Tamil

    Con Đức Vua: Simhavarman II

    (Vua Hương Chí) 

    Mẹ Hoàng Hậu: Simhavarman II 

    Có Hai anh trai:       1- Nguyệt Tịnh Đa La

                                 2- Công Đức Đa La

     Tổ rời Ấn Độ năm 521. Tổ đi thuyền từ bờ biển Chennai, vịnh Bengan mất 3 năm. Năm 524 Tổ tới Quảng Châu, Trung Hoa, triều vua Lương Võ Đế. Năm này Tổ 85 tuổi. Tổ ở Trung Hoa tổng cộng 12 năm cho tới năm 536 Tổ nhập Niết Bàn. Tổ đã truyền TÂM pháp yếu cho người Trung Hoa rất nhiều. Đệ tử truyền Pháp là Nhị Tổ Huệ Khả.

    Sư phụ: Tổ thứ 27 Bát Nhã Đa La (Prajna – Dhara)

    Ngài là Tổ đời 28 Ấn Độ, Sơ Tổ ở Trung Hoa.

    Ngài mất : Năm 536 ở Trung Hoa. Trụ thế: Khoảng 97 năm.

     Tsutomu Kambe (Nhật)>

     

     

     

  • 2. ĐẤT NƯỚC TAMIL

    ĐẤT NƯỚC TAMIL 

    Trước     đời     vua     Hương       Chí (Simhavarman II), trước đời thứ I thì triều đại này không có con trai nối nghiệp.

    Triều đình mới tìm người trong dòng họ để đưa lên kế nghiệp làm vua. Trong dòng họ này có một thanh niên đang trú ngụ ở tại nước Chăm Pa (Chiêm Thành), giáp ranh nước Việt Nam (nay là vùng Phan Rang – Phan Rí của Việt Nam.  

    Chàng trai này được rước về nước Tamil để lên ngai vàng). Đây là triều đại thứ I để sinh ra vua Hương Chí là triều đại thứ II. Và vua Hương Chí đã sanh ra hoàng tử Bồ Đề Đa La tức là Tổ Bồ Đề Đạt Ma sau này.

    Nước Ấn Độ ngày xưa có nhiều nước nhỏ, thì nước Tamil là một nước nhỏ ở cực Nam của Ấn Độ. Nước Tamil có ranh giới riêng biệt, lãnh thổ riêng, có giống người riêng, có ngôn ngữ riêng, không đồng với tiếng Ấn Độ. Đây là nước ngang với nước Sri Lanka và nay thuộc về nước Ấn Độ, thành phố là Kanchipuram, có sân bay Chennai. Ở nơi đây có đạo Hindu, nhà thờ có đến cả ngàn ngôi. Có những nhà thờ do vua Hương Chí thành lập vẫn còn cho đến hôm nay. Nhà thờ đạo Hindu ở JQ85 +48J, Bazar St, Uthiramerur, Tamil Nadu có ghi lại những bích họa gia đình của vua Hương Chí, trong đó có Đức Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi còn là thanh niên cho đến là một ông già thầy tu. Từ ngôi đền này đến quê hương của Tổ Bồ Đề Đạt Ma khoảng 20 cây số. Đây là vùng ruộng nước cây rừng hoang sơ. (Thời điểm 2022, nơi đây đã có dựng bia tưởng niệm Tổ Bồ Đề Đạt Ma do người Nhật thực hiện.

  • 3. VUA HƯƠNG CHÍ VÀ TỔ BÁT NHÃ ĐA LA

    Một buổi trưa hè nắng gắt, một người cỡi ngựa phi nhanh về đường mòn lên núi và phía sau cũng có mấy kỵ mã lao theo vùn vụt, bụi bay mịt mù với vẻ hùng hổ như muốn ăn tươi nuốt sống người phi ngựa trước. Con ngựa hồng chở người áo mão cân đai quẹo vào đường núi với vẻ hốt hoảng và hãi sợ vô cùng. Bấy giờ từ trên núi cao, một bóng người thấp thoáng lao xuống, bốc người trên ngựa bay lên núi. Thân thủ của người này trông rất là siêu tuyệt.

    Nhóm kỵ sĩ phía sau trờ tới nhưng không thấy con ngựa hồng và người cỡi nó đi đâu biến mất. Bốn người kỵ mã vực cương dừng ngựa lại tìm xem dáo dác không thấy tăm hơi. Họ tức tối la hét chửi rủa om sòm, đấm ngực, đấm yên, tỏ ra tức tối vô cùng như vuột mất một món đồ trân bảo. Cuối cùng họ đành phi ngựa quay trở lại, chửi đổng một vài tiếng rồi cùng nhau bỏ đi.

    Trong khi ấy, người trên núi đã bốc người trên lưng ngựa và phi thân đưa về một hang động trên núi cao. Người áo mão cân đai được đặt ngồi trên phiến đá thẳng băng và thở dài nhẹ nhõm. Đã qua một cơn hú vía thoát khỏi tay tử thần. Người bịt mặt nói: “Thưa bệ hạ hãy an lòng, bọn người đó sẽ quay về thôi, không biết chỗ này đâu mà tìm”. Người được gọi là bệ hạ mở lời: “Rất cảm ơn quý hữu đã ra tay tương trợ!” 

    -   Chẳng hay quý hữu là ai? Tên tuổi thế nào? Và làm gì ở đây?

    Người áo đen cúi quỳ, thưa:

    -   Muôn tâu bệ hạ! Thần là một thứ dân ở nơi hang động này để tu hành.

    Nhà vua bước chồm tới, đỡ người áo đen dậy và nói:

    -   Ta cám ơn cứu mạng của quý hữu sâu nặng lắm, chớ nên thi lễ như vậy. Vả lại nơi đây núi rừng chỉ có ta và quý hữu mà thôi, không nên khách sáo, lễ mễ làm gì. Chẳng hay quý hữu tên chi? Cho biết để dễ bề xưng gọi. 

    Nhà vua nhìn quanh hang động, thấy thật là hoang sơ, không có vật dụng gì khác, chỉ có một bàn thờ, thờ một vị thần nào đó vậy thôi.

    Người áo đen liền thưa:

    -   Muôn tâu bệ hạ! Hạ thần có tên Pháp là Bát Nhã Đa La. 

    -   Dám thưa bệ hạ! Có phải Ngài là Đức vua Simhavarman II?

    Nhà vua trả lời bằng ánh nhìn thân thiện:  - Phải! Cũng vì danh hiệu này mà tôi suýt bỏ mạng. Đám người rượt theo tôi là kẻ thù muốn giết tôi để đoạt ngai vàng. May nhờ có quý hữu cứu thoát.

    Ngài Bát Nhã Đa La rót nước mời Đức vua uống. Nhà vua không chần chừ bưng ly nước uống cạn không chút dè dặt vì thân phận mình là vua. Bát Nhã Đa La lại rót thêm một ly nữa. Nhà vua lại uống sạch vì nhà vua đã quá mệt mỏi, đã quá khát nước trên đường thoát hiểm. Nếu không có Bát Nhã Đa La thì giờ này đầu đã rơi khỏi cổ.

    Nhà vua uống được mấy ly nước nghe trong người khỏe ra và tựa vào vách đá khép mắt lim dim. Bát Nhã Đa La thấy thế mời nhà vua vào bên trong một chút và chỉ cho nhà vua một phiến đá dài có thể nằm được. Nhà vua ngã mình trên phiến đá và mở lời cảm ơn Bát Nhã Đa La rồi ngủ thiếp đi một giấc. Trong khi đó Bát Nhã Đa La nhóm bếp để nấu thức ăn. Những thức ăn gồm những rau rừng, măng tre, toàn là những thứ thực vật mà thôi, không có chút thịt cá nào. Bát Nhã

    Đa La làm xong một bữa ăn đạm bạc thì cũng vừa lúc nhà vua thức dậy. Nhà vua nghe mùi thức ăn mà thèm thuồng dòm quanh tìm kiếm thì thấy Bát Nhã Đa La đang khệ nệ bưng một mâm đá mời đức vua dùng bữa. Nhà vua không từ chối, liền ngồi xuống ăn hết sạch thức ăn. Nhà vua khen: “Thức ăn ngon quá! Tuy là ở ngai vàng mà Ta chưa từng được ăn bao giờ. Không cá thịt mà vẫn ngon”. Bát

    Nhã Đa La thốt lời: “Cảm ơn bệ hạ đã quá khen! Đây chỉ là măng tre và rau rừng thôi ạ!”.

    Nhà vua đã no lòng vững bụng, lấy lại tinh thần. Vua bây giờ có khí thế hơn, hỏi chuyện về Bát Nhã Đa La nhiều hơn. Ngài Bát Nhã Đa La vẫn giữ vẻ bình thường của người hành Đạo, Ngài không thố lộ thân phận của mình là ai, là gì. Chỉ bằng cung cách bình dị mà thôi. 

    Nhà vua khi khỏe ra muốn xuống núi tìm về vương cung. Nhưng bên mình không còn tùy tùng, các vệ sĩ đều bị đánh đuổi tan nát, chỉ còn một mình đức vua chạy thục mạng mà thôi. Bây giờ muốn trở về vương cung thì không biết tính thế nào. Ngài Bát Nhã Đa La như đọc được tư tưởng của đức vua, Ngài nói rằng: 

    -  Xin bệ hạ chớ nghĩ nhiều, chớ lo toan, thần sẽ cùng bệ hạ trở về vương triều.

    Đức vua nghe nói mừng quá, định sụp xuống lạy để tạ ơn nhưng ngài Bát Nhã Đa La đã kịp ngăn đỡ. Đức vua lại ôm chầm Ngài trông rất thân tình và luôn miệng: “Đa tạ hảo bằng hữu. Xin cho ta kết bạn cùng hảo bằng hữu”. Thế là nhà vua nắm tay ngài Bát Nhã Đa La và hô lên rằng:

    - Hảo bằng hữu! Hảo bằng hữu!

    Ngài Bát Nhã Đa La cũng cất lời:

    “Hảo huynh đệ!”

    Sau đó hỏi ra về tuổi tác thì đức vua nhỏ hơn Bát Nhã Đa La hai tuổi nên nhà vua tôn ngài Bát Nhã Đa La là sư huynh và tự xưng là sư đệ. Thế rồi hai huynh đệ cặp tay xuống núi, nhà vua không quên thanh đoản kiếm lấy vắt bên mình.

    Từ giã (thất đá) hang động, Bát Nhã Đa La và nhà vua cùng xuống núi. Đến chân núi thì nhà vua cất tiếng huýt gió, con ngựa liền nghe tiếng và tìm đến. Quả là một con ngựa khôn! Ngài Bát Nhã Đa La thỉnh đức vua lên ngựa. Đức vua lại muốn ngài Bát Nhã Đa La cùng đi trên ngựa nhưng Ngài không chịu. Ngài vỗ vào mông con ngựa và ngựa liền phóng chạy. Ngài Bát Nhã Đa La chạy theo, dùng thuật phi hành không thua gì ngựa chạy. Lúc ấy đức vua mới phục tài ngài Bát Nhã Đa La, người huynh đệ mới kết bái. Nhà vua rất lấy làm hoan hỷ. Lúc này trời đang nhá nhem tối nên không ngại có người dòm ngó. Nhà vua bình an trở về cung điện.

    Nhà vua trở về cung được triều thần đón tiếp tưng bừng nhộn nhịp, tung hô vạn tuế, rất là ồn náo. Thấy đưa được đức vua về triều rồi, ngài Bát Nhã Đa La định quay mình về núi. Không ngờ nhà vua không chú ý gì đến quần thần mà chỉ nhìn

    Bát Nhã Đa La, thế nên nhà vua không để Ngài rời khỏi mà xuống ngựa dắt Ngài vào triều giữa tiếng hoan hô vạn tuế vang dậy. Ngài Bát Nhã Đa La không làm sao được, đành cùng đức vua vào trong nội cung. An vị xong, đức vua dõng dạc tuyên bố trước triều thần:

    -   Vị này là ân nhân cứu mạng ta, nếu không thì giờ này ta đã du địa phủ! Nay ta đã cùng ân nhân kết nghĩa huynh đệ và

    Người là sư huynh của ta. Xin tất cả đồng biết cho.

    Nhà vua đã kể chuyện ban ngày cho triều thần nghe và cả hoàng cung đều biết. Mọi người nghe qua đều thở phào nhẹ nhõm, tất cả tung hô: “Mừng cho bệ hạ phước đức tề thiên!”

    Nhà vua vuốt chòm râu hoan hỷ mà rằng:

    -   Giờ hãy sắp xếp phòng ốc cho tươm tất để mời sư huynh ta an nghỉ.

    Thế là tất cả triều thần đều giải tán ra về mà còn ngoái lại để xem kỹ một chút nữa về người sư huynh của bệ hạ và thầm trầm trồ: “Quả là một cao nhân phi phàm!”.

  • 4. LÀM GIA SƯ

    Mấy ngày trôi qua, nhà vua bỏ việc triều đình mà lẩn quẩn bên người sư huynh mới có được. Nhà vua cùng người sư huynh đi dạo khắp triều nội để thấy vẻ sang trọng, quý phái, sang giàu ở chốn triều ca.

    Ngài Bát Nhã Đa La thấy hết, biết hết những vẻ nguy nga tráng lệ của cung nội, nhưng chẳng khác nào như những đóa hoa hư không, không dính gì đến ánh mắt ngời sáng của Ngài. Thỉnh thoảng nói vài câu để cho nhà vua thấy sự có mặt của mình, để tạo sự ấm áp cho đối phương. Nhà vua lại bày tiệc thiết đãi ngài Bát Nhã Đa La rất thịnh soạn. Nhưng vô ích, ngài Bát Nhã Đa La nói rõ ra về đời sống của mình, là một đệ tử của Đức Phật nên trường chay, tuyệt dục, không ăn cá thịt, cao lương mỹ vị mà chỉ dùng rau củ thanh đạm mà thôi.

    Nhà vua nghe qua thoáng ngỡ ngàng vì mình là người đạo Hindu mà sư huynh lại là người đạo Phật có đời sống khác nhau. Tuy nhiên, dưới ánh nhìn thông cảm, nhà vua khẽ gật đầu và mỉm cười khi thấy rõ ánh mắt sáng ngời của sư huynh và nụ cười hiền hòa ở người bằng hữu. Nhà vua cất lời:

    -   Được, tùy sư huynh vậy. Tiểu đệ là người đạo giáo Hindu có khác!

    Nhà vua liền ra lệnh cho đầu bếp thay đổi món ăn tức thì. Đang khi chờ đợi để có thức ăn phù hợp, nhà vua cho gọi ba hoàng tử đến ra mắt người sư huynh mới kết giao của mình cho các con đều biết. Ba hoàng tử đã đến trước mặt phụ vương. Được phụ vương chỉ dạy phải thi lễ vị hiền huynh, các hoàng tử tuổi chừng 18, 16, 14 mặt mày đều thanh tú, tất cả đều cung kính thi lễ trước bậc hiền huynh của phụ hoàng. Sau khi thi lễ, vương tử lớn nhất vòng tay trước phụ hoàng:

    -   Thưa phụ hoàng! Vị này con có biết trong một dịp lễ nghi ở một ngôi đền. Ngài chính là Đức Tổ đời thứ 27 của Chiền tông. Ngài có tên là Bát Nhã Đa La – Ngài là một bậc thầy siêu việt. Con được nghe biết như thế. Nay được Tổ đến đây thật là phúc cho triều đình chúng ta và rất tốt cho chúng con.

    Nhà vua vuốt chòm râu hoan hỷ gật gù:

    -   Ồ! Như vậy hiền huynh là một vị Tổ mà đệ nào có hay biết. Quả hiền huynh là một tay siêu đẳng có thủ pháp rất là siêu việt, đã bốc được tiểu đệ từ lưng ngựa đến lên non, tránh được họa sát thân. 

    Đức vua lại đứng lên vòng tay:

    -   Bội phục! Thật bội phục Tổ sư hiền huynh!

    Tổ Bát Nhã Đa La cũng vòng tay lại mà rằng:

    -   Không dám! Không dám! Đó chỉ là do năng lực Phật độ chúng sinh ấy thôi!

    Ba hoàng tử đã nhìn Tổ bằng ánh mắt thán phục không rời khuôn mặt uy nghiêm, hiền hòa của Tổ. Nhà vua nhìn Tổ và nhìn qua các con rồi vòng tay nói:

    -   Như vậy là một nhân duyên lớn rất là hay. Tiểu đệ kính xin sư huynh Tổ sư hãy lưu lại nơi đây ít lâu mà giảng dạy đạo mầu cho các con trẻ. 

    Các hoàng tử nghe phụ hoàng nói như vậy đều sụp xuống, quỳ thưa:

    -   Xin trên Tổ hãy ở lại nơi này để chỉ dạy đạo học cho chúng con.

    Nhà vua rất là thuận ý. Thấy các con đều đồng ý xin học với Tổ nên lòng mừng rỡ vô biên, liền xin Tổ thêm một lần nữa.

    Tổ Bát Nhã Đa La thấy rõ tấm lòng của nhà vua và ba vị hoàng tử đều có dạ thiết tha, muốn cầu học Phật đạo nên Ngài cũng hoan hỷ hứa khả:

    -   Được! Ta cũng tùy hỷ sự mong muốn của tất cả.

    Thế là buổi lễ cầu thầy và nhận học trò được nhà vua cử hành tại chỗ. Các học trò là: vương tử Nguyệt Tịnh Đa La, vương tử Công Đức Đa La và vương tử út là Bồ Đề Đa La. Nguyệt Tịnh Đa La 18 tuổi, Công Đức Đa La 16 tuổi, Bồ Đề Đa La 14 tuổi. Các vương tử được ra mắt thầy học rất là hoan hỷ. Tổ Bát Nhã Đa La gật đầu đón nhận các học trò bằng lòng từ bi và đầy hoan hỷ. Người vui nhất hôm nay đó là đức vua Hương Chí (Simhavarman II) vì kết được mối thiện duyên vô cùng quý báu, có được một sư huynh là cao Tăng đắc đạo, Trí – Bi –

    Dũng hoàn toàn và có được những đứa con ngoan hiền biết tùy thuận đạo học. Nhà vua liền chuyển tiệc mặn thành tiệc chay, cho phép các con được cùng dự tiệc với thầy học và cho dời hoàng hậu cùng ra mắt người sư huynh Tổ và dùng cơm cùng các con để bắt đầu cho con ăn học. Hoàng tử lớn rất là vui vì mình là nhân duyên chính để có được một đại nhân duyên trong hoàng tộc ngày hôm nay. Tất cả đều hoan hỷ trong buổi tiệc chay tại hoàng cung đất nước Tamil

  • 5. TỔ BÁT NHÃ ĐA LA

    Ngài là người sống sau Phật 10 thế kỷ - dòng Bà la môn ở Đông Ấn. Cha mẹ mất sớm, Ngài đi theo xóm ăn xin qua ngày. Nếu có ai mượn làm việc gì, Ngài sẵn sàng làm tận lực mà không cần tiền. Hành động và ngôn ngữ của Ngài lạ thường, người đời không lường được. Khi gặp Tổ Bất Như Mật Đa nhắc lại duyên xưa, Ngài xin xuất gia, theo hầu Tổ và được truyền TÂM Pháp và y bát để làm Tổ đời thứ 27. Ngài được Tổ Bất Như Mật Đa truyền thụ cho rất nhiều công phu tu tập về luyện TÂM, luyện khí và trở thành người có bản lĩnh siêu việt. Sau đó, Ngài thống lãnh đồ chúng sang Nam Ấn hoằng hóa ở nước Tamil. Trong nhân duyên Ngài gặp được vua Hương

    Chí (Simhavarman II) và đã cảm hóa được nhà vua hướng về Tam Bảo.

  • 6. LỄ QUY Y TAM BẢO

    Tổ Bát Nhã Đa La ở lại hoàng cung lần hồi đã hướng dẫn nhà vua hiểu rõ hơn về đạo Phật. Nhà vua biết ra được đạo Phật là đạo cứu khổ đích thực, không xa vời, không mê tín, không thần quyền,… mà rất thực tế ở trong cuộc sống đời thường đúng với ý nguyện của nhà vua tưởng nghĩ bấy lâu nay. Nên nhà vua sẵn sàng quay gót hướng về Tam Bảo. Nhà vua kính xin Tổ Bát Nhã Đa La sau khi Tổ thay đổi y trang không còn mặc theo kiểu thế tục nữa mà khoác lên mình bộ áo ca sa để trở thành đường đường Tăng tướng, dung mạo đoan nghiêm, đáng là bậc Tăng già tùng lâm thạch trụ. Nhà vua quy kính Ngài như là một bậc Tôn sư, không còn cư xử như tình huynh đệ nữa. Nhà vua hướng dẫn cả gia đình, hoàng hậu và ba hoàng tử cùng gia nhân đầu thành xin Tổ được quy y Tam Bảo. Tổ rất hoan hỷ hứa khả và định ngày giờ để làm lễ quy y trong hoàng cung. Ngài nói với đức vua sắp xếp trang hoàng một điện Phật trong triều nội. Nhà vua rất hoan hỷ và chuẩn bị một Phật đường rất trang nghiêm, có tôn thờ một tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng.

    Tổ Bát Nhã Đa La đã an vị cho tôn tượng và kiết giới cho đạo tràng. Đức vua rất là hoan hỷ. Trong khi đó có một số thần tử hay biết đức vua sắp quy y Tam Bảo cũng phát tâm xin được quy y. Thế là buổi lễ quy y lại thêm phần long trọng.

    Trong buổi lễ quy y, Tổ đã thực hiện một cách đơn giản nhưng thực sự trang nghiêm. Trước hết Tổ cho đảnh lễ Phật và sau đó Ngài truyền Pháp quy y Tam Bảo:

    1.  Con xin trọn đời quy y Phật

    2.  Con xin trọn đời quy y Pháp

    3.  Con xin trọn đời quy y Tăng

    Ngài cũng đã giảng rõ quy y có nghĩa là trở về và nương tựa. Quy y Phật là trở về và nương tựa với Đức Phật Thích Ca

    Mâu Ni. Quy y Pháp là nương tựa với những lời giảng dạy đúng chân lý của Đức Phật. Quy y Tăng là trở về nương tựa với hàng Tăng Bảo, là các hàng đệ tử của Đức Phật, sống đời hòa hợp trong giáo pháp của Như Lai.

    Ngài lại dạy quy y Tam Bảo là trở về nương tựa với ba ngôi quý báu, là ngôi Phật – ngôi Pháp – ngôi Tăng, đó là nương tựa thế gian trụ trì Tam Bảo. Là Tam Bảo trên sự tướng: Phật đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nguyên là Thái tử Sĩ Đạt Ta, sinh cách nay rất lâu rất xưa có đến 10 thế kỷ (năm 624 trước Dương lịch); con đức vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Mada. Ngài sinh tại vườn Lâm Tỳ Ni, nước Ca Tỳ La Vệ ở Bắc Ấn (nay là nước Nepal). Ngài là một thái tử trẻ đẹp có đủ 32 tướng tốt. Lớn lên 17 tuổi có vợ là Gia Du Đà La. Năm 19 tuổi, Ngài có một con trai ra đời tên là La Hầu La. Sau đó Ngài vượt thành Đông bằng ngựa Kiền Trắc cùng người hầu là Sa Nặc để đi xuất gia tìm Đạo. Ngài đã rất vất vả trên con đường tìm Đạo và hành Đạo. Đến năm 30 tuổi, Ngài chứng thành Đạo quả - thành Phật và hiệu là Sakya Muni Buddha (Thích Ca Mâu Ni Phật).

    Sau khi thành Phật, Ngài tìm đến vườn Nai để độ năm người bạn đồng tu trước đó. Với lời ước hẹn khi chia tay là ai thành Đạo trước thì tìm độ cho nhau. Đức Phật giữ lời hứa và tìm đến nói Pháp để độ cho năm anh em ông Kiều Trần

    Như. Đó là bài Pháp “Tứ Đế”. Năm anh em ông Kiều Trần Như nghe qua liền giác ngộ Phật Đạo, chứng Thánh quả và trở thành Tăng Bảo. Nơi vườn Nai đã thành tựu ba ngôi Tam Bảo. Đó là ngôi Phật – ngôi Pháp – ngôi Tăng. Ấy là thành tựu thế gian trụ trì Tam Bảo. 

    Ngoài ra còn có Đồng Thể Tam Bảo, hay Tự TÁNH Tam Bảo là Tam Bảo trong lòng người.

    Phật Bảo là Tánh Giác – là năng lực giác ngộ ở nơi mỗi con người.

    Pháp Bảo là sự sáng suốt chơn chánh ở trong lòng người.

    Tăng Bảo là Tịnh, là sự hòa hợp giữa Phật và Pháp.

    Tam Bảo ở tự TÂM tuy ba mà một, đồng nhất thể. Phật cũng mình, Pháp cũng mình, Tăng cũng mình.

    Nghe đến đây Tam hoàng tử bỗng dưng la xé lên:

    -   Á! Vậy là con rồi!

    Mọi người có mặt đều giựt mình lấy làm lạ, nhìn vương tử út Bồ Đề Đa La chăm chăm, Tổ Bát Nhã Đa La mỉm cười mà rằng:

    -   Thì là con đó. Rất tốt! Rất tốt!

    Nếu biết được Đồng Thể Tam Bảo thì không ngại Đức Phật đã nhập Niết Bàn qua đời, không ngại Pháp không người nói, không ngại Tăng không có mặt.

    Tổ lại nói:

    -   Đã quy y Tam Bảo rồi thì được gọi là Phật tử, tức là con Phật. Mà đã là con Phật thì phải biết ăn hiền ở lành giống như Phật. Thế nên người Phật tử còn phải biết vâng giữ giới pháp Ba La Đề Mộc Xoa. Đó là những điều khoản giải thoát.

    Giới Ba La Đề Mộc Xoa gồm có 5 điều:

    -   Điều 1: Giải thoát khỏi sự giết hại chúng sinh, loài động vật từ con người đến con vật. Không được giết chết, cũng không được hành hạ từ con người cho đến con vật dù nhỏ hay lớn. Không tự tay giết hại làm tổn thương người và vật, cũng không xúi bảo người giết hại, hành hạ người và vật. Cũng không giết hại người và vật để vui chơi. Mà hãy luôn tôn trọng người và vật để tránh đi sự nợ nần về sinh mạng.

    -   Điều 2: Điều giải thoát khỏi của cải vật chất của người, tức là không trộm, không cắp, không cướp giựt bằng mưu này thế nọ, lừa gạt để lấy của người. Vật đã có chủ thì không được lén lấy, dùng mọi cách để lấy. Không lấy của người thì tránh được nợ nần của cải người.  

    - Điều 3: Điều giải thoát không xâm phạm tiết hạnh của người một cách bất chính. Không tà dâm, không xâm phạm xác thịt người nam, người nữ qua đường tình dục một cách bất chính. Đây là để không nợ nần về đường tình ái, dâm tà.

    -   Điều 4: Điều giải thoát khỏi lời ăn tiếng nói. Không vọng ngữ, không nói gian, không nói dối, không nói láo, không nói lời độc ác, không nói lời hai lưỡi, không nói lời thêu dệt, không nói lời ly gián, không nói lời đâm bị thóc, thọc bị gạo, không nói lời siểm khúc,… mà nói lời chân thật để khỏi mang nợ nần về lời ăn tiếng nói.

    -   Điều 5: Điều giải thoát khỏi rượu chè. Không uống rượu, không uống các chất gây ghiền để giữ tinh thần sáng suốt mà học Đạo, giữ Đạo cho tốt hơn. Để tránh sự nợ nần khi say xỉn có những hành động, lời nói bậy bạ làm thương tổn đến người.

    Tổ đã nói xong năm giới và hỏi đến những người đã quy y có giữ được không thì tất cả đều trả lời giữ được.

    Tổ nói:

    -   Tốt lắm! Vậy tất cả hãy cố mà giữ chớ để cho phạm, dù gặp nhân duyên mất mạng đi chăng nữa. Giữ được những giới này là có công đức rất lớn. Sống mà không nợ nần ai cả thì đó là một cuộc sống có hạnh phúc. Thiếu nợ nào thì phải trả nợ nấy, không thể giựt được mà phải trả thôi. Thế nên có ra đau khổ. Đau khổ không chỉ một kiếp này mà còn dây dưa qua nhiều kiếp khác, rất là khổ sở vậy. Những giới điều này là những giới điều giải thoát để được an vui nên cố gắng giữ gìn cho thật là tốt. Hãy nhớ rằng giới trong nhà Phật là giải thoát, là bảo giải thoát, biệt giải thoát, nên là những điều rất quý, rất tốt mà không phải là sự ràng buộc, nên giữ được một giới là giải thoát một ràng buộc. Như giữ được giới thứ nhất, không giết người thì không dính mắc tới người, không bị trả nợ sinh mạng cho người. Đó là giải thoát.

    Đức vua và các hoàng tử nghe qua về quy y và giữ giới đều lấy làm hoan hỷ, người cảm nghe nhẹ nhàng, thơ thới hơn lên. Đức vua đã đối với Tổ qua Pháp y thấy Tổ có vẻ sáng chói hơn lên nên cúi đầu đảnh lễ Tổ và thay đổi cách xưng hô, gọi Thầy và xưng con một cách rất thành kính:

    -   Kính thưa thầy! Con là đệ tử xin cúi đầu đảnh lễ thầy ba lạy.

    Nhà vua lạy Tổ ba lạy một cách thành kính. Tuy nhiên, sau khi đức vua lạy, Tổ lại nói:

    -   Phật tử lạy như vậy chưa đúng cách. Lạy trong nhà Phật là cốt để bẻ cây cờ cao mạn nên phải giữ cho thân tâm cung kính mà lạy. Thế nên khi lạy năm vóc phải sát đất. Năm vóc đó là: Đầu, trán, hai cùi trỏ, hai đầu gối phải vừa đụng vào nhau, hai bàn tay úp xuống hay ngửa lên. Úp như ôm lấy hai bàn chân Phật; ngửa lên như tình nguyện làm đài sen cho Phật đứng lên chớ không phải để đỡ đầu, trán. Mà úp, ngửa gì hai bàn tay cũng phải hở ra để trán đụng được đất, dù đất sạch hay dơ thì trán cũng phải đụng đất. Đó mới được gọi là bẻ được cây cờ cao mạn ở trong lòng để trừ sự làm phách làm tàng, làm lối ở nơi con người mình và đó chính là tạo nên sự đau khổ cho chính mình. Thế nên khi lạy đầu phải đụng đất là vậy. Đó là cách tốt nhất để tiêu trừ cái bản ngã của mình, tức là để tiêu trừ cái “Ta đây” ở nơi mình. Thế nên khi lạy, cái “Ta đây” biến mất thì lòng mới bình yên thật sự, gọi là có phước hay có công đức. Nhà vua nghe qua gục gặc và bảo các con tập lại theo đúng như Tổ dạy. Đó chính là “Thân, tâm cung kính lễ”. Để từ đó mà thành tựu được “bình đẳng lễ”. Lạy mà không thấy có sự bất bình đẳng xảy ra, được gọi là: “Năng lễ, sở lễ Tánh không tịch” (Mình lễ, chỗ lễ TÁNH đều Không lặng).

    “Đạo cảm ứng giao nan tư nghì” (Tuy là tĩnh lặng nhưng cái Đạo cảm ứng khó nghĩ bàn). Tức là bằng tư thế đảnh lễ, mình người đều rỗng lặng. Tuy nhiên cái Đạo có sức cảm ứng, tức là có sự linh cảm xảy ra, mà thật là khó nghĩ bàn. Đây chính là năng lực BẢN TÂM phát động để tạo thành một uy lực mầu nhiệm vô cùng.

    Sau khi Tổ Bát Nhã Đa La dẫn giải về lý lẽ, lễ lạy sâu mầu thì Tam hoàng tử nghe như uống hết vào lòng lời Pháp của Tổ, mặt trở nên ửng hồng, xinh tươi hơn lên. Đức vua lại hỏi:

    -   Thưa Tổ! Còn khi lạy thì lạy mấy lạy là phải?

    Tổ đáp:

    -   Lạy ba lạy là đủ. Vì một lạy cho ngôi Phật, một lạy cho ngôi Pháp, một lạy cho ngôi Tăng. Và khi xá thì hai tay chấp giữa ngực, chấp khít các ngón lại và cúi cổ xuống mà xá mới là quý kính. Cổ phải mềm mà không được cứng. Cũng là ba xá. Cho đến khi thắp nhang cũng phải là thắp ba cây; cũng là một cây cho Phật, một cây cho Pháp, một cây cho Tăng. Và khi cắm nhang, phải cắm cho thẳng, cho ngay, không nên xiêu vẹo để tỏ lòng thành kính.

    Tổ Bát Nhã Đa La đã dẫn giải từng chút một. Sau đó Ngài lại hướng dẫn cho cách ăn uống: Đạo Phật là Đạo giữ giới không sát sanh, hại vật, tức không giết chết người, đó là có tinh thần nhân bản thật cao. Sống là phải tôn trọng con người. Không hại vật là có tinh thần chúng sanh bản thật tốt. Luôn quý trọng con người cùng là sinh vật nên không muốn làm thiệt hại một chúng sinh nào cả. Vì vậy, người sống theo đạo Phật không nên ăn nuốt sinh vật từ con nhỏ cho đến con lớn, mà chỉ nên ăn rau củ và các loài thực vật gọi là ngũ cốc mà thôi. Tuy nhiên, đối với phận một cư sĩ tại gia thì không đòi hỏi phải ăn như vậy suốt ngày này qua ngày khác mà ráng giữ ăn hai ngày trong một tháng, đầu tháng và giữa tháng để gọi là tiêu biểu. Nếu có thể thì thêm dần lên bốn ngày, sáu ngày, tám ngày, mười ngày trong một tháng. Giữ được mười ngày trong một tháng thì cũng là rất tốt. Ăn như vậy được gọi là ăn chay và là ăn chay kỳ. Nếu ăn suốt tháng thì gọi là ăn chay trường. Ăn chay có lợi: Trước hết là không mang nợ sinh mạng, không tạo tội lỗi sát sanh hại vật, không bị quả báo trả vay. Thứ hai là có lợi cho sức khỏe, người ăn chay ăn rau cỏ dễ tiêu hóa hơn và phù hợp với chức năng con người hơn. Vì con người có hàm răng bằng như trâu, bò nên thích hợp cho việc ăn rau cỏ hơn. Con thú khác thì có răng nanh để xé thịt. Con người thì không có răng nanh nên thích hợp với việc ăn rau cỏ. Vả lại, bộ phận ruột con người rất dài, có cả mấy trượng, hơn bộ phận ruột của những loài ăn thịt như cọp, beo, sư tử,… Những loài ăn thịt như vậy, bộ phận ruột chỉ hơn một cánh tay. Điều lợi ích thứ ba là ăn cá thịt thì phải nuốt chất máu vào trong cơ thể. Mà máu thì có nhiễm chất chua (axít), vì khi con vật chết, nó đau đớn, nổi sân và tiết ra chất chua (axít) ngấm vào máu trở nên là chất độc. Vì vậy ăn thịt, con người dễ sinh ra nóng giận, tức tối. Trong khi đó ăn rau cỏ không có máu nên không có chất chua (axít) làm cho con người bớt đi sự bực bội, nóng giận mà trở nên bình tĩnh hơn, điềm đạm hơn cho nên dễ tu hơn. Con người trở nên hiền hòa hơn. Tim mạch trở nên ổn định hơn, giới hạn sự cao máu và nhịp tim bình ổn hơn, lại còn thêm có sức dẻo dai hơn là người ăn cá thịt. Ăn chay mà biết cách ăn thì đó là môn dưỡng sinh cao cấp cho cơ thể, giữ được tuổi thọ tốt hơn. Về việc ăn chay Tổ đã trình bày một cách khái quát như vậy, tuy nhiên đây là điều mới mẻ đối với đức vua và các hoàng tử cùng những người có mặt. Họ thấy hiểu việc này rất là có lý mà họ chưa từng hay biết. Nên mỗi người đều hẹn với lòng nên tập ăn chay, sẽ có lợi hơn cho sức khỏe và cho tâm hồn.

    Tổ và những người có mặt cùng hướng về Đức Phật đảnh lễ ba lễ rồi xá lui. Mọi người đâu về đó. Tổ về phòng riêng mà đức vua đã cho sắp xếp tươm tất dành cho Tổ. Đức vua đã đích thân đưa Tổ đến phòng riêng. Ô! Một căn phòng tuyệt đẹp, rất là sang trọng!

    Tổ Bát Nhã Đa La nhìn căn phòng mà dừng lại, Ngài lắc đầu nói với đức vua rằng:

    -   Đây là một căn phòng của Vương tôn công tử, chớ không phải là một Tăng phòng, tôi không dám ở đâu. Hãy chỉnh lại thì tôi mới dám vào.

    Đức vua lấy làm ngỡ ngàng vì đây là nếp cung đình thì phòng ốc phải như vậy thôi, còn Tăng phòng là sao nữa? Đức vua hỏi Tổ:

    -   Thưa Ngài, chẳng hay Tăng phòng là sao nữa?

    Tổ cười đáp:

    -   Tăng phòng là phòng dành cho người tu hành ở, phải thật đơn giản, không quá rộng, không màn che trướng phủ, không kiểu cách hoa hòe, chỉ kê một cái đơn (một cái giường chiếc vừa một người nằm). Xin Phật tử hãy dọn lại cho, bần Tăng mới dám vào ngơi nghỉ. 

    Đức vua liền cho dọn lại phòng đúng ý của Tổ Sư. Từ đây, đức vua làm gì cho Tổ cũng phải hỏi ý Ngài, rồi mới cho làm.

    Thật ra đời sống kẻ tu hành đúng như Pháp thì cũng đơn giản thôi, không có gì cầu kỳ và rườm rà cả. Trong việc ăn, mặc, ngủ đều vừa đủ là được rồi, có thiếu một chút cũng không sao. Vậy là tốt đó.

    Tổ ở đây nghỉ thêm mấy ngày, ở không chỉ chuyện vãng với người Phật tử mới là đức vua. Người Phật tử mới này đã hỏi Tổ nhiều chuyện trong cuộc sống.

    Mọi việc đều được Tổ trả lời một cách rành mạch và đầy vẻ thiết thực, không xa vời, không mê tín, không dị đoan, không hoang đường. Đức vua nghe tới đâu liền thông cảm tới đó rất là vui vẻ. Nhà vua hận mình sao gặp Tổ quá muộn để có những chuyện sai lầm, đáng tiếc xảy ra trong quá khứ.

    Nhà vua theo dõi sinh hoạt của Tổ trong nhiều ngày mà không thấy Tổ tụng niệm gì hết. Cho nên nhà vua bèn hỏi:

    -   Con thấy các thầy đều tụng kinh, tại sao thầy không tụng kinh? 

    Tổ đáp:

    -   Tôi hơi thở ra không tiếp các duyên, hít vào chẳng ở trong ấm giới, thường tụng thứ kinh này trăm ngàn muôn ức quyển.

    Tổ trả lời ngắn gọn nhưng thật súc tích, nhà vua còn mới mẻ cho nên không thấu hiểu. Nhà vua thưa với Tổ:

    -   Lời Ngài dạy thật khó hiểu. Con hiểu không thấu.

    Tổ nói:

    -   Để rồi lúc nào đó Ta sẽ nói cho ông nghe. Thôi giờ đây để Ta định ngày mở lớp học dạy cho các Phật tử như ý của ông. Với lớp học này Ta sẽ có chương trình như sau:

    1.  Học văn.

    2.  Học võ.

    Về số học viên thì bệ hạ có thể cho những công tử khác tham dự. 

    Nhà vua bằng vẻ mặt hoan hỷ và gật đầu:

    - Thưa thầy! Thầy dạy chí phải, đệ tử tùy thuận ý thầy. 

    Ngày học được Tổ chỉ định sau.

    Các vương tử được phụ hoàng cho biết Tổ sư đã có chương trình mở lớp trong nội cung để chỉ dạy về văn và võ. Các vương tử nghe qua lòng mừng khấp khởi, mong cho đến ngày được học tập. Nhà vua chuẩn bị lớp học cho đầy đủ.

    Một lớp học về văn và một lớp học về võ. Nhà vua lại thông báo cho các triều thần, ai có con muốn cho học thì hãy đăng ký ghi tên vào sổ.

     

     

     

  • 7. XUẤT THÀNH

    Để mở lớp học nội cung cho chu đáo, Tổ phải xuất thành để đi sắp xếp việc tông môn. Tổ đi về miền núi cao nơi có đạo tràng, có đồ chúng. Sau bao ngày xuống núi xa đồ chúng, nay ngày về trở lại, đồ chúng gặp lại thầy rất là vui mừng. Đệ tử Tổ có khoảng sáu, bảy mươi người. Họ vân tập đón chào Ngài trong niềm hoan hỷ, kính mến một bậc thầy đầy tấm lòng chăm lo cho đời sống Tăng đoàn. Tổ cũng lấy làm hoan hỷ ban phát những lời chỉ dạy, thăm hỏi về đường công phu bấy lâu nay và dặn dò về nếp sống trên đường hành Đạo. Ngài ở lại sinh hoạt cùng đệ tử có mươi ngày rồi báo cho đại chúng cùng biết, Ngài có nhân duyên mới là thành lập được một đạo tràng trong cung nội và phải tốn một thời gian khá dài phải xa vắng đại chúng. Tổ lại dặn dò sắp xếp về cách ăn ở sao cho phải đạo và chỉ dạy thêm về đường lối công phu sao cho tăng tiến hơn trong thời gian Tổ hoằng hóa nơi khác.

    Thế rồi, Ngài từ biệt đại chúng, nhìn non nhìn núi thâm u rồi cất chân xuống núi trở về vương thành. Đại chúng đã đưa Ngài đến tận cổng sơn môn. Ngài lắc mình phi thân và biến mấ

  • 8. LỚP HỌC NỘI CUNG ĐƯỢC KHAI GIẢNG VÀO NGÀY TRĂNG TRÒN ĐẦU MÙA HẠ

    Trong buổi lễ khai giảng, Tổ cho mời đức vua chứng kiến buổi lễ cầu Pháp do các hoàng tử hành lễ thỉnh cầu. Lớp học cũng được mười học trò. Tổ ngồi trước bàn Phật. Các học trò đồng quỳ trước Tổ kính lễ cầu thầy tham học. Tổ hoan hỷ gật đầu hứa khả. Như vậy, đã có lễ thầy trò. Tổ ban phát về chương trình học tập:

    1.  Học về đạo làm người

    2.  Học về đạo Phật

    Hai thứ đạo này được gọi là học văn.

    3.  Học võ

    Thời gian học: học suốt bảy ngày. Một ngày học một buổi, học vào buổi chiều. Sau bảy ngày học thì nghỉ một ngày, rồi lại học tiếp. Cứ vậy mà học đến hết mùa hạ. Sau hạ sẽ nghỉ được bảy ngày rồi sang thu học tiếp. Chương trình học trải qua hết hạ rồi đến thu, hết thu rồi đến đông. Và học thì phải nghe, không có ghi chép gì mà phải thuộc bài ngay trong lớp học, để rồi trả bài lại cho thầy sau đó. Tổ cũng không có sách vở gì để giảng dạy mà chỉ từ trong bụng mà lưu xuất gọi là học “Truyền Khẩu”.

    Các học trò đều được hướng dẫn chương trình học tập một cách rõ ràng dưới sự chứng kiến của đức vua. Đức vua rất lấy làm hoan hỷ. Những đứa con trai của Ngài kể từ nay đã có thầy dạy nghiêm chỉnh.

    Nên nhà vua cũng có lời cùng các con:

    -   Này các con, các con thật là có phước hơn các hoàng tử xa xưa nhiều. Như đời của phụ vương đâu có thầy học gì. Chỉ là được phụ hoàng dạy sao thì nghe vậy thôi. Chẳng có bài bản gì cho nghiêm chỉnh cả. Không như các con có được vị thầy là Tổ sư có đủ tài đức, “văn thao võ lược”, dạy cho thì phước đức này rất lớn vậy. Các con hãy chăm chỉ học hành theo lời thầy dạy!

    Các học trò đều quỳ gối lên:

    -   Thưa phụ hoàng, phụ hoàng hãy yên tâm, chúng con xin nghe lời phụ hoàng mà chăm chỉ học hành như lời thầy dạy.

    Nhà vua tỏ ý hài lòng vuốt nhẹ chòm râu của mình, và nói:

    -   Được! Như vậy là tốt lắm!

    Nhà vua đứng lên, gật đầu chào Tổ và lui ra.

    Tổ bắt đầu vào nghi thức của buổi học. Tổ dạy:

    -   Các con khi vào lớp thì phải chắp tay lạy Phật ba lần và quỳ niệm rằng:

    Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni chứng minh cho con học hành sáng láng, mạnh giỏi, sớm “Minh TÂM kiến TÁNH”, nam mô Phật, rồi lạy một lạy và đồng ngồi vào vị trí. 

    Tổ bắt đầu giảng dạy:

    -   Đây là bài học vỡ lòng của một con người.

  • 9. BỔN PHẬN LÀM NGƯỜI

    - Các con có phải là con người không? Trong khi cuộc sống này có rất nhiều con: gà, vịt, tôm, cá, chó, mèo, trâu, bò, ngựa, v.v… thì chúng ta là con người. Con người thì khác hơn những con vật, những con thú. Con người thì đi bằng hai chân và thẳng người không như con thú đi bằng bốn chân hoặc hai chân thì cũng là cái mình ngang chứ không đứng được thẳng như con người, nên được gọi là loài bàng sinh (loài chúng sinh đi thân mình ngang). Như loài cá, loài dưới sông, dưới biển cũng đều như vậy. Con người so với thú vật là một sinh vật cao cấp nhất. Con người có trí khôn hơn con vật, biết suy tư, biết tính toán, hiểu được những chuyện ngoài mình và biết được những chuyện chính nơi mình. Không như những loài thú vật không biết như con người. Vì vậy con người gọi là có trí khôn hơn loài thú vật. Thế nên, làm người đã có trí khôn nên cần phải biết bổn phận của một con người. Tức là phải biết những điều gốc gác ở con người, đối xử với con người phải như thế nào để cho được tốt đẹp và hạnh phúc hơn.

    Bổn phận đầu tiên của con người là đối với cha mẹ. Các con vì sao được sinh ra và có mặt trong cuộc sống này? – Có phải các con đều do có cha và có mẹ để mình được sinh ra đời làm người không? – Đúng vậy! Thầy và các con trước hết có trong bụng mẹ rồi sau đó mới chui ra từ bụng mẹ. Rồi được cha mẹ nuôi dưỡng lần hồi để thành ra bây giờ. Chúng ta là con người vì vậy phải có bổn phận đầu tiên trong cuộc đời này đó chính là cha mẹ. Cha mẹ là hai người thương yêu ta nhất ở trên cõi đời này. Nhất là người mẹ, người đã dám cho ta ở trong bụng với thời gian hơn chín tháng, mang vác chúng ta rất là nặng nề. Người mẹ phải chịu đựng biết bao vất vả khi ta chòi đạp trong bụng mẹ làm cho mẹ phải đau đớn biết dường nào. Khi mang mình trong bụng thì rất nặng nề và khi sanh nở phải xé thịt rất là đau đớn. Nhưng người mẹ vẫn cố chịu đựng, cắn răng, cắn lợi, nhăn mày nhíu mặt để cho mình ra đời nên công ơn này rất là to lớn. To lớn như trời cao, như biển rộng, không gì sánh bằng tấm lòng của người mẹ. Không có mẹ thì chúng ta không có hình hài này để giao tiếp với cuộc sống để mà ăn, học, để mà vui chơi. Mẹ sinh ra ta, còn cha thì lo làm ăn, bươn chải để có cơm có gạo, có phương tiện đầy đủ để nuôi ta lớn khôn. Từ khi ta mới lọt lòng mẹ, cất tiếng khóc “oa oa” thì cha đã lo lắng để tiếp tay cùng mẹ lo cho mình suốt ngày đêm rất là vất vả. Cho nên công ơn cha mẹ đều như trời biển. Trong cuộc sống, không có công ơn nào to tát, sâu nặng hơn công ơn của cha mẹ hết. Dù rằng có trời che đất chở cũng không bằng công ơn của cha mẹ. Thế nên bài học đầu đời của ta phải là bài học “Bổn phận đối với cha mẹ”.

  • 10. BỔN PHẬN ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG

    Chúng ta đã sinh ra được ở trong cõi đời và sống được ở trong cuộc sống. Đó chính là chúng ta phải nhờ ơn cuộc sống.

    Trong cuộc sống trước hết có trời che đất chở, tức là có thiên nhiên. Trong thiên nhiên có môi trường, có môi sinh chúng ta mới sống được. Thế nên chúng ta phải có bổn phận nhớ ơn môi trường và môi sinh. Đó chính là bổn phận nhớ ơn trời che đất chở.

    1/ Bổn phận nhớ ơn trời che đất chở

    Thật ra có trời có đất không phải để cho mình ở. Mà nhờ có trời có đất chúng ta mới sống được. Đất thì cho mình có chỗ đứng, chỗ ngồi, nằm,… có chỗ ở, có trời thì có không khí để cho mình hít vào, thở ra mà sống được. Có trời mới có chỗ cho mình đi tới đi lui sinh hoạt được. Không có trời tức không có hư không.

    Không có hư không thì chúng ta không thể sống được, không thể sinh hoạt được, không thể cất nhà ở được, không thể làm ăn buôn bán được,…

    Như vậy, có đất có trời chúng ta mới sống còn được cho nên mình phải biết ơn trời và đất. Để biết ơn trời và đất thì mình phải có bổn phận như thế nào?

    Bổn phận để nhớ ơn và trả ơn cho trời đất là:

    Sống mà không hủy phá trời đất một cách tùy tiện. Chúng ta nhờ hư không và đất đai cùng cây cỏ để mà sống. Nhưng khi sử dụng đất đai và thiên nhiên thì phải nên biết có chừng mực. Không nên triệt phá môi sinh. Như cây rừng, muốn dùng xài thì phải biết cách đốn chặt. Vừa đốn chặt cây xài mà cũng vừa dưỡng nuôi cây còn lại. Không nên chặt phá một cách bừa bãi vô tội vạ. Hãy tôn trọng môi trường, môi sinh như là của mình vậy. Đó là chúng ta biết bảo vệ đất trời.

    Ngoài bảo vệ thiên nhiên đất trời ra, chúng ta còn phải tôn trọng làng nước.

    Những ai đã trực tiếp giúp đỡ mình sinh hoạt có nề nếp, có trật tự, có an vui trong cuộc sống, đó gọi là nhà cầm quyền, là những người lãnh đạo trong cuộc sống.

    2/ Bổn phận đối với xã hội

    Trong cuộc sống, chúng ta còn phải mang ơn xã hội, những người quanh ta. Nhờ có họ mà chúng ta mới có cơm ăn, áo mặc, thuốc men và các thứ vật chất khác để dùng xài trong cuộc sống. Không có xã hội thì cuộc sống của mình sẽ rất là hạn chế, trở nên thiếu thốn đủ điều, khổ sở cùng cực. Thế nên, chúng ta phải biết nhớ ơn xã hội và phải biết đền ơn. Chúng ta đền ơn xã hội bằng cách không quậy phá, không trộm cướp, không gây mất an ninh trật tự trong cuộc sống. Trái lại, còn phải tự tạo nên sự an ninh và giữ trật tự trong khi sống nhằm góp phần xây dựng xã hội ngày thêm tươi đẹp.

    3/ Bổn phận đối với các bậc thầy

    Trong cuộc sống thường chúng ta không tự biết để làm cái này cái nọ mà chúng ta phải học. Học thì phải có thầy, có người hướng dẫn, gọi rằng: “Không thầy đố mày làm nên”. Thế nên trong cuộc sống phải biết bổn phận đối với các bậc thầy, những người dẫn dắt. Chúng ta phải biết tôn trọng các bậc như thế mà không nên làm tổn hại đối với các vị ấy.

    Tổ ngưng nói, nhìn một vòng các học trò để xem thái độ của các trò đón nhận như thế nào. Dù đề tài mới mẻ đối với các học trò, nhưng các trò vẫn tiếp nhận một cách hân hoan. Tổ nói tiếp:

    - Qua ba vấn đề trên, tuy quan trọng, là người thì phải biết đền ơn trong cuộc sống như vậy. Tuy nhiên, còn một ơn thâm trọng hơn nhiều, rất thâm trọng. Đó là:

    4/ Ơn Phật, ơn Tổ, ơn thầy giáo Đạo, ơn các bậc Thiện tri thức

    Đối với những ơn này mình còn phải có bổn phận nặng nề hơn để mà đền ơn cho được trong muôn một. Những ơn này rất khó đáp trả vì rất là sâu nặng. Không phải chỉ sâu nặng như cha mẹ mà còn sâu nặng hơn cha mẹ nữa. Vì cha mẹ chỉ cho ta tấm thân xác thịt mà thôi, còn những ơn sâu nặng này cho ta sức sống của tâm hồn, của đời sống trí huệ để giải thoát mọi khổ đau trong kiếp sống. Vì vậy dù muốn đáp trả cũng không biết phải đáp trả như thế nào cho cân xứng. Chỉ có thể lo tu hành cho đến ngày thành Phật thì mới gọi là.

    Các con hãy biết con người đã đau khổ từ thuở khai sơn lập địa cho đến sau này, trước khi Phật ra đời, nỗi khổ của chúng sinh cứ thế mà đau khổ để rồi khổ đau. Khổ đau thì có mà thuốc để giải khổ thì không. Mãi đến khi Đức Phật ra đời, Ngài tu hành giác ngộ được thành Phật mới có thuốc để giải khổ cho chúng sanh, cho con người. Vì vậy, đây là một công ơn to lớn không thể tính toán thí dụ nào cho được. Và rồi người tiếp nối Phật đó gọi là Tổ, cũng là một người có công khai mở cho chúng sanh, cho con người để trừ khổ đau cũng rất là to lớn. Rồi đến các thầy dạy Đạo cũng là những người tiếp nối khai mở Đạo mầu cho chúng sanh, cho con người giải trừ khổ đau. Thế nên, công ơn này cũng rất là to lớn. Và các bậc thầy khác được gọi là các bậc Thiện tri thức. Đây cũng là các bậc nhằm khai mở trí tuệ cho chúng sanh, cho con người để giải trừ niềm đau, nỗi khổ. Nên công ơn của các vị này cũng thật là to lớn.

    Nói đến công ơn to lớn của Phật, Tổ, Thầy, các bậc Thiện tri thức đối với các con còn quá mới mẻ cho nên khó mà thông cảm được công ơn sâu nặng của các vị. Nếu các con càng ngày càng đi sâu, đi xa hơn trên con đường hành Đạo thì các con sẽ thấy rõ được công ơn to lớn này hơn.

    Những ơn sâu nặng này được gọi là “Tứ trọng ân”. Để sắp xếp lại cho dễ thấy về sự sâu nặng thì chúng ta có thể trở đuôi thành đầu là:

    1. Ân Phật, Tổ, Thầy, các bậc Thiện

    tri thức

    1. Ân cha mẹ, bà con nội ngoại
    2. Ân trời che đất chở và quốc gia đất nước
    3. Ân xã hội.

    Các con làm người và nhất là người con Phật thì phải nhớ bổn phận của mình mà đối xử với bốn ân thâm trọng cho phải lẽ, cho hợp đạo lý. Thôi hôm nay bài học đến đây là đủ. Các con đồng niệm Phật rồi lui.

  • 11. TÀI SẢN CỦA CON NGƯỜI

    Tổ Bát Nhã Đa La vào buổi sáng đi du ngoạn cùng các hoàng tử, dạo quanh vườn xem cảnh vật, có biết bao cây cảnh, vườn hoa, vườn chim thú rất là đẹp đẽ. Ngồi bên bờ hồ, các hoàng tử xúm xít bên Tổ, thi nhau hỏi đủ thứ chuyện về bông hoa, về cây cảnh, về thú vật, về chim cá. Tam hoàng tử Bồ Đề Đa La thưa thầy:

    -   Vậy chứ vì sao những thứ này lại có ra? Tổ vò đầu Tam hoàng tử mà rằng:

    -   Con hỏi rất hay! – Có biết bao người thấy mà không biết hỏi như con. Về điều này từ xưa cũng đã có câu trả lời. Trước thời Đức Phật thì có đạo Bà la môn cho rằng:

    Từ con người cho đến vạn vật đều do đức thánh Brahma sinh ra. Rồi cũng có đạo khác cho rằng do Thượng đế sinh ra. Và cũng có người cho rằng do ông Trời sinh ra. Và cũng có người nói do tự nhiên mà có… Có thể nói rằng: Mỗi một đạo giáo đều cho rằng có một vị Thánh nào đó sinh ra.

    Tam hoàng tử lại nhìn chăm chú mà thưa:

    -   Vậy còn trong đạo Phật thì Đức Phật nói sao thưa thầy?

    Trong khi đó hai vương huynh cũng chống cằm mà lắng nghe. Tổ nói:

    -   Ở trong đạo Phật, Đức Phật dạy rằng: Từ con người cho đến muôn sự vật, gọi là chúng sinh. Trong đạo Phật chúng sinh có hai loại:

    1/ Hữu tình chúng sinh tức chúng sinh hữu tình, là loài chúng sinh có đời sống tình cảm, biết thương, ghét, buồn, vui, sướng, khổ,… Như con người, con thú (chó, mèo, heo, trâu, bò, gà, vịt, chim, cá,…). Đây được gọi là loài động vật.

    2/ Vô tình chúng sinh tức loài chúng sinh vô tình, là loài chúng sinh không có đời sống tình cảm, không biết vui buồn, thương ghét. Là loài vô tri vô giác, gọi là loài thực vật. Như cây cỏ, đất đá, đồi núi,…

    Tất cả loài chúng sinh như vậy có ra đều là do “Nhân - Duyên - Sinh”. Và cũng từ Nhân - Duyên - Sinh này mà làm cho tất cả chúng sinh đều bị hủy diệt. Nhân - Duyên - Sinh được gọi là Pháp. Pháp Nhân - Duyên - Sinh này gồm 3 chữ: Nhân - Duyên - Sinh.

    Ba hoàng tử nghe qua về Pháp Nhân - Duyên - Sinh đều có vẻ ngớ ngẩn. Hoàng tử lớn nhìn xuống mặt hồ mà hỏi Tổ:

    -   Thưa Thầy, vậy thế nào là Nhân, thế nào là Duyên, thế nào là Sinh?

    Tổ quay sang vương tử lớn mà rằng:

    -   Con hỏi rất hay! Thầy sẽ giải thích cho con và các con được rõ:

    1/ Nhân: Là hạt giống ban đầu để sinh ra cái này cái nọ. Nhân như hạt lúa để sinh ra cây lúa để rồi có bông lúa. Nhân lại như hạt mè để sinh ra cây mè và có bông trái mè.

    Tổ lại hướng về vương tử cả mà nói:

    -   Con có hiểu được điều này không?

    Nguyệt Tịnh Đa La thưa với Tổ:

    -   Dạ con biết được. Đó là cái giống ban đầu. Như hạt cỏ để sinh ra cây cỏ.

    Tổ nói:

    -   Như vậy con đã hiểu ra rồi. “Nhân” là như vậy đó.

    2/ Duyên: Có nghĩa là dính líu, trói buộc, ràng buộc, dính mắc. Duyên lại có nghĩa là leo trèo, như dây trầu trèo lên cây cau hay leo lên cây cau, có nghĩa là quấn quýt, lằng nhằng. Duyên lại có nghĩa là một cái gì đó để tạo một sự dính mắc, để gây một sự lằng nhằng rối bời. Duyên không mang một tính chất nào.

    Như một lá cây là Duyên, nó rơi xuống không phải để đụng ai và đụng cái gì, và nó có thể đụng ở nơi thân ta. Đó gọi là Duyên.

    Trong chữ Duyên nó còn có thêm từ Duyên Duyên, tức là cái này dính cái kia.

    Rồi lại thêm Tăng Thượng Duyên, tức là cái này dính cái kia, rồi dính thêm cái nọ để làm thêm chuyện, lớn rộng ra. Như một viên gạch dính với một viên gạch khác, gọi là Duyên Duyên. Rồi lại dính với một cây cột, một cây kèo, một cây đòn tay, gọi là Tăng Thượng Duyên để thành ra một cái nhà.

    Như vậy, cái Nhân + Duyên + Duyên để thành ra cái nhà.

    3/ Sinh: Là có ra, là đẻ ra, là sản sinh ra một cái gì đó.

    Vậy Nhân – Duyên – Sinh là từ Nhân này hợp với Nhân kia, hợp với Nhân nọ để thành ra một cái gì đó. Như viên gạch hợp với hồ, hợp với gạch rồi hợp hợp nhiều viên gạch để thành ra một bức tường, rồi hợp với cột, kèo, đòn tay, rui, mè, ngói để thành ra một cái nhà nghiêm chỉnh. Trong đó lại có thợ, lại có nhân công, lại có tiền, lại có người làm chủ nhà. Như thế, cái nhà có ra được là do Nhân – Duyên – Sinh mà có ra. 

    Lại như con người có ra cũng từ Nhân – Duyên – Sinh. Ở con người, nhìn một cách tổng thể thì thấy rõ ràng có dạng tướng là một con người như một khối liên tục. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ thì chúng ta thấy rõ con người có thể chia làm ba phần: Đầu – Mình – Tay chân. Đầu là một Nhân. Mình là một Nhân. Tay chân là một Nhân. Ba Nhân đó hợp lại dính nhau thì gọi là con người.

    Và từ thân người nếu phân tích thêm nữa sẽ thấy rằng: Những chất cứng trong người như tóc, lông, răng, móng,… đó thuộc về Đất. Những chất lỏng trong người như máu, nước miếng, nước mắt, đờm, nước tiểu, các chất dịch,… đó là Nước. Và hơi nóng trong người gọi là thân nhiệt, đó là Lửa. Hơi thở, hít vào thở ra, có sự ra vào, đó gọi là Gió. Như vậy bốn chất chính (Tứ Đại). Bốn chất chính này hợp lại để thành ra thân xác một con người. Thế nên để được sống còn thì con người phải ăn (mượn Đất vào), phải uống (mượn Nước vào), phải sưởi ấm qua ánh nắng mặt trời hay qua lửa (mượn Lửa vào), và con người phải hít thở (mượn Gió, không khí vào). Có sự vay mượn đầy đủ bốn thứ Đất, Nước, Gió, Lửa thì gọi là lành mạnh. Nếu không đầy đủ, không quân bình, không hòa hợp mà chống trái nhau thì sẽ có bệnh sinh ra và dẫn đến tử vong. Đã mượn bốn thứ Đất – Nước – Gió – Lửa vào cho nên phải trả lại. Mượn lương thực vào, mà lương thực như rau đậu là từ đất mà thành, rõ nhất là khoai củ, ngũ cốc đều từ đất mà có, cho nên ăn vào rồi, sau khi tiêu hóa, thu hút dinh dưỡng, còn lại cái xác thì phải thải ra gọi là đi tiêu. Cái xác đó được gọi là phân, và rồi nó sẽ tiêu đi thành đất. Khi mượn nước uống vào thì phải trả lại, nên đi tiểu ra nước, gọi là nước tiểu. Khi mượn không khí hít vào thì phải thở ra để trả lại không khí. Khi mượn hơi nóng mặt trời và hơi lửa để làm ấm cơ thể thì phải hực hơi nóng để trả lại mặt trời và lửa.

    Như vậy, cuộc sống nơi thân xác là một sự mượn Đất, Nước, Gió, Lửa và trả lại cho Đất, Nước, Gió, Lửa. Một sự mượn – trả liên tục được điều hòa thì gọi là sống còn. Nếu sự mượn và trả không liên tục, không điều hòa thì gọi là bệnh hoạn và đưa đến tử vong.

    Như vậy, cái cơ bản của thân xác con người là do bốn thứ Đất, Nước, Gió, Lửa hòa hợp mà tạo nên, được gọi là Tứ Đại hợp thành. Nếu Tứ Đại mà quân bình thì sức khỏe tốt, được lành mạnh. Nếu Tứ Đại bất hòa, có sự chống đối của bốn thứ thì gọi là bệnh hoạn và chết. Nếu chi li hơn, phân tách một cách sâu sắc hơn thì sẽ thấy rằng: trong cơ thể con người có nhiều hạt máu nhỏ li ti và các sợi thần kinh nhỏ nhít, không biết bao nhiêu mà tính cho xuể. Chúng kết hợp lẫn nhau mà thành ra một thân xác. Nếu sự kết hợp đó mà quân bình, không chống trái thì gọi là lành mạnh. Còn nếu có sự chống trái thì gọi là đau bệnh và đưa đến tử vong.

    Cơ thể đã có sự cấu tạo như vậy là đều từ Nhân – Duyên – Sinh mà có ra, thành nên. Rồi cũng từ Nhân – Duyên – Sinh khi không còn hòa hợp được thì sẽ tự tách ra. Đất đi đường Đất, Nước đi đường Nước, Gió đi đường Gió, Lửa đi đường Lửa, thì sẽ thành ra sự hủy diệt. Con người lúc bấy giờ không khác nào hình án “Tứ mã phanh thây”, bốn ngựa buộc vào bốn phần của cơ thể và chúng sẽ chạy bốn hướng để xé con người ra thành bốn mảnh để gọi là chết. Cho nên con người không thực sự là con người mà là của Tứ Đại. Thế nên, thân xác này không phải là tài sản của chính ta mà nó là tài sản của

    Tứ Đại. Nên cái thân này là “Giả” nào có “Thiệt” gì!? Thế nên, cuộc sống của đời người không có cái gì là thật cả. Vậy sống là để chờ chết mà thôi!

    Các vương tử nghe qua về sự trình bày của Tổ đều thụt đầu và lè lưỡi. Vương tử thứ hai cất lời:

    -   Ồ! Thì ra cuộc sống giữa này có gì là thú vị đâu?!

     Vương tử thứ ba dù là còn nhỏ tuổi cũng nói theo:

    -   Như vậy con lớn lên để làm gì? – Cũng là để chờ chết sao?!

    Vương tử thứ ba nhìn quanh sân vườn và lầu các rồi lại nói:

    Như vậy, của cải vật chất này trả lại cho ai? - Ai sẽ là chủ nhân của chúng? 

  • 12. TÀI SẢN CỦA TA

    Tổ Bát Nhã Đa La nhìn xuống hồ nước, thấy tất cả khung cảnh xung quanh đều hiện bóng trong hồ nước, Ngài chỉ cho các vương tử thấy rõ các bóng ảnh trong hồ nước, nào vườn cây, nào lầu các,… các thứ đều chập chờn hiện bóng trong gương nước. Ngài chỉ cho các vương tử thấy rõ những hình bóng đó và nói:

    -   Các con có thấy những bóng ảnh trong gương nước đó không? – Những bóng ảnh đó để nói lên rằng những tài sản mà mình có được, con người có được đều chỉ là như vậy. Các con có đứa nào vớt được những bóng ảnh đó không?

    Vương tử út trả lời nhanh lẹ:

    -   Thưa thầy, chúng là bóng thì làm sao vớt được?!

    Tổ hướng mắt lên những tòa nhà, vừa chỉ tay vừa nói:

    -   Nhưng nó là thiệt kia mà! Chúng là của phụ hoàng con đó.

    Các vương tử đều ra chiều ngẩn ngơ, đều lẩm nhẩm rằng:

    -   Nó là thiệt nhưng đều là bóng. Thế nên, chúng tuy có mà không thật. Vậy, chúng chỉ là giả mà thôi! Là giả có!

    Tổ nói:

    -   Các con giỏi lắm! Các con giỏi lắm! Thật đúng vậy!

    Bây giờ thấy chúng có, nhưng một lúc nào chúng sẽ trở thành không. Vì Đức Phật đã dạy: “Tài sản của ta nào phải là của ta. Nó là của năm nhà:

    1. Của bà hỏa, nên lúc nào đó bà hỏa muốn lấy thì phừng lửa lên là đốt cháy sạch.
    2. Là của bà thủy, nên lúc nào bà thủy muốn lấy thì dâng nước lên cuốn sạch.
    3. Là của vua quan cho nên khi nào vua quan muốn lấy thì liền đoạt lấy.
    4. Là của giặc cướp cho nên khi nào giặc cướp cần thì nổi dậy đánh chiếm, cướp giật.
    5. Là của con hư. Nếu trong gia đình có con mà bị hư thân mất nết thì chúng ăn chơi, tiêu xài hoang phí, cờ bạc, rượu chè,… thì trở thành hoang phí hết. 

    Tổ nói:

    - Các con thấy không? Thực tế là như vậy. Năm tình trạng đó không phải là mơ hồ mà có thể xảy ra. Cuộc đời này đâu có gì là chắc. Dưới đất thì “vật đổi”, trên trời thì chúng ta thấy có “sao dời”. “Vật đổi, sao dời” là hiện tượng xảy ra hằng ngày trong cuộc sống. Chúng ta thấy đất là như vậy, tưởng như đứng yên nhưng nó luôn luôn chuyển động. Một hũ vàng chôn ở đây, nhưng một thời gian thì nó lại dời đi nơi khác. Nơi này đất bằng, nhưng có thể một thời gian sau nổi lên núi. Nơi này là núi nhưng một thời gian nào đó thì núi bị sụp; nơi này là ruộng dâu nhưng lúc nào đó nó trở thành biển nước xanh xanh. Và ngay đây là hồ cá, một lúc nào đó nó sẽ bị khỏa lấp, cũng như trước đây nó là đất bằng rồi được đào lấp đất và nay trở thành hồ nước… Đó là những hiện tượng ở trên đất bằng, còn trong trời không cũng đâu phải đứng yên. Lúc nào cũng có gió. Gió luôn chuyển động, từ gió yếu đến gió mạnh, thành giông thành bão. Và khi thành bão rồi nó sẽ thổi tan nhà cửa, đền đài một cách dễ dàng. Cuộc sống này luôn luôn chuyển động chứ không đứng yên. “Vật đổi, sao dời” là hiện tượng thường nhiên trong cuộc sống. Thế nên có tài sản nào thực sự là của mình, là của ta đâu nào! Như vậy, thân ta đã không phải là của ta và tài sản, của cải cũng không phải là của ta nữa. Và cả cái “Ta” cũng không phải là ta. Cho nên cuối cùng rồi thì ta biến mất khỏi cuộc sống. Dù muốn dù không, ta cũng phải biến mất khỏi cõi đời.

     

  • 13. VÔ THƯỜNG

    Tổ và các học trò đứng dậy đi quanh bờ hồ, những con cá thấy bóng người, chúng chợt lặn xuống biến mất, rồi lại trồi lên, lặn xuống. Mặt nước khi bằng phẳng lúc cá lặn và dợn sóng khi cá nổi. Tổ chỉ cho các học trò:

    - Các con thấy không, đó là hiện tượng vô thường, nó khi có, khi không. Và mình đã đi dời từng bước một, đây cũng là vô thường. Và Thầy có nói, có nín thì đây cũng là vô thường. Lúc có gió, lúc không gió. Đó cũng là vô thường. Khi mình ở chỗ này, khi mình ở chỗ khác thì cũng là vô thường. Nói chung, trong một ngày chúng ta sống trong vô thường rất nhiều. Gần như chúng ta đã sống suốt trong vô thường. Như vậy vô thường là không thường còn, không thường có và không thường tồn tại. Nó là một lực chuyển động không dừng. Thế gian là chốn vô thường.

    Cảnh sắc vô thường: Chúng ta sống có ngày và có đêm. Ngày thì sáng, đêm thì tối. Ngày thì thức, đêm thì ngủ, đó là vô thường.

    Như vậy những thứ có ở ban ngày và những thứ có ở ban đêm đều vô thường hết. Từ một hạt lúa mọc mầm rồi thành một cây lúa trổ bông, có hạt. Rồi cây lúa chết, đó là vô thường. Từ một mảnh đất có nhiều cây rừng và bị chặt dọn hết cây rừng để cất nhà, đó là vô thường. Từ đất bằng cuốc xới lên để trồng thành rau cải, đó là vô thường, v.v… Vô thường trên cả hoa kia cỏ này, không gì không phải vô thường. Vô thường là lẽ thường nhiên trong cuộc sống, trong cảnh vật.

    Vô thường ở con người: con người từ khi sinh ra rất nhỏ và được nuôi lớn lần hồi để trở thành một đứa bé, biết bò, biết đi, biết chạy, trở thành một thiếu nhi, rồi thành thiếu niên, thanh niên, trung niên, lão niên. Thành một ông già để rồi cuối cùng lại chết đi, đó là sự vô thường của đời người.

    Ngoài vô thường trên thân xác, con người còn vô thường ngay tâm hồn. Lúc nhỏ thì suy nghĩ như thế này, lúc lớn lại suy nghĩ thế khác, lúc già lại suy nghĩ khác nữa. Không những thế, chỉ trong một ngày thôi, người ta suy nghĩ không biết bao lần khác nhau. Điều đó chứng tỏ rằng tâm hồn con người cũng là vô thường. Như vậy, cuộc sống con người là cuộc sống vô thường, chuyển biến từng giờ từng phút cho tới từng một sát na (sát na là thời gian cực ngắn, nó là 1 phần 90 thời gian của niệm). Đời sống con người vì vậy là một dòng vô thường mà thôi và sự vô thường này đưa tới tình trạng khổ (chết là khổ).

    Tính chất của vô thường: Vô thường là một sự chuyển dời không đứng yên.

    Đó là tính chất đặc biệt của vô thường. Ngoài ra vô thường không có tính chất làm khổ hay làm vui. Vô thường cũng không có làm tốt hay xấu, mà chuyện khổ vui, xấu tốt là ở con người chứ không phải ở Pháp Vô thường. Pháp Vô thường chỉ là sự chuyển biến để có vô thường mà thôi. Như vô thường tối và sáng thì con người có cần thức hay ngủ, đó là chuyện của con người. Nếu thích ngủ thì khi tối là vui, còn thích thức thì tối là buồn. Thế nên, rõ ràng, vô thường không có mang tính chất khổ hay vui, tốt hay xấu. Người biết sống thì nhậm vận vô thường, như tối thì ngủ, sáng thì thức; không thấy chướng ngại gì hết trong khi tối và sáng. Người không biết sống thì sẽ bị chướng ngại, dễ bực bội khi bị vô thường chi phối. Người biết nhậm vận sống theo vô thường thì được an vui, người không biết thì muốn cưỡng lại vô thường cho nên bị khổ.

    Người biết thì lợi dụng vô thường để chuyển hóa con người mình cả hai mặt thể xác và tâm hồn, để được an vui. Đó là người biết tu. Ngược lại, nếu không biết thì chống lại vô thường hay đi ngược lại thì sẽ bị khổ đau mà thôi. Cho nên vô thường không có tính chất. Nó không là ma, là quỷ, là khổ đau gì hết, và như vậy “vô thường đúng là lẽ thường nhiên trong cuộc sống”.

  • 14. SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT THÍCH CA

    Bồ Đề Đa La quỳ gối chắp tay thưa với Tổ:

    -   Thưa Thầy, hôm nay xin Thầy nói về sự tích Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho chúng con nghe, thưa Thầy!

    Tổ Bát Nhã Đa La với vẻ mặt đầy hoan hỷ, mỉm cười, gật đầu mà rằng:

    -   Được! Tốt lắm. Hôm nay Thầy sẽ nói sự tích Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho các con nghe. Đây là một câu chuyện quan trọng đệ nhất của người đệ tử Phật. Như làm con phải biết rõ về cha mình vậy.

    Các hoàng tử đều thích thú, lẳng lặng nhìn Thầy và lắng nghe.

    Tổ dạy:

    -   Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni là Đức Phật gốc (Bổn sư), là vị Thầy gốc có tên là Thích Ca Mâu Ni. Tiếng cổ là

    Sakya Muni (người dòng Thích Ca vắng lặng).

    Ngài có cha là Tịnh Phạn, là một vị vua.

    Mẹ Ngài là hoàng hậu Ma Da.

    Thân thế Ngài cũng giống như thân thế các con vậy. Có cha là vua, có mẹ là hoàng hậu. Một thân thế tốt nhất trong cả nước.

    Ngài sinh có hơn chúng ta trước 10 thế kỷ, tức trước chúng ta hơn 1.000 năm, có thể là 1.600 năm. Vì là sinh trong trường hợp khó nên người mẹ phải chịu hy sinh để cho ngự y mổ bụng bên phải, mới được sinh ra. Thế nên người mẹ phải chịu sự đớn đau vô cùng. Vì để cho con ra đời mà phải chịu xé bụng như thế. Khi ngự y bồng hài nhi từ trong bụng mẹ ra thì một tay xốc nách khiến tay này giơ thẳng lên, và một tay nắm chặt tay kia thì tay kia chỉ xuống đất. Như vậy tư thế của đứa bé tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất.

    Với hình ảnh này khiến cho có người dịch ra rằng: “Thái tử muốn nói lên: Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là trên hết. (Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn)”. Ngày qua tháng lại, người nghe bỏ bớt đi ba chữ “như muốn nói” nên thành ra nói lên rằng: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn, rồi cho là thái tử nói. Nhưng thật ra thái tử chưa biết nói.

    Các hoàng tử nghe kể đến đây đều thun đầu, le lưỡi khiếp đảm.

    Tổ nói tiếp:

    - Các con thấy không, về việc chào đời các con có phước hơn Đức Phật rất nhiều. Cả ba anh em được sinh ra mà đến bây giờ hoàng hậu vẫn còn khỏe mạnh.

    Trong khi đó bà hoàng hậu Mada sinh ra được bảy ngày, sau khi gắng gượng thấy được mặt con rồi – một đứa con trai thật là xinh đẹp vô cùng, rồi đến ngày thứ bảy hoàng hậu phải khép mắt lìa đời, xa lìa đứa con trai yêu dấu. Vì vết thương bụng không thể lành được mà dẫn đến tử vong.

    Ôi! Đau khổ biết nhường nào. Đức vua và cả hoàng cung đều đau khổ, nước mắt dầm dề, đớn đau biết mấy.

    Lúc bấy giờ, trên đỉnh núi tuyết, có vị Tiên trưởng chống gậy lần xuống núi và đến triều đình xin được ra mắt, nhưng không phải là ra mắt nhà vua mà xin được ra mắt hoàng nhi. Nhà vua lấy làm lạ, vì sao một vị Tiên trưởng uy danh khắp thiên hạ mà lại xin ra mắt một đứa bé mới chào đời. Tuy nhiên, nhà vua cũng tạm thời bớt đau lòng, lau nước mắt để tiếp đón Tiên trưởng A Tư Đà.

    Tiên trưởng A Tư Đà dáng người đạo mạo tuy không giấu nổi vẻ già nua ở nơi tuổi cao sức yếu của mình. Tiên trưởng khom mình trước nhà vua:

    -   Muôn tâu bệ hạ, hạ thần vừa hay được bệ hạ vừa được hạ sinh quý tử từ hoàng hậu Ma Da. Hoàng tử là một thánh nhân ra đời nên hạ thần rất vui, xin được ra mắt hoàng tử. 

    Nhà vua rất lấy làm vui, vuốt chòm râu bảo tỳ nữ hãy bế hoàng tử ra cho Tiên trưởng A Tư Đà xem tướng. Tỳ nữ bồng hoàng nhi đến trước Tiên trưởng A Tư Đà, vị Tiên trưởng chắp hai tay, cúi đầu trước hoàng nhi. Tiên A Tư Đà nhìn hoàng nhi mà nở nụ cười rạng rỡ, cười lên ba tiếng khiến đức vua ráo khô ngấn lệ, hiện rõ vẻ hoan hỷ vô cùng. Nhưng rồi Tiên A Tư Đà lại sụt sùi khóc lên ba dòng lệ tuôn chảy khiến cho đức vua ra chiều hoảng sợ:

    -   Vì sao Tiên trưởng vừa cười ba tiếng lại khóc ba tiếng, chẳng hay có gì bất thường cho hoàng cung?!

    Tiên trưởng nghe nhà vua hỏi liền lau nước mắt, lấy lại phong độ mà rằng:

    -   Muôn tâu bệ hạ, thần cười vì mừng cho nhân loại và cả triều đình có một vị thánh nhân ra đời. Ngài sẽ cứu độ tất cả chúng sinh khỏi điều đau khổ. Cho nên hạ thần hoan hỷ. Hạ thần khóc vì hạ thần cảm thương thân phận mình, không sống được đến ngày hoàng nhi thành Chánh Giác. Cho nên hạ thần mới buồn cho thân phận mà phải khóc như vậy.

    Tiên trưởng A Tư Đà lại hướng về đức vua:

    -   Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ cho hạ thần được xem tướng hoàng nhi!

    Nhà vua vuốt chòm râu, mỉm cười:

    -   Được! Xin Tiên trưởng hãy xem tướng cho hoàng nhi có gì tốt xấu chăng?

    Tiên trưởng cúi đầu xuống để xem tướng hài nhi, hài nhi duỗi hai chân đạp lên đầu Tiên A Tư Đà. Tiên A Tư Đà rất hoan hỷ cho rằng: Đây là Đức Thánh đã làm phép gia trì cho ông, nhằm chúc phúc lành cho ông. Vị Tiên trưởng xúc động đến độ nước mắt lưng tròng, và thốt lời: “Thần hạnh phúc quá! Thần thật sự hạnh phúc vô bờ, đã được Đức Thánh thương xót cho cái thân phận già nua này. Đây cũng là thần được an ủi lớn lắm. Dù rằng trước khi mệnh chung không được gặp Đức Thánh nữa.”

    Vị Tiên trưởng đã chăm chú vào từng vị trí của hài nhi từ đầu đến chân, từ trước ra sau. Bằng vẻ mặt thành khẩn, xem đến đâu Tiên trưởng luôn khen ngợi: “Quý tướng! Thật là quý tướng”. Nhất là nhìn đỉnh đầu của hoàng tử, Tiên trưởng như muốn không rời đỉnh đầu và mở lời rằng: “Tướng quý nhất là đỉnh đầu có nhục kế vun đầy. Đây là quý tướng chứng tỏ Đức Thánh sau này sẽ thành nên Chánh quả.

    Thành nên một Đức Phật ở tương lai”. Trong khi đó, đức vua nghe qua mà buồn rười rượi: “Con ta sẽ không ngồi ngai vàng sao?”.

    Tiên trưởng A Tư Đà lại nhìn xuống ngực của hoàng nhi thấy nổi lên bắp thịt hình chữ vạn, càng xác định hơn. Với chữ vạn này là một chữ tuyệt vời trên cả tuyệt vời; là quyết định Đức Thánh không ngồi ngai vàng mà lại ngồi tòa Đại Giác. “Muôn tâu bệ hạ hãy an lòng. Trên người hoàng nhi hạ thần đã kiểm qua, có đủ cả 32 tướng tốt. Đó là tướng của bậc Chuyển Luân Thánh Vương cao quý tột bậc”.

    - Muôn tâu hoàng thượng! Hạ thần đã xem qua thân tướng của hoàng nhi, quả là có đủ 32 tướng tốt. Nhất là có tướng chữ vạn ở giữa ngực và có tướng nhục kế ở giữa đỉnh đầu. Với hai quý tướng này nhất định hoàng tử sẽ không ngồi ở ngai vàng mà sẽ ngồi ở tòa Đại Giác và thành Phật Đạo.

    Vương tử thứ ba là Bồ Đề Đa La nghe đến đây liền coi lại ngực mình xem có chữ vạn hay không và rờ lên đỉnh đầu có nhục kế như Đức Phật hay chăng. Hoàng tử xem qua không thấy mình có chỗ nào giống như Đức Phật cả nhưng không lấy làm buồn, làm thất vọng mà lại trầm ngâm ra chiều sâu lắng để tìm cách khắc phục, để được như Đức Phật.

    Tổ phát hiện có điều lạ lùng ở nơi vương tử thứ ba mà thoáng nghe vui. Tổ biết rằng hoàng tử thứ ba này đã có căn lành trồng sâu.

    Tổ trở lại câu chuyện của Tiên trưởng A Tư Đà. Tiên trưởng lại tỏ thái độ trịnh trọng hơn lên thưa tiếp với đức vua rằng: - Muôn tâu thánh thượng, chẳng hay thánh thượng có chọn tên cho hoàng tử chưa ạ?

    Nhà vua được Tiên trưởng A Tư Đà xoay chuyển qua tên họ, danh tánh của thái tử cũng nghe vui được mà bớt đi sự não lòng khi biết rằng con ta sau này sẽ không ngồi ngai vàng để chăn dân trị nước. Nhà vua lại hoan hỷ trước Tiên trưởng:

    -  Thưa Tiên trưởng, chưa ạ! Nhân đây Trẫm xin cung thỉnh Tiên trưởng ban cho hoàng nhi một cái tên để tiêu biểu cho thân tướng tốt đẹp như Tiên trưởng đã rõ qua.

    Vị Tiên trưởng A Tư Đà nghe qua, cất tiếng:

    -   Dạ! Thần xin tuân mệnh.

    Tiên A Tư Đà ra chiều trầm ngâm một chút rồi cất tiếng lên thưa:

    -   Hạ thần đã tìm mà không ra một tên nào để xứng đáng cho hoàng tử để nói lên nghĩa siêu việt. Muôn tâu thánh thượng hãy tìm đặt cho con người siêu việt này.

    Đức vua ngẫm nghĩ và tìm được một tên: Sĩ Đạt Ta (Siddhartha). Tên này có nghĩa là: (Người được toại nguyện). Nhà vua liền thưa với Tiên trưởng:

    -   Trẫm xin đặt tên cho hài nhi là Sĩ Đạt Ta.

    Vị Tiên trưởng nghe qua rất hài lòng và thưa rằng:

    -   Bệ hạ đã chọn một tên cho hoàng tử thật là rất hay, thật là rất chính xác.

    Hoàng tử sẽ là một con người được toại nguyện cho sau này.

    Hoàng tử được sanh tại công viên Lumbini, thành Ca Tỳ La Vệ, xứ Nepal.

    Sau khi đám tang mẫu hậu thì nhà vua chính thức giao hoàng tử cho người dì ruột là Ma Ha Ba Xà Ba Đề làm mẹ nuôi.

    Mẹ nuôi Ma Ha Ba Xà Ba Đề tổ chức việc chăm nuôi cho hoàng tử rất là chu đáo. Số người dưỡng nuôi hoàng tử có hơn ba mươi người. Tất cả mọi người đều tuân theo mệnh lệnh của mẫu hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề. Nhà vua và triều thần cố tình che giấu việc mẹ ruột của hoàng tử đã mất đi mà thay vào người mẹ nuôi đóng vai trò là mẹ ruột kể từ lúc bé con cho đến lúc trưởng thành để cho hoàng tử không biết rằng mình mồ côi mẹ. Đó là kế hoạch của vua cha và cả triều thần để không khiến cho hoàng tử buồn mà nghĩ đến việc xuất gia như Tiên A Tư Đà đã dự đoán. Thật là một kế hoạch, một mưu định rất hay.

    Thế là hoàng tử không hay biết gì về thân thế của chính mình từ lúc tấm bé.

    Hoàng tử vì thế được chăm lo, nuôi dạy một cách khéo léo từ bé cho đến lúc trưởng thành.

    Hoàng tử từ bé đã được nuôi dạy theo nếp lễ nghi của cung đình. Khi đến tuổi học tập được thì hoàng tử được vua cha và cả triều đình sắp xếp cho học tập cả văn lẫn võ. Hoàng tử được đức vua và triều đình tấn phong lên ngôi thái tử còn rất sớm. Thế nên việc học tập được chăm sóc theo nề nếp để trở thành một nhà vua tương lai. Nên các bậc thầy dạy văn và võ đều được tuyển chọn một cách đặc biệt, toàn là thầy hay giỏi đứng nhất cả nước. Chương trình học tập của thái tử vì thế rất là nặng nề để buộc thái tử không có thời gian nghĩ những chuyện vớ vẩn không đâu, mà phải chuyên tâm về việc học văn và võ. Nhưng thái tử là con người rất thông minh, mẫn tuệ nên thái tử học một biết mười, khiến cho các thầy giáo đều phải nể phục. Có người xin rút lui không dám dạy thái tử nữa. Vì có môn học thái tử đã giỏi hơn cả thầy. Thái tử có những môn học thầy chưa dạy mà đã biết.

    Đời sống, sự nuôi dạy thái tử rất là đầy đủ, rất là tốt lành. Và cũng là thái tử có sức khỏe trời cho nên không bệnh hoạn. Thái tử càng lớn càng phương phi, đĩnh đạc, vừa đẹp người, vừa đẹp nết. Thái tử được cưng chiều đúng mức. Không ai dám làm cho thái tử phải buồn, phải mất vui. Xung quanh cuộc sống của thái tử chỉ là một màu hồng tươi thắm, không màu u tối. Hoa kiểng chỉ là một màu tươi đẹp, không lá vàng trên cành, không nụ hoa héo trên bông. Tất cả, tất cả được chăm sóc tỉ mỉ từ trong ra ngoài. Thái tử được ăn ngon, mặc đẹp, được bảo vệ không bị sương rơi, nắng táp, thời tiết bức bách. Khi còn là thiếu niên, thái tử đã được phụ hoàng xây dựng cho những ngôi nhà phù hợp với khí hậu giữa ba mùa. Nhà vua cùng triều đình lo chăm sóc sức khỏe thái tử rất là tốt, giữ khí hậu điều hòa, không để cho nóng lạnh diễn ra một cách bất thường. Lấy nhiệt độ ấm mát làm chuẩn mực, cuộc sống của thái tử như vậy nên càng lớn thì những tướng tốt hiện ra một cách rõ ràng hơn. Phụ hoàng được nhìn thấy thái tử lớn lên trong tươi đẹp như vậy rất là hài lòng. Nghĩ rằng kế hoạch của mình ắt sẽ thành công để đưa thái tử lên ngai vàng một cách ổn định. Đến năm 16 tuổi, thái tử đã học xong cả văn lẫn võ, được các bậc thầy rất là hài lòng về trình độ học tập của thái tử. Nhà vua được các bậc thầy báo cáo về thành đạt của thái tử nên rất vui mừng. Đức vua liền bàn bạc với các triều thần mở ra cuộc tỉ thí về văn và võ cho các vương tử trong cả triều nội. Cuộc tổ chức thi cử cho các vương tôn công tử được diễn ra hết sức là trọng thể, tạo nên không khí tưng bừng cho cả triều nội và quần chúng. Như một ngày hội lớn của triều đình. Thái tử được đức vua tưng tiu và khuyến khích trong trận thi đấu đầu đời của thái tử. Thái tử vì đạo hiếu muốn làm vừa lòng vua cha nên cũng thuận ý ra thi đấu để vua cha được vui lòng và hãnh diện cùng cả triều thần và thần dân trăm họ. Cuộc tỉ thí đã được khai mạc bởi đức vua Tịnh Phạn. Nhà vua đã long trọng khai mạc cuộc tỉ thí từ xưa tới nay chỉ có một lần. Với tiếng reo hò vang dậy khắp cả đất trời.

    Cuộc tỉ thí được diễn ra làm hai mục:

    Trước hết là thi văn. Các sĩ tử đều là những thanh niên trai trẻ từ 16 tuổi cho đến 20 tuổi. Cùng là thành phần vương tôn công tử, giai cấp tốt nhất trong xã hội thời bấy giờ là giai cấp Bà La Môn và Sát Đế Lợi cùng ban giám khảo là những bậc thầy danh tiếng trong cả nước. Thi văn gồm những câu hỏi từ ban giám khảo và thí sinh phải trả lời bằng miệng. Những đề thi rất là khó khăn. Qua cuộc thi văn, kết quả được công bố tại chỗ. Người đứng nhất, là thủ khoa, đó chính là thái tử Sĩ Đạt Ta. Tiếng hoan hô vang dội muốn vỡ cả đất trời. Vua Tịnh Phạn vuốt chòm râu bạc cười vui hoan hỷ cùng hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề rất hãnh diện vì đứa con trai yêu dấu của mình. Bà nhìn thái tử từ đầu đến chân đều rất hài lòng, là một mỹ nam tử hết sức tuyệt vời.

    Sau khi tràng vỗ tay đã chấm dứt thì môn thi thứ hai được lồng lộng tuyên bố qua chiếc loa của cuộc tỉ thí. Môn thứ hai là môn đấu võ. Môn thi đấu võ được diễn ra với vòng loại, vòng này được đấu từng cặp. Là những thanh niên trai tráng, trẻ đẹp, đầy dũng khí. Đây là những hình ảnh khiến cho những công nương có mặt chăm chú nhiều hơn cả, để xem ai là kẻ anh tài được lọt vào mắt xanh.

    Vòng loại đã xong rồi đến vòng bán kết. Qua vòng bán kết là những thanh niên hào hùng, trẻ khỏe. Cuối cùng vào hàng chung kết được tuyên bố. Hàng này được tuyên bố có thái tử Sĩ Đạt Ta và Đề Bà Đạt Đa cùng chiến đấu để tranh giải vô địch. Với vòng này tiếng vỗ tay lại vang dội hơn những lần trước. Đấu thủ

    Đề Bà Đạt Đa lại có vẻ hăng máu, nghĩ rằng mình sẽ là kẻ đắc thắng, từ tướng đi, bộ điệu đều nói lên như thế. Đề Bà Đạt Đa đã diễu võ dương oai cho bao nhiêu người chú ý, chứng tỏ cho tài nghệ của mình thuộc hàng siêu đẳng (Đề Bà Đạt Đa là vai em, con nhà bác của thái tử Sĩ

    Đạt Ta). Trong khi đó, thái tử Sĩ Đạt Ta bước ra bằng những bước đi nhẹ nhàng, khoan thai, điềm tĩnh như không có chuyện gì xảy ra, như không muốn tranh hơn tranh thua gì cả. Với vẻ thanh tú, trang nghiêm của thái tử Sĩ Đạt Ta đã khiến cho bao nhiêu cặp mắt của các nàng công chúa, công nương đổ dồn chú ý. Trong khi đó có nàng công chúa, con vua Thiện Giác, vẻ mặt đẹp tuyệt vời nhưng tay khẽ ôm lấy lồng ngực với vẻ phập phồng lo sợ cho tài năng của thái tử Sĩ Đạt Ta, e rằng chàng không thắng nổi bởi Đề Bà Đạt Đa quá oai dũng.

    Cuộc thi võ này phải thi qua: cung tên, kiếm côn, đấu quyền cước.

    Để thi cung tên ở đấu trường, đem ra một thanh cung rất nặng, phải là hai người khiêng mới nổi. Đề Bà Đạt Đa chụp cung tên thi trước. Mục tiêu để bắn tên đó là thả cặp bồ câu bay trên không. Một thanh cung mà hai người khiêng, thế mà Đề Bà Đạt Đa chỉ cầm một tay đưa lên một cách nhẹ nhàng với tiếng ầm lên.

    Đề Bà Đạt Đa quỳ gối, móc tên sau lưng lắp vào và buông dây, mũi tên bay vút và bắn hạ liền hai con bồ câu.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta nhìn thấy hai con bồ câu xù lông rơi xuống mà se lòng, khẽ nhíu mày thương xót hai con chim mất mạng một cách oan uổng. Nhưng khi đó

    Đề Bà Đạt Đa lấy làm đắc thắng. Đề Bà Đạt Đa lại muốn bắn tiếp mũi thứ hai với đà chim bay cao hơn.

    Muốn cứu hai con chim vô tội, thái tử Sĩ Đạt Ta khoát tay ra dấu lần buông tên thứ hai của Đề Bà Đạt Đa và thái tử với giọng uy nghiêm hỏi trong đấu trường rằng còn thanh cung nào lớn, nặng hơn thanh cung này chăng?

    Trong đấu trường có người cất tiếng lên dõng dạc:

    -   Thưa có ạ! Tuy nhiên thanh cung đó là thứ bảo vật của triều đình. Đó là một thanh cung cổ xưa chưa có người dùng đến. Vì thanh cung ấy nặng gấp hai thanh cung này.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta ung dung buông lời:

    -   Được! Các ngươi hãy khiêng nó ra đây cho Ta.

    Đề Bà Đạt Đa đã bắn trúng đích hai con chim thế mà không có tiếng vỗ tay vì do thái tử Sĩ Đạt Ta can ngăn sự độc ác. Đề Bà Đạt Đa cảm thấy bực mình, đi tới đi lui, càu nhàu: “Ta đã thắng rồi! Ta đã thắng rồi! Mà tại sao lại như thế, lại im lặng là sao?”.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta nhìn Đề Bà Đạt Đa mà mở lời: “Hãy khoan đã, còn phần Ta nữa. Hãy chờ xem”.

    Các hoàng tử lắng nghe theo dõi cuộc tỉ thí ra chiều gay cấn thì vương tử Nguyệt Tịnh Đa La thốt lời:

    -   Thật là đáng khen cho Đề Bà Đạt Đa.

    Vương tử Bồ Đề Đa La cũng cất lời:

    -   Thật là đáng khen cho thái tử Sĩ Đạt Ta đã có tấm lòng thương chúng sinh vô hạn.

    Tổ Bát Nhã Đa La khẽ gật đầu:

    -   Phải! Con chim bị tên chẳng khác nào thái tử trúng tên.

    Tổ lại kể tiếp:

    -   Trên võ đài, tám người khệ nệ khiêng thanh cung đặt bên cạnh giá cung của Đề Bà Đạt Đa, khiến cho mọi người hoảng hốt giật mình vì thấy thanh cung này quá nặng, quá lớn có gấp đôi thanh cung của Đề Bà Đạt Đa. Và họ nhìn thanh cung, rồi nhìn thái tử Sĩ Đạt Ta khẽ lắc đầu. Làm sao mà thái tử Sĩ Đạt Ta cầm thanh cung này nổi. Cầm còn không nổi nói gì là giương lên?! – Thì làm sao thái tử bắn cho được. Ôi! Vậy là làm khó thái tử rồi. Phen này làm sao thái tử thi triển cho được, đành thất bại thôi.

    Mọi người thấy dáng thanh cung đều lắc đầu lo ngại cho thái tử sẽ thất bại trước thanh cung bảo vật từ tiền triều như vậy.

    Riêng thái tử Sĩ Đạt Ta nhìn thấy thanh cung rồi nhìn qua phụ vương và mỉm cười với phụ vương để cho phụ vương được an lòng: “Con làm được!”

    Vua Tịnh Phạn thấy thanh cung bảo vật đã có từ lâu trong triều đình mà không một người dám thử sức. Nay con ta mới chừng này tuổi (16 tuổi) thì làm sao đủ sức mạnh để vươn nổi cây cung này.

    Đức vua như muốn nói lên điều gì nhưng thái tử Sĩ Đạt Ta không để đức vua nói. Thái tử bèn đi về hướng thanh cung. Đứng trước thanh cung, thái tử nín lặng và những bắp thịt chạy cuồn cuộn trên chân, trên tay, trên khắp người thái tử. Đó là nội lực phi thường mà thái tử đã luyện tập được theo bí cấp cổ điển chỉ qua đồ hình mà thôi. Thái tử lại cúi xuống và nhấc thanh cung lên xem nhẹ nhàng cũng như Đề Bà Đạt Đa đã cầm thanh cung trước đó vậy. Thái tử cầm thanh cung và đi quanh ba vòng võ đài với gương mặt ung dung không tỏ ra chút gì nặng nề cả, khiến cho những tiếng vỗ tay muốn xé thủng hư không. Và với mũi tên cũng cực kỳ lớn nặng, thái tử lắp tên vào và nhắm vào hồng tâm của tiêu điểm để bắn cung. Thái tử đã buông tên và trúng ngay hồng tâm với sức mạnh như vũ bão đã cuốn bay cái giá tiêu bảng không biết đến đâu. Trong quảng trường người ta vỗ tay ầm lên nhưng không biết cái giá tiêu bảng đã rơi tận nơi nào. Bao nhiêu kỵ sĩ phải phi ngựa theo hướng tên mà tìm giá tiêu bảng và mũi tên đem về võ đài. Trong khi đó, Đề Bà Đạt Đa bao nhiêu kiêu khí đều tan biến hết như bị mũi tên ghim thẳng vào tim của mình. Thật không ngờ cậu em thái tử Sĩ Đạt Ta lại có nội lực phi thường đến như thế. Tràng vỗ tay kéo dài cho đến khi đoàn kỵ sĩ tìm được mũi tên và giá tiêu bảng mang về thì cũng phải mất thời gian một khắc giờ. Hỏi ra thì giá tiêu bảng đã bay cách xa có cả 10 dặm, đủ thấy sức mạnh của thanh cung và cơ bắp của thái tử hùng hậu như thế nào. Người vui mừng nhất là phụ hoàng. Nhà vua đến bên thái tử mà vuốt ve thương mến.

    Ban giám khảo tuyên bố thái tử Sĩ Đạt

    Ta đã vô địch về cung tên khiến cho Đề Bà Đạt Đa trở nên tiu nghỉu. Trận đấu thứ hai là trận đấu về côn kiếm. Côn kiếm có hai trận: một trận côn, một trận kiếm. Thi đến côn trước và kiếm sau.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta và Đề Bà Đạt Đa, cả hai theo sự hướng dẫn của võ sư là chọn côn và được võ sư gợi ý nhắc chừng cho việc giao đấu. Và trong khi giao đấu chỉ tính điểm mà tránh việc đả thương nhau.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta thì luôn ung dung để chiến đấu. Trong khi Đề Bà Đạt Đa thì hậm hực để chờ đánh nhau. Hai đối thủ chào nhau trước để rồi ra tay giao đấu. Chào xong thì Đề Bà Đạt Đa ra tay liền để giành thế thượng phong. Thái tử Sĩ

    Đạt Ta thì luôn nhường bạn vài ba chiêu trước rồi mới chính thức giao đấu. Trong giao đấu, Đề Bà Đạt Đa luôn xuất những chiêu hiểm độc để mong đắc thắng càng sớm càng tốt mà không mang tính đấu giao hữu. Còn thái tử Sĩ Đạt Ta tuy giao đấu nhưng giữ được tinh thần giao hữu mà không hề có ý quyết liệt để tranh thắng thua. Những đường roi ngọn gậy của thái tử rất là ung dung, thanh thoát, không có tính sắc máu. Không như những đòn roi của Đề Bà Đạt Đa, luôn hiểm hóc, luôn độc hại, hay hạ độc thủ. Tuy nhiên, thái tử Sĩ Đạt Ta không bao giờ nao núng trước sự tấn công tới tấp và hiểm độc của Đề Bà Đạt Đa. Thái tử vừa đấu vừa mỉm cười khi gạt đỡ những chiêu thức độc hại của đối phương. Dù đối phương có ác ý, có chơi xấu, thái tử vẫn mỉm cười đỡ gạt một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Thái độ ung dung của thái tử lại làm cho Đề Bà Đạt Đa sùng máu thêm hơn, quyết xuống tay độc hại. Để kết thúc trận đấu cho sớm, cho nhanh, với một đòn kết thúc, Đề Bà Đạt Đa đã xuất chiêu tận lực. Thái tử Sĩ Đạt Ta né đòn và vọt đạp lên cây gậy quá đà của Đề Bà Đạt Đa làm cho cây gậy vuột khỏi tay. Thái tử phóng cao lên, thay vì ngọn roi sẽ quất vào cổ của Đề Bà Đạt Đa. Nếu đòn thế này mà thực hiện thì Đề Bà Đạt Đa sẽ gục ngã liền. Nhưng không, thái tử phi thân qua đầu của Đề Bà Đạt Đa. Đề Bà Đạt Đa bị chúi nhũi về phía trước và thái tử Sĩ Đạt Ta đã hạ mình đứng sau lưng Đề Bà Đạt Đa.

    Một tràng vỗ tay vang lên. Đề Bà Đạt Đa đã chiến bại. Giám khảo bước ra đỡ Đề Bà Đạt Đa đứng dậy và cầm tay thái tử đưa lên cho biết thái tử đã thắng. Lại một tràng pháo tay nữa vang lên. Công chúa con vua Thiện Giác đã buông tay khỏi lồng ngực thở phào nhẹ nhõm. Với nụ cười nở trên môi lén nhìn thái tử để chia sẻ nỗi niềm.

    Giám khảo tuyên bố: Trong trận này, vương tử Đề Bà Đạt Đa chỉ kém hơn thái tử 2 điểm mà thôi. Giờ đây, đến trận thứ ba là trận đấu kiếm. Xin thái tử và vương tử chuẩn bị.

    Thái tử đến giá kiếm rút đại một thanh gươm nào đó mà không buồn lựa chọn. Trong khi đó, vương tử Đề Bà Đạt Đa đã chuẩn bị cho mình một thanh kiếm báu.

    Vương tử Đề Bà Đạt Đa rút thanh kiếm ra khỏi vỏ lóe sáng hào quang khiến người lạnh mình, chứng tỏ một thanh kiếm cực kỳ báu. Tiếp theo vương tử vũ lộng thần uy lia một đường kiếm khiến người có mặt cũng phải rụng rời.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta từng bước đủng đỉnh bước ra đương trường.

    Cả hai kiếm sĩ chào nhau rồi thụt lại ba bước. Vương tử Đề Bà Đạt Đa phóng kiếm trước. Giám khảo tuyên bố: Kiếm đao không có mắt, hãy cẩn thận chỉ điểm tới mà không gây thương tích.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta xoay người xuống đấu trường vòng tay chào khán giả. Một vòng chào rất là thân ái khiến khán giả vỗ tay tán thưởng. Thái tử liền quay lại đỡ mũi kiếm của Đề Bà Đạt Đa vừa phóng tới phát ra âm thanh một tiếng “kẽng” rợn người. Thế rồi Đề Bà Đạt Đa lại tấn công tiếp những đường kiếm rất là sắc sảo, điêu luyện. Thái tử Sĩ Đạt Ta chỉ đón đỡ mà không phóng trả. Đường kiếm của thái tử tiến thoái rất là ôn nhu, thực sự không có tính sắc máu nào. Thái tử cũng không tấn công mà chỉ ở thế thụ động đỡ gạt mà thôi. Nhưng Đề Bà Đạt Đa lại càng tấn công quyết liệt khiến cho thái tử phải xoay trở cũng khá vất vả. Đề Bà Đạt Đa còn trận này nên cần phải chiến thắng mới có thể đắc thắng thái tử Sĩ Đạt Ta. Nên có bao nhiêu sức lực đều dồn ra hết thế kiếm mà không giữ quy luật của cuộc đấu. Nhiều người bên ngoài theo dõi đã mấy phen lè lưỡi cho thái tử Sĩ Đạt Ta. Tuy nhiên, đường kiếm của thái tử Sĩ Đạt Ta rất là hư ảo, khó mà hiếp chế được. Vương tử Đề Bà Đạt Đa đã mấy lần lỡ bộ không chế thắng được, lại càng phẫn nộ thêm, phóng kiếm như gió táp mưa sa, định hạ độc thủ. Trong khi đó, thái tử Sĩ Đạt Ta vẫn ung dung đón đỡ và khẽ đưa tay búng nhẹ vào đốc kiếm của Đề Bà Đạt Đa khiến cho kiếm phải rời tay của Đề Bà Đạt Đa. Thái tử không có ác ý, nếu không Đề Bà Đạt Đa đã gặp nguy hiểm. Không có kiếm trong tay, Đề Bà Đạt Đa bèn rút tay về và nhảy lùi sau một bước, mặt mày xanh hết. Trận chiến dừng, tiếng vỗ tay cất lên vang dội và thái tử Sĩ Đạt Ta đã vòng tay chào đối thủ một cách rất là bình an. Thế là thái tử Sĩ Đạt Ta đã thắng cuộc.

    Bồ Đề Đa La nghe đến đây vui mừng nhổm người dậy và vỗ tay reo lên:

    -   Thái tử Sĩ Đạt Ta đã quá siêu việt, thắng đối phương một cách nhẹ nhàng!

    Tổ lại nói tiếp:

    -   Đúng rồi! Trận này thái tử Sĩ Đạt Ta được giám khảo cho là đắc thắng.

    Giám khảo lại tuyên bố trận đấu kết thúc. Đến phần “Đấu quyền cước”.

    Hai võ sĩ đều cởi trần để bài lộ tấm thân lực lưỡng. Mọi người đều có dịp chiêm ngưỡng hai tấm thân võ sĩ đẹp tuyệt vời. Đẹp theo lối cơ bắp, nhất là thân thể của thái tử Sĩ Đạt Ta, ngực như ngực sư tử, bụng thon như bụng nai, tay chân đều rất đẹp. Lúc này mới thấy rõ 32 tướng đẹp của thái tử bày hiện một cách rõ ràng, khiến cho người người đều trầm trồ khen ngợi một tấm thân thật là hiếm có trên đời. Nhất là các công chúa, công nương nhìn không rời mắt. Đức vua Tịnh Phạn khẽ vuốt chòm râu bạc tỏ ra đắc ý vô cùng, đúng là một quý tử. Sau này sẽ là một nhà vua hào hùng nhất thiên hạ.

    Vương tử Đề Bà Đạt Đa cũng không thua kém thái tử bao nhiêu, cũng một chín một mười với thái tử, nhưng so về phong cách thì không làm sao bằng được thái tử. Thái tử thì chững chạc đoan nghiêm, còn Đề Bà Đạt Đa thì thô lỗ, trông hách dịch. 

    Sau một hồi kiểng đổ, vương tử Đề Bà

    Đạt Đa đã diễu võ dương oai đi một đường xà quyền trông lẫm liệt. Thái tử Sĩ Đạt Ta chỉ đứng yên một chỗ khẽ hít hơi chuyển động gân cốt mà thôi. Hai võ sĩ đối mặt với nhau đều ôn quyền chào nhau.Và rồi vương tử Đề Bà Đạt Đa soạt hai chân ra và đấm liền vào thái tử, với những quả đấm thoi sơn tiếp tục bay ra tới tấp vào mặt, vào mình của thái tử. Thái tử cũng nhanh lẹ hóa giải những chiêu thức của Đề Bà Đạt Đa một cách linh hoạt, sống động. Thái tử vừa hóa giải, vừa trả đòn khiến cho Đề Bà Đạt Đa cũng lúng túng quay về thế thủ. Đề Bà Đạt Đa lại tung lên những cú đá thần tốc và vũ bão như muốn triệt hạ đối phương ngay tức khắc.

    Mọi người đang lo ngại cho thái tử, e rằng thái tử hóa giải không được. Nhưng không, thái tử đã xoay người và đá một vòng trong không khí thì Đề Bà Đạt Đa liền quỵ người xuống như bị trói chân, xiềng cẳng. Đó là Đề Bà Đạt Đa đã bị cú đá kỳ bí của thái tử buộc tay chân không cử động được. Thế là thái tử hồi bộ bước ra ngoài, ôm quyền xá chào Đề Bà Đạt

    Đa. Trọng tài đối mặt với Đề Bà Đạt Đa đếm mười tiếng mà Đề Bà Đạt Đa không đứng lên nổi. Thế là trọng tài lại cầm tay thái tử đưa thẳng lên và tuyên bố: “Thái tử Sĩ Đạt Ta đắc thắng!”.

    Ba vương tử nghe Tổ kể đến đây đều vui mừng, nhổm người lên la vang dậy, hô lên rằng: “Thái tử rất hay! Rất hay!”.

    Sự ồn ào bật dậy khiến cho vua Hương Chí phải xuất hiện và cũng vui lây với các con, nhà vua hỏi rằng:

    -   Chuyện gì mà các con vui quá vậy?

    Lại gì sao có hứng khởi đến như thế? 

    Vương tử thứ ba nhanh nhảu trả lời phụ vương:

    -   Thưa phụ vương! Thái tử Sĩ Đạt Ta thật quá hay, con rất thích vị thái tử ấy.

    Nhà vua lắc đầu mà cười, vị thái tử đó là ai phụ hoàng đâu có biết.

    Tổ Bát Nhã Đa La vòng tay chào đức vua:

    -   Cung kính đức vua đã quang lâm. Vị thái tử đó là người mà sau này đã đi tu để thành Đức Phật Thích Ca vậy. 

    Nhà vua bèn tươi cười nói với Tổ:

    -   Thái tử là Phật Thích Ca thì nhất định hay rồi!

    Tổ Bát Nhã Đa La nói tiếp:

    -   Thưa đại vương! Thần đã kể chuyện đấu võ giữa thái tử Sĩ Đạt Ta và Đề Bà Đạt Đa cho các vương tử biết đó ạ!

    Tổ Bát Nhã Đa La lại kể tiếp chuyện thi đấu:

    -   Thưa đại vương! Cuộc thi đấu này đã đến hồi kết thúc. Giám khảo dõng dạc tuyên bố:

    -   Cuộc tỉ thí hôm nay qua bốn môn, thái tử Sĩ Đạt Ta đã thắng đủ bốn môn. Vậy thái tử Sĩ Đạt Ta là vô địch trong lần tỉ võ này. Tiếng vỗ tay lại vang lên làm rúng động hư không. Thái tử Sĩ Đạt Ta được các hộ vệ đưa lên cao để cho mọi người đồng thấy. Đức vua bước đến vuốt đầu con trai và nắm tay vào ngực con mà rằng:

    -   Con giỏi lắm! Con giỏi lắm! Thật không uổng là con của ta. Là nhà vua hào hùng nhất thiên hạ sau này.

    Trong khi đó, cô công chúa con vua Thiện Giác đôi má ửng hồng, sung sướng vì thái tử là một trang nam tử hào hùng vô địch trận tỉ thí hôm nay.

    Đức vua trông qua ba hoàng tử và hỏi rằng:

    -   Trong ba đứa con có ai được như thái tử kia không?

    Sau lời hỏi của đức vua, hai hoàng tử lớn đều thụt đầu, le lưỡi tỏ ý không sao bằng được. Nhưng vương tử thứ ba dù tuổi còn non trẻ, mới 14 tuổi, mà lại có khí khái hơn người. Vương tử thứ ba mạnh dạn giơ thẳng tay lên đức vua và nói:

    -   Con xin học theo gương hạnh của thái tử Sĩ Đạt Ta!

     Nhà vua hoan hỷ gật đầu:

    -   Con giỏi lắm! Hãy cố gắng lên!

    Tổ Bát Nhã Đa La cũng mỉm cười ngầm chấp nhận: “Đây chính là “pháp khí” rất đáng giá”.

  • 15. MƯU ĐỊNH THÀNH LẬP THÁI TỬ PHI

    Tổ Bát Nhã Đa La đưa các học trò đi quanh vườn đến một gốc cây cổ thụ, thầy trò cùng nhau ngồi xuống. Tổ nói:

    -                 Đức vua Tịnh Phạn đã có kế hoạch từ trước nên hôm đấu võ, đức vua đã cho thám tử ngầm theo dõi qua các công nương và công chúa, xem coi thái tử có lọt vào đôi mắt xanh của nàng nào không. Sau khi đức vua biết được có nàng công chúa con vua Thiện Giác đã phải lòng thái tử Sĩ Đạt Ta, đức vua rất lấy làm hoan hỷ. Nhà vua cố tạo những cuộc gặp gỡ giữa thái tử và công chúa con vua Thiện Giác. Nhà vua biết được công chúa là người con gái sắc nước hương trời, lại có tên diễm lệ là Da Du Đà La. Nhà vua rất là vừa ý người con gái này, được tuyển chọn để trở thành thái tử phi. Sau đôi lần gặp gỡ thì thái tử Sĩ Đạt Ta đối với công chúa Da Du Đà La: “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. Đức vua Tịnh Phạn biết rằng thái tử đã sụp bẫy, rơi vào bể tình thì khó mà chạy đâu cho thoát bàn tay đức vua đã giăng lưới.

    Sau đó vua Tịnh Phạn mới tham mưu cùng với một số triều thần thân tín, lên kế hoạch để phá đi những lời tiên tri của

    Tiên trưởng A Tư Đà. Vua và triều thần lên kế hoạch xong, bằng mưu kế: “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan”, triều thần thực thi kế hoạch liền sau đó. Nhà vua và triều thần cử một phái bộ thăm dò, dạm hỏi bên nhà vua Thiện Giác để xin cưới công chúa Da Du Đà La cho thái tử Sĩ Đạt Ta. Vua Thiện Giác được biết tin vua Tịnh Phạn muốn cầu thân cho con trai mình là thái tử Sĩ Đạt Ta, là một vô địch trong cuộc tỉ thí vừa rồi, vua Thiện Giác rất là hoan hỷ đồng ý ngay không chần chờ gì. Nhất là khi nhà vua hỏi con gái Da Du Đà La có ưng chịu thái tử hay không? Công chúa Da Du Đà La được vua cha hỏi đến chuyện hôn nhân với thái tử Sĩ Đạt Ta thì như mở cờ trong bụng, hoan hỷ vô cùng. Bằng thái độ hiếu đạo, Da Du Đà La đã trả lời với vua cha:

    -                 Con gái tùy phụ hoàng định đoạt.

    Thế là việc hôn nhân của thái tử Sĩ Đạt Ta và công chúa Da Du Đà La xem như đã xong, còn chờ định đoạt thời gian nữa mà thôi.

    Tuy nhiên bên dòng tộc của vua Thiện Giác còn có một tập tục, để nhận gả con gái cho một chàng trai nào đó thì phải trải qua một cuộc tỉ thí võ thuật. Chàng trai nào thắng thì sẽ được vợ.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta đã được phụ hoàng tứ hôn cho với công chúa Da Du Đà La, con vua Thiện Giác. Nhưng phải trải qua một cuộc tỉ thí võ nghệ. Nếu thắng thì mới được cưới. Thái tử Sĩ Đạt Ta đã có lòng với Da Du Đà La rồi nên lúc nào cũng thầm thương trộm nhớ người trong mộng. Thái tử phải làm sao vượt qua rào cản sau cùng là phải thắng đối phương.

    Nhưng không biết đối phương là ai. Dù ai đi nữa thì cũng phải chế thắng mới có thể cưới được nàng. Thái tử cũng là con người bình thường như bao người bình thường khác, cũng có trái tim biết rung động trước một đóa phù dung tiên tử. Thế nên, thái tử cũng phải cật lực rèn luyện võ nghệ suốt ngày đêm. Tất cả công trình đều để dâng tặng cho Da Du Đà La. Nhà vua lại thường xuyên khích lệ thái tử phải làm sao để cưới được công chúa Da Du Đà La. Nhà vua thương con mà cũng thương mình. Nhà vua muốn con trai phải nối nghiệp mình càng sớm càng tốt nên tất cả tâm trí của nhà vua lúc này đều dồn sức để lo cho thái tử được vợ để có con mà buộc chân thái tử nơi ngai vàng, để tiêu pha lời tiên tri của Tiên trưởng A Tư Đà. Con mình phải ngồi vào ngai vàng chứ không thể ngồi trên tòa Đại Giác gì đó được. Nhà vua khẽ nhích nụ cười đầy đắc thắng.

    Nghe đến đây Tam hoang tử Bồ Đề Đa La khẽ nhíu mày mà thưa với Tổ rằng: - Thật là một ông vua hiểm ác, lại muốn cho con trai mình đi vào con đường trầm luân sinh tử.

    Hai người anh của Bồ Đề Đa La nghe em nói mà nhìn bằng con mắt lạ lẫm mà rằng:

    - Tại sao em nói lạ thế? Làm vua có gì là không sướng đâu?! Như phụ hoàng của mình đó, là một đấng cửu ngũ chí tôn thì sướng nhất trần gian rồi!

    Tam hoàng tử chỉ cúi mặt mà không nói được nên lời.

    Nhưng đối với Tổ Bát Nhã Đa La, Ngài thấy được tấm lòng của Bồ Đề Đa La, quả là con người có đảm lược.

    Sĩ Đạt Ta kể từ khi nghe phụ hoàng sắp cưới vợ cho mình, nhưng với điều kiện là phải thắng đối phương qua một cuộc tỉ võ, thái tử cũng thầm lo không biết đối thủ của mình là ai, có lợi hại lắm không? Nên mải miết văn ôn võ luyện, cầu mong cho mọi việc trở nên suông sẻ.

    Thái tử là bậc trí dũng song toàn nhưng cũng thầm âu lo…

    Rồi một ngày kia, thái tử đang luyện võ thì có một tin cấp báo: Có một vị Tiên từ núi tuyết ngàn năm đã đến tìm gặp thái tử theo sự giới thiệu của Tiên trưởng A Tư Đà. Thái tử liền vội vã y phục chỉnh tề ra đón rước vị Tiên nhân núi tuyết. Thái tử đã đủ lễ nghi quỳ gối đón tiếp vị Tiên nhân.

    Vị Tiên nhân tóc bạc, râu dài nhưng trông người phương phi, linh hoạt phi thường. Vị Tiên nhân đối trước thái tử, nghiêm chỉnh mà rằng: 

    -   Đây có phải là thái tử Sĩ Đạt Ta hay không?

    Thái tử Sĩ Đạt Ta vòng tay lễ phép thưa rằng:

    -   Dạ! Con chính là thái tử Sĩ Đạt Ta. Xin thành kính ra mắt vị Tiên trưởng. Chẳng hay cao danh quý tính của Tiên trưởng là chi, xin cho con rõ biết.

    Vị Tiên nhân nhìn thái tử bằng đôi mắt sáng hoắc mà rằng:

    -   Ta là người tuyết, đã sống trên núi tuyết có cả 400 năm nay, được Tiên trưởng A Tư Đà cho gọi đến để trợ duyên cho thái tử được thành công trong việc tỉ thí tới đây.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta vừa nghe qua mừng vui vô hạn. Đã là một vị Tiên nhân có tuổi đời là 400 tuổi, vậy mà dáng vóc hãy còn khỏe mạnh đến như vậy. Âu là duyên phước đã đến với mình. Thái tử hết sức hoan hỷ đối trước Tiên nhân vái lạy. Xong ba lễ và thưa:

    -   Chẳng hay Tiên trưởng sẽ trợ duyên gì cho con. Con rất lấy làm vui được nhận bất cứ trợ duyên nào.

    Vị Tiên trưởng rũ đôi chân mày đến quá má và nói rằng:

    -   Ta sẽ trợ duyên cho thái tử luyện nội ngoại công phu để chiến thắng đối phương. Dù là đối phương có tài năng cỡ nào cũng không thắng nổi. Thái tử vui mừng quỳ gối, cúi đầu đảnh lễ trước bậc tôn sư ba lễ. Vị Tiên trưởng nhìn đỉnh đầu của thái tử và rờ vào sau gáy của thái tử thì có một luồng chân khí tuôn ra và chạy vào khắp cơ thể thái tử. Thái tử nghe phấn khởi vô cùng.

    Vị Tiên trưởng rút tay lại và nói:

    -   Thật tốt thay! Thân xác của thái tử rất là tốt, các huyệt đạo đã được đả thông một cách hoàn mỹ. Nhưng ta còn phải trợ duyên cho thái tử nhiều hơn nữa để khiến cho thái tử thành vô địch thiên hạ.

    Thái tử mừng quá đứng lên lạy tạ tôn sư.  - Con xin được tôn sư chỉ dạy và xin cảm niệm công đức của Tiên trưởng A Tư Đà đã quan tâm đến con.

    Vị Tiên trưởng đã xua tay gật đầu: - Được rồi! Được rồi! Không có dài dòng nữa, ta biết hết rồi. Hãy bắt đầu vào thực tập công phu đi. Ta sẽ truyền dạy hết cho.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta mau lẹ nghe theo lời chỉ dạy của bậc tôn sư.

    Vị Tiên trưởng đã đọc khẩu quyết truyền thụ liền cho thái tử. Thái tử liền đọc theo và thuộc lòng ngay rồi theo sự hướng dẫn của Tiên trưởng mà thực tập.

    Sau một canh giờ, vị Tiên trưởng gọi thái tử đứng lên và vận dụng một thế võ cho Tiên trưởng xem qua. Từ một thế võ bình thường ở nơi thái tử mà vận dụng theo lời dạy của Tiên trưởng, nó được phát triển mạnh hơn gấp 10 lần, và thuận tay, thái tử đánh vào cây cột to bằng ôm người thì cây cột bị xiêu vẹo ngay, mái ngói chừng như muốn sụp xuống. Một sức mạnh quả là phi thường. Thái tử xem lại nắm tay của mình thấy cũng bình thường mà thôi, nhưng tại sao có sức mạnh lạ lùng như thế. Thái tử ôm quyền hướng về vị Tiên trưởng:

    - Con xin đa tạ tôn sư đã khéo chỉ điểm, thật là một công phu rất kỳ bí.

    Vị Tiên trưởng mặt nghiêm lại và nói rằng: “Mới chỉ là như vậy có đáng là bao. Ngươi còn phải mạnh gấp 10 lần hơn như vậy nữa”. Thái tử nghiêng đầu mà thâm tạ. Kể từ ngày hôm ấy, thái tử và tôn sư đều cùng nhau luyện tập. Trải qua mười ngày, vị tôn sư bảo thái tử hãy biểu diễn lại những gì đã học được. Thái tử nghe dạy và làm theo. Thái tử cất nhấc cơ bắp một cách nhẹ nhàng mà linh hoạt vô cùng. Sức mạnh như vũ bão. Sẵn con sư tử cả mười mấy người khiêng, thái tử xuống tấn và nhấc con sư tử đi quanh ba vòng rồi để xuống nhẹ nhàng mà mặt không hề đổi sắc.

    Vị Tiên trưởng gật đầu và nói: “Khá lắm!

    Nhưng chưa gọi là giỏi. Hãy xem ta đây”.

    Vị Tiên trưởng soạt chân một cái, đưa bàn chân vào bụng con sư tử và nhấc lên đi ba vòng nhẹ nhàng như nhấc một cái bong bóng rồi để xuống y chỗ cũ mà sắc mặt vẫn bình thản như vẫn đứng yên.

    Thái tử liền sụp xuống đảnh lễ tôn sư ba lễ:

    -   Tôn sư tuyệt quá! Con biết đến bao giờ mới được như tôn sư. 

    Vị Tiên trưởng vuốt chòm râu trắng dài đến gối mà rằng:

    -   Con hãy đúng như pháp mà tập cho đến ngày tỉ thí thì sẽ được như vậy. Không là khó lắm đâu. Con đã có căn cơ thật tốt, nên sẽ trở thành người vô địch thôi. Nay ta trợ duyên cho con đến đây là đủ rồi, giờ ta phải trở về núi tuyết để tiếp tục công phu. Thôi ta đi!

    Thái tử chưa kịp thi lễ thì vèo một cái, vị Tiên trưởng đã biến mất rồi. Thật là công phu tuyệt hảo. Quả là thần tiên vậy.

    Tiên trưởng đi rồi, thái tử nhìn theo mà ngẩn ngơ, không biết trên đời còn bao nhiêu các vị kỳ nhân dị sĩ như thế!

    Từ hôm đó, thái tử Sĩ Đạt Ta lo mài luyện công phu của vị Tiên trưởng đã dạy cho. Mỗi ngày, mỗi ngày công phu tăng trưởng thêm lên. Không mấy chốc mà gần đến ngày thi đấu.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta khi biết rõ những thành phần thi đấu với mình, trong đó cũng có vương huynh Đề Bà Đạt Đa, thái tử Sĩ Đạt Ta lấy làm lạ, do oan nghiệt gì mà vương tử Đề Bà Đạt Đa cứ phải tranh phong với mình hoài. Kể từ lúc còn nhỏ đến bây giờ, khi bé thì tranh giành con chim do Đề Bà Đạt Đa bắn, lớn lên thì tranh chức vô địch. Rồi bây giờ lại tranh giành chức phò mã nữa. Thật không biết oan nghiệt gì, rồi sau này liệu có còn tranh gì nữa hay không?

    Tuy nhiên, thái tử Sĩ Đạt Ta rất là sảng khoái khi biết vương tử Đề Bà Đạt Đa cùng tranh phong với mình. Thái tử Sĩ

    Đạt Ta biết chắc là vương tử Đề Bà Đạt

    Đa không thể thắng nổi mình và nhất là từ khi học được đạo thuật của Tiên gia thì công phu đã thăng tiến rất nhiều. Nghĩ đến đây, thái tử liền múa quyền xuất chiêu thì mới hay ra rằng: mình giờ đây mãnh liệt hơn khi xưa quá chừng, giống như một người khác vậy. Thái tử lại thử sức với con sư tử đá khi xưa. Quả tình thái tử đã dùng được bàn chân mà nhấc con sư tử như vị Tiên trưởng vậy. Thái tử rất hoan hỷ chờ ngày lên võ đài mà thôi.

    Võ đài lần này được lập bên thành của vua Thiện Giác, vì phải cưới Da Du Đà La là con vua. Võ đài cũng thật là hoành tráng. Ngày “tỉ võ chiêu thê” có cả đức vua Tịnh Phạn tham dự, chứng kiến cùng đức vua Thiện Giác. Công chúa Da Du

    Đà La cũng có mặt, nhưng có điều nàng bịt mặt cùng vài công nương khác ngồi dưới khán đài.

    Ba hồi kẻng đánh vang lên báo hiệu cuộc tỉ thí bắt đầu. Từ dưới khán đài, một bóng hình thanh niên phi thân lên. Đó là thái tử Sĩ Đạt Ta, nay là một thanh niên anh tuấn. Thái tử giờ này là 17 tuổi. Tướng mạo phi phàm, trong y phục thái tử lại càng giống như một thiên thần. Thái tử vòng tay cúi chào tất cả mọi người tham dự. Tiếp theo, người thứ hai ăn mặc theo lối vương tôn, che mặt chỉ để lộ hai con mắt mà thôi. Bộ tướng có vẻ nghênh ngang, chừng như cho mình là vô địch không ai bằng, nắm quyền chào quan khách một cách qua loa.

    Thế rồi ba tiếng kẻng vang lên. Sau ba tiếng kẻng là lời của ban giám khảo cho biết cuộc tỉ võ sắp được bắt đầu. Người tỉ võ phải cởi hết cân đai, áo mão, chỉ để tấm thân trần mà thôi. Thế là hai võ sĩ đều phơi bày hai tấm thân lực lưỡng với chiếc quần đùi, trông ai cũng là đấng mỹ nam tử. Đấu sĩ bỏ khăn bịt mặt ra thì không ai khác, đó là vương tử Đề Bà Đạt Đa. Hai võ sĩ chào nhau theo phép đấu võ. Thế rồi cả hai đều hồi bộ. Vương tử Đề Bà Đạt Đa đi liền một bài quyền phi long bay lượn giống như rồng múa trông rất đẹp mắt và cũng rất kiên dũng. Thái tử Sĩ Đạt Ta đi chậm rãi từng bước trên võ đài như muốn ngấm tìm người đẹp Da Du Đà La. Tuy nhiên các cô gái đều bịt mặt để tham dự nên không biết ai là người bạn tâm đầu ý hợp. Trong khi đó, Da Du Đà La qua chiếc khăn mạn mỏng có thể nhìn thấy thái tử một cách rõ ràng. Thái tử đã đẹp hơn lúc trước nhiều. Nàng rất là xúc động. Ôi! Tình lang đã thật sự vì mình quá đỗi. Bài quyền của Đề Bà Đạt Đa đã kết thúc thì vương tử dừng lại bên thái tử và xuất chiêu. Thái tử hồi bộ cách xa Đề Bà Đạt Đa cả sải tay cho nên những quả đấm, những ngọn cước đều rơi vào khoảng không. Thái tử không xuất chiêu mà khẽ lắc mình, dùng thuật di ảnh kỳ hình, một thoáng đã đứng sau lưng Đề Bà Đạt Đa. Thái tử dùng khẩu tay nắm vào eo lưng của Đề Bà Đạt Đa nhấc bỗng lên như nhấc một em bé nhỏ. Đề Bà Đạt Đa đã bị hỏng chân, mất thăng bằng, bị thái tử quay tiếp mấy vòng bằng sức mạnh vũ bão luyện tập bấy lâu nay. Thái tử đã quay Đề Bà Đạt Đa liên tiếp nhiều vòng. Đề Bà Đạt Đa không trở tay gì kịp, chịu cho thái tử quay như chong chóng bằng sức mạnh nhấc sư tử đá. Rồi khi thái tử buông ra thì Đề Bà Đạt Đa loạng choạng, đi đứng không vững, đành té bò càng dưới sàn đài. Trong tiếng reo hò vỗ tay như xé hư không. Thật thảm bại cho Đề

    Bà Đạt Đa, bao nhiêu uy phong đều mất hết. Trọng tài trận đấu đến bên cạnh Đề

    Bà Đạt Đa đếm mười tiếng mà Đề Bà Đạt Đa vẫn không đứng lên nổi. Thế là thái tử Sĩ Đạt Ta được trọng tài nắm tay thẳng, tuyên bố là người vô địch hôm nay. Thật là sự mỉa mai cho trận đấu đã kết thúc một cách ngắn gọn. Mọi người không ai ngờ được sức khỏe của thái tử tăng trưởng như vậy. Họ thấy rõ ràng rằng Đề Bà Đạt Đa chỉ là món đồ chơi trong tay thái tử, không hơn không kém. Cả quảng trường không ai ngờ được thái tử Sĩ Đạt Ta đã có công năng tuyệt vời như vậy.

    Trong số người có mặt, họ cùng hét lên to rằng: “Thiên thần thái tử! Thái tử thiên thần! Quả thái tử là một vị thiên thần, hoan hô thiên thần thái tử! Hoan hô! Hoan hô!”

    Thế rồi tiếng hoan hô vang dội đầy ắp cả hư không. Người sung sướng nhất trong quảng trường không phải là đức vua Tịnh Phạn hay vua Thiện Giác mà đó là Da Du Đà La. Nàng đã mở khăn mặt của mình để nhìn thái tử một cách hạnh phúc. Và thái tử Sĩ Đạt Ta đã bắt gặp ánh nhìn ấy. Ôi! Thái tử sung sướng biết bao. Và rồi, thái tử lại quay nhìn sang Đề Bà Đạt Đa để tỏ chút thương hại. Sau đó những thị vệ của thái tử đã bước đến nâng thái tử lên và đi nhiễu quanh võ đài trong tiếng hoan hô rầm rộ. Cuối cùng, thái tử được đặt xuống. Vua Tịnh Phạn cùng vua Thiện Giác tiến về thái tử vỗ vai chúc mừng, và theo sau vua Thiện Giác đó là

    Da Du Đà La, người bạn ngọc của thái tử Sĩ Đạt Ta. Nàng nhìn thái tử một cách đắm đuối, bốn mắt nhìn nhau trào ngấn lệ như vừa trải qua chướng nạn khủng khiếp.

    Thế rồi sau đó nhà vua Tịnh Phạn và Thiện Giác tưng bừng tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ sánh vai nên vợ chồng. Loan phụng hòa mình…

    Thái tử Sĩ Đạt Ta sau khi kết hôn sống đời gia đình, hương lửa mặn nồng. Một năm sau, thái tử và Da Du Đà La đã có một bé trai, đặt tên là La Hầu La. Vua Tịnh Phạn rất lấy làm hoan hỷ. Biết rằng thái tử Sĩ Đạt Ta đã thực sự trúng kế ta rồi. Thế nên nhà vua chuẩn bị bước sau cùng. Bước thứ nhất là đã buộc chân thái tử bằng sợi tóc mỹ nhân. Bước thứ hai, buộc một chân nữa là một hài nhi. Và bước thứ ba là sẽ buộc chân thái tử vào ngai vàng. Nhà vua bèn chuẩn bị cho thái tử đăng cơ lên làm vua ngự trị ngai vàng. Trong kế hoạch này, bước đầu nhà vua thả lỏng cho thái tử được xuất cung, ra khỏi thành để tiếp xúc với quần chúng, giang sơn xã tắc để biết rõ thần dân trăm họ mà lên ngự trị ngai vàng, chăn dân trị nước cho dễ dàng hơn. Vua Tịnh Phạn cho phép thái tử được xuất cung ra khỏi bốn cửa thành.

    Thái tử đã từ lâu gần như bị vua cha nhốt chặt ở trong cung cấm. Nay được phụ hoàng cho phép xuất cung ra ngoài thành thì cũng rất lấy làm hoan hỷ. Thái tử lần lượt ra bốn cửa thành và thấy cảnh: người già, người bệnh, người chết, đều là đau khổ cho kiếp người mà cũng là đau khổ cho nỗi lòng của thái tử. Lòng thái tử trở nên se thắt, đau khổ thay cho chúng sinh, cho con người. Thái tử đã đem việc này trình bày lên vua cha và thấy rằng cũng là của chính mình. Thái tử liền thưa phụ vương:

    -            Làm sao cho con trẻ mãi không già?

      Làm sao cho con mạnh hoài không đau?

      Làm sao cho con sống hoài không chết?

     Phụ hoàng đã trả lời theo chiều bất lực: 

    -  Con hỏi chi những điều quái ác như vậy vì phụ hoàng đây đã đang già và cũng đang bệnh, và rồi sẽ đi gặp Tiên vương mà thôi, tức là ta rồi cũng phải chết. Ta làm sao được đây!

    -  Tại sao con không hỏi làm thế nào để trị nước, để an dân, đất nước thịnh trị… mà hỏi chi những điều quái ác đó. Trên đời này không ai có thể làm nổi! Thái tử nghe qua lời giải đáp của phụ hoàng, lòng lại buồn hơn nữa. Thì ra những chuyện này trên đời không ai giải quyết được cả. Lòng thái tử buồn rười rượi.

    Còn cửa thành thứ tư thì thái tử đi ra gặp một người mặc áo bạc màu, đi đầu trần chân đất, ôm bát xin ăn. Thái tử hỏi quân hầu:

    -   Đây là người gì?

    Quân hầu trả lời:

    -    Đó là một vị Sa môn.

    Ngài lại hỏi:

    -   Sao gọi là Sa môn?

    -   Sa môn là người xa lìa ân ái, xuất gia tu Đạo, chế ngự các căn, không nhiễm ngoại dục, có lòng thương xót tất cả mọi người, không làm tổn thương và giết hại ai, gặp khổ không phiền, gặp vui không mừng, nhẫn nại như đất, nên gọi là Sa môn.

    Thái tử đi ra bốn cửa thành gặp ba cảnh khổ và gặp một cảnh bình an, là cảnh của vị Sa môn. Vả lại, thái tử cũng biết rõ ý định của vua cha muốn cho mình tiếp xúc với quần chúng, sơn hà xã tắc để chuẩn bị đưa mình lên ngai vàng mà chăn dân trị nước.

    Với sự phát hiện này, thái tử nghe hốt hoảng. Vì rằng bấy lâu nay thái tử cũng đã phát hiện ra mẹ ruột của mình đã qua đời vì đã banh da xẻ thịt cho con chào đời nên mẹ đã tử vong. Thế nên thái tử cảm thấy tội lỗi với mẹ. Mà muốn đền đáp thì mẹ đã qua đời rồi làm sao đền đáp được, dù chỉ là một sự đền đáp nhỏ mọn cũng không được nào. Thái tử chỉ còn một chút hi vọng là còn cách xuất gia tu đạo, may ra có thể đáp đền cho mẹ trong muôn một. Và nếu mà bị phải lên ngai vàng thì làm sao xuất gia cho được? Nghĩ đến đây, thái tử trở nên sợ hãi, quýnh quáng, phải làm sao đây cho khỏi bước lên ngai vàng. Việc đã cấp bách rồi, phải làm sao đây?

    Phải làm sao đây? Câu hỏi này đã xoáy vào tận tâm hồn thái tử khi biết rõ thân thế của mình và biết rõ mưu định của phụ vương bấy lâu nay muốn buộc mình vào ngai vàng. Thái tử cuống quýt lên!  

    Nhà vua khi biết thái tử xuất thành không được vui và buồn hơn vì gặp những cảnh sống qua già, bệnh, chết, vua lấy làm ân hận, hối tiếc. Đức vua tự trách mình việc lớn như vậy mà tại sao mình hồ đồ đến như thế, không biết sắp xếp, dọn dẹp những hoàn cảnh ở bên ngoài thành cho chu đáo, tốt đẹp hơn. Nhà vua lấy làm hối tiếc vô cùng. Để bù lại vì việc sơ thất đó, đức vua cho mở đại yến tiệc, tổ chức linh đình trong hoàng cung để mong làm vui thái tử, đứa con yêu quý.

    Thái tử Sĩ Đạt Ta giờ đây đã khôn ra, không còn lầm ý phụ vương nữa mà lại biết rõ về những ý đồ của phụ hoàng.

    Thái tử lại càng căng thẳng hơn và quyết liệt hơn: “Ta phải ra đi thôi! Ta phải ra đi thôi!”. Thái tử đã cho mật lệnh với xa phu Xa Nặc hãy chuẩn bị thắng ngựa Kiền Trắc để đêm nay ta sử dụng. Đầu hôm, thái tử đã cùng vua cha và triều thần, và bao nhiêu người cung phi mỹ nữ đều ăn uống vui chơi một cách hăng say. Đến về khuya, phụ hoàng đã yên nghỉ, người người mệt mỏi. Cung phi mỹ nữ cũng rã rời lăn ngủ bò càng. Chỉ chờ khi ấy, thái tử gọi Xa Nặc chuẩn bị ngựa Kiền Trắc bên bờ thành Đông. Thái tử lẻn vào Đông cung nhìn ngắm người vợ hiền và đứa con bé bỏng đang say xưa trong giấc ngủ thần tiên. Thái tử đã từ giã vợ và con, ra cửa thành Đông, lên ngựa vọt qua bờ thành cùng Xa Nặc không ai hay biết. Người, ngựa qua khỏi thành rồi, thái tử cho chạy thẳng về phía biên giới của thành Ca Tỳ La Vệ và vào sâu trong rừng, vượt qua dòng sông Anoma trong khi muôn người đều ngủ lịm, chỉ có thái tử Sĩ

    Đạt Ta là “tỉnh thức”. Qua khỏi sông Anoma là qua khỏi biên giới của đất nước mình, thái tử Sĩ Đạt Ta cho dừng ngựa, rồi xuống ngựa. Thái tử xoay về thành Ca Tỳ La Vệ mà chào giã biệt, rồi thuận tay rút gươm gỡ mũ miện trao cho Xa Nặc và cắt mái tóc xanh tươi của mình trao cho Xa Nặc cùng cởi chiếc áo bào thái tử, vàng vòng trang sức trao hết cho Xa Nặc và bảo Xa Nặc trao lại cho hoàng cung mà thưa với phụ hoàng rằng:

    - Thái tử Sĩ Đạt Ta đã phát tâm xuất gia tầm đạo, mong phụ hoàng chớ tìm kiếm.

    Xa Nặc là một xa phu trung thành luôn bên cạnh thái tử khi cỡi ngựa, giờ còn lại một mình, Xa Nặc khóc than bịn rịn trước thái tử.

    Thái tử vuốt ve Xa Nặc cùng những lời an ủi chúc lành và bảo Xa Nặc cấp tốc trở về cung thành. Thái tử không quên vỗ ngựa Kiền Trắc ngoan hiền rất tài giỏi. Thế rồi Xa Nặc lên ngựa từ giã thái tử mà trở lại cung thành.

    Thái tử còn lại một mình trong rừng rậm và tìm người thợ săn để thay đổi y phục. Thái tử đã đổi chiếc áo của thợ săn và trao chiếc áo thái tử cho thợ săn và đi sâu vào rừng mong tìm ánh đạo vàng để cứu chúng sinh và đền ơn cho mẹ. 

    * Tổ Bát Nhã Đa La dẫn các học trò đi sâu vào vườn cây, Ngài chỉ vườn cây mà nói rằng:

    - Thái tử Sĩ Đạt Ta một thân một mình cứ đi sâu vào rừng mong rằng gặp được đạo sư học hỏi cách tu. Thái tử cũng tìm được qua các vị thầy. Thái tử lúc này cũng đắp y mặc áo giống như các vị Sa môn và tự xưng là Sa môn Cù Đàm. 

    Trước hết Sa môn Cù Đàm đi đến khổ hạnh lâm gặp nhóm Bạt Già là những người chuyên tu khổ hạnh. Nhóm này tự hành hạ thân xác để cho không còn tham dục nữa và được sinh lên cõi trời.

    Sa môn Cù Đàm đi tìm đạo là tìm “Tối thắng an tịnh đạo lộ”. Nên khi gặp nhóm Bạt Già chỉ hành thân hoại thể và cầu sanh về cõi trời thì Sa môn Cù Đàm xa lìa họ mà đi tìm nơi khác.

    Sa môn Cù Đàm lại tìm đến đạo sư Alara Kalama (Alalam). Với đạo sư này cũng chưa đến chỗ mà Sa môn Cù Đàm mong mỏi. Thế rồi, Sa môn Cù Đàm cũng từ giã vị này để ra đi.

    Sa môn Cù Đàm lại tìm đến đạo sư Uddaka Ramaputta (Uất Đầu Lam Phất), ở đây một thời gian, Sa môn Cù Đàm cũng học được hết chỗ tu chứng của Uất Đầu Lam Phất. Nhưng vẫn chưa phải là chỗ tối thắng nên rồi Sa môn Cù Đàm cũng từ giã lên đường đi tìm nơi khác.

    Sa môn Cù Đàm hướng về núi Tượng Đầu, nơi lưu vực sông Hằng. Nơi đây có khu rừng êm ả là nơi trú ngụ của loài nai hiền hòa mà không có thú dữ. Nơi đây có nhóm tu sĩ là nhóm năm anh em Kiều Trần Như. Sa môn Cù Đàm lại cùng tu với nhóm này. Đây cũng là nhóm tu chuyên khổ hạnh. Nhưng Sa môn Cù

    Đàm thấy nhóm tu này cũng còn nhiều giới hạn, chưa đạt đến cứu cánh nên Sa môn Cù Đàm cũng từ giã họ lên đường để tìm lấy sự tu riêng cho mình, không tìm Đạo sư nào nữa cả. Khi chia tay, Sa môn Cù Đàm cùng ước hẹn với năm anh em Kiều Trần Như rằng: “Ai thành đạo trước thì hãy tìm độ cho nhau”. Sa môn Cù Đàm lại từ giã ra đi. Sa môn Cù Đàm lại hướng về nước Ma Kiệt Đà. Ở đây, Sa môn Cù Đàm lại tự chuyên tu khổ hạnh.

    Đây là nơi vắng bặt không bóng người nên việc tu rất tốt với Sa môn Cù Đàm.

    Sa môn Cù Đàm rất là tinh tấn từ ăn ít cho đến nhịn ăn, nhịn uống để cuối cùng chỉ còn lại bộ xương. Nếu rờ bụng thì sẽ đụng xương sống, nếu rờ xương sống thì sẽ đụng cái bụng. Thân xác quá còm cõi cho đến ngồi không được mà gục ngã bên đường. Sa môn Cù Đàm chỉ thoi thóp nằm chờ chết mà thôi. Nhưng Sa môn Cù Đàm vẫn chưa hết duyên với đời khiến cho gặp được Su Già Ta, người con gái chăn bò. Cô Su Già Ta đổ cho chén sữa bò được chế luyện tinh vi nên sau khi uống chén sữa ấy thì Sa môn Cù Đàm được tỉnh lại.Và cũng nhờ nàng Su Già Ta cúng dường thêm vài chén sữa nữa, Sa môn Cù Đàm phục hồi lại sức khỏe và lần đến bờ sông Ni Liên Thiền tắm gội thân thể. Trong khi tẩy sạch thân xác rồi, Sa môn Cù Đàm đã thả bát sữa trên dòng nước và nguyện rằng: “Nếu ta được thành Đạo thì bát sữa này trôi ngược dòng nước”.

    Quả đúng như vậy, chiếc bát đã trôi ngược dòng. Sau đó, Ngài lên bờ và tìm đến gốc cây Píp-pa-la và ngồi xuống nơi đó. Bấy giờ có vài bé chăn bò đem dâng cho Ngài mấy bó cỏ kusha. Sa môn Cù Đàm dùng lót làm tòa ngồi. Khi ngồi xuống, Sa môn Cù Đàm phát thệ nguyện rằng:

    “Ta ngồi đây, nếu không thành Chánh Giác để được giải thoát thì dù thịt nát, xương tan cũng không đứng lên khỏi chỗ này”.

  • 16. CƠ DUYÊN THÀNH ĐẠO

    Sa môn Cù Đàm sau khi phát lời đại nguyện thì ngồi xuống trên nệm cỏ dưới gốc cây Píp-pa-la thì dường như những lá cây Píp-pa-la đồng vỗ tay, lắc mình khua vang tạo nên thứ âm thanh vi diệu chào đón Sa môn Cù Đàm. Sa môn Cù Đàm ngồi xuống theo thế kiết già, hai chân gác chéo lên nhau, xương sống thẳng, cổ ngay, mũi nhìn xuống rún. Hai bàn tay xếp ngửa đặt lên nhau, hai ngón cái vừa đụng vào nhau có một chút kênh cứng. Sa môn Cù Đàm hít vào, thở ra theo nhịp điệu: 

    “Hít vào Tâm tĩnh lặng, thở ra trí sáng ngời, Thân yên, Tâm lặng không hề lãng xao”.

    Ngài ngồi đó nghiêm trang, uy dũng, chiến thắng lòng mình, dứt khổ đau, niệm quá khứ, niệm hiện tại, niệm vị lai bặt.

    Tuy nhiên, vì không người hướng dẫn nên bước đầu hơi thở khó điều phục, hay bị nhộn nhạo làm co thắt bụng dạ khiến cho Sa môn Cù Đàm bị đau nhói như bị kiếm đâm, hay bị thắt chặt như bị dây nịt siết. Sa môn Cù Đàm bị đau đớn vô cùng. Ngài phải cố chịu đựng và tìm cách điều hòa, khắc phục lần hồi mới được xếp yên mà hòa quỡn thông thoáng hơn. Sa môn Cù Đàm phải rất nhiều cố gắng, nhẫn nhục, tinh tiến vận dụng trí huệ để lắng sâu vào thiền định mà giải tỏa được hết nỗi khổ đau từ trong ra ngoài, từ những tập khí tiền kiếp đến hiện kiếp, Sa môn Cù Đàm đều phải vận dụng đại dũng, đại lực để tiêu giải hết mọi nghiệp khiên. Sa môn Cù Đàm đã phát sinh Đại Trí Huệ.

    Đến ngày thứ 49, dưới gốc cây Píp-pa-la, Sa môn Cù Đàm bằng Đại Trí Huệ đã triệt phá vô minh, không còn si mê nữa. Ngài thực sự an trú trọn vẹn TỰ

    TÁNH KHÔNG, chánh niệm, không loạn động, thân được khinh an, Tâm được định tĩnh, chuyên nhất.

    Sa môn Cù Đàm lần lượt qua các cảnh giới biến hiện trong Tâm từ thô đến tế. Ngài một bề an trú TỰ TÁNH KHÔNG, tiêu dung tất cả những “nghiệp thức chủng tử” từ xa xưa, từ tiền kiếp cho đến hiện kiếp, từ những biến hiện do công phu sinh khởi. Ngài xả bỏ trọn vẹn những cảnh giới Chiền, không Ngã, không Nhân, không Chúng Sanh, không Thọ Giả, không Chủ Thể và Đối Tượng.

    Trong đêm, vào canh đầu, với TÂM định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến,… Sa môn Cù Đàm tỏa sáng nguồn TÂM, TÁNH KHÔNG rạng ngời, bật dậy Túc Mạng Trí. Ngài có sự sáng suốt xuyên suốt thời gian từ xa xưa cho đến bây giờ đều tỏ tường không bị hạn chế. Ngài chứng được “Túc Mạng Minh”, vô minh diệt, minh sanh, phiền não tan biến, nghiệp chướng tiêu trừ.

    Đến giữa đêm, Ngài lại bằng TÂM định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm,… Ngài tỏa sáng nguồn TÂM, TÁNH KHÔNG rạng ngời, bật dậy

    “thiên nhãn” thuần tịnh siêu việt. Ngài rõ rằng “tất cả không gian, những hiện tượng trong trời đất, những sinh hoạt từ chúng sanh hữu tình đến vô tình, tất cả, tất cả đều không ngoài nguồn sáng trong ngần của một TÂM thuần tịnh sáng ngời. Chẳng khác nào vạn vật không ngoài hư không, chúng đều mang tánh hư không, đều thuần chất Rỗng Không trong suốt. Trí Ngài suốt trong thuần tịnh bao hàm vạn vật muôn loài. Ngài đã chứng được “Thiên Nhãn Minh”. Trí sáng Ngài tỏa rạng suốt “không gian” không gì ngăn che được.

    Đến canh ba, Ngài cũng bằng TÂM định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến,…Ngài tỏa sáng nguồn TÂM, TÁNH KHÔNG rạng ngời, bật dậy “Lậu Tận Trí”. Ngài toàn triệt tỏ rõ hoàn toàn về cái khổ, nguyên nhân gây khổ, cảnh giới khổ diệt và con đường để đưa đến diệt khổ. Các lậu hoặc thực sự được đoạn tận. Lòng Ngài thực sự thoát khỏi Dục Lậu, Hữu Lậu, Vô Minh Lậu.

    Sa môn Cù Đàm chứng được “Lậu Tận Minh”. Trí sáng Ngài tỏa sáng khắp cõi TÂM. Như mặt trời lên giữa hư không, ánh sáng tỏa khắp. TÂM Ngài hoàn toàn là TÂM TRÍ TUỆ trọn vẹn bao trùm cả trời đất vạn loại. Ngài thành tựu “TÂM TRÍ SIÊU VIỆT”, qua tất cả khổ đau.

    Sa môn Cù Đàm đến đây thực sự giác ngộ, Ngài hết khổ đau, được giải thoát, an vui thực sự. Ngài đã tìm được “cái gì chí thiện tối thắng an tịnh đạo lộ”.

    Ngài thực sự thành Đạo và được gọi là Phật hay Phật Thích Ca Mâu Ni. Cây Píp-pa-la mà Sa môn Cù Đàm ngồi thiền định suốt 49 ngày đêm, được gọi là cây Bồ Đề (cây giác ngộ).

    Từ đây, Đức Phật quán sát thấy tất cả chúng sanh ai cũng có: “khả năng thành Phật”, vì ai cũng có “TÁNH Phật” nên Đức Phật đã tự nói:

    “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”.

    Giờ đây, Đức Phật cảm thấy thương chúng sinh vô hạn. Lòng đại từ, đại bi tỏ rạng những muốn đứng lên để cứu khổ tất cả chúng sinh. Nhưng khi suy xét lại thì thấy rõ chỗ chứng của Ta thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người Trí mới hiểu thấu, còn chúng sanh thì ưa ái dục, thật khó mà nhận được, khó mà từ bỏ được tham dục. Nếu nay Ta thuyết Pháp mà người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta. Ngài nghĩ như vậy mà không muốn thuyết Pháp.

  • 17. CƠ DUYÊN THUYẾT PHÁP

    Tổ Bát Nhã Đa La đứng lên và đi đi lại lại nhìn các học trò và nói rằng:

    - Sa môn Cù Đàm đã chứng Đạo thành Phật rồi nhưng không muốn thuyết Pháp. Khi ấy, Phạm Thiên Sahampati biết được tâm tư của Ngài nên vội vã thỉnh Ngài vì chúng sanh mà thuyết Pháp.

    Đức Phật khởi từ phương tiện quán sát thấy rõ chúng sinh có đủ hạng, có đủ thành phần cũng giống như trong ao sen, có những bông sen vừa lú mầm, còn búp chìm trong nước, và có bông sen vượt lên khỏi mặt nước, cũng có những bông sen búp nụ, những bông sen đã chớm nở và có bông thì nở hoa. Đức Phật thấy rõ chúng sanh có nhiều trình độ như vậy cho nên cũng có người có thể đón nhận được Pháp mầu, có người hiểu ra được Pháp mầu, có người thâm nhập được Pháp mầu,… Thế nên Đức Phật hoan hỷ mà lập bày phương tiện để giáo hóa.

    Khởi đầu phương tiện giáo hóa, Đức Phật nghĩ đến Alalam thì chư thiên đến thưa rằng: “Alalam đã mệnh chung bảy ngày rồi”. Sau đó, Ngài muốn độ cho Uất

    Đầu Lam Phất thì chư thiên cũng báo tin rằng Uất Đầu Lam Phất mới mệnh chung ngày hôm qua. Rồi Ngài lại nghĩ đến năm anh em ông Kiều Trần Như và dùng thiên nhãn quán sát thì thấy nhóm năm anh em ông Kiều Trần Như hiện đang ở tại vườn Lộc Uyển, xứ Baranasi rồi Ngài liền lên đường đến đó.

  • 18. BÀI PHÁP TỨ ĐẾ Ở VƯỜN NAI

    Tổ Bát Nhã Đa La dẫn các học trò đến khu vườn liễu. Ngài ngồi đây cùng các học trò vừa ngắm cảnh. Những con nai vàng ngơ ngác đi loanh quanh trong vườn cây ven bờ suối, Ngài nói: “Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã giữ lời hứa năm xưa: Ai thành Đạo trước thì tìm độ cho nhau mà đi thẳng về vườn Nai. Trong khi đó, năm anh em ông Kiều Trần Như không muốn tiếp Đức Phật vì cho rằng:

    Sa môn Cù Đàm đã sống trong sự sung túc, đã từ bỏ tinh cần, đã trở lui đời sống đầy đủ vật chất. Các ông không muốn đảnh lễ, không muốn tiếp đón Đức Phật.

    Qua vẻ né tránh của họ, Đức Phật vẫn an nhiên, vẫn khoan thai đi từng bước giải thoát trên mảnh đất vườn Nai để đến với họ bằng tấm lòng bạn bè thân ái”.

    Tổ Bát Nhã Đa La ngâm lên rằng:

    Rừng cây thưa mặt trời du ngoạn

    Bờ cỏ non mơn mởn sương hồng

    Bên dòng suối nhỏ rì rào đổ

    Trong ngần suối ngọt hiện trời xanh

    Chú rắn nhỏ lưỡi dài liếm nước

    Hòn đá, chim non chíu chít kêu.

    Gió thoảng mây bay mát khung trời

    Thong dong nhẹ gót nai vàng hiện

    Nai gạc, nai tơ ngơ ngác trông

    Đây vườn Nai, đây Lộc dã uyển

    Đây thiên đường của chốn rừng hoang

    Đây đạo tràng năm vị Trần Na

    Kiều Trần Như năm kẻ xuất gia

    Năm người chuyên tâm tu chăm chỉ

    Qua bao năm tháng Đạo còn xa

    Chưa hay ra được nguồn Đạo Cả

    Khắc khoải hành trì dạ chẳng yên

    Hôm nay trời đẹp lòng thư thả

    Nhác thấy bóng vàng thoáng xa xa

    Dáng người trông giống Đức Thích Ca

    Ấy quả là Sa môn Cù Đàm

    Năm anh em định lánh xa Người

    Nhưng không được, ánh vàng thu hút

    Đức Thích Ca hiển hiện uy nghi

    Hào quang chói sáng quyện chân Người

    Ngài thanh tú ba mươi tuổi ngọc

    Manh áo bạc màu tơi tả bay

    Phất phơ gió nắng buổi mai hồng

    Đạo vàng rực sáng chiếu vườn Nai

    Nai tơ, chim, rắn đều long mắt

    Ngơ ngác êm đềm mây vương vương

    Rừng thiêng tỏa ngát hương đồng nội

    “Lộc dã uyển” thành Pháp hội đầu

    Vườn Nai mầu nhiệm vươn vai lớn

    Không gian xán lạn huy hoàng tỏa

    Chào đón cha lành của thế gian

    Nai vàng ngơ ngác trông người lạ

    Không lạ đâu nào, Đức Thế Tôn

    Phật Đà đĩnh đạc từng tấc bước

    Thong dong ôm bát thoát trần ai

    Đầu trần chân đất lòng KHÔNG rỗng

    Ánh sáng chan hòa khắp thế gian

    Vườn Nai tỏa rạng Kiều Trần Như

    Năm người kính cẩn cần cầu đón

    Thỉnh Phật vào ngồi dưới cội cây

    Là chỗ tôn nghiêm vào đệ nhất

    Qua dung nghi Đức Phật Cồ Đàm

    Kiều Trần Như biết Ngài thành Đạo

    Trần Như kính cẩn cúi đầu thưa:

    Cù Đàm hãy vì chúng tôi nói

    *   *   *

    Vì bạn, Thế Tôn nói Đạo mầu:

    - Mở đầu, Ngài chỉ đời người Khổ

    Khổ Sanh – Già – Bệnh – Chết v.v…

    -  Thứ hai, Ngài dạy nguyên nhân Khổ Tham – Sân – Si – Mạn – Nghi… các não

    -  Thứ ba, Ngài khai nguồn tịch diệt

    Chỉ chỗ không nhân, không cảnh khổ

    Cái chỗ Lặng trong – Trong lặng – Rỗng

    Chỗ mà không một niệm dấy sanh

    Cái chỗ xưa nay không một vật

    Chỗ vắng bặt tuyệt cùng trong TÂM

    Cái thật xưa nay chưa từng diệt

    Sanh diệt hoàn toàn vắng mất tiêu

    -  Cái chỗ không Già, Bệnh, Chết, Sinh

    Cái chỗ không nhơ sạch não phiền

    Không Thiên đường, Địa ngục, Trời, Người

    Không ba cõi, sáu nẻo luân hồi

    Không Ta, không người, không chúng sanh

    Không thương, không ghét, không vui buồn

    Không và không, Không lặng hoàn toàn

    Cõi bất động mênh mông trùm khắp

    Rộng tợ hư không, không mé bờ

    Là Chơn Không, rỗng sáng vô biên

    Là cõi TÂM vắng lặng diệu huyền

    Là cõi tuyệt đối dứt khổ đau

    Là cõi an vui, vui trọn vẹn

    Cõi Niết Bàn, Tịch – mặc – Mâu Ni

    Ấy là cõi Phật, là Đạo Cả.

    *   *   *

    Anh em Kiều - Trần - Như lắng lặng

    Lời Như Lai lọt đến óc tim

    Gây xúc chạm tận cùng lòng dạ

    TÂM xưa bùng vỡ, TÁNH tỏ thông

    Thoát nhiên bật dậy cõi Chơn Không

    Năm tôn giả nhận ra cõi mầu

    Liền giác ngộ chỗ mà Phật chỉ:

    “Quả đúng như lời Phật dạy bày Cõi tịch diệt thật là tịch diệt

    Vắng lặng, bằn bặt, mất khổ đau

    An vui thật sự, an vui lắm!”

    Khắc khoải bao ngày tan biến bay

    Năm tôn giả mừng vui lễ Phật

    -   Phật cười nhẹ nhõm: việc mình xong.

    Phật Đà tiếp dạy bước thứ tư Bước bốn Đạo, ấy Pháp hành trì

    Là bước bảo nhậm, hộ trì, tu

    Là Tứ Niệm Xứ, gìn bốn chỗ Quán Tâm, Thân, Thọ, Pháp suốt xuyên Và sáu nhóm nữa cùng phụ gia:

    Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc

    Ngũ Căn, Ngũ lực, Thất Giác Chi

    Bát Chánh Đạo Phần là Thánh Đạo

    -   Nghe qua Pháp Phật dạy đã xong

    Các vị tôn giả lòng thông suốt Niệm niệm tiêu tan mà không diệt

    Chứng vào cõi Thánh, thành Tăng bảo.

    Bao nhiêu phiền não xưa nay mất

    Mới biết Pháp mầu của Như Lai

    Là Pháp hay! Pháp thật hay thay!

    Là Tứ Đế, là Tứ Diệu Đế

    Pháp đưa thành Thánh – Tứ Thánh Đế

    Pháp hay chỉ có một thời thôi

    Năm vì Tôn giả khai Chánh Trí

    Trở thành bậc Thánh trong Phật Đạo.

    Vườn Nai thơm ngát Pháp Như Lai

    Từ đây thành tựu ba ngôi báu

    Là Phật, là Pháp, là Tăng bảo

    Là ba quý báu nhất trần gian.

     

  • 19. NHỮNG PHẬT PHÁP CĂN BẢN

    Một buổi sáng giữa mùa thu. Sau khi ăn sáng xong, Nhà vua Hương Chí đến vấn an đức Tổ Bát Nhã Đa La. Nhà vua rất trịnh trọng đối trước đức Tổ, ông quỳ mộp xuống, giữ đúng theo cung cách thầy trò, khiến đức Tổ cũng phải giật mình lấy làm lạ. Nhưng đức Tổ cũng vừa kịp giữ vững phong thái của mình:

    -   Chẳng hay Bệ hạ có điều chi muốn nói?

    -  Xin Bệ hạ hãy tùy tiện chớ dùng đại lễ. 

    Tổ bước xuống từ chỗ ngồi đỡ đức vua đứng dậy. Nhưng đức vua khoát tay:

    -   Xin Tổ hãy ngồi yên!

    Đức vua thưa:

    -   Kính trên đức Tổ, đệ tử bấy lúc nay mang ơn đức Tổ đã giảng dạy cho các hài nhi hiểu được nhiều điều trong cuộc sống và nhất là hiểu được về đạo Phật và Đức Phật một cách trân quý. Đệ tử bấy lâu nay có lo xây dựng cho Tổ một ngôi thất để phù hợp với đời tu hành của Tổ. Nay đã được hoàn tất, đệ tử xin cúng dường cho đức Tổ. Mong trên đức Tổ hãy thọ nhận cho đệ tử, để khiến cho đệ tử được ân triêm công đức. Ngôi thất này đã được xây dựng ngay trong vườn thượng uyển, rất thích hợp là chốn thanh tu. Kính trên đức Tổ hãy nhận cho gia đình chúng con, để thêm phần công đức.

    Đức Tổ Bát Nhã Đa La nghe qua liền nói:

    -   Bệ hạ đã nói như vậy thì thật là rất tốt. Tuy nhiên hãy đưa Ta đến đó xem, coi có phù hợp với người tu hành không? Nếu phù hợp thì Ta sẽ nhận. Xin Bệ hạ hãy hướng dẫn đi xem.

    Đức vua nghe Tổ nói như thế thì lòng rất vui bèn đứng lên xá Tổ thỉnh đồng đi.

    Đã đến nơi am chiền, Tổ nhìn quanh một vòng thấy mái am chiền rất là phù hợp cho người thanh tu. Tổ gật đầu hứa khả:

    -   Được lắm! Trong am, ngoài am đều rất là phù hợp cho một vị khất sĩ ẩn tu, Ta xin nhận.

    Thế là đức vua cùng ba vị hoàng tử đồng cúi đầu đảnh lễ trân trọng cúng dường đức Tổ Bát Nhã Đa La mái am chiền. Vậy là từ hôm đó đức Tổ được ở luôn nơi mái am chiền này. Thật là một cảnh sống vừa phải cho một vị Tỳ kheo sống đời độc cư chiền định. Ngài ở đây rồi mỗi ngày đến lớp trong hoàng cung mà giảng dạy cho các hoàng tử.

    Một mái am chiền cất theo lối cao cẳng. Là một thất sàn trông thật khả ái. Tổ có thể đi quanh dưới mái am chiền mà nhìn khắp khu vườn êm ả đầy hoa thơm, cỏ lạ, rất là phù hợp cho cảnh hành chiền.

    Một cái thất vừa thoáng mát vừa đầy đủ tiện nghi cho một hành giả.

    Nhà vua Hương Chí không chỉ cúng dường mái am chiền cho Tổ Bát Nhã Đa

    La mà đức vua còn đã từng cúng dường nhiều ngôi đền cho đạo Hindu. Nhà vua còn định sẽ xây riêng một ngôi đền cho Tổ Bát Nhã Đa La làm nơi hoằng hóa cho chúng sinh nơi vương thành. Đức vua đã thưa việc này với đức Tổ Bát Nhã Đa La được Tổ chứng minh. 

    Ngày kế, Tổ Bát Nhã Đa La đã đến lớp dạy cho các vương tử những bài học căn bản trong Phật pháp.

    Vào lớp Ngài đã dạy những bài học căn bản như: Pháp Nhân quả, Pháp Nghiệp báo, Pháp Luân hồi. Ngài đã khiến cho các học trò nắm vững hết những bài học như thế. Các học trò đã hiểu được và ứng dụng được vào trong cuộc sống. Các hoàng tử có thể biết được pháp nào là thiện, pháp nào là ác, biết bỏ những điều ác và biết làm những điều lành, biết giữ lòng thanh tịnh để ứng xử ngay trong cuộc sống đời thường.

    Tổ cũng đã dạy một cách chi tiết hơn về phần Tập Đế, Ngài phân tích cho biết thế nào là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi,… thô và tế. Dạy cho biết thế nào là Tham, Sân, Si dễ nhận ra “thô”. Và thế nào là Tham, Sân, Si khó nhận ra “tế - tinh vi”.

    Các vương tử học biết được những điều mới lạ ngay trong thân, tâm ý mình.

    Các vương tử cũng thật là hào hứng. Riêng vương tử thứ ba tuy là nhỏ tuổi nhất nhưng vương tử lại gần như vấn đề nào cũng hiểu được sâu xa hơn các vương huynh.

    Tổ Bát Nhã Đa La được các vương tử thích học nên Ngài cũng rất phấn khởi, càng ngày Ngài càng dẫn sâu hơn vào Pháp Phật Đà, từ những Pháp dễ hiểu cho đến những Pháp khó hiểu, Ngài đều khiến cho các vương tử hiểu ra được hết. Thời gian thấm thoát trôi qua, thế là đã sang đông đến Tết. Đến ngày đầu năm mới.

    Trong cung đình lại tổ chức đón mừng đầu năm mới một cách tưng bừng. Các vương tử cũng được nghỉ học và vui chơi theo tục lệ của dân tộc Tamil.

    Người Tamil mừng vui ăn uống, vui ca hát xướng suốt cả tháng trường.

    Sau dịp vui chơi mừng lễ đầu năm, Tổ Bát Nhã Đa La báo cho vua Hương Chí biết rằng mình sẽ trở về ngôi Tam Bảo trên núi cao. Trong dịp này, nhà vua cũng muốn đi theo Tổ về viếng ngôi Tam Bảo trên non. Các vương tử cũng xin được đi cùng với mẫu hậu. Thế là đoàn người của triều nội cùng đi theo Tổ Bát Nhã Đa La lên ngôi Tam Bảo trên núi cao.

  • 20. VỀ LẠI NGÔI TAM BẢO

    Tờ mờ sáng, đoàn người Tổ Bát Nhã

    Đa La và vua Hương Chí cùng đi thẳng lên đỉnh núi cao. Tổ Bát Nhã Đa La đã hướng dẫn đoàn đi theo đường núi gập ghềnh, tiến lần lên cao. Đức vua và các vương tử đi ngựa. Riêng hoàng hậu thì đi kiệu. Đoàn người tùy tùng có hơn 50 người. Tổ Bát Nhã Đa La dùng thuật phi hành đi rất lẹ, luôn luôn đi trước mọi người để dẫn đường. Ngài dùng công phu “truyền âm nhập mật” để đưa tin lên núi cho người đệ tử lãnh đạo biết có đoàn người đang lên núi. Chỉ một chốc thì thấy có tốp người từ trên núi đi lần xuống hướng về đức Tổ ra chiều đón tiếp. Đức vua và các vương tử thấy thế đều bội phục Tổ Bát Nhã Đa La về công phu “truyền âm” rất là vi diệu. Chỉ phút chốc, sáu người mặc y phục vàng từ trên núi đã đến trước Tổ vòng tay đảnh lễ. Đó là hàng đệ tử của Tổ đã tiếp đón Ngài từ xa. Sáu vị đệ tử của Tổ cung đón Tổ lên núi.

    Tổ dạy hướng về đức vua và đoàn người hành hương hỏi chào. Nhà vua trông vẻ sáu vị đệ tử của Tổ đều là những người có thân pháp siêu tuyệt. Nhà vua hoan hỷ cất lời:

    - Thật là hảo thủ đệ nhất!

    Thế rồi đoàn người đi thẳng lên núi, đến lưng chừng núi thì có một dòng thác đổ từ trên cao cập theo lối đi trông hùng dũng tuyệt đẹp. Từ đó lên cao thêm mấy trượng thì có một cổng sơn môn. Ở nơi cổng cũng có sáu vị Tăng đón tiếp, thỉnh Tổ cùng đoàn tiến lên cổng. Khi đi lên một đoạn thì có thêm cổng thứ hai. Trên cổng này cũng có sáu vị đứng sẵn để đón tiếp Tổ cùng đoàn rồi thỉnh lên cổng thứ ba. Đến cổng thứ ba thì hùng tráng, uy nghi hơn và có đông chư Tăng đón tiếp. Tổ và đoàn người bước vào Đại Hùng Bửu Điện. Chư Tăng đồng cung đón Tổ vào lễ Phật rồi thỉnh Tổ ngồi trên và đoàn của đức vua chia ra đứng hai bên. Sau đó, đại chúng đồng vân tập trước Tổ và kính xin đảnh lễ chào đón Tổ. Cung thỉnh Tổ ban phát lời đạo từ. Tổ bằng giọng Sư tử hống nói cùng với chúng Tăng. Đức vua và đoàn người hành hương thấy khung cảnh trang nghiêm nơi Chánh điện mà lòng càng quý kính ngôi Tam Bảo. Sau khi cả đoàn hành lễ Tam Bảo xong thì Tổ được thỉnh về phòng riêng ngơi nghỉ, và cả đoàn của nhà vua cũng được vị Tri khách hướng dẫn về chỗ nghỉ ngơi. Lúc này cũng gần đến giờ Ngọ, mọi người cũng khá mệt mỏi và đồng an nghỉ để chờ buổi cơm trưa. Sau khi dùng trà nước, đức vua cho lệnh đoàn tùy tùng sắp xếp lễ vật để cúng dường lên nhà Tổ. Mọi việc lễ vật đã bày biện xong thì cũng đã đến giờ thọ trai. Trước khi thọ trai, đại chúng thỉnh Tổ chứng minh lễ cúng dường của đức vua. Một buổi lễ cúng dường của đức vua rất là trang nghiêm với sự cúng tụng của chư Tăng làm tăng thêm phần long trọng. Tuy nhiên, Tổ Bát Nhã Đa La chỉ nói lời chứng minh lễ vật của đức vua mà không tụng niệm một lời nào. Thế rồi sau đó buổi thọ trai được bắt đầu. Tổ được thỉnh thọ trai cùng chúng Tăng. Đoàn hành hương của đức vua cũng được mời thọ trai.

    Sau khi thọ trai xong, Tổ Bát Nhã Đa La cho mời Đức vua Hương Chí đến để cùng uống trà đàm đạo.

    Vua Hương Chí rất lấy làm hoan hỷ được cúng dường Tam Bảo một cách trang nghiêm. Đức vua lại được dùng cơm chay ngon lành, cùng được uống trà với Tổ nên đức vua rất lấy làm hoan hỷ. Trong khi uống trà, đức vua lại hỏi Tổ:

    -   Con thấy các thầy đều tụng kinh, tại sao Ngài không tụng kinh?

    Tổ đáp:

    -   Ta hơi thở ra chẳng tiếp các duyên, hít vào chẳng ở trong ấm giới, thường tụng thứ kinh này trăm ngàn muôn ức quyển.

    Vua Hương Chí nghe Tổ nói nhưng không thể nhận được một cách trọn vẹn.

    Đức vua liền chắp tay thỉnh cầu: “Xin Tổ hãy nói rõ hơn cho con được hiểu”. 

    Tổ nói:

    -   Được! Giờ thỉnh hoàng thượng vào nghỉ trưa, vào chiều nay Ta sẽ nói cho rõ.

     

  • 21. THỜI KINH BÁT NHÃ

    Tổ Bát Nhã Đa La hướng về đại chúng, Ngài bảo:

    - Tất cả đại chúng hãy thành tâm xướng niệm đề tựa bài kinh Ma Ha Bát Nha Ba La Mật Đa ba lần.

    Tất cả đại chúng đã cất lời niệm: Nam mô Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa (3 lần).

    Tổ bảo đây là bài Kinh được Đức Phật Thế Tôn nói với tôn giả Xá Lợi Phất. Bài Kinh nói rằng:

    “Có vị Bồ Tát tên là Quán Tự Tại, khi Bồ Tát thực hành nhuần nhuyễn Pháp “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”, Bồ Tát soi thấy cái TÁNH thực của tấm thân Năm Uẩn thảy đều là cái TÁNH KHÔNG. Nên Bồ Tát qua hết tất cả các nạn khổ”.

    Tổ lại nói: 

    - Đức Thế Tôn trước hết nêu lên một vị Đại Bồ Tát có tên là “Quán Tự Tại” (Avalokitesvara). Bồ Tát khi đã thấy rõ ràng TÁNH thực của Năm Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) là TÁNH KHÔNG. TÁNH KHÔNG là cái TÁNH rỗng rang không trống, không có một vật có thể được ở trong đó. Trong cái TÁNH KHÔNG không có cái gì gọi là cái Sắc, cái Thọ, cái Tưởng, cái Hành, cái Thức.

    Tức là năm cái: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cả thảy đều tan biến mất không có một thứ nào ở trong TÁNH KHÔNG hết.

    Mà năm thứ này kết hợp lại để thành ra TÁNH KHÔNG. Vậy nên tấm thân này cũng được tan biến mất trong TÁNH KHÔNG. Sự đau khổ có ra từ tấm thân Năm Uẩn này. Nay đã không có cái tấm thân Năm Uẩn nữa thì không còn gì để có đau khổ. Thế nên Bồ Tát không còn tấm thân nào để mà chịu sự khổ đau nữa. Vậy nên Bồ Tát qua hết tất cả khổ nạn.

    Việc này giống như một chùm mây gồm năm gợn mây mà mỗi gợn mây đều mang tánh chất hư không nên năm gợn mây ấy đều tan biến thành hư không. Thế nên năm gợn mây ấy thấy như có mà không thật có, chúng chỉ là hư không thôi. Tấm thân Ngũ Uẩn này có mà cũng như vậy, nó không thật có, cái thật của nó chính là cái RỖNG, cái KHÔNG kìa!

    Việc này cũng lại giống như một hòn bọt ngôi sao năm cánh, một cánh là Sắc, một cánh là Thọ, một cánh là Tưởng, một cánh là Hành, một cánh là Thức, mỗi cánh này đều không thật có mà từ nơi tánh chất ướt mà nên. Cho nên tánh nước (cái chất ƯỚT), cái chất ƯỚT mới là thật còn năm cánh ngôi sao kia đều là giả hết. Thế nên cái hòn bọt ngôi sao phải chịu tan hoại và phải trở thành nước mà thôi.

    Chính cái nước đó mới là thật. Trong nước thì không có ngôi sao. Nhưng từ nước, từ chất ướt mới thành ra ngôi sao bọt. Vả lại, tấm thân như là cái chén, còn cái TÁNH KHÔNG như là khoảng trống không trong lòng chén. Không có khoảng trống không này thì cái chén không thành là cái chén. Khi cái thân chết thì giống như cái chén bị vỡ và cái chén không còn là chén nữa. Nhưng cái khoảng không trống trong cái chén không bị mất mà nó hòa nhập vào hư không. Cho đến khi nếu nắn xong cái chén khác, móc hết đất trong lòng chén thì hư không tràn vào mới thành ra cái chén được.

    Tấm thân Ngũ Uẩn và TÁNH KHÔNG được hiểu như là ba trường hợp trên: 1- năm gợn mây và hư không; 2- như hòn bọt năm cánh và nước; 3- như cái chén và hư không trong chén.

    Thế nên ta biết cái Ngũ Uẩn thật sự là cái giả. Cái TÁNH KHÔNG mới là cái chân thật. Cho nên khi soi rõ TÁNH thực của Năm Uẩn đều là TÁNH KHÔNG thì liền qua tất cả nạn khổ. Vì chính khi đó trong lòng không có một niệm nào khởi dậy cả. Cái niệm không nổi, không khởi thì cái TÂM hoàn toàn rỗng lặng nên qua tất cả niềm đau và nỗi khổ (Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai KHÔNG độ nhất thiết khổ ách).

    Bài Bát Nhã là một bài ở thể văn kệ. Trong bài kệ này có ba chữ đặc biệt là chữ KHÔNG – chữ Bất – chữ vô. Ba chữ này tiêu biểu cho công năng hết sức là phi thường. Nếu ngộ ra được chữ KHÔNG mà tu, mà công phu thì thật là tuyệt diệu, chỉ cần một nhảy là liền vào đất Như Lai, qua tất cả khổ nạn.

    Nếu hông ngộ được chữ KHÔNG thì có thể ngộ qua chữ Bất. Đoạn chữ Bất gồm ba cặp: Bất cấu – Bất tịnh; Bất tăng – Bất giảm; Bất sinh – Bất diệt. Chẳng những Bất ba cặp thôi mà còn có thể Bất vô số cặp: Bất Đạo – Bất đời; Bất thiên đường – Bất địa ngục; Bất nam – Bất nữ; v.v… Bất hết tất cả các cặp có hai thì liền được thể nhập vào TÁNH KHÔNG mà qua tất cả khổ nạn.

    Và nếu hông ngộ được chữ Bất thì ngộ chữ vô: (vô Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý – vô Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; vô Nhãn giới, nãi chí vô Ý thức giới) => vô Pháp thế gian.

    (Vô vô minh, diệc vô vô minh tận. Nãi chí vô Lão tử, diệc vô Lão tử tận. Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Vô trí diệc vô Đắc) => vô Pháp xuất thế gian.

    Trong đoạn này còn bao gồm cả vô thời gian và không gian. Ngoài ba chữ KHÔNG- Bất – vô còn một chữ nữa cực kỳ quan trọng đó là chữ TÁNH. TÁNH này là một thể bất biến bao hàm cả chữ KHÔNG – chữ Bất – chữ vô. TÁNH là thể của cả trời đất, trăng, sao, vũ trụ, là THỂ, là NỀN của pháp giới mênh mông. Nhận ra được TÁNH là nhận ra được BẢN TÂM thanh tịnh, ở trong đó không có một vật có thể được, không Ta, không Người, không Chúng Sanh, không Phật, không một chút niềm đau, nỗi khổ nào. Thế nên tự nó triệt tiêu hết tất cả khổ nạn.

    Trong TÁNH KHÔNG này viễn ly điên đảo mộng tưởng đến tột cứu kính Niết bàn, gọi là được thành Phật. Từ đây có Đại Trí Huệ, Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa gọi là Nhất Thiết Chủng Trí dứt bặt mọi cảnh giới bất khả tư nghì, vô sở đắc. Tổ đã nói xong bài Pháp BÁT NHÃ, đại chúng có người hoan hỷ Pháp KHÔNG ở nơi mình, có người cũng ngỡ ngàng không hiểu thấu. Tuy nhiên Tổ lại hướng dẫn thêm người nào nếu ngay bây giờ mà THẤY, mà NGHE, HAY BIẾT mà không sinh một niệm lại rõ ràng hay biết, thì đó là cái TÁNH KHÔNG vậy và ngay đó hoàn toàn không có niềm đau nổi khỗ nào. Chỉ cần thấy nghe hay biết mà Vô Niệm là đủ. “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”.   Nam mô Phật. Xin trân trọng!

    Tổ chắp tay xá chào rồi lui.

    Trong các học trò của Tổ có vương tử út là Bồ Đề Đa La đến chắn trước Ngài, đảnh lễ ba lạy rồi thưa:

    - Con cảm niệm công đức Ngài đã cứu khổ đời con, quả là tấm thân Ngũ Uẩn giai KHÔNG.

    Trong khi đó vua Hương Chí nhìn chăm chăm việc Bồ Đề Đa La đã đảnh lễ Tổ Bát Nhã Đa La, ông trào dâng một xúc cảm nào đó.

  • 22. CÁI TÂM PHÀM PHU (CÁI TÂM NHỎ)

     Tổ Bát Nhã Đa La sau khi trở về thất lại tiếp tục hướng dẫn các vương tử ở lớp học triều đình. Ngài hỏi các vương tử:

    -   Vì sao các con có thể sống được?

    Có vương tử trả lời rằng:

    -   Vì con có tấm thân Ngũ Uẩn.

    Vương tử cả thưa:

    -   Vì con có cái Tâm.

    Tổ khen:

    -   Con khá lắm! Đúng là nhờ có cái Tâm. Tuy nhiên phải biết con người có hai cái Tâm:

    1.  Tâm phàm phu

    2.  TÂM Phật

    Giờ chúng ta nói trước về cái  Tâm phàm phu.

    Cái Tâm phàm phu hay còn gọi là Tâm chúng sanh, hay còn gọi là cái Tâm sinh diệt. Hoặc còn gọi là cái Tâm ý thức hay là cái Tâm vô thường. Cái Tâm này là thứ Tâm có Tham, Sân, Si, có phiền não, có khổ đau. Cái Tâm này có nhiều tính toán, có nhiều sự suy nghĩ, có nhiều mưu mô xảo quyệt, có nghiệp chướng, có báo chướng, có chúng sanh chướng, có vô minh, có tham ái. Cái Tâm này có đủ thất tình lục dục.

    Có vui buồn thương ghét, có biết sướng, biết khổ.

    Cái Tâm này biết làm phách lối, biết làm tàng, biết cống cao, ngã mạn, biết làm trời, biết làm đất, biết làm ma làm quỷ.

    Cái Tâm này biết có thiên đường, biết có địa ngục, biết sinh, biết tử, biết già, biết bệnh, biết chết.

     Cái Tâm này nó biết đủ thứ; biết thiện biết ác; biết tốt, biết xấu,… biết đủ thứ chuyện trên đời. Cái Tâm này không bao giờ đứng yên, luôn lăng xăng như con khỉ, con vượn, như con ngựa chứng, như con lật đật nên gọi là Tâm viên ý mã.

    Người có những Tâm này nhất định là có đau khổ, có trầm luân, có sinh tử.

    Cái Tâm này nó có nhiều tên gọi. Tuy nhiên có một tên gọi chung cho tất cả. Gọi là Tâm vọng. Vọng tức là giả. Tất cả những thứ Tâm này đều là giả không có cái nào là thật hết. Chẳng những nó là giả mà còn là điên đảo nữa. Nên sống bằng cái Tâm này dễ khiến cho người trở nên điên đảo và cũng dễ thành điên loạn, là một tình trạng, chứng bệnh tâm thần kinh. Thế nên con người muốn sống có hạnh phúc chân thật thì phải không nên sống bằng những loại Tâm phàm phu này.

    Cái Tâm phàm phu thường lén lút đi một mình, đi rất xa, vô hình vô dạng, ẩn náu tận hang sâu. Thứ Tâm này là một Tâm xảo ngụy hại mình, hại người vô kể. Nó là thứ Tâm xiểm khúc, cong vạy, tráo trở, là thứ Tâm phan duyên lằng nhằng ràng buộc, là thứ duyên lự Tâm, Tâm lo toan tính toán, là thứ ma Tâm, nó biến hiện ảo hóa vô cùng vô tận. Thứ Tâm này là loại Tâm xấu xa, là thứ Tâm đột khởi rất khó kiềm chế, là Tâm ma mị, là Tâm hồ ly nguy hiểm vô cùng. Chớ nên sống bằng loại Tâm này. Là một thứ Tâm địa ngục khổ sầu.

     

  • 23. TÂM PHẬT (CÁI TÂM LỚN)

    Con người lại có cái TÂM lớn đó là TÂM Phật, TÂM này trái ngược với Tâm phàm phu. Là TÂM tốt đẹp, TÂM hạnh phúc, TÂM an vui. Cái TÂM không niềm đau, nỗi khổ. Là TÂM không có Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Tà Kiến.

    Đây là một cái TÂM không có mười tập nhân. Được gọi là TÂM Phật. Là TÂM giác ngộ, là BẢN TÂM hay BỔN TÂM. Là TÂM cội nguồn không niềm đau nỗi khổ. Nó không như cái Tâm phàm phu đầy niệm lự. Cái TÂM này hoàn toàn trống vắng không có một niệm nào. Là cái TÂM vô niệm. TÂM này được gọi là TÂM CHƠN NHƯ, là TÂM Chân thật, là CHƠN TÂM. TÂM này cũng được gọi là TÂM NHƯ LAI, TÂM BỒ ĐỀ, TÂM NIẾT BÀN, TÂM BẤT ĐỘNG, TÂM TRINH THẬT, TÂM NHƯ LAI TÀNG, TÂM VÔ SANH, TÂM VÔ VI, TÂM TỔNG TRÌ, DIỆU TÂM, TÂM VIÊN GIÁC, TÂM DIỆU TRẠM, TÂM HOA NGHIÊM. TÂM này cũng được gọi là PHẬT TÁNH – ĐẠI ĐẠO. Là BÁT NHÃ TÂM… 

    Sống được bằng TÂM Phật thì con người thoát khỏi niềm đau nỗi khổ, thoát khỏi sanh tử luân hồi, qua được cái khổ Ngũ Ấm, Ngũ Uẩn. Người này hoàn toàn an vui giải thoát, được tự tại trong sinh, già, bệnh, chết, dứt khổ đau

  • 24. TÂM CHUNG

    Là cái Tâm vừa là phàm phu vừa là Phật. Khi mê thì Tâm này là phàm phu. Khi ngộ thì Tâm này là Phật. Gọi là TÂM – PHẬT – CHÚNG SANH tam vô phân biệt.

    Cũng là một cái Tâm nhưng khi mê là phàm phu, khi ngộ thì là Phật. Ba thứ TÂM – CHÚNG SANH – PHẬT không khác, giống như đất. Khi đất để đi thì bị giẫm đạp. Khi đất được nắn thành tượng thì được tôn thờ. Đất – đường đi – tượng, ba thứ này không sai khác. Thì TÂM – PHẬT –

    CHÚNG SANH cũng vậy. Như Tâm A-lại-da khi mê thì là chúng sanh, khi ngộ thì là Phật. Hay TÂM NHƯ LAI TÀNG khi tại triền mê là chúng sanh phàm phu. Khi Như Lai xuất triền (giác) là Phật.

  • 25. TÂM VÀ NIỆM

    Niệm là một khởi ý, là một khởi nghĩ. Khi có ý và có nghĩ tức là có nghiệp. Mà có nghiệp là có đau khổ. Cái đau khổ nó có ở đâu?

    Cái đau khổ có ở thân và tâm. Nhưng cái niệm có phải từ cái TÂM mà sinh ra không? Tuy cái niệm có trong TÂM nhưng cái TÂM không sinh ra niệm. Vì trong TÂM không có cái gen niệm. Cái gen niệm là động. Nhưng cái BẢN TÂM vốn là bất động. Như vậy niệm tuy có nhưng không có gốc. Việc này giống như nước có ra cá nhưng không phải nước là có gen cá mà cái gen cá là cá. Cho nên cá từ cá sinh ra ở trong nước. Chớ không phải nước sinh ra cá. Thì niệm có ra trong

    TÂM cũng giống như cá có ra trong nước mà thôi. Không vì cá có ra trong nước rồi cho rằng nước sinh ra cá. Mà nước và cá cả hai không dính gì nhau. Nước là nước, cá là cá. Thì cũng vậy, niệm có ra trong TÂM nhưng TÂM và niệm không dính gì vào nhau, niệm là động mà TÂM vẫn là bất động. Thế nên niệm có ra là từ nơi vọng chớ không phải từ BẢN TÂM. Việc này cũng giống như nước và bọt. Bọt có ra trong nước nhưng trong nước vốn không có bọt mà do vì có gió làm động nước nên nảy sanh ra bọt. Thế nên bọt có ra là do có động. Niệm có ra là do vọng. Mà vọng là không thật cho nên niệm có mà cũng không thật, nên niềm đau nỗi khổ có mà cũng không thật. Như vậy nghiệp cũng là không thật. Việc này hãy khéo mà hiểu. Có mà không thật là một điều ly kỳ khó hiểu, nhưng là sự thật. Ở nước có bọt là do có gió làm động, điều này dễ hiểu hơn. Nhưng ở TÂM cái gì làm ra gió để có vọng mà thành niệm? Đây là điều khó hiểu nhưng mà rất thật, cũng giống như mắt, vì sao khi mắt bệnh thì lại thấy có hoa đốm trong không gian. Còn khi mắt không bệnh thì không thấy có hoa đốm gì cả. Niệm sinh ra trong TÂM cũng như hoa đốm sinh ra trong không gian. Trong không gian không hề có một hoa đốm nào. Vậy mà khi mắt bệnh lại thấy có hoa đốm sinh ra và làm cho mắt có sự khó chịu thật sự. Sự khó chịu đó gọi là khổ.

    Thì khi có niệm sanh ra cũng có khổ như vậy. Tuy nhiên hoa đốm không làm cho không gian khổ thì cái niệm cũng không làm cho BẢN TÂM khổ.

  • 26. ĐỂ NGỘ RA CÁI BẢN TÂM

    Hãy bàn về cái ngộ - cái ngộ là cái hiểu ra, là cái hay ra, là cái biết ra, là cái nhận ra. Nhưng có điều hiểu ra, hay ra, biết ra, nhận ra một sự thật rất là rõ ràng. Như hiểu ra, hay ra, biết ra, nhận ra mà còn cầm nắm được một cách cụ thể chứ không phải chỉ có hiểu, chỉ có hay ra, biết ra và nhận ra mà thôi. Tất cả những điều này như khi Ta cần đọc sách thì phải có kiếng mới đọc được nhưng lại kiếm không ra cái kiếng, lục hết trên bàn, trong tủ, trong hốc kẹt mà vẫn không tìm ra được cái kiếng thì làm sao mà đọc được. Thế nên, thôi ngồi trên ghế mà xếp sách lại không đọc nữa. Khi ấy, ngồi cúi đầu trên ghế nghe cái mặt nặng nặng ở mắt.

    Rồi cho tay rờ lên mắt thì phát hiện cặp kính đang ở trên mắt, mới biết rằng cặp kính có mất đâu nào. Chừng đó mới hay ra rằng cặp kiếng chưa từng bị mất, và đó gọi là ngộ. Ngộ là như vậy. Hay ra một vật đã sẵn, chưa từng bị mất thì gọi là ngộ. Như vậy ngộ là một tình trạng nhận ra một vật mà chưa từng bị mất.

    Hay cũng như một trường hợp khác. Một người được rủ đi chơi, người này lại loay hoay đi tới đi lui chừng như để kiếm một cái gì. Người bạn thấy thế mới hỏi rằng:

    -                Huynh tìm cái gì vậy?

    Người bạn trả lời:

    -                Tôi tìm cái nón.

    Người bạn thấy nón trên đầu liền cho tay vỗ nón. Người huynh đệ này liền hay ra cái nón đang ở trên đầu có mất đâu mà kiếm, mà tìm. Thế là người huynh đệ này liền nhận ra cái mũ đang trên đầu mình. Đó gọi là ngộ. Vậy ngộ là nhận ra, là hay ra được sự thật (cái mũ) đang ở ngay trên đầu mình.

    Hay như có chuyện: Một anh chàng có tên là Diễn Nhã Đạt Đa. Một sáng sớm anh ta đứng trước gương chải tóc. Anh ta thấy mặt mình xinh đẹp. Nhưng khi quay đầu khỏi gương thì không còn thấy cái đầu xinh đẹp của mình nữa, anh ta bèn la làng lên:

    -                Tôi bị mất cái đầu rồi!

    Từ trong nhà anh chạy vụt ra đường, chạy tới đâu anh đều la toáng lên: “Tôi mất đầu rồi! Tôi mất đầu rồi!”. Khi ấy có người đi đường thấy anh vừa chạy vừa la như vậy, bèn nắm đứng anh lại và nói với anh ta biết rằng:

    -                Mất đầu mà sao biết la như thế! Cái đầu đang ở trên cổ của anh.

    Diễn Nhã Đạt Đa nghe chỉ như vậy bèn hai tay ôm chầm lấy đầu và nói rằng:

    -                Tôi được đầu rồi! Tôi được đầu rồi!

    Người bên đường thấy thế mới nói rằng:

    -  Anh có mất đầu hồi nào đâu mà nói là được. Đầu anh sáng giờ luôn trên cổ của anh, có mất đi bao giờ.

    Thế là chàng Diễn Nhã Đạt Đa mới biết ra rằng: Mình không có mất đầu. Và như vậy được gọi là anh đã ngộ ra cái đầu của mình ở ngay trên cổ mình đây.

    Cả ba trường hợp nêu trên đều được gọi là ngộ. Như vậy ngộ là hay ra, biết ra, nhận ra một sự thật tốt đẹp đã sẵn ở chính nơi mình mà chưa từng mất một lúc nào hết.

    *    NGỘ BỔN TÂM: BẢN TÂM là cái TÂM chân thật ở nơi chính mình, nó giống như cái kiếng ở trên mắt, lại giống như cái mũ ở trên đầu, và cũng như cái đầu ở trên cổ, chưa từng bị mất. Cái BẢN TÂM nó có ở nơi mình suốt ngày suốt đêm, suốt thời gian, suốt không gian, chưa từng tạm vắng mất dù là khi ngủ say đi chăng nữa. Cái TÂM không mất nên mình mới sống được. Cái BẢN TÂM mà mất thì mình hết sống. Gọi là chết. Để thấy được BẢN TÂM thì hãy từ lỗ mũi mà thấy ra. Cái lỗ mũi có hơi thở liên tục từ lúc mới sinh ra. Khi nào còn hơi thở thì khi đó được gọi là sống. Khi nào tắt hơi thở thì gọi là chết. Nên cái hơi thở đó chính là cái BẢN TÂM. Đặc biệt ở hơi thở là chỉ có thở mà không có sự suy nghĩ nào để mà thở. Nên thấy rõ cái BẢN TÂM vốn là không có sự suy nghĩ nào, cũng không có sự khởi niệm, khởi ý nào. Thế nên khi sống mà sống được bằng BẢN TÂM thì không có khởi niệm, khởi ý, khởi nghĩ gì, cho nên không thành nghiệp. Mà không thành nghiệp thì không có gì để đau khổ, để thành vô minh, để thành tham ái. 

    *    Cái BẢN TÂM ở đâu?

    Cái BẢN TÂM nó ở cùng mình từ trong ra ngoài, ở cùng khắp sáu căn, kể cả sáu trần. Nhưng khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà có niệm thì cái BẢN TÂM tạm thời bị mất và có niềm đau nỗi khổ ngay khi ấy. Nhưng nếu căn trần giao tiếp nhau không khởi niệm mà vẫn hay biết rõ ràng thì đó là CHƠN TÂM hiện tiền. Nó trùm khắp cả căn và trần đến độ trùm khắp cả vũ trụ, lên đến cả trăng sao.

    Và BẢN TÂM lúc bấy giờ trở thành to lớn mênh mông khắp cả trời đất, khắp cả hư không vạn loại. Khi một niệm bất sanh thì toàn thể là BẢN TÂM. Đặc biệt tuy không niệm mà vẫn hay biết một cách rõ ràng. BẢN TÂM không niệm mà vẫn hay biết rõ ràng, đó là BẢN TÁNH. Việc này giống như một tấm gương phẳng lặng thì được hiểu là BẢN TÂM. Tấm gương phẳng lặng mà hay chiếu sáng là BẢN TÁNH. TÂM là BẢN THỂ. BẢN TÁNH là Khởi dụng. TÂM bao lớn thì TÁNH bao to, giống như cái gương bao lớn thì cái tánh sáng gương bao to.

     

  • 27. CHIỀN NA

    - Này các con! Hôm nay Thầy sẽ dạy về một đề tài để các con biết mà tu tập đúng Chánh Pháp. Đó là Pháp “Chiền na”. Đây là Pháp mà Đức Phật của chúng ta đã dùng ngay từ đầu mà tu. Pháp tu này dùng ở tư thế ngồi làm công phu. Gọi là Chiền na.

    Ngồi Chiền na tức là ngồi để tập hít vào thở ra để cho tâm được định tĩnh. Tư thế ngồi này các con hãy nhìn lên Thầy. Đây là tư thế ngồi xếp chéo hai chân. Xếp chéo chân nên có thể bị đau chân. Ngồi xếp chéo chân tuy nhiên phải ngồi trên gối tròn như thế này. Đây là những dụng cụ để ngồi cho đỡ đau. Trước hết ta có miếng vải vuông được may dày mấy lớp, may vuông bề dài và bề ngang khoảng bốn gang tay. Tấm nệm này trải ngồi cho êm, tránh hơi đất và tránh côn trùng. Còn đây là gối tròn gọi là bồ đoàn. Bồ là loại cỏ bồ; độn dày lên theo hình tròn gọi là đoàn. Khi ngồi đặt bồ đoàn ở một cạnh của cái nệm để ngồi cho êm và giúp cho xương sống dễ thẳng, và ngồi được lâu hơn. Cái bề mặt của bồ đoàn ít nhất là bằng một gang tay.

    Khi ngồi đặt đít lên 2/3 bồ đoàn. Ngồi với tư thế ngồi bẹp, chân nào thuận thì gác trên, hai chân gác chéo lên nhau. Gót chân cách bụng một lóng tay. Bàn chân kéo gần dạ bụng. Hai gót chân ngang nhau.

    Cách đặt tay: Chân nào dưới thì đặt bàn tay bên đó dưới, lòng bàn tay để ngửa. Bàn tay kia đặt lên lòng bàn tay nọ; ngón cái đụng sát vào nhau (hơi kênh một chút để tránh hôn trầm, ngủ gục). Hai cánh tay vừa sát hông, không quynh ra cũng không ép vào.

    Lấy thước: Khi ngồi lấy thước là quan trọng, xương sống thẳng, không ngửa, không kênh, cổ ngay không cúi, cổ cúi nhiều dễ bị hôn trầm. Chóp mũi nhìn thẳng rốn. Hai vai, trán, cổ ngang nhau để tránh ngả người hay khom lưng. Tầm nhìn mũi và rốn phải ăn theo đường dây dọi của thợ hồ. Hai vai và trái cổ phải ăn theo mực nước ngang bằng, mực nước và mực dây dọi phải cắt nhau thành một góc vuông để giữ thăng bằng cho khung xương (xương sống và xương bả vai). Chú ý đến cột sống với 31 cặp phải giữ cho liền lạc, không khom, không cúi, không vẹo, không xiên và nhất là tám cột sống cổ, phải ngay, phải thẳng thì hơi thở mới được thông, tâm trí mới được sáng suốt, sức khỏe mới được tốt hơn.

    Về phần miệng: Miệng ngậm lại, sau khi hít vào thở ra ba hơi từ mạnh đến nhẹ, lưỡi cong nhẹ lên ổ gà và hít thở bình thường. Hít vào bằng mũi, thở ra bằng mũi. Về hơi thở ở tư thế ngồi như vậy thì hơi thở sẽ sâu, sẽ dài hơn nên không cần cố gắng hít sâu thở dài mà chỉ cần hít thở bình thường. Chỉ có điều: 

     “Hít vào tâm tĩnh lặng 

      Thở ra trí sáng ngời 

      Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề 

    Nghiêm thân chánh niệm không hề lãng xao.”  Suốt thời gian ngồi chỉ hít thở như vậy cho đến khi kết thúc. Đó là giai đoạn trụ chiền.

    Đến giai đoạn xả chiền:

    Vào chiền thì bắt đầu từ chân đến tay đến miệng đến hơi thở từ mạnh đến nhẹ đến niệm.  Xả chiền thì ngược lại với vào chiền. Xả chiền thì bắt đầu xả niệm trước, xả niệm bằng thầm tưởng bài kệ:

    Nguyện đem công đức này

    Hướng về khắp tất cả 

    Đệ tử và chúng sanh

    Đều trọn thành Phật đạo.

    Xong đến xả hơi thở. Xả từ hơi thở nhẹ đến mạnh và cuối cùng hít vào mạnh, thở ra mạnh, thở sạch ra hóp bụng vô.

    Động thân: Nhô vai phải, vai trái mỗi bên 3 lần.

    Động đầu: Cúi xuống ngẩng lên 6 lần. Động cổ: Ngó qua, ngó lại mỗi bên 3 lần.

    Động tay: Hai tay ấn xuống từ nhẹ đến mạnh 3 lần. Kéo tay để ngửa trên đùi, bóp vắt xôi mỗi bên 3 lần. Ở thế tay ngửa trỏ thẳng ấn xuống mỗi bên 3 lần. Hai tay nhấc nhẹ chân xuống để yên tại chỗ.

    Xoa nắn: Xoa từ đầu đến chân mỗi vị trí trung bình 20 lần. Nơi nào đau xoa gấp đôi hay gấp ba. Xoa từ đầu, trán, thái dương, sau ót, cạnh tay, mặt, mũi, hàm, cằm, miệng, hàm răng trên, hàm răng dưới, cạnh cổ, gần cổ, xương quai hàm, xương cánh gà, chén cổ, xương ức, xương ngực, đầu vai, nách, hai cánh tay, bàn tay, ngón tay, vừa xoa, vừa vuốt, xoa ngực, xoa lưng, xoa xương sống, xoa eo, xoa bụng, bụng trên, bụng dưới, hai bên hông, xoa háng, xoa đùi, xoa lần xuống chân, cẳng chân, cổ chân, mắt cá, bánh chè, bàn chân, ngón chân, kẽ chân, chân vừa xoa vừa nắn vừa vuốt. Chân xoa bốn mặt. Hai chân xoa vào nhau, cuối cùng xoa tay áp mắt. Xoa xả bỏ 3 lần – xoa cho nóng áp vào mắt 3 lần.

    *   *   *

    Tổ sau khi giảng về Pháp Chiền na xong. Ngài cho thực hành liền, các học trò của Ngài ngồi theo sự hướng dẫn của Tổ. Tổ hô lên và học trò làm theo qua đủ ba giai đoạn. Vào – Trụ - Xả và xoa nắn. Ngài hô tuần tự như vậy nên học trò tập theo cũng dễ dàng, ai cũng làm được. Mấy vương tử lớn là thanh niên rồi nên chân cứng ngồi hơi trở ngại, bị đau nhức, ê ẩm. Riêng có Bồ Đề Đa La mới 16 tuổi chân còn dẻo nên ngồi khá hơn. Bồ Đề

    Đa La ngồi nghe thú vị hơn. Tuy nhiên các học trò sau khi xoa nắn đúng pháp thì người nào cũng nghe khoan khoái khỏe ra, dễ chịu hơn. Thế là, Tổ sắp xếp cho ngồi hai lần: sáng sớm và trước khi đi ngủ. Nhà vua Hương Chí thấy các con mình biết tu chiền, ngồi giống như Đức Phật thì thấy làm vui thích, các con hạn chế vui chơi theo kiểu thế gian.

    Thế rồi, ở một ngày khác Tổ lại hướng dẫn cho những bài tập thể dục khí công.

     

  • 28. THỂ DỤC KHÍ CÔNG

    Tổ lại dạy cho các học trò sau khi xoa nắn tọa chiền rồi thì lại tập thêm môn thể dục tại chỗ. Thể dục gồm năm động tác nhẹ nhàng nhưng là tập theo khí công tụ lực. Xem ra như nhẹ nhàng nhưng đầy sức mạnh. Các vương tử tập theo tuy không mất thời giờ là mấy nhưng lại có sức khỏe lạ thường. Đây không phải là thể dục trên cơ bắp mà là thể dục khí công luyện nội lực. Nên tuy tập một thời gian ngắn thôi mà các vương tử có thân pháp nhẹ nhàng thanh thoát. Tuy nhiên lại rất khỏe mạnh. Những việc gì ngày trước làm không nổi thì giờ đây làm một cách nhẹ nhàng thơ thới. Ngày trước xách một thùng nước è ạch, thì giờ đây xách một thùng nước nhẹ nhàng, coi như không có. Vua Hương Chí thấy các con trai của mình có thân pháp nhẹ nhàng lại có sức mạnh hơn nên rất là mừng. Nhà vua lại muốn cho các con trai mình luyện thêm về võ nghệ của xứ Tamil. Nguyên võ nghệ của người Tamil là vô địch thiên hạ. Tổ Bát Nhã Đa La nghe được ý của nhà vua bèn gật đầu hoan hỷ. Nhà vua liền lên kế hoạch để mở thêm một lớp học võ nghệ song đôi cùng lớp học đạo. Nhà vua lo tuyển chọn những võ sĩ thượng thừa để làm thầy dạy võ cho các vương tử cùng thỉnh Tổ Bát Nhã Đa La dạy cho các vương tử thêm về võ nghệ. Thế là lớp học cung đình trở nên nâng cao. Tổ phân ra thời khóa học tập rất là rõ ràng, lúc nào học văn, lúc nào học võ, lúc nào tọa chiền. Lớp học trở thành quy mô hơn. Người học trò hoan hỷ nhất đó là vương tử Bồ Đề Đa La tuổi trẻ mà tài cao. Học môn nào cũng xuất sắc.

    Tổ Bát Nhã Đa La Ngài có đặc tài giáo hóa, có bản lĩnh cả văn lẫn võ được vua Hương Chí sùng mộ hơn lên. Nhà vua thường hay tổ chức những buổi thuyết Pháp công cộng cho triều đình và quần chúng đồng nghe. Lần hồi những người quy y với Ngài càng đông hơn. Thế nên vua Hương Chí phải xây cho Ngài một ngôi đền riêng để giáo hóa. Các học trò của Ngài lần hồi có thể dùng được vào chương trình giáo hóa. Bồ Đề Đa La càng ngày càng lớn lên, sự thâm hiểu Pháp

    Phật Đà lại càng sâu sắc hơn. Đến năm 17 tuổi, Tổ Bát Nhã Đa La cho mở hội thi tuyển. Nhà vua nhân cơ hội này phát tâm cúng dường cho Tổ một phần công đức rất xứng đáng. Trong đó có một viên ngọc quý vô giá. Tổ đem viên ngọc này làm đề tài trắc nghiệm hỏi qua ba vị vương tử. Tổ hỏi:

    -            Ở đời có vật nào quý báu bằng hạt châu này không?

    Vương tử cả là Nguyệt Tịnh Đa La thưa:

    -            Hạt châu là quý tột, ở đời không có gì hơn nó, chẳng phải trong nhà vua thì làm sao có hạt châu này.

    Vương tử thứ hai là Công Đức Đa La cùng đồng ý với vương huynh.

    Riêng Bồ Đề Đa La thưa:

    -            Châu này là báu của thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ báu chỉ có Pháp bảo là tột. Đây là ánh sáng của thế gian, trong các thứ ánh sáng chỉ có ánh sáng Trí Huệ Bát Nhã là tột. Châu này là trong sạch của thế gian, trong các thứ trong sạch chỉ TÂM trong sạch là trên hết.

    Nhưng ánh sáng của hạt châu này không thể tự chiếu, cần nhờ ánh sáng Trí

    Huệ mới biết được nó. Đã biện rõ mới biết là châu, đã biết là châu mới hiểu cái quý báu của nó. Nếu hiểu cái quý báu của châu, thì quý mà không biết là quý. Nếu biện rõ nó là châu thì nó châu mà tự chẳng biết châu. Châu mà tự chẳng biết châu, cần nhờ Trí châu mới biện được thế châu. Báu mà chẳng biết báu, cần nhờ Trí bảo mới rõ Pháp bảo. Nhưng mà, thầy tôi có đạo thì báu kia liền hiện. Chúng sanh có đạo thì TÂM báu cũng thế.

    Tổ khen ngợi tài biện luận của Bồ Đề Đa La. Tổ hỏi thêm:

    -   Trong các vật, vật gì không tướng?

    Bồ Đề Đa La thưa:

    -   Trong các vật, “chẳng khởi” là không tướng.

    Tổ hỏi:

    -    Trong các vật, vật gì là tối cao?

    Bồ Đề Đa La thưa:

    -   Trong các vật, “Nhơn Ngã” là tối cao.

    Tổ hỏi:

    -   Trong các vật, vật gì là tối đại?

    Bồ Đề Đa La thưa:

    -   Trong các vật, “Pháp TÁNH” là tối đại.

    Tổ thầm vui biết Bồ Đề Đa La là đại pháp khí sẽ nối dõi Tổ sau này.

    Bồ Đề Đa La thường hay gần gũi với Tổ Bát Nhã Đa La để học hỏi thêm về những điều chưa biết, nhất là thưa hỏi về những tâm trạng biến hiện trong lòng của một thanh niên đang lớn. Bồ Đề Đa La có nhân sinh quan không giống hai anh. Bồ Đề Đa La càng lớn càng đẹp người, càng đẹp nết, nhất là có sức khỏe trời cho. Tuy nhỏ tuổi hơn hai anh nhưng sức mạnh hơn hai anh nhiều. Mỗi khi có việc gì nặng nề,

    Bồ Đề Đa La luôn lãnh phần nặng hơn hai anh. Chuyện gì phải cần đến sức hai người thì chỉ cần một mình Bồ Đề Đa La là đủ. Quả là “tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu”. Bồ Đề Đa La được mẹ cưng yêu rất mực. Về việc ăn uống, Bồ Đề Đa La cũng ăn rất khỏe, một người ăn cũng như hai người. Bồ Đề Đa La lại giỏi về võ công, một mình có thể chiến đấu với hai, ba người mà vẫn đắc thắng. Bồ Đề Đa La lại sử dụng được tất cả những binh khí, thập bát bang võ nghệ đều sử dụng một cách nhuần nhuyễn. Kể cả phi ngựa cũng không ai bằng. Trong võ đường đã được thi đấu mấy lần, lần nào cũng vô địch. Tuy tài năng như thế nhưng tánh nết rất từ tốn, rất dễ chịu. Cái ngã của Bồ Đề Đa La nhỏ xíu không bằng ai cả vì từ lâu đã được Tổ Bát

    Nhã Đa La dũa mòn cho. Bồ Đề Đa La là một thanh niên lực lưỡng nhưng lại có vóc dáng thật thanh tú, là tầm nhìn cho các công nương. Tuy nhiên, Bồ Đề Đa La không bao giờ để tâm đến các nàng khuê nữ mà chỉ rảnh thì tọa chiền, luyện võ, tập khí công, gần gũi bên Tổ để trau dồi thêm về đạo học. Bồ Đề Đa La lúc nào cũng để tâm vào dũng khí, dũng lực và đạo học, không buồn nghĩ đến đời sống tình cảm nam nữ vớ vẩn. Bồ Đề Đa La vì vậy được phụ hoàng thương mến và cưng chiều vì có thêm đạo hiếu với cha mẹ, có tình nghĩa với anh em bạn học, biết kính trọng thầy dạy, nên được thầy thương bạn mến. Không như hai anh, càng trưởng thành càng nhạt đi về mùi đạo mà lại bén mùi tình, vì vậy, về văn võ của hai anh đều không thể sánh kịp với Bồ Đề Đa La. Thế rồi người anh cả là Nguyệt Tịnh Đa La lại bén duyên tình với một công nương con vị đại thần. Rồi tiếp theo là

    Công Đức Đa La cũng đi theo bước chân anh cả, rồi cũng se duyên với một công nương. Nhà vua phải đứng ra lo việc gia đình cho hai anh. Vì lí do ấy mà Tổ Bát Nhã Đa La bớt lại chương trình giảng dạy chỉ còn chú ý đến Bồ Đề Đa La mà thôi. Bồ Đề Đa La lại chuyên cần hơn khi hai anh đã quyết định đi theo con đường thế tục. Bồ Đề Đa La lại phấn đấu phát đi trên con đường đạo. Bồ Đề Đa La lại gia tăng tốc độ hành chiền, ngày đêm mài đũng quần trên nệm bồ đoàn một cách tha thiết hơn. Bồ Đề Đa La lại phát tâm ăn chay khiến mẫu hậu xót xa, lo lắng cho đứa con trai út của mình. Nó lại không giống như hai anh nó rồi! Nhưng biết làm sao hơn đành phải chiều theo ý con vậy. Tưởng rằng khi Bồ Đề Đa La ăn chay sẽ giảm bớt thể lực. Nhưng không, sức khỏe của Bồ Đề Đa La lại tăng cường khỏe mạnh hơn vì rằng ăn chay rất thích hợp cho hành chiền và luyện khí công. Vả lại, ăn chay là cơ hội làm cho trí huệ của Bồ Đề Đa La lại phát triển hơn lên. Phát triển đến độ khiến cho Tổ phải lấy làm lạ theo trí óc hôm nay của Bồ Đề Đa La. Một đôi lần Tổ đã thử sức trí óc và sức khỏe cùng võ nghệ của Bồ Đề Đa La. Ngài phát hiện Bồ Đề Đa La tiến bộ rất nhiều và rất nhanh. Tổ rất lấy làm vui. Tổ vui nhất là tấm lòng của Bồ Đề Đa La rất ít tham dục. Điều này xác định Bồ Đề Đa La quả là có đại pháp khí sau này.

  • 29. LỄ TẤN PHONG THÁI TỬ

    Thời gian quả là ngựa chạy tên bay,

    Bồ Đề Đa La nay đã là 19 tuổi. Nhà vua thấy con khôn lớn đẫy đà rất là vừa bụng về sức khỏe và tài năng của con. Nhà vua liền gọi Bồ Đề Đa La đến và tấn phong cho ngôi vị thái tử để chuẩn bị ngồi vào ngai vàng. Đây là một vinh hạnh to lớn của một vị hoàng tử, nhưng Bồ Đề Đa La xin với phụ hoàng rằng:

    -    Ngôi vị này xin phụ hoàng hãy dành cho vương huynh con!

    -   Con không dám nhận đâu ạ!!

    Nhà vua đã ép buộc Bồ Đề Đa La mấy lần, mấy lượt mà Bồ Đề Đa La vẫn từ nan, xin nhường cho hai vương huynh.

    Nhưng cuối cùng phụ hoàng vẫn xuống chiếu chỉ tấn phong cho Bồ Đề Đa La làm thái tử và công bố cho cả triều đình đều rõ biết và quy định ngày tổ chức lễ tấn phong thái tử. Vua cha đã tuyên bố tấn phong, Bồ Đề Đa La dù không muốn cũng phải thuận theo.

    Đến đúng ngày giờ đã quy định, buổi lễ tấn phong thái tử được tổ chức hết sức là qui mô. Đây không phải là việc riêng của đức vua mà là việc chung của triều đình nên buổi lễ hết sức hoành tráng. Người tham dự đông nghẹt, nhất là cả hoàng tộc, ai cũng có mặt. Người vui vẻ nhất trong buổi lễ là mẫu hậu. Bà luôn luôn bằng ánh nhìn triều mến ban tặng cho đứa con trai út của mình, được lên ngôi thái tử để tiếp nối phụ hoàng nó mà ngồi vào ngai vàng để chăn dân trị nước. Thật hạnh phúc biết là dường nào.

    Thái tử Bồ Đề Đa La được tung hô hết sức là tưng bừng náo nhiệt. Nhưng thái tử không chút gì gọi là vui mà còn buồn nữa là khác. Quả thật thái tử rất buồn vì thái tử không muốn mình đi vào con đường vàm danh khóa lợi. Với dung nghi thái tử, mũ miện khiến cho thái tử cốt cách phi phàm, là đối tượng để cho các công nương để mắt đến một cách rất là thiết tha. Trong lễ tấn phong, người âu lo nhất đó chính là Tổ Bát Nhã Đa La, e rằng đường hành đạo của thái tử sẽ bị trục trặc. Tuy nhiên, qua sắc thái của thái tử cho thấy thái tử không thuận tình mà ngồi vào ngai vàng nên Đức Tổ cũng được an lòng.

  • 30. THÁI TỬ HỎI VỢ

    Nhà vua Hương Chí đã tấn phong cho Bồ Đề Đa La làm thái tử, nhà vua rất lấy làm hoan hỷ, muốn thực hiện bước thứ hai. Nhà vua định thành lập thái tử phi cho thái tử. Thái tử không đồng ý, đã trình bày rất rõ ràng với đức vua. Nhưng đức vua lấy quyền làm cha, làm vua mà ép thái tử phải lên đường đi cầu hôn một công chúa nước láng giềng. Nhiều người cho rằng thái tử và công chúa, hai vị rất xứng đôi, xứng cặp. Thái tử thì anh tuấn, uy dũng, công chúa thì sắc nước hương trời, mỹ miều đẹp đẽ. Riêng công chúa thì rất lấy làm vui được thái tử xem mắt.

    Nhưng thái tử thì lòng buồn rười rượi, mặt mắt lo nhìn đâu đâu, không biết gì mặt mũi của công chúa. Ở trước công chúa đẹp là vậy mà thái tử không buồn nhìn đến, lại ngồi với tư thế kiết già, xếp chéo chân theo công phu hành chiền. Khung trời tâm linh của thái tử không có bóng dáng nàng công chúa trong đó, khiến cho vua cha không biết ăn nói thế nào với bên công chúa, đành phải chịu thất bại mà ra về. Nhà vua ngỡ rằng thái tử đã có sự chọn lựa riêng cho mình một hình bóng nào đó. Nhà vua hỏi tới hỏi lui thái tử nhiều lần, nhưng chỉ được thái tử trả lời rằng:

    - Con không muốn lập thái tử phi! Con không muốn mình phải bị buộc ràng trong đau khổ bởi sợi tóc mỹ nhân. Con chỉ muốn sống đời giải thoát. 

    Thế là nhà vua đã quá rõ lòng thái tử cho nên không thể ép thái tử được nữa.

    Thái tử dù là một đứa con có hiếu nhưng thái tử lại có con đường riêng của mình.

    Tổ Bát Nhã Đa La biết được hôn sự của thái tử không thành và xác định được ý hướng của thái tử là như vậy nên Đức Tổ rất tùy hỷ cho thái tử không bị vướng vào sợi tóc mỹ nhân. Đây xem như là thái tử có đại ý chí.

  • 31. VUA HƯƠNG CHÍ BĂNG HÀ

    Vua Hương Chí từ trẻ cho đến lúc này cũng đã trải qua nhiều lần thất bại. Nhưng không có lần thất bại nào nặng nề bằng lần thất bại không lập được thái tử phi cho thái tử. Không cưới vợ được cho đứa con trai cưng, dù con trai này rất là hiếu đễ. Nhà vua xử việc nước được nhưng xử việc nhà lại không được cũng khiến cho nhà vua phải đau buồn. Lại trong triều ngoài nội xảy ra những biến cố khiến nhà vua phải có nhiều đối phó một cách mệt mỏi cho nên khiến sức khỏe nhà vua bị hao mòn, bệnh hoạn do đây sinh ra. Bệnh càng ngày càng nhiều do khi còn trẻ nhà vua lo mở mang bờ cõi phải sát phạt rất nhiều mà nay trở thành quả báo. Nhà vua dù có hiểu Phật pháp nhưng chưa đủ uy lực để khắc chế những quả báo mà lại là những quả báo ngay trong tâm, cho nên nhà vua hay bị mê sảng, hốt hoảng. Hai vương tử đã có gia đình, không thể kề cận bên vua cha, chỉ có Bồ Đề Đa La ở với cha. Khi nào Bồ Đề Đa La bên cạnh phụ hoàng thì đức vua đỡ cơn mê sảng. Bồ Đề Đa La vì thế nên luôn thường trực bên vua cha. Nhưng nghiệp lực của vua cha quá nặng, Bồ Đề Đa La không đủ sức để giải trừ nên cuối cùng đức vua phải nhắm mắt lìa đời. Thái tử hết sức là buồn phiền.

    Việc ma chay để cho hai anh và mẫu hậu lo liệu, thái tử chỉ ngồi yên bên cạnh quan tài gần như không biết gì đến cha mình đã mất. Nhưng thực ra thái tử đã biết sự ra đi khỏi cuộc đời rõ ràng hơn ai hết:

    - Đó là nghiệp dẫn cha đi!

    Trong gia đình không ai là người tiễn đưa được đức vua vào bên kia thế giới. Chỉ có Bồ Đề Đa La là tạm tạm tiễn cha đi một khúc quanh mà thôi. Thế nên, thái tử Bồ Đề Đa La ngồi im lặng bên quan tài hành chiền suốt bảy ngày đêm để trợ duyên cho vua cha qua bên kia thế giới. Nhưng rất tiếc công phu của thái tử Bồ Đề Đa La còn quá non yếu chưa đủ sức đưa đường cho vua cha đi. Chẳng khác nào như có ngọn đèn mà ngọn đèn lờ mờ không đủ soi sáng cho bước chân cha. Thế nên, sau khi an táng cho vua cha xong thái tử bèn xin mẹ và hai anh cho phép nhường ngôi thái tử lại cho anh để ngồi vào ngai vàng, còn thái tử thì xin được xuất gia để tiếp tục con đường báo hiếu cho phụ hoàng.

  • 32. THÁI TỬ BỒ ĐỀ ĐA LA XUẤT GIA

    Ở trước mẫu hậu và hai vương huynh, Bồ Đề Đa La hết sức thành khẩn, xin mẹ và hai anh được phép xuất gia. Mẹ và hai anh đều nhất tâm hoan hỷ. Và thái tử được phép xuất gia.

    Thái tử lại đối trước Tổ Bát Nhã Đa La xin được xuất gia để báo hiếu cho vua cha và mẫu hậu cùng hành đạo giải thoát, cứu độ chúng sinh. Tổ Bát Nhã Đa La nhất tâm tùy hỷ cho phép thái tử được xuất gia. Khi còn sinh tiền nhà vua

    Hương Chí đã cất cho Tổ Bát Nhã Đa La một ngôi đền để giáo hóa chúng sinh. Thì hôm nay Ngài dùng ngôi đền ấy để làm lễ xuất gia cho thái tử Bồ Đề Đa La. Một lễ xuất gia được tổ chức rất là trọng hậu. Tổ mời các chư Tăng trên núi về tham dự đầy cả đền, và cả triều thần đồng tham dự. Khi xuất gia cạo tóc xong, Tổ hướng về thái tử mà rằng:

    - Thái tử đối với các Pháp (Dharma) đã được thông suốt, nay Ta đổi hiệu là Bồ Đề Đạt Ma.

    Sau khi xuất gia rồi thì Bồ Đề Đạt Ma ở lại ngôi đền cùng Tổ Bát Nhã Đa La. Năm này Bồ Đề Đạt Ma được 20 tuổi nên Tổ cho thọ giới cụ túc để chính thức là

    Tăng. Từ đây, Tổ Bát Nhã Đa La và Bồ Đề Đạt Ma ở hẳn tại ngôi đền này. Tổ Bát Nhã Đa La dạy cho Bồ Đề Đạt Ma những oai nghi, giới luật của một người làm

    Tăng một cách rất là chu đáo. Từ đây, Tổ rút một chúng (4 người) ở núi về đây cùng chăm sóc ngôi đền, để cho Bồ Đề Đạt Ma học theo công hạnh của người xuất gia và từ đây, Tổ Bát Nhã Đa La lại truyền thụ thêm về Phật pháp cho một hành giả chân chính. Bồ Đề Đạt Ma tuổi còn trẻ hơn các sư huynh nên ở vai trò làm thị giả cho Tổ để giúp Tổ trong những việc lặt vặt và được Tổ chỉ dạy một cách nghiêm chỉnh hơn. Bồ Đề Đạt Ma quả là có duyên với Phật, đã tinh tấn thực hành Pháp Phật Đà một cách nhuần nhuyễn. Bồ Đề Đạt Ma thường xuyên được Tổ nhắc nhở và chỉ dạy từ việc nhỏ cho đến việc lớn để có thể trở thành một người hành Đạo tốt hơn. Từ khi xuất gia, Bồ Đề Đạt Ma đều thay đổi hẳn về cách sống, không còn nhắc nhở gì đến chuyện thế tục, chuyện gia đình, chuyện triều đình gì nữa. Bồ Đề Đạt Ma gần như là một con người được thay hồn đổi xác, làm mới mình trong cửa Phật, luôn luôn biết trân trọng chúng Tăng trong ngôi đền. Bồ Đề Đạt Ma rất là xứng đáng vai trò của một Tỳ kheo biết sống nếp lục hòa một cách tốt lành. Bồ Đề Đạt Ma biết trân trọng Thân hòa đồng trụ. Biết trân trọng Khẩu hòa vô tránh – Ý hòa đồng duyệt –

    Kiến hòa đồng giải – Giới hòa đồng tu – Lợi hòa đồng quân. Bồ Đề Đạt Ma thấy rõ giá trị cao quý của Pháp lục hòa nên đời sống tu hành rất là an vui, không có gì bất an cả. Bồ Đề Đạt Ma lại thường xuyên được Tổ nhắc nhở về việc dụng công hành chiền và thường xuyên phải sống được bằng CHƠN TÂM – BẢN TÁNH. Khi còn là cư sĩ Bồ Đề Đạt Ma đã hiểu ra được về điều này, nhưng giờ đây được thực hành một cách cụ thể trong quan hệ với thầy, với huynh đệ trong cuộc sống, Bồ Đề Đạt Ma thấy mình an vui thanh thoát lạ. Quả là đời sống xuất gia có khác hơn đời sống tại gia rất nhiều.

    Bồ Đề Đạt Ma lại cảm thương cho hai vương huynh của mình và chúng bạn không biết gì hết về việc cao đẹp của người xuất gia. Có thầy lành, có bạn tốt là có hạnh phúc tràn trề trong cuộc sống đời thường, không phải tìm đâu nữa.

    Bồ Đề Đạt Ma biết mình có sức khỏe nên thường dùng làm việc nặng nhọc cho chúng để chúng bớt vất vả hơn. Càng khéo dụng công thì sức khỏe Bồ Đề Đạt Ma không những chẳng lui mà còn tiến bộ hơn. Trong đền có nhiều con sư tử đá, nhiều con cọp đá, Bồ Đề Đạt Ma bồng chúng một cách nhẹ nhàng để dời chỗ, trong khi đó phải mấy người mới có thể khiêng nổi. Bồ Đề Đạt Ma có sức khỏe như vậy nhưng không bao giờ diễu võ dương oai với huynh đệ nào cả mà chỉ một lòng nhũn nhặn đối xử với huynh đệ mà thôi. Thật là một người có đủ tài đủ đức.

  • 33. TRUYỀN Y BÁT

    Đến năm 25 tuổi, Bồ Đề Đạt Ma đã thấm tương chao, đã thấm mùi dưa muối. Bồ Đề Đạt Ma đã có đủ tư cách là một đạo nhân. Một hôm, Tổ Bát Nhã Đa La gọi Bồ Đề Đạt Ma đến bên và dạy rằng:

    -   Đại Pháp nhãn tạng của Như Lai lần lượt truyền trao, nay Ta trao cho ngươi, ngươi khéo truyền bá chớ cho đoạn dứt.

    Tổ Bát Nhã Đa La đem y bát truyền trao lại cho Bồ Đề Đạt Ma và nói rằng:

    -   Y bát này là vật Tổ truyền, nay Ta truyền lại cho ngươi thừa kế Tổ vị đời thứ 28. Ngươi tạm giáo hóa ở nước này, sau sang Trung Hoa mới thật là nhân duyên lớn. Song, đợi Ta diệt độ khoảng 60 năm sau sẽ đi. Nếu ngươi đi sớm, sau e có việc không tốt. Những điều kiết hung về sự giáo hóa ở Trung Hoa sau này, Bồ Đề Đạt Ma cầu xin Đức Tổ chỉ dạy. Tổ dùng những lời sấm ký tiên đoán sự kiết hung vận số Phật pháp ở Trung Hoa, nói có hơn mười bài kệ.

    Tổ Bát Nhã Đa La cuối cùng nói bài Pháp truyền kệ cho Bồ Đề Đạt Ma. Kệ rằng:

    TÂM địa sinh chư chủng Nhân sự phục sinh lý

    Quả mãn Bồ Đề viên

    Hoa khai thế giới khởi.

    Dịch:

    Đất TÂM sinh các giống

    Nhân sự lại sinh lý

    Quả đầy Bồ Đề tròn

    Hoa nở thế giới sinh.

    Tổ lại nhịp một hồi kiềng chùy. Đại chúng đều y hậu chỉnh tề đến phủ phục trước Tổ. Tổ hướng về đại chúng nói: “Ta là vị Tổ đời thứ 27 của dòng Chiền Tổ sư

    Ấn Độ được bắt đầu từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền đến đời Ta. Nay Ta truyền lại cho Bồ Đề Đạt Ma là vị Tổ đời thứ 28. Tất cả cùng nhau rõ biết. Và Tổ thứ 28 hãy xá chào chư huynh đệ”. 

    Bồ Đề Đạt Ma y theo lời dạy của Tổ Bát Nhã Đa La xá chào chư huynh đệ trong hào quang rực sáng từ Ân Sư đến tự thân đến các huynh đệ. Tất cả đại chúng đều hoan hỷ hứa khả. Tổ Bát Nhã Đa La lại có lời nhắn nhủ sau cùng: 

    -    Kể từ ngày hôm nay, quyền chấp chưởng lãnh đạo đều do Tổ thứ 28 chỉ đạo. 

    Nói xong Ngài thi triển thần biến rồi an nhiên thị tịch. Tổ Bồ Đề Đạt Ma chỉ đạo lễ tang cho Tổ Bát Nhã Đa La và làm lễ hỏa thiêu trước sân đền. Sau cùng Tổ Bồ Đề Đạt Ma thu nhặt xá lợi chia làm hai phần. Một phần được tôn thờ ngôi đền trên núi. Và một phần được tôn thờ ngôi đền ở tại kinh thành. Nơi đây Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã được các vương huynh của mình và các đệ tử của Tổ cùng nhau góp phần xây tháp để tôn thờ xá lợi của Tổ.

    Sau khi an vị xá lợi Tổ Bát Nhã Đa La thì Tổ Bồ Đề Đạt Ma phát tâm hộ tháp Tổ để trả hiếu ba năm. Ngài không đi đâu cũng không làm gì mà ở tại ngôi đền để chuyên tu theo lời dạy của Tổ Bát Nhã

    Đa La. Bậc Chân Thiện tri thức của đời hành Đạo chính mình.

     

    -    HẾT TẬP 1 -

Mục lục

Truyện Đức Tổ Bồ Đề Đạt Ma Từ Ấn Độ Sang Trung Hoa ( Tập 01)
  • 1. TIỂU SỬ TỔ BỒ ĐỀ ĐẠT MA
  • 2. ĐẤT NƯỚC TAMIL
  • 3. VUA HƯƠNG CHÍ VÀ TỔ BÁT NHÃ ĐA LA
  • 4. LÀM GIA SƯ
  • 5. TỔ BÁT NHÃ ĐA LA
  • 6. LỄ QUY Y TAM BẢO
  • 7. XUẤT THÀNH
  • 8. LỚP HỌC NỘI CUNG ĐƯỢC KHAI GIẢNG VÀO NGÀY TRĂNG TRÒN ĐẦU MÙA HẠ
  • 9. BỔN PHẬN LÀM NGƯỜI
  • 10. BỔN PHẬN ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG
  • 11. TÀI SẢN CỦA CON NGƯỜI
  • 12. TÀI SẢN CỦA TA
  • 13. VÔ THƯỜNG
  • 14. SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT THÍCH CA
  • 15. MƯU ĐỊNH THÀNH LẬP THÁI TỬ PHI
  • 16. CƠ DUYÊN THÀNH ĐẠO
  • 17. CƠ DUYÊN THUYẾT PHÁP
  • 18. BÀI PHÁP TỨ ĐẾ Ở VƯỜN NAI
  • 19. NHỮNG PHẬT PHÁP CĂN BẢN
  • 20. VỀ LẠI NGÔI TAM BẢO
  • 21. THỜI KINH BÁT NHÃ
  • 22. CÁI TÂM PHÀM PHU (CÁI TÂM NHỎ)
  • 23. TÂM PHẬT (CÁI TÂM LỚN)
  • 24. TÂM CHUNG
  • 25. TÂM VÀ NIỆM
  • 26. ĐỂ NGỘ RA CÁI BẢN TÂM
  • 27. CHIỀN NA
  • 28. THỂ DỤC KHÍ CÔNG
  • 29. LỄ TẤN PHONG THÁI TỬ
  • 30. THÁI TỬ HỎI VỢ
  • 31. VUA HƯƠNG CHÍ BĂNG HÀ
  • 32. THÁI TỬ BỒ ĐỀ ĐA LA XUẤT GIA
  • 33. TRUYỀN Y BÁT

Tìm kiếm

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 10704
  • Online: 19