Ân Đức Sâu Dày

02/09/2025 | Lượt xem: 24

NT.Thích Nữ Thuần Tín

Kính bạch Thầy: 

Thầy là bậc thầy vĩ đại 

Luôn luôn tĩnh tại uy nghiêm 

Thể nhập thậm thâm Bát-nhã 

Dày công khôi phục tông Thiền

Từ lâu lang thang tìm kiếm

Nhờ chút duyên lành thuở xưa 

Gặp Thầy từ bi vô lượng

Khai tâm truyền pháp thượng thừa

Từ đây phong trần dừng bước

Mở mắt bừng tỉnh cơn mơ

Về lại vườn xưa chăm sóc

Chẳng còn lạc lối bơ vơ 

Ân Thầy non cao biển rộng

Sữa pháp nhuần thấm tâm người 

Chẳng nề nhọc nhằn gian khổ 

Bồ-đề mãi mãi xanh tươi 

Tào Khê mạch nguồn tuôn chảy 

Niêm hoa ai đó mỉm cười 

Dựng lập tông phong hưng thịnh 

Bát-nhã tỏa sáng tâm người.

Kính bạch Thầy, ân cao đức trọng của Thầy đời đời con xin khắc cốt ghi tâm.

Mới đây mà đã 40 năm, con từ giã phố phường nhộn nhịp vào đây học đạo với Thầy. Trải qua nhiều năm xuất gia nhưng tâm con chưa nếm được hương vị đạo nhiệm mầu giải thoát, cứ phân vân giữa ngã ba đường chưa chọn cho mình một hướng đi thích hợp. Rồi một ngày may mắn, bạn cho con mượn hai bộ băng Kim Cang, Pháp Bảo Đàn, Thầy giảng. Như người sực tỉnh cơn mê, té ra từ lâu con đã đọc hai bộ kinh này mà thời tiết nhân duyên chưa đến, nên tâm con chưa khai mở. Từng lời của Thầy mộc mạc, đơn giản, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. Bấy lâu nay tâm con như trâu hoang, ham quậy phá lúa mạ của người, như vượn khỉ leo trèo dính mắc tưởng chừng như gỡ không ra, lang thang làm khách phong trần mãi, ngày cách quê hương muôn dặm xa. Rất may mắn cho con, nếu như không gặp Thầy, cuộc đời tu của con bây giờ không biết sẽ ra sao.

Lần đầu tiên theo bạn về Chơn Không gặp Thầy, Thầy cho con quyển Yếu Chỉ Thiền Tông, giấy đen chữ đen thô thiển. Tuy nhiên trong đó chứa đựng bao nhiêu điều tinh yếu của đạo thiền mà từ lâu con hằng mơ ước và lập nguyện tu theo. Thầy là bậc thầy vĩ đại, đã khai sáng tâm cho rất nhiều người trên thế giới, sao ngày nay con mới đủ duyên gặp Thầy? Tuy nhiên, gặp muộn còn hơn không. Đã từ lâu con mất quyền tự chủ, qua lời khích lệ của Thầy giờ đây con quyết chí dành lại quyền tự chủ cho chính mình.

Thế là, đầu năm 1981, con vào Thường Chiếu theo Thầy nghe pháp. Thầy đi giảng pháp tới đâu là con xách gói tới đó nghe, nghe hoài rồi cũng hiểu, cũng vỡ òa là lâu nay mình ngu quá, khi nghe kinh Viên Giác ở giảng đường Thường Chiếu, con ngẫm nghĩ mình thuộc chủng tử bất định, gặp pháp nào cũng tu, may mà không tẩu hỏa nhập ma.

Lời Thầy soi sáng tâm con

Từ đây nguyện rẽ lối mòn phàm phu

Đời vô thường kiếp phù du

Tâm linh bừng sáng nhiệm mầu an tâm. 

Kính bạch Thầy, an tâm bằng lòng với những gì mình hiện có, vâng lời Thầy ở yên một chỗ, ngó chừng con trâu hoang của mình. Rồi lại phát tâm canh chừng nghé con thiên hạ, làm một chút Phật sự, một chút vị tha, mở ra cho mình một chân trời mới, chịu đựng và vượt qua thử thách chướng ngại của cuộc đời. Tự nhủ Phật sự lợi tha như không hoa, như trăng đáy nước, tất cả đều là bóng, hơn thua với bóng chỉ nhọc nhằn mà thôi. Thế nhưng có lúc mê cũng quên mình chạy theo cảnh, khi sực nhớ mới biết mình ngu. Lời Thầy dạy con không quên “Biết vọng không theo”, giành quyền làm chủ mọi nơi mọi lúc. 

Mấy chục năm qua tu học trong pháp hội của Thầy, con cũng nếm được một chút thiền vị. Càng nghĩ đến ân đức của Thầy, lòng con trào dâng niềm cảm xúc và vô cùng trân trọng biết ơn. Cả cuộc đời Thầy đã dâng hiến cho đạo pháp và dân tộc. Cả cuộc đời Thầy làm việc vì mọi người không một chút nghỉ ngơi. 

Thường Chiếu lúc đó còn hoang sơ, vùng đất phi nông nghiệp cỏ nhiều hơn người. Bấy giờ tăng ni trẻ đa số xuất thân từ nhà trường, không giỏi canh tác nên cứ thất mùa. Thầy dạy chúng con cuốc đất, tỉa đậu, trồng khoai, cấy lúa v.v... cách chăm sóc, tưới nước, bón phân để thu hoạch được kết quả. Tuy lao động rất nhọc nhằn, nhưng bù lại chúng con được nghe pháp trực tiếp nơi Thầy. Giảng đường Thường Chiếu lúc ấy vị trí ở nhà khách bây giờ, mái lá vách đất, nền đất. Buổi chiều, chúng con được nghe Thầy nhắc nhở tu hành tại nhà mát Linh Chiếu, pháp tòa của Thầy là chiếc võng đong đưa, chúng con quây quần bên Thầy, niềm hạnh phúc lớn lao không ngôn từ nào kể hết. Mỗi tháng một lần Thầy từ Chơn Không về Thường Chiếu dạy rồi Thầy lại trở về Chơn Không. Tuy quãng đường từ Thường Chiếu về Chơn Không không xa, nhưng xe cộ hiếm hoi, phương tiện đi lại trắc trở, khó khăn. Mỗi lần như thế chúng con tự hỏi không biết tháng sau Thầy có về lại Thường Chiếu nữa hay không?

Khoảng năm 1986, Chơn Không di dời, Thầy về Thường Chiếu ở luôn, Ngôi chánh điện nhỏ xíu được xây dựng từ vật tư của chánh điện Chơn Không đem về, chúng con lại được dịp công quả.

Chúng con được học trực tiếp nơi Thầy từ kinh Phật đến ngữ lục của chư Tổ. Số lượng tăng ni ít nên Thầy bắt trả bài, kể cả những lão ni. Những năm ấy, tất cả mọi sinh hoạt từ tu học, thỉnh nguyện, phổ trà, chúc mừng năm mới, Tết trung thu,... đều có Thầy chứng dự. Con còn nhớ một lần dự Tết trung thu, chúng con đốt đèn vào thất thỉnh Thầy dưới cơn mưa lất phất đến hội trường. Thầy đưa ra một câu hỏi, vị nào trả lời đúng thì được ăn bánh và cả chúng được ăn theo. Đồng thời Thầy cũng giải thích ý nghĩa trung thu cho chúng con được biết, Thầy dạy Tết trung thu là của thiếu nhi chứ không phải của người lớn, người lớn chỉ ăn theo. Hơn nữa chúng ta là người tu phải tập sống theo hạnh Anh Nhi, tập làm con nít sống hồn nhiên vô tư, không đa đoan tính toán đủ điều, tâm lúc nào cũng tươi trẻ, buông đi những khó khăn rắc rối của cuộc đời. Sau đó chúng con lại được mang lồng đèn tiễn Thầy về thất. Ôi hạnh phúc, không bút mực nào tả hết giây phút thiêng liêng, ấm áp khi được ở bên Thầy.

Năm 1990, Thầy đi du khảo miền Bắc để tìm tư liệu bổ sung cho những thiếu sót của quyển Thiền Sư Việt Nam. Chúng con đủ duyên tháp tùng theo Thầy trong chuyến đi này. Thầy đi máy bay, chúng con đi xe. Con còn nhớ như in, 03 giờ khuya hôm ấy, chúng con vào thất xá chào Thầy để ra xe lên đường đi Bắc, Thầy gật đầu. Nhưng sau đó, Thầy ra đứng cạnh xe im lặng thật lâu, có lẽ Thầy gởi gắm chúng con cho Long thiên Hộ pháp che chở những bất trắc trên lộ trình từ Nam ra Bắc, rồi Thầy âm thầm đi vào phương trượng, chúng con cảm nhận lòng từ bi của Thầy.

Khi ra Bắc, trong thời gian 15 ngày, sáng nào chúng con cũng theo Thầy đi khảo cứu các chùa. Thầy tra từng khoa nghi để tìm tư liệu, công phu vô cùng. Quý cô đi theo thì chụp ảnh, ghi chép.

Ngày về Yên Tử lội qua 9 suối, xe suýt lọt bánh xuống dòng nước chảy xiết, ai cũng kinh hoàng nhưng không sao cả. Thầy lội suối băng rừng nhưng đi rất nhanh, chúng con không theo kịp. Ni sư thủ bổn Linh Chiếu tha thiết gọi vang “Sư phụ ơi chờ chúng con với, bị lạc đường rồi!”. Lúc đó Hòa thượng Đạo Huệ làm trưởng đoàn, thầy vẽ một mũi tên, viết dòng chữ Đi Hướng Này. Chúng con lần theo dấu, cũng đến được chùa Giải Oan, xá thầy ngồi tĩnh tại dùng bữa ngọ.

Đường lên Hoa Yên rất khó đi, quý Phật tử nam trợ giúp Thầy từng bước. Hai bên đường có hai hàng tùng 700 năm, Thầy đến dưới một cội tùng, sờ tay vào thân cây, tần ngần chưa đi, như chợt nhớ duyên xưa. Con lại vọng tưởng chắc Thầy là Phật hoàng Trần Nhân Tông tái thế chăng? Thầy cùng một số huynh đệ dừng lại chùa Hoa Yên nghỉ ngơi, một số tăng ni khỏe mạnh, vạch cây rừng tìm lối tiến lên chùa Đồng cho đến tối mịt mới về, lót dạ bằng chén cơm nhà xe cúng dường. Đêm đó nghỉ tại Hoa Yên, nhìn Thầy ngồi dưới ánh đèn leo lét trong liêu phòng cũ kỹ, con lại chợt nhớ đến chư Tổ ngày xưa, quý ngài cũng ở núi non rừng vắng, thiếu tiện nghi, đạm bạc qua ngày mà quý ngài tu đắc đạo, mở đạo tràng độ chúng rất đông. Nhìn lại chúng ta thì sao, hãy tự trả lời câu hỏi??

Hôm sau cả đoàn xuống núi Thầy cũng đi trước chúng con, đến bãi cỏ dưới chân núi trời đã về chiều. Thầy ngồi nghỉ trên bãi cỏ. Đệ tử cũng ngồi xung quanh Thầy nghỉ một chút. Giữa núi rừng hoang vu tịch mịch, thầy trò được ở bên nhau vô cùng hạnh phúc. Sau đó mấy năm, Thầy có đi miền Bắc vài lần tìm dấu vết Tây Thiên và xây dựng chùa Lân thành thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Lần lượt các Thiền viện tăng, Thiền viện ni miền Bắc ra đời.

Để tăng ni có nơi chuyên tu, với tâm lão bà Thầy không nệ hà nhọc nhằn gian khó, lên Đà Lạt xin đất xây dựng thiền viện. Những khó khăn ban đầu tôi cũng qua đi nhờ phúc trí của Thầy cảm nên.

Sau khi khánh thành Thiền viện Trúc lâm Phụng Hoàng, Thầy tìm tư liệu giảng dạy 12 quyển Thiền học đời Trần. Chúng con lại cùng nhau biên tập những lời Thầy giảng để in thành sách lưu hành.

Dòng chảy của Thiền tông không chỉ ở miền Nam mà lại chảy dài ra miền Bắc, rồi lan tỏa ra nước ngoài. Tăng ni Phật tử khắp nơi thấm nhuần ân giáo dưỡng của Thầy.

Cuối năm 2002, sau khi khánh thành Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Thầy và đại chúng về miền Nam. Thường Chiếu tưng bừng trang hoàng lộng lẫy chuẩn bị chúc mừng Lễ Thượng Thọ của Thầy. Nhưng hoa tươi khoe sắc, hoa lòng héo xàu, vì ai cũng lo khi vắng Thầy không người hướng dẫn, mất điểm tựa tinh thần vững chãi từ bấy lâu nay. 

Rồi thời gian không mong cũng đến, Thầy tuyên bố nhập thất ba năm, mỗi năm đệ tử chỉ được thăm một lần. Cuối năm Ngọ, tăng ni không ăn Tết ở Thường Chiếu mà tất cả đều về Trúc Lâm Phụng Hoàng đón giao thừa để đưa Thầy vào thất.

Tháng Giêng ngày mùng một

Quý Mùi hai lẻ ba (2003)

Non Phụng Hoàng chấn động

Mặt đất nở muôn hoa.

Để đón những người con từ muôn phương về đây quỳ dưới chân Thầy, y giáo phụng hành, thừa đương việc lớn khi Thầy vắng mặt. Tuy vắng mặt Thầy, nhưng những Phật sự Thầy giao phó, huynh đệ chúng con vẫn cố gắng trôi tròn trách nhiệm.

Rồi chúng con cũng được ở bên Thầy, vô thường không bỏ sót một ai. Thầy có chút bệnh duyên về Thường Chiếu nghỉ dưỡng, chúng con lại được thăm Thầy mỗi sáng thứ ba. 

Thứ Ba huynh đệ sum vầy

Quây quần bên gối dâng Thầy câu thơ

Gá thân mộng dạo cảnh mơ

Tiếng chuông non đảnh bây giờ còn vang

Khiến người tỉnh giấc mơ màng

Quay về nhận lại kho tàng đã quên. 

Nhắc đến Ban Văn Hóa con chợt nhớ, lúc Thầy còn khỏe mạnh, chúng con được cùng Thầy lật từng trang Kinh của Phật, dòng Ngữ lục của Tổ để duyệt lại những chỗ thiếu sót trong khi Thầy giảng dạy. Bộ Toàn tập tạm hoàn chỉnh, chứa đựng tinh yếu cả cuộc đời giáo hóa, giảng giải, dịch thuật, trước tác của Thầy. Cứ mỗi lần huynh đệ gặp nhau để đọc lại những lời Thầy dạy được ghi trong bộ Toàn tập, chúng con vô cùng khâm phục ý chí kiên cường và tinh thần bền bỉ của Thầy. Thầy đa đoan Phật sự mà làm sao viết chừng ấy chữ nghĩa súc tích, rộng mà sâu thể hiện hết những yếu nghĩa mà đức Thế Tôn muốn trao lại cho nhân loại. Chúng con vô cùng may mắn được gặp Thầy, nguyện đời đời sanh ra ở đâu cũng được gặp Thầy mở sáng con mắt tuệ cho con, để con không mất thời gian loay hoay chẳng biết lối đi như kiếp này. 

Con nguyện chỉ tu theo thiền tông Đốn Ngộ, khi đủ duyên giáo hóa cũng chỉ đem một pháp thiền này truyền bá cho mọi người. Xin Phật tổ và Thầy chứng minh cho con.

Thiền tông đương đại phát triển bề mặt và chiều sâu. Cơ sở vật chất, mỗi tỉnh đều có thiền viện khang trang để tiếp độ người có duyên đến tu thiền. Thầy trụ trì Thường Chiếu và chư tăng nỗ lực hết mình để xây dựng trường thiền của tông môn, thu nhận Tăng sinh tu học theo đường lối của Thiền phái Trúc Lâm. Tất cả những Phật sự lớn nhỏ trôi tròn theo hạnh nguyện của Thầy. Chúng con mỗi người tự nguyện, hãy làm Phật sự dù nhỏ hay lớn, phát huy hai yếu tố trí và bi, thực hiện hai mặt tự lợi lợi tha đầy đủ, để không cô phụ tứ ân, ân giáo dưỡng của Thầy và ý chí xuất gia của mình.

Con xin thành tâm cầu nguyện mười phương chư Phật, lịch đại tổ sư gia hộ cho Thiền tông mỗi ngày mỗi phát triển, Hòa thượng Ân sư trụ thế lâu đài, làm tàng cây cổ thụ che mát cho quần sanh.

NT.Thích Nữ Thuần Tín

Phó Trụ Trì Thiền Viện Hương Hải

Trích ""Kỷ Yếu Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư"

Đạo phật với đời sống

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Tin mới

Đọc nhiều

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 57527
  • Online: 67