Chứng đạo ca giảng luận ( Phần 1)

15/04/2017 | Lượt xem: 6171

Lời Đầu Sách

 CHỨNG ĐẠO CA GIẢNG LUẬN là tập sách được ghi lại những lời giảng của chúng tôi về tác phẩm Chứng Đạo Ca của thiền sư Huyền Giác, đời Đường. Đây là kỳ giảng cho Tăng chúng tại thiền viện Trúc Lâm năm 2008. Lời ca này đã vượt thời gian để đến với chúng ta trong thế kỷ 21 hiện tại.


Đọc kỹ Lời Ca Chứng Đạo này, chúng ta thấy rõ, quả thực trong đây đã ẩn chứa một kinh nghiệm siêu thoát, một nội tâm sáng ngời vượt qua cả chữ nghĩa.

Quân bất kiến!

Anh thấy chăng!

Mở đầu thiền sư Huyền Giác đưa người đọc nhảy ngay vào đầu nguồn chứng đạo.

Nếu anh chưa nhận kịp thì Sư lại nhắc thêm:

Bất ly đương xứ thường trạm nhiên

Mích tức tri quân bất khả kiến.

 

Chẳng lìa trước mắt thường lặng trong                            

Còn tìm tức biết anh mờ mịt.

Dường như lúc nào Sư cũng có mặt luôn luôn đó, và nói là nói thẳng với con người đang hiện hữu đây, không phải qua khái niệm.

Bằng chỗ thấy chân thật của chính mình mà nói ra, Sư có đủ niềm tin kiên cố, xác quyết không nghi ngờ.

Nhật khả lãnh, nguyệt khả nhiệt

Chúng ma bất năng hoại chân thuyết

Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ

Thùy kiến đường lang năng cự triệt.

 

Nhật dù lạnh, nguyệt dù nóng

Lời chân thật ma nào phá hỏng

Xe voi ngạo nghễ cứ tiến lên

Mặc sức bọ trời theo ngăn chống.

Và cuối cùng Sư kết thúc lại bằng lời chân thành cảnh tỉnh cho người học.

Mạc tương quản kiến báng thương thương

Vị liễu ngô kim vị quân quyết.

Chớ dòm trong ống mỉa trời xanh

Chưa tỏ vì anh Ta giải rõ.

Là nhắc cho người học phải vượt qua cái ngã kiến nhỏ hẹp này, mở con mắt Tuệ kia mà có cái nhìn thênh thang rộng lớn, và mới cảm thông được những lẽ thật Sư đã trình bày trong đây.

Với chút ít kinh nghiệm tự thân, chúng tôi xin được chia sẻ cùng những ai hữu duyên, mong rằng sẽ nhận được ít nhiều niềm vui trở về nguồn chân, để tin chắc rằng “Việc Lớn Này” chính mình cũng có phần.

Với công đức pháp thí này nguyện chia đều cho tất cả.

Thiền viện Trúc Lâm

Mùa Xuân Kỷ Sửu - 2009

THÍCH THÔNG PHƯƠNG

 

                                    

 Lời Dẫn

Từ xưa, Chứng Đạo Ca là một tác phẩm quan rọng, rất quen thuộc trong nhà thiền và đã được chư Tổ dạy môn đồ phải thuộc lòng.

 Chứng Đạo Ca, hay Khúc Ca Chứng Đạo. Nội dung tác phẩm nói lên chỗ chứng nghiệm nội tâm, một kinh nghiệm đạt đạo của hành giả nhà thiền. Thế nên, người học không thể dùng tâm suy nghĩ lăng xăng mà có thể dễ dàng nhận hiểu được.

Đúng ra, chỗ chứng ngộ không thể nói ra bằng lời. Ở đây, thiền sư Huyền Giác tạm mượn lời để diễn bày phần nào về ý. Người học cần phải mượn lời hiểu ý, nương nghĩa của lời để hiểu và nhận được những cái ý ngoài lời, được vậy mới không cô phụ thiền sư Huyền Giác.

Về mặt văn học, đây là một thi phẩm thuộc dạng cổ thể, được xem là bản Trường ca, có trên một ngàn tám trăm chữ (1.800). Theo Tổ Đường Tập thì khúc ca này do chị của Sư ghi chép lại. Và tựa “Chứng Đạo Ca” của sách, theo tư liệu nghiên cứu cũng là do người sau đặt tên. Trong bản Đôn Hoàng có tên là Thiền Môn Yếu Quyết. Nội dung kết tinh giáo lý một đời của Đức Phật và cũng là tinh yếu của nhà thiền, vì buổi đầu thiền sư Huyền Giác tu theo Thiên Thai Giáo Quán, tức là theo phương pháp thiền quán trong kinh điển và đọc kinh Duy Ma Cật tỏ ngộ tâm tông, sau lại được đức Lục Tổ ấn chứng, thấu qua cửa nhà thiền. Do vậy, người học tác phẩm này nắm vững được cả hai mặt Giáo và thiền. 

 

 ..........000..........

Lược truyện  

Thiền sư HUYỀN GIÁC 

 

Sư họ Đới, tự là Minh Đạo, hiệu Vĩnh Gia. inh năm 665 (TL), tịch năm 713 (TL), người Châu Ôn (nay thuộc tỉnh Chiết Giang). Vĩnh Gia là tên quận. Thời Hán, Vĩnh Gia được gọi là Đông Âu, qua đến thời Tấn mới đổi là Vĩnh Gia. Sang thời Tống, thời Nguyên gọi là Châu Ôn, vì đất này khí hậu quanh năm ôn hòa.

Sư xuất gia từ thuở bé, có sách ghi rằng lúc 8 tuổi đã xuất gia, học rộng thông cả Tam Tạng giáo điển, thấu suốt pháp tu Chỉ Quán của tông Thiên Thai.

Tông Thiên Thai còn gọi là Pháp Hoa Tông. Tông này lấy kinh Pháp Hoa làm kinh điển y cứ, do Trí Giả Đại Sư ở núi Thiên Thai sáng lập, ứng dụng pháp tu Nhất Tâm Tam Quán. Nghĩa là từ một tâm mà tu đủ cả ba pháp quán: Quán Không, quán Giả và quán Trung. Đây là một trong mười ba tông phái của Phật giáo Trung Hoa, thuộc Giáo tông.

Khi ấy, Sư thấy dưới sườn núi cạnh chùa Long Hưng ở Châu Ôn có khung cảnh tốt bèn tự cất một am nhỏ, một mình nghiên cứu và tu thiền quán, quên hẳn việc đời. Sự tu hành của Sư rất nghiêm mật, cuộc sống đạm bạc. Ăn thì chẳng ăn cơm gạo ở dưới lưỡi cày, lưỡi cuốc; mặc thì chẳng mặc áo từ miệng tằm. Bởi vì cơm gạo ở dưới lưỡi cày làm chết côn trùng, nên Sư không dùng; còn áo từ miệng tằm, do tằm chết nên mới lấy tơ kéo thành sợi may đồ mặc, nên Sư không mặc áo tơ.

Nhân Sư xem kinh Duy Ma Cật, sáng được tâm địa, rồi tình cờ Sư gặp thiền sư Huyền Lãng khích lệ bèn phát chí đi du phương, lại được gặp thiền sư Huyền Sách cùng luận đạo lý, thầm hợp ý Tổ sư. Bản này nói là gặp thiền sư Huyền Sách còn trong Tổ Đường Tập lại nói là thiền sư Thần Sách, có chỗ gọi là Đông Dương Sách thiền sư.

Thiền sư Huyền Sách hỏi:

- Thầy đã đắc pháp với vị thầy nào?

Sư đáp:

- Do xem kinh luận Phương Đẳng, đều có thầy truyền trao, sau đọc kinh Duy Ma, ngộ tâm tông của Phật Tổ, chưa có người chứng minh.

Thiền sư Huyền Sách nói:

- Trước Phật Oai Âm Vương thì được, từ Phật Oai Âm Vương về sau không thầy mà tự ngộ thảy là ngoại đạo thiên nhiên.

Sư thưa:

- Mong thầy hãy chứng minh cho tôi.

Huyền Sách nói:

- Lời tôi nhẹ lắm. Ở Tào Khê hiện có Đại sư Lục Tổ, là bậc đã được truyền pháp, người bốn phương đều tụ về, nếu muốn thì tôi sẽ cùng huynh đi đến đó.

Khi ấy, Sư cùng thiền sư Huyền Sách đến Tào Khê diện kiến Lục Tổ.

Đây là giai đoạn Sư gặp thiền sư Huyền Sách khích lệ đến bái kiến Lục Tổ. Trong Tổ Đường Tập ghi: Lúc ở chùa Khai Nguyên (hoặc Long Hưng) tại Châu Ôn, Sư lo phụng dưỡng người mẹ và người chị, cũng có người dèm chê, nhưng Sư không màng. Một hôm, hai chị em đang ngồi trong nhà, nhìn qua cửa sổ thấy có vị lão túc, tuổi khoảng hơn sáu mươi đi ngang. Người chị bảo thiền sư Huyền Giác: “Hãy mời lão túc đó vào nhà uống trà được không?”

Sư liền ra mời. Lúc đầu, vị lão túc này không muốn vào nhưng thấy người em tha thiết nên cũng thuận lời mời. Khi vào nhà, người chị ra chào, nói: “Em tôi còn nhỏ có điều gì sơ suất xin lão túc niệm tình chớ trách”. Rồi cùng ngồi lại thăm hỏi.

Vị Lão túc thấy thầy tăng trẻ có vẻ khác người, còn người chị cũng có chí khí của trượng phu. Cả hai chị em có điểm đặc biệt khác thường. Sau khi thăm hỏi biết rõ gia thế, Lão túc mới khuyên thầy tăng: “Việc hiếu thuận tự nó là một đường, tuy đã sáng được lý Phật dạy mà chưa được thầy ấn khả. Quá khứ chư Phật, Thánh Thánh truyền nhau, Phật Phật ấn khả, đức Thích-ca Như Lai cũng được Phật Nhiên Đăng thọ ký, nếu chẳng vậy tức rơi vào tự nhiên. Ở phương Nam có bậc Đại Thánh hiệu là Huệ Năng thiền sư, thầy có thể đến đó lễ bái tôn làm Thầy”.

Thầy tăng trẻ đáp: “Mẹ tôi vừa qua đời, đâu nỡ bỏ chị một mình, không ai nương tựa”.

Người chị nói: “Em chớ ngại, chị có thể tự lo, hãy nên đi”.

Thầy tăng trẻ đi đến gặp vị Trụ trì ở chùa trình bày tất cả. Vị Trụ trì nói: “Tôi tự không thể đi được, nếu sư huynh mà có tâm ấy, thì tôi sẽ cùng huynh đồng tạo nhân lành. Sư huynh hãy đi chớ lo, tôi sẽ giúp người chị của huynh”.

Như vậy, vị thầy Trụ trì này cũng khuyến khích đi. Sư đưa chị đến giáp mặt thầy Trụ trì rồi cùng sắp đặt. Việc xong, Sư lên đường. Đây là sự kiện mà Tổ Đường Tập đã ghi.

Còn bản này chỉ kể lại lúc gặp thiền sư Huyền Sách, mới hỏi Sư đắc pháp thầy nào? Sư đáp: “Do nghe kinh luận Phương Đẳng (Phương Đẳng là tên chỉ chung cho kinh Đại Thừa) có thầy truyền, nhưng sau xem kinh Duy Ma Cật ngộ được tâm tông thì chưa có người chứng minh”.

Sư do đọc kinh Duy Ma tỏ ngộ tâm tông. Tâm tông tức là Thiền tông. Bởi vì Thiền tông lấy tâm làm tông. Ngoài tâm không có một pháp thật, việc tu hành đều phải xoay lại bản tâm, đó là gốc. Nên gọi là lấy tâm làm tông.

Tăng Tuyết Phong khi đến tham vấn thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám, hỏi:

- Việc Tông thừa từ trước, con có phần chăng? Tức là hỏi việc tông thừa từ trước đến giờ con có phần trong đó chăng?

Đức Sơn liền đánh cho một gậy, hỏi:

- Nói cái gì?

Tuyết Phong thưa: 

- Chẳng lãnh hội.

Hôm sau thượng đường, thiền sư Đức Sơn nói:

- Tông ta không ngữ cú, không một pháp cho người.

Tuyết Phong nhân đó có tỉnh.

Sau này, khi ra giáo hóa, có vị tăng hỏi:

- Hòa thượng đến Đức Sơn được cái gì, liền thôi?

Tuyết Phong đáp:

- Ta đi tay không, về tay không.

Tương ứng với thiền sư Đức Sơn nói: “Tông ta không ngữ cú, không một pháp cho người”. Như vậy, thiền sư có nói ra lời gì cũng chỉ là phương tiện để nhổ đinh, tháo chốt, cốt đánh thức người tỉnh ngộ nhận lại bản tâm chính mình. Nên nói không có pháp gì cho người hết, chỉ là đánh thức người tỉnh ngộ xoay lại, nhận ra bản tâm, chớ không thêm pháp gì khác. Thiền sư Tuyết Phong nhận được chỗ đó, nên sau có vị tăng hỏi: “Được cái gì?” thì Sư chỉ nói là: “Đi tay không, về tay không” chớ không thêm gì khác.

Tu tỏ ngộ tâm tông là phải nhận được bản tâm chính mình, đó là căn bản. Ở Việt Nam, trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo của Sơ Tổ Trúc Lâm có đoạn nói: “Miễn được lòng rồi, chẳng còn phép khác”. Bài phú bằng chữ Nôm nên chuyển thành văn tiếng Việt: “Miễn được lòng”, tức là được tâm. Nhận được tâm rồi thì ngay đó sống. Ngộ rồi mới thấy rõ là không có pháp nào khác, tức là ngoài tâm không có pháp nào thật hết.

Hoặc câu “Miễn cốc một lòng, thì rồi mọi hoặc”. Cốc tức là biết. Nghĩa là biết, nhận rõ được tâm chính mình. Nhận sống được với tâm là giải quyết xong mọi mê lầm. Hoặc tức là mê lầm. Nên nói tâm tông tức Thiền tông là vậy. Chỉ thẳng bản tâm, trở về sống được với bản tâm, đó là gốc. Chính như bài kệ Đức Phật truyền pháp cho tổ Ca-diếp cũng nói lên ý đó:     

Pháp bổn pháp vô pháp                                                     

Vô pháp pháp diệc pháp                                               

Kim phó vô pháp thời

Pháp pháp hà tằng pháp.

---*---

Pháp gốc pháp không pháp

Pháp không pháp cũng pháp

Nay khi trao không pháp

Mỗi pháp đâu từng pháp.

1- Gốc của Pháp là không có pháp, chỉ phương tiện nói ra pháp này pháp kia, còn cái pháp gốc thật là không một pháp. Nói không pháp là ngầm chỉ tâm, vì ngoài tâm không có pháp nào khác.

2- Pháp gọi là không pháp đó cũng là pháp. Nghĩa là nói không pháp, không phải hoàn toàn không có gì hết. Nếu không có gì hết thì tu làm gì. Chính cái không pháp đó cũng là pháp, đây là chỗ mà người tu thể nghiệm ngay tâm của mình, sống được với tâm, chứ không phải nói suông,cần thấu qua cái không pháp đó.

3- Khi trao không pháp thì mỗi pháp đâu từng là pháp. Đến đây thấu rõ cái gọi là không pháp, sống được với bản tâm chân thật, thì đối với các pháp thấy rõ quả không có một pháp thật.

4- Không có pháp nào là thật, chỉ cốt sống trở lại bản tâm của mình thôi.

 Đây gọi là Tâm tông hay Thiền tông là như vậy. Người tu thiền phải khéo sống được với tâm của chính mình. Sư đọc kinh Duy Ma ngộ được tâm tông, nhưng chưa có người chứng minh, sau nhờ gặp được thiền sư Huyền Sách giải thích và hướng dẫn đến Lục Tổ. Huyền Sách nói: (đoạn trước đã có ghi)…  còn sau này thì phải có thầy chứng minh, nhất là hiện nay có Tổ ra đời, thầy nên đến để cầu ấn chứng nếu không thì thuộc ngoại đạo thiên nhiên. Có người hiểu lầm ngoại đạo thiên nhiên là ngoại đạo lõa thể, không mặc quần áo, đây không phải như vậy.

Huyền Giác khi nghe lời khuyên bảo liền nói: “Xin thầy hãy chứng minh cho tôi”. Sư khiêm tốn chứ không có lòng tự hào hay ngã mạn. Song Huyền Sách cũng khiêm tốn đáp: “Lời tôi còn nhẹ, ở Tào Khê có Đại sư Lục Tổ …” Hai vị cùng đến Tào Khê gặp Lục Tổ. Đây là đoạn đặc biệt ấn chứng.

Đến nơi, Sư đi quanh Lục Tổ ba vòng rồi chống tích trượng đứng thẳng.

Tổ bảo: “Là Sa-môn thì phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, đại đức từ phương nào tới mà sinh lòng ngã mạn to vậy?” Bởi vì Sa-môn tức là thầy Tỳ-kheo, thì phải đầy đủ oai nghi, và các môn tế hạnh. Ba ngàn oai nghi tức 250 giới nhân cho bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) rồi nhân lên ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai). Nghĩa là phàm người tu hành mỗi cử chỉ, từng hành động nhỏ nhiệm đều phải giữ gìn nghiêm túc, tề chỉnh đủ luật nghi hết, luôn luôn kiểm soát, không để sinh ra lỗi lầm. Đây là lúc nào cũng phải tỉnh, phải giác, đâu phải là việc thường. Hiện nay nhiều vị xuất gia thọ lãnh giới Tỳ-kheo rồi có khi cả năm, hoặc hai, ba năm chưa đọc lại giới lần nào, nên oai nghi, cử chỉ sơ sót, thành ra thô tháo là đáng hổ thẹn!

Nghe xong, Sư thưa: “Sinh tử là việc lớn, vô thường rất mau chóng”. Tức là phải lo giải quyết gấp rút việc lớn sinh tử, mới là quan trọng. Bởi vì vô thường mau chóng, sơ suất là không kịp rồi, thì đâu có thời gian nghĩ đến việc khác.

Tổ bảo:

- Sao chẳng thể nhận cái vô sinh, liễu thấu không mau chóng ư?

Nghĩa là nhận ra cái thể vô sinh, là ngay đó thấu qua sinh tử xong lo gì mà nói rằng gấp rút. Tổ đưa ra một cái bẫy để thử.

Sư thưa:

- Thể tức vô sinh, liễu thấu vốn không mau chóng. Nghĩa là cái vô sinh đó thể vốn tự vô sinh rồi, đâu cần làm cho nó vô sinh nữa. Liễu thấu trong đó thì ngay sinh tử vốn là vô sinh, có gì gọi là mau chậm. Sư vượt ra không bị mắc bẫy của Tổ, không kẹt trong cái niệm mau chậm. Thể vô sinh ngay nơi mình chỉ cần nhận ra thôi, còn nghĩ mau chậm ngay đó đã lầm qua mất rồi. Như vậy, để thấy rằng thiền sư Huyền Giác đã sống được với lẽ thật, nên ngay đó đáp liền mà không cần suy nghĩ.

Tổ bảo tiếp:

- Đúng vậy, đúng vậy.

Tức là rất hợp ý Tổ.

Ngay đó, Sư liền đầy đủ oai nghi lễ bái Lục Tổ. Rồi chỉ giây lát lại cáo từ ra về. Tổ bảo:

- Trở về quá nhanh vậy sao?

Tổ giàn trận thứ hai. Trong lời hỏi, có ý.

Sư biết, liền thưa:

- Vốn tự chẳng động, há có nhanh sao!

Tổ mới gạn lại:

- Ai biết chẳng động?

Nếu Ông nói thể vốn tự nó chẳng động, vậy ai biết chẳng động? Tổ vừa hỏi mà cũng là vừa gạn thêm lần nữa. Chính “Ai” này rất nguy hiểm! Vì có “Ai” tức có thêm một người nữa, người biết được cái chẳng động, cộng thêm cái biết chẳng động thành ra cái thứ hai rồi, tức là thành động. Cho nên, chỗ này không khéo là rơi vào bẫy liền. Vừa nghĩ “Ai” là trúng bẫy của Tổ.

Sư liền thưa:

- Ngài tự sinh phân biệt.

Thiền sư Huyền Giác thấy được cái bẫy của Lục Tổ, liền trả lại đúng theo vị trí của Tổ

Tổ bảo tiếp:

- Ông rất được cái ý vô sinh.

Mới nghe qua tưởng Lục Tổ khen, nhưng không ngờ trong câu ấy lại có mũi tên độc. Vừa khen mà cũng vừa ngầm gạn lại: “Ông rất được cái ý của vô sinh” Nguy hiểm ở chỗ chữ “Ý”. Nếu vừa nghe mà sinh tâm vui mừng là rơi vào bẫy liền. “Vô sinh” mà có “ý” là sao? Tức là sinh rồi.

Thiền sư Huyền Giác biết ngay. Bởi vì có “ý” tức là có “ta”, mà có ta xen vào thì sẽ có được, có mất, tức trái với vô sinh. Chỗ này là chỗ rất tế nhị. Đúng là con mắt của thiền sư thật sáng, nên không có chút gì qua mắt được.

Sư bèn thưa: “Vô sinh há có ý sao?”

Rõ ràng Sư thấu tột nên hỏi lại:

- Vô sinh có ý sao? Bởi có ý thì thành ra có sinh rồi.

Tổ bảo:

- Không ý thì ai phân biệt?

Tổ gạn hỏi tới cùng. Thông thường, người ta phân biệt thì phải có ý, tức ý phân biệt, mà có ý tức là có động. Có ý là có chỗ khởi. Còn có chỗ “khởi, dừng” là đã lộ dấu vết của bệnh hoạn. Tổ gạn để xem chỗ thấy của Sư như thế nào?

 Sư thưa:

- Phân biệt cũng chẳng phải ý.

Tuy phân biệt mà không thuộc lãnh vực ý, vì không chạy theo duyên, không rời tự tánh. Tức không đồng hóa mình với cảnh, luôn sống với tự tánh, nên tuy phân biệt tất cả mà như là chưa từng phân biệt gì hết.

Đúng là Sư sống được chỗ chân thật. Chỗ này kinh Duy Ma Cật có nói: “Năng thiện phân biệt chư pháp tướng, ư đệ nhất nghĩa nhi bất động”. (Hay khéo phân biệt tướng các pháp, ở nơi nghĩa đệ nhất chẳng động). Nghĩa là phân biệt tất cả tướng các pháp, nhưng đối với nghĩa đệ nhất vẫn chẳng động. Tức phân biệt hết mà vẫn không rời nghĩa đệ nhất, gọi là không rời tự tánh. Đừng sợ tu buông vọng tưởng rồi cuối cùng không biết gì hết, đưa đến vô tri, giống như cây đá. Thường nghe nói tu là không cho phân biệt đối đãi, tưởng là cuối cùng giống như cây như đá, không biết gì hết, mà không ngờ khi buông những tâm phân biệt sinh diệt đối đãi, trở về sống với thể chân thật, thì khi cần phân biệt nó khởi dụng rất nhanh, rất lẹ, bén hơn gấp bao nhiêu lần đối với tâm phân biệt thường dùng nữa. Vì tâm ấy biết tất cả không bị che mờ, không lầm cái gì hết. Do biết tất cả mà không sinh thêm ý trong đó, đó là cái biết của người đạt đạo, gọi là tự tánh phân biệt.

Có một đại đức đến hỏi thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng:

- Như gương đúc tượng, sau khi tượng thành thì không biết ánh sáng của gương đi về đâu?

Khi còn là gương thì có ánh sáng chiếu soi, nhưng khi gương đúc thành tượng rồi không biết ánh sáng đi về đâu?

Thiền sư Hoài Nhượng đáp:

- Như tướng mạo lúc trẻ thơ của đại đức hiện giờ ở đâu?

Sư hỏi ngược lại vị đại đức, tướng mạo lúc trẻ của thầy bây giờ ở đâu? Tuy hiện tại không thấy tướng mạo lúc trẻ của chúng ta nhưng nó cũng đâu rời thân tướng hiện tại đây.

Đại đức hỏi thêm:

- Tại sao khi thành tượng rồi nó không chiếu soi?

Thiền sư đáp:

- Tuy không chiếu soi nhưng mà dối y một điểm cũng chẳng được.

Khi tâm của hành giả đã thành tựu, đã sạch hết niệm phân biệt đối đãi, trở về sống với tự tánh, lúc đó giống như gương sáng tự nhiên dù một điểm nhỏ, không có gì dối được. Bởi nó vốn không một vật, nên có gì lộ ra liền thấy hết, công dụng phân biệt nhạy bén gấp trăm lần, ngay đó là nhận biết liền. Chính vì nó không thêm ý phân biệt, còn tâm kia phải khởi thêm ý phân biệt, nên chậm.

Chúng ta thấy thiền sư Huyền Giác thật sự có chỗ sống, không hiểu suông trên chữ nghĩa. Chỗ này cũng cho thấy, đây không phải là chỗ của người còn đứng bên ngoài có thể bàn nói, suy luận đến được.

Chỗ thấy của Sư khế hợp với Lục Tổ, gọi là tâm tâm in nhau. Tâm thầy với tâm trò khế hợp nhau, nên Tổ liền ấn khả: “Hay thay! Hay thay! Thôi hãy tạm ở lại một đêm”. Thầy trò cảm thông nhau trong chỗ không thể nghĩ bàn, tâm tông chính là chỗ này. Học qua, chúng ta thấy người xưa chứng ngộ và sống được rồi, mỗi lời các ngài nói, đều có chỗ sống thực chứ không phải chỉ là nói trên chữ nghĩa thôi.

Sư ở lại Tào Khê một đêm, hôm sau trở về chùa Long Hưng, người đương thời gọi Sư là Nhất Túc Giác, tức là một đêm được giác ngộ. Về sau, người học lần lượt theo về học đạo rất đông. Sư được tặng hiệu là Đại Sư Chân Giác.

Bấy giờ, thiền sư Huyền Lãng ngụ ở Tá Khê, viết lá thư ngắn gọn, lời lẽ súc tích mời Sư về núi. Sư từ chối qua lá thư đầy đạo vị.

(Thư này y theo bản dịch của Hòa thượng Viện trưởng TV. Trúc Lâm)

Thư mời đại sư về núi của thiền sư Huyền Lãng ở núi Tá Khê, huyện Phổ Dương, Vụ Châu.

Từ buổi đến Linh Khê, tâm ý thảnh thơi, thường chống gậy rong chơi trên đỉnh non cao thấp, phủi sạch thất đá hang núi ngồi yên. Trông ra muôn dặm tùng xanh hồ biếc, trăng sáng tự sinh gió đùa mây trắng. Hoa đẹp cỏ thơm chim rừng tha ngậm, xa gần đều nghe vượn hú từng hồi, lấy cuốc gối đầu, cỏ êm làm nệm. Đường đời lao xao tranh giành nhân ngã, tâm địa chưa đạt nên mới như thế.

Như có thì giờ, mong được gặp nhau.

Nội dung lá thư, thiền sư Huyền Lãng diễn tả cuộc sống của Ngài: Ở thì ở trong hang núi, nơi thất đá. Sống vui trong cảnh núi rừng, quen với thú, với vượn. Cuộc sống thế gian, cứ mãi lo tranh giành nhân ngã, hơn thua, Ngài không màng tới. Và ý mời thiền sư Huyền Giác về, cùng vui cảnh núi non, chim thú, cỏ cây, khỏi phải lăng xăng ngoài đời.

Thư đáp của đại sư Huyền Giác:

Từ lúc từ biệt đến nay đã mấy năm trường, trong lòng đau đáu nhớ nhung, bỗng nhận được thư của bạn thật thỏa lòng mong đợi. Sao lá thư chẳng thấy nói đến đạo thể như thế nào, nhưng pháp vị nuôi dưỡng tinh thần cho nên chắc được tịnh lạc.

Huyền Giác tôi từ lâu khâm phục đức âm, chẳng phải dùng lời có thể thuật được. Gìn lòng tiết tháo, một mình ở nơi vắng vẻ bặt dấu con người, ẩn mình trong hang núi, bạn thân không tới lui, chỉ có chim thú qua lại, suốt đêm miên miên, cả ngày lặng lặng, thấy nghe đều dứt, tâm thật vắng lặng. Một mình trên đỉnh núi, ở dưới cội cây, lánh sự đông đúc, hưởng thức ăn đạo, thật hợp với bạn.

Nhưng mà chánh đạo tịch liêu, tuy có tu mà khó hội, bọn tà huyên náo không tập mà dễ thân. “Nếu chưa phải bậc giải khế huyền tông, hạnh hợp với chân thú thì chưa nên ở nơi vắng vẻ, ôm ấp sự vụng về suốt một đời mình”. Phải nên rộng hỏi bậc tiên tri, thành khẩn khâm phục chấp tay quỳ gối, chỉnh ý đoan dung, ngày đêm quên nhọc, trước sau hết lòng ngưỡng mộ, khắc phục thân miệng, trừ sạch biếng lười cống cao, chẳng quản hình hài, chuyên tinh chí đạo, mới có thể gọi là lóng thần nơi vuông tấc (Vuông tấc chỉ cho tâm) Phàm muốn đạt lý diệu huyền chẳng phải là dễ, kế đến quyết trạch như đi trên băng mỏng, cần phải nghiêng tai để mắt mà vâng theo huyền chỉ. Thu thúc tình trần để thưởng thức chỗ kín đáo sâu xa, quên lời mà vui với yếu chỉ, rửa sạch lụy phiền để ăn vị đạo mầu, đêm lo lắng, ngày hỏi han chẳng lạm tóc tơ, được như thế thì mới có thể giấu mình trong hang núi, lặng lòng lo toan không tiếp xúc với mỗi người. Hoặc có người tâm chưa thông thấy vật thành bị ngăn ngại, muốn tránh nơi huyên náo, cầu chỗ yên lặng thì suốt cả đời cũng chưa được yên. Huống hồ rừng xanh bát ngát núi đá chập chùng, thú gầm chim hót, tùng trúc um tùm, đá nước chênh vênh, ngọn gió rung cây, bìm sắn vương vấn, mây mù hòa hợp, vạn vật héo tàn tươi tốt theo tiết trời, sớm chiều bị những thứ ấy làm hoa mắt, há chẳng phải là huyên náo rộn ràng ư? Cho nên biết hễ kiến hoặc còn vương vít thì chạm vào đâu cũng thành vướng mắc. Do đó, trước cần phải biết đạo rồi sau mới ở núi. Nếu người chưa biết đạo mà ở núi trước thì chỉ thấy núi ắt quên đạo. Nếu người chưa ở núi mà trước đã biết đạo thì chỉ thấy đạo quên núi. Quên núi thì đạo tánh làm vui vẻ tinh thần, quên đạo thì bị núi non làm hoa mắt. Do đó, người thấy đạo quên núi ở chốn nhân gian vẫn lặng, người thấy núi quên đạo ở trong núi cũng ồn ào. Cần phải rõ ấm vô ngã, vô ngã thì ai ở nhân gian? Nếu biết ấm nhập (Ấm: năm ấm; Nhập: mười hai nhập) như hư không thì xóm làng sẽ hoang vắng có khác gì hang núi. Như người ba độc chưa bỏ, sáu trần còn nhiễu loạn, thân tâm tự mâu thuẫn thì có quan hệ gì đến sự huyên náo hay yên lặng của nhân gian hay hang núi đâu!

Vả lại, đạo tánh chan hòa cùng khắp như hư không, vạn vật vốn chẳng hệ lụy, lòng chân từ bình đẳng thì thanh sắc nào chẳng phải đạo ư? Do vì kiến đảo hoặc sinh bèn thành luân chuyển vậy. Nếu như biết rõ cảnh chẳng phải có thì trước mắt không gì chẳng phải là đạo tràng. Biết rõ vốn không, do đó chẳng duyên mà chiếu, viên dung pháp giới giải và hoặc nào khác, lấy hàm linh để biện lòng bi, dứt tưởng niệm để mà rõ trí. Trí sinh thì pháp sẽ viên chiếu, lìa cảnh lấy gì quán bi? Bi trí ly hợp gồm thâu, trái chúng sinh thì lấy gì làm năng độ? Lòng bi rộng lớn độ hết chúng sinh, chiếu tột cùng cảnh để trí viên mãn. Trí viên mãn thì lặng yên hay huyên náo đồng xem như nhau, lòng bi rộng lớn thì oán thân đều cứu cả. Như vậy, đâu cần ở lâu trong hang núi mà theo chỗ tùy duyên. Huống chi pháp pháp rỗng rang dung hợp, tâm tâm tịch diệt vốn tự chẳng phải có, ai gượng gọi là không thì có sự huyên náo gì đáng gọi là huyên náo, có sự yên lặng nào đáng gọi là yên lặng. Nếu biết vật và ngã hợp nhất thì kia đây chẳng gì không phải là đạo tràng, đâu còn thuận theo sự huyên náo của nhân gian hay nhàn rỗi ở nơi hang núi. Do đó, bỏ động cầu tịnh là gông ghét cùm yêu, lìa oán cầu thân là củi chán lồng ưa. Nếu có thể lặng lẽ nơi huyên náo thì chợ búa không đâu chẳng phải là chỗ ngồi yên. Cầu chỉ lỗi lầm, nhận lãnh lời dạy, oan trái do từ thiện hữu. Như vậy cướp đoạt hay hủy nhục đâu từng chẳng phải bổn sư ta, kêu la huyên náo không có gì chẳng phải tịch diệt. Cho nên biết diệu đạo không có hình mà vạn tượng chẳng trái với nó; chân như tịch diệt, các âm vang chẳng khác với tiếng. Mê thì kiến đảo hoặc sinh, ngộ thì không có trái thuận. Vắng lặng chẳng phải có, duyên hội thì sinh, núi Nga Nghi (ngọn núi Cửu Nghi) chẳng phải không, do duyên tan mà có thể diệt, diệt đã chẳng phải diệt, lấy gì để diệt cái diệt; sinh đã chẳng phải sinh, lấy gì để sinh cái sinh. Sinh diệt đã không thì thật tướng thường trụ. Vì vậy, nước định mênh mông niệm trần nào chẳng bị tẩy sạch, đèn trí sáng ngời hoặc nào không bị trừ khử. Trái đó thì sáu nẻo tuần hoàn, hội đó thì ba đường ra khỏi. Như vậy sao chẳng đi thuyền tuệ rong chơi trên biển pháp, mà lại muốn đi xe gãy trục vào hang núi ư! Cho nên biết vật loại lăng xăng, nhưng tánh chúng tự là một, nguồn linh lặng lặng chẳng chiếu mà biết. Thật tướng thiên chân, linh trí chẳng phải tạo, đối với người mê thì gọi là mất, đối với người ngộ thì gọi là được. Được mất tại người, đâu có quan hệ gì đến động tịnh, ví như người chưa biết đi thuyền mà muốn oán ghét dòng nước quanh co kia ư! Nếu có thể khéo biết huyền tông, tâm rỗng rang thầm khế hợp, động tịnh nói nín luôn là quy củ, lặng lẽ có chỗ quy về, điềm nhiên không gián cách. Như vậy mới có thể tiêu dao nơi hang núi, phóng khoáng chốn thôn trang, thong thả hình nghi, vắng lặng tâm phủ, điềm đạm bên trong, thâm trầm bên ngoài. Với thân thì như bị câu thúc mà tâm thì tự  tại thong dong, hiện hình dung chốn hoàn vũ, giấu u linh nơi pháp giới. Như vậy thì ứng cơ có cảm, thích nghi, không tiêu chuẩn nhất định.

Thư viết sơ lược, ngoài ra làm sao trình bày cho hết được, nếu chẳng phải bạn đồng chí, đâu dám xúc phạm, lúc rảnh ngồi yên xin tạm suy nghĩ. Nếu tôi nói dối hay sai thì xem xong rồi cứ đốt.

Đồng bạn Huyền Giác

Kính bái.

Từ lúc từ biệt đến nay đã mấy năm trường, trong lòng đau đáu nhớ nhung, bỗng nhận được thư của bạn thật thỏa lòng mong đợi. Sao lá thư chẳng thấy nói đến đạo thể như thế nào, nhưng pháp vị nuôi dưỡng tinh thần cho nên chắc được tịnh lạc. Thiền sư Huyền Giác đáp nhận được thư của bạn rất vui, và nhắc sao trong thư không thấy nói đến đạo thể cùng việc tu hành như thế nào! Qua đây, thấy được người hiểu đạo kết giao với nhau cao thượng như vậy, chứ không theo nếp thường tình, thăm anh mạnh giỏi… Thăm nhau, chỉ nhắc hỏi đạo thể, việc tu hành, chỗ sống, nhận hiểu đạo chân thật như thế nào? Vì sao trong thư không thấy nói. Rồi Sư cũng nói: Nhưng pháp vị để nuôi dưỡng tinh thần thì chắc cũng được sự thanh tịnh an vui.

Huyền Giác tôi từ lâu khâm phục đức âm, chẳng phải dùng lời có thể thuật được. Gìn lòng tiết tháo, một mình ở nơi vắng vẻ bặt dấu con người, ẩn mình trong hang núi, bạn thân không tới lui, chỉ có chim thú qua lại, suốt đêm miên miên, cả ngày lặng lặng, thấy nghe đều dứt, tâm thật vắng lặng. Một mình trên đỉnh núi, ở dưới cội cây, lánh sự đông đúc, hưởng thức ăn đạo, thật hợp với bạn. Sư khen, từ lâu tôi cũng khâm phục cái đức ngầm của huynh, điều này thì không thể dùng lời nói được. Huynh ở nơi vắng vẻ, bặt dấu con người, sống với chim thú, vắng bặt cả tình đời, lấy đó làm thức ăn của đạo.

Nhưng mà chánh đạo tịch liêu, tuy có tu mà khó hội, bọn tà huyên náo không tập mà dễ thân. Nếu chưa phải bậc giải khế huyền tông, hạnh hợp với chân thú thì chưa nên ở nơi vắng vẻ, ôm ấp sự vụng về suốt một đời mình. Thiền sư Huyền Giác nhắc nhở: Người chưa sống được với đạo, chưa thấu được lẽ thật thì không nên ở nơi vắng vẻ một mình. Chỗ này, chúng ta có phần. Vì có những người nhập thất thời gian ngắn thấy tâm yên, tưởng là được rồi nên định cất thất ở riêng hoặc vào núi rừng để hạ thủ công phu giải quyết việc lớn, song theo thiền sư Huyền Giác nếu chưa sáng đạo mà ở riêng như thế thì không nên.

Phải nên rộng hỏi bậc tiên tri, thành khẩn khâm phục chấp tay quỳ gối, chỉnh ý đoan dung, ngày đêm quên nhọc, trước sau hết lòng ngưỡng mộ, khắc phục thân miệng, trừ sạch biếng lười cống cao, chẳng quản hình hài, chuyên tinh chí đạo, mới có thể gọi là lóng thần nơi vuông tấc (chỉ cho tâm), Sư khuyên là phải tìm thầy học đạo, người tu chưa được gì, mà ở một mình thì không tiến.

Phàm muốn đạt lý diệu huyền chẳng phải là dễ, kế đến quyết trạch như đi trên băng mỏng, cần phải nghiêng tai để mắt mà vâng theo huyền chỉ. Thu thúc tình trần để thưởng thức chỗ kín đáo sâu xa, quên lời mà vui với yếu chỉ, rửa sạch lụy phiền để ăn vị đạo mầu, đêm lo lắng, ngày hỏi han chẳng lạm tóc tơ, được như thế thì mới có thể dấu mình trong hang núi, lặng lòng lo toan không tiếp xúc với mỗi người. Hoặc có người tâm chưa thông thấy vật thành bị ngăn ngại, muốn tránh nơi huyên náo, cầu chỗ yên lặng thì suốt cả đời cũng chưa được yên. Đây là chỗ nhiều người vướng kẹt. Tâm chưa thông, chạm vật còn vướng còn ngại. Muốn tìm chỗ yên lặng tránh xa ồn náo, theo Sư cũng chưa hẳn là tốt.

Huống hồ rừng xanh bát ngát núi đá chập chùng, thú gầm chim hót, tùng trúc um tùm, đá nước chênh vênh, ngọn gió rung cây, bìm sắn vương vấn, mây mù hòa hợp, vạn vật héo tàn tươi tốt theo tiết trời, sớm chiều bị những thứ ấy làm hoa mắt, há chẳng phải là huyên náo rộn ràng ư? Dù tránh được cảnh vật ở thế gian, song cảnh núi rừng, mây, nắng cũng là sắc cảnh, cũng sẽ làm mù che mờ mắt, chứ đâu phải chỉ có cảnh vật thế gian.

Cho nên biết hễ kiến hoặc còn vương vít thì chạm vào đâu cũng thành vướng mắc. Tức là kiến hoặc trong tâm còn thì đụng đâu cũng dính, chứ không cần phải ra ngoài. Ngoài thế gian thấy cảnh đẹp, thấy sắc đẹp thì mới vướng, còn chốn núi rừng cũng bị sắc cảnh mây, gió thành vướng mắc.

 Do đó, trước cần phải biết đạo rồi sau mới ở núi. Cho nên chỗ này Sư nói trước cần phải biết đạo rồi sau mới ở núi.

 Nếu người chưa biết đạo mà ở núi trước thì chỉ thấy núi ắt quên đạo. Tâm chưa thuần nên bị cảnh chuyển, thấy núi sẽ quên đạo.

 Nếu người chưa ở núi mà trước đã biết đạo thì chỉ thấy đạo quên núi. Người tu sáng đạo thì chỉ thấy đạo mà quên núi.

Quên núi thì đạo tánh làm vui vẻ tinh thần, quên đạo thì bị núi non làm hoa mắt. Quên núi thì tâm đạo làm chỗ sống vui vẻ, ở đâu cũng vui hết, đâu chỉ ở núi mới vui. Còn nếu tâm quên đạo thì ở núi cũng bị núi làm hoa mắt.

Do đó, người thấy đạo quên núi ở chốn nhân gian vẫn lặng, người thấy núi quên đạo ở trong núi cũng ồn ào. Cần phải rõ ấm vô ngã, vô ngã thì ai ở nhân gian? Nếu biết ấm nhập (Ấm: Năm ấm. Nhập: Mười hai nhập) như hư không thì xóm làng sẽ hoang vắng có khác gì hang núi. Nếu đạt ấm nhập vốn vô ngã, giống như hư không thì ở ngay xóm làng hay là thành thị không có khác.

Như người ba độc chưa bỏ, sáu trần còn nhiễu loạn, thân tâm tự mâu thuẫn thì có quan hệ gì đến sự huyên náo hay yên lặng của nhân gian hay hang núi đâu!

Vả lại, đạo tánh chan hòa cùng khắp như hư không, vạn vật vốn chẳng hệ lụy, lòng chân từ bình đẳng thì thanh sắc nào chẳng phải đạo ư? Nếu người sống mà đạo tánh nó chan hòa khắp nơi, thì hết thảy thanh sắc nào không phải là đạo!

Do vì kiến đảo hoặc sinh bèn thành luân chuyển vậy. “Kiến đảo hoặc sinh” tức là cái thấy điên đảo, mê lầm sinh nên thành ra trôi nổi.

Nếu như biết rõ cảnh chẳng phải có thì trước mắt không gì chẳng phải là đạo tràng. Biết rõ vốn không, do đó chẳng duyên mà chiếu, viên dung pháp giới giải và hoặc nào khác. “Giải” là hiểu thấu. “Hoặc” là mê lầm, tức là mê giác không hai, chạm mắt đều bồ-đề.

Lấy hàm linh để biện lòng bi, dứt tưởng niệm để mà rõ trí. Trí sinh thì pháp sẽ viên chiếu, lìa cảnh lấy gì quán bi? Nếu lìa cảnh thì lấy gì mà quán bi để độ người.

Bi trí ly hợp gồm thâu, trái chúng sinh thì lấy gì làm năng độ? Lòng bi rộng lớn độ hết chúng sinh, chiếu tột cùng cảnh để trí viên mãn. Trí viên mãn thì lặng yên hay huyên náo đồng xem như nhau, lòng bi rộng lớn thì oán thân đều cứu cả. Trí đã viên mãn, dù động, tịnh cũng như nhau, không phải lấy đây bỏ kia. Còn lòng bi mà rộng lớn thì kẻ oán người thân cũng đều cứu hết.

 Như vậy, đâu cần ở lâu trong hang núi mà theo chỗ tùy duyên. Huống chi pháp pháp rỗng rang dung hợp, tâm tâm tịch diệt vốn tự chẳng phải có, ai gượng gọi là không thì có sự huyên náo gì đáng gọi là huyên náo, có sự yên lặng nào đáng gọi là yên lặng. Nếu biết vật và ngã hợp nhất thì kia đây chẳng gì không phải là đạo tràng, đâu còn thuận theo sự huyên náo của nhân gian hay nhàn rỗi ở nơi hang núi. Mình và vật đều hợp nhất thì còn gì là đây là kia, hết thảy đều là đạo tràng.

Do đó, bỏ động cầu tịnh là gông ghét cùm yêu, lìa oán cầu thân là cũi chán lồng ưa. Cái yêu ghét nào khác gông với cùm. Còn có lìa oán cầu thân cũng thành rơi vào cái củi chán lồng ưa.

Nếu có thể lặng lẽ nơi huyên náo thì chợ búa không đâu chẳng phải là chỗ ngồi yên. Cầu chỉ lỗi lầm, nhận lãnh lời dạy, oan trái do từ thiện hữu. Như vậy cướp đoạt hay hủy nhục đâu từng chẳng phải bổn sư ta, kêu la huyên náo không có gì chẳng phải tịch diệt. Cho nên biết diệu đạo không có hình mà vạn tượng chẳng trái với nó; chân như tịch diệt, các âm vang  chẳng khác với tiếng. Mê thì kiến đảo hoặc sinh, ngộ thì không có trái thuận. Dẫu diệu đạo không hình tướng, song muôn tượng nào trái. Nếu mê thì cái thấy điên đảo sinh. khi ngộ đâu có gì trái thuận. Dù bị người hủy nhục hay cướp đoạt, đâu chẳng phải là thầy của ta.

Vắng lặng chẳng phải có, duyên hội thì sinh, núi Nga Nghi (ngọn núi Cửu Nghi) chẳng phải không, do duyên tan mà có thể diệt, diệt đã chẳng phải diệt, lấy gì để diệt cái diệt; sinh đã chẳng phải sinh, lấy gì để sinh cái sinh. Sinh diệt đã không thì thật tướng thường trụ. Người đạt đạo thì ngay nơi sinh diệt vẫn sống với thật tướng thường trụ.

Vì vậy, nước định mênh mông niệm trần nào chẳng bị tẩy sạch, đèn trí sáng ngời hoặc nào không bị trừ khử. Đèn trí tuệ một khi đã sáng, thì mê lầm nào cũng trừ hết.

Trái đó thì sáu nẻo tuần hoàn, hội đó thì ba đường ra khỏi. Như vậy sao chẳng đi thuyền tuệ rong chơi trên biển pháp, mà lại muốn đi xe gãy trục vào hang núi ư! Nếu đã nhận hiểu rồi, sao không dùng thuyền trí tuệ dạo chơi nơi biển pháp, mà lại muốn đi xe gãy, gãy trục đó vào trong hang núi.

Cho nên biết vật loại lăng xăng, nhưng tánh chúng tự là một, nguồn linh lặng lặng chẳng chiếu mà biết. Thật tướng thiên chân, linh trí chẳng phải tạo, đối với người mê thì gọi là mất, đối với người ngộ thì gọi là được. Được mất tại người, đâu có quan hệ gì đến động tịnh, ví như người chưa biết đi thuyền mà muốn oán ghét dòng nước quanh co kia ư! Nếu có thể khéo biết huyền tông, tâm rỗng rang thầm khế hợp, động tịnh nói nín luôn là quy củ, lặng lẽ có chỗ quy về, điềm nhiên không gián cách. Như vậy mới có thể tiêu dao nơi hang núi, phóng khoáng chốn thôn trang, thong thả hình nghi, vắng lặng tâm phủ, điềm đạm bên trong, thâm trầm bên ngoài. Với thân thì như bị câu thúc mà tâm thì tự  tại thong dong, hiện hình dung chốn hoàn vũ, giấu u linh nơi pháp giới. Như vậy thì ứng cơ có cảm, thích nghi, không tiêu chuẩn nhất định. Dù cho muôn thứ lăng xăng song đối với tự tánh chỉ là một không khác. “Thật tướng thiên chân” là tánh thật sẵn có. Gặp cảnh động tịnh, nói nín cũng là quy củ. Tùy duyên ứng dụng không cố định một chiều, linh động sống tùy duyên.

Thư viết sơ lược, ngoài ra làm sao trình bày cho hết được, nếu chẳng phải bạn đồng chí, đâu dám xúc phạm, lúc rảnh ngồi yên xin tạm suy nghĩ. Nếu tôi nói dối hay sai thì xem xong rồi cứ đốt.

                                   Đồng bạn Huyền Giác

Theo Sư, người tu muốn ở núi thì không đơn giản. Nhận được lẽ thật chính mình sau vào núi để bảo dưỡng, thì được. Còn người chưa gì muốn vào núi tu để thấu suốt lẽ thật, phải dè dặt. Nếu đã nhận và sống được với lẽ thật thì cần phải tùy duyên, không nên chán động cầu lặng, vì tâm niệm ưa chán vẫn còn vướng mắc. Phải khéo sống trong cảnh động mà không động, đó mới thật là chuyển thành sức sống chân thật. Tóm lại, Sư từ chối khéo lời mời của thiền sư Huyền Lãng qua lá thư đầy đạo vị.

Vào ngày 17 tháng 10 năm thứ sáu niên hiệu Tiên Thiên (713 TL) đời Đường Huyền Tôn, (có thuyết nói nhằm niên hiệu thứ nhất, hoặc thứ hai) Sư ngồi kiết già thị tịch, thọ thế 49 năm. Ngày 13 tháng 11 an táng tại hướng nam Tây Sơn, tháp hiệu Tịnh Quang, thụy phong Đại Sư Vô Tướng.

 Sư trước tác Khúc Ca Chứng Đạo, tương truyền có vị tăng Ấn Độ đọc và dịch sang tiếng Phạn gởi về Thiên Trúc, được các vị sư Ấn Độ tán thán cho là Đông Độ Đại Thừa Kinh cho thấy tác phẩm Chứng Đạo Ca ý nghĩa rất sâu, khế hợp với ý chỉ Phật Tổ.Ngoài ra Sư còn soạn tác phẩm Thiền Tông Ngộ Tu Viên Chỉ, trình bày chỗ tu hành từ cạn đến sâu, sau Thích Sử Ngụy Tĩnh ở Châu Khánh biên tập lại thành mười thiên gọi là Vĩnh Gia Tập lưu truyền rộng ở đời.

Trên là lược qua lịch sử thiền sư Huyền Giác. Sư buổi đầu tu học theo Giáo Quán Thiên Thai, sau đọc kinh Duy Ma tỏ ngộ yếu chỉ thiền, ngộ được tâm tông. Nghe lời khuyến khích của thiền sư Huyền Sách, Sư đến tham bái Lục Tổ Huệ Năng. Tổ gạn kỹ thấy khế hợp nên ấn chứng. Về sau, Sư trước tác bản Chứng Đạo Ca này, trình bày chỗ chứng ngộ của mình.

 

 TT.Thích Thông Phương dịch và giảng giải

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 71121
  • Online: 12