Diệu chỉ Phật tâm tông (Phần 1)

19/05/2011 | Lượt xem: 3775

Thích Đạt Ma Khế Định

LỜI NGỎ
Người tu theo tinh thần Thiền tông là cốt nhận ra được Bản tâm, thấy được Bản tánh của mình. Một khi nhận ra được Bản tâm, mới tin tâm mình “xưa nay là tâm Phật”, khi thấy được Bản tánh mới hay tánh mình “vốn tự thanh tịnh, vốn tự đầy đủ”.
Nhưng thử hỏi Tâm tánh ở đâu? Tâm tánh là gì? Tất cả người tu ai ai cũng đều thắc mắc vấn đề này, hoặc hỏi Tâm tánh ở đâu? Nơi nào? Thật không khác người cưỡi trâu tìm trâu, vác Phật cầu Phật, ở giữa dòng mà gào than khát nước, biết bao giờ thấy được Bản tâm.


Sao chúng ta không mạnh bạo như Thiền sư Huệ Hải:

Ban sơ Sư đến tham vấn Mã Tổ, Tổ hỏi:
- Từ đâu đến?
Sư thưa:
- Ở Việt Châu chùa Đại Vân đến.
- Đến đây tính cầu việc gì?

Sư thưa:
- Đến cầu Phật pháp.
Tổ bảo:
- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy tìm cái gì? Ta trong ấy không một vật, cầu Phật pháp cái gì?
Sư lễ bái thưa:
- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?
- Chính nãy ngươi hỏi ta là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ cầu bên ngoài.

Ngay câu nói này, Sư nhận được Bản tâm.

Quả thật không ở đâu xa, chỉ cần chúng ta can đảm tin nhận thì nó sờ sờ trước mắt, bằng chúng ta chẳng tin nhận thì tìm mãi suốt kiếp. Bởi do chúng ta quá sức tưởng tượng: Chân tâm phải như thế này, thế nọ, vẽ vời tô điểm bộ mặt của Bản tâm, nên không nhận ra được Chân tâm thù diệu của chính mình nên nhọc nhằn hướng ngoại tìm cầu nắm bắt, khác nào như người cưỡi trâu tìm trâu, ở giữa dòng mà gào than khát nước.

Thật vậy, chúng sanh vốn sẵn có Phật tánh Chân như thường hằng bất biến, dẫu cho bị nghiệp lực kéo lôi khiến phải chìm nổi trong ba đường sáu nẻo, khi mang thân thú, khi làm thân người, hoặc lắm lúc làm người thiên giới ... nhưng Phật tánh vẫn hằng hữu không vơi, không đầy, không mờ, không tỏ, lúc nào Phật tánh vẫn sáng suốt linh diệu, ứng tác ra muôn pháp, diệu dụng như hằng sa công đức. Cho nên Kinh nói: “Phật với chúng sanh vốn đồng một thể”. Thể ấy trùm khắp cả Tam thiên sa giới, nên một khi hành giả nhận ra được Bản tâm mình, thì dưới con mắt của hành giả Phật ngự ở khắp nơi, họ thấy rõ trong tâm địa sâu thẳm của chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai thanh tịnh tròn sáng. Bởi vậy, để cúng dường hằng hà sa số chư Phật, hành giả đâu cần phải vào tận cảnh giới chư Phật để dâng hoa, để xông đốt hương trầm nghi ngút, mà chỉ cần mỗi niệm, mỗi niệm hành giả phải luôn hồi quang phản chiếu lại mình. Lâu ngày chầy tháng huyền cơ bộc phát rõ được Bản tâm, mới tự tin tâm “xưa nay vốn đã có Phật”.

Hôm nay rảnh chút truân chuyên lại nhờ sự gia bị của mười phương chư Phật, Lịch đại Tổ sư, chúng tôi mạo muội mượn núi Phụng Hoàng làm thẻ tre thay giấy, tạm mượn nước hồ Tuyền làm mực – khêu ngọn đèn tâm nguyệt để viết bản luận nhỏ này. Ngõ hầu, gần là để báo đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của Hòa thượng Tôn Sư khả kính, xa là hoằng dương pháp môn Đốn giáo thượng thừa của mười phương đức Như Lai và chư vị Lịch đại Tổ sư.

Vì viết lần đầu, không thể tránh khỏi những điều sơ suất. Kính mong những bậc cao minh sáng mắt chỉ bày thêm. Chúng tôi thành thật tri ân.

Trúc Lâm đầu hạ Nhâm Ngọ
Kính đề
Đạt Ma Khế Định.



DIỆU CHỈ PHẬT TÂM TÔNG


I. DẪN NHẬP:

Thiền tông lấy sự truyền trì mạng mạch Phật Tổ làm tôn chỉ, tức là phương pháp “Dĩ tâm ấn tâm”. Tâm của Phật Tổ đã như thế, thì người được truyền đạo cũng phải khế hợp tâm cơ của Phật Tổ.

Như trường hợp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền tâm ấn cho Tổ Ma Ha Ca Diếp:

Kinh “Đại Phạm Thiên Vương Hỏi Phật Quyết Nghi” nói:

“Đức Thế Tôn ở trên hội Linh Sơn niêm hoa thị chúng. Lúc bấy giờ, trăm muôn trời người thảy đều không thấu suốt, riêng có Ngài Kim Sắc Đại Đầu Đà chúm chím mỉm cười. Đức Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp”.

Đây là cảnh giới ly ngôn trực tiếp biểu thị thể dụng Phật tánh, ngay đây chỉ cần hành giả dừng bước mọi toan tính mong cầu thì tức khắc cảnh giới thực tại có mặt. Do đó, chúng ta phải biết cảnh giới này chỉ có những con người bẩm chất thuần tịnh, huân tu nhiều kiếp mới có thể ngay cái khoảnh khắc đang là, hốt nhiên khế nhập Chân như giữa mình và Phật, hòa đồng vào cái nhất thể tuyệt đối. Thế nên cảnh giới thù diệu này Đức Phật muốn biểu thị cho chúng sanh thấy rõ không cần văn tự mà vẫn có thể trực tiếp ngộ nhập Chân như Bản thể.

Song với con mắt tuệ nhãn thuần tịnh, Đức Thế Tôn thấy rõ các đại đệ tử thọ pháp Thế Tôn huân tập đã lâu, đức Thế Tôn biết rõ các đệ tử mình căn cơ đã thuần thục nên khai thị pháp môn vi diệu này, khiến đốn ngộ vô sanh vượt thẳng đến Phật địa.

Như trong bài Chứng Đạo Ca, thiền sư Huyền Giác nói:

Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.

Nghĩa là:

Một bước nhảy vào đất Như Lai.

Một bước này chúng ta đừng nghĩ rằng sẽ có bước thứ hai, hoặc thứ ba mà một bước này chính là cảnh giới thực tại tối hậu siêu việt lý luận. Cảnh giới này chỉ có đến với những hành giả nào siêu thoát tán tâm vọng niệm nơi tâm thức. Và bằng vào cái trí tuệ Bát Nhã hành giả liền khai phóng một nguồn năng lực vào nội giới. Bấy giờ giữa cái thấy và cái bị thấy đồng thời có mặt trong giờ phút thực tại tối hậu.

Thế nên, nói đến Thiền là nói đến cảnh giới thực tại tối hậu, trong đó luôn luôn vắng bóng tính chất của ngã tánh, mà chỉ có thuần nhất ánh sáng Bát Nhã của Tự tâm hành giả. Do đó khi Phật Thế Tôn đưa lên cành hoa sen, ngài Đại Ca Diếp liền đốn kiến vào mảnh đất thực tại. Bằng vào cái thấy thuần tịnh này mà mãi mãi về sau trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn còn tuyên bố: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao cho Ma Ha Ca Diếp”. Một pháp môn này chính là tiêu biểu cho dòng thiền Tổ sư sống dậy. Và cũng chính duyên khởi này mà dòng phái Phật tâm tông đều y cứ vào “Dĩ tâm ấn tâm” làm chỗ cốt tủy truyền trao.

Như trường hợp Tổ Đạt Ma ấn chứng cho Tổ Huệ Khả chẳng hạn:

“Một hôm Huệ Khả thưa với Tổ:

- Bạch Hòa thượng, tâm con bặt các duyên.

Tổ bảo:

- Coi chừng rơi vào không.

Huệ Khả thưa:

- Rõ ràng thường biết làm sao rơi vào không được.


Tổ liền ấn chứng nói:

- Ông đã như thế, ta cũng như thế, mười phương chư Phật cũng đồng như thế”.

Thế nên nói đến Thiền là nói đến cái rõ biết ngay trước mắt bạn, không che đậy, không giấu diếm dẫu trong phút giây khoảnh khắc. Và ngay giây phút này toàn bộ cái biết luôn luôn khai phóng vào mảnh đất uyên nguyên nơi đương xứ. Hãy kiến chiếu vào tận nguồn tự thể của tâm thì tức khắc mảnh đất thực tại liền có mặt. Phật tánh của mỗi chúng ta ở trên mọi hình tướng tốt xấu, khen chê, thương ghét… Phật tánh ấy nó thường tại và tịch miên, tròn đủ. Song muốn biết nó ở đâu hãy ngay nơi sáu căn và tứ đại phản chiếu soi tìm vào tận căn rễ của chúng. Ánh sáng của Phật tâm trùm khắp tất cả, dẫu xuân qua hạ đến mà ánh sáng của Phật tâm chưa từng vắng mặt. Muốn được Phật tâm luôn luôn khai phóng ta hãy để thế giới nhị nguyên vắng bóng, hãy quên hết cả hai, siêu việt mọi ngôn từ hí luận cùng sự khái niệm truy cầu ý thức. Ở đó ta chỉ bắt gặp những nguồn năng lực Bát Nhã mà chính nó là tiêu điểm đưa ta đến ngôi vị Vô thượng giác. Nếu ngay đây ta không định vị mà hướng ngoại tìm cầu thì mảnh đất uyên nguyên đó vắng bóng. Vì thế Tổ Đạt Ma tuyên bố: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.

Do đó, Thiền luôn luôn nhắm vào cảnh giới thực tại tối hậu, bởi vậy Thiền đòi hỏi chúng ta phải nắm ngay đích điểm và tại đó đốn kiến vào chân lý tối hậu. Song một khi tâm thái ta mọi toan tính, tật đố, ích kỷ nổi lên thì tinh ma có mặt và định kiến gia tăng, thì Thiền sẽ biến mất mãi mãi trong mê lộ. Như Thiền sư Thạch Sương Khánh Chư nói: “Phải dứt hết tham ái, để miệng lên meo, trở thành mảnh lụa trắng tinh, một niệm muôn năm, như tro lạnh cây khô, như lò hương trong miếu cổ”.

Hãy mạnh dạn và đặt hết mọi hùng lực vào lời trên. Tu tập và hành trì như thế để cho thân tâm hoàn toàn tê liệt mọi sự cám dỗ tham ái đời thường. Một khi đạt đến trạng thái như lời nói trên thì sự tham ái dường như biến mất. Liền thật bất ngờ chúng ta sẽ nhận ra một niềm an lạc vĩnh cửu thật sự đến với ta. Bấy giờ tứ đại và ngũ uẩn không còn là vật chướng ngại nữa. Mọi toan tính của đời thường như tan biến vào thế giới Hoa tạng của chư Phật Thế Tôn. Đồng thời ánh sáng của ta cùng ánh sáng của mười phương chư Phật hòa diệu lại trong cảnh giới bất khả tư nghì.

Do đó, sự truyền thừa Phật tâm này tiếp nối theo nhau mãi mãi, đời này truyền sang đời khác, đồng một tôn chỉ duy nhất. Điều đáng chú ý là sự truyền thừa của Phật tâm tông đều lấy sự giác ngộ của người Thầy đối chiếu qua sự giác ngộ của người trò. Như trường hợp Lục Tổ Huệ Năng ấn chứng cho Tổ Nam Nhạc Hoài Nhượng.

“Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744) đến Tào Khê tham vấn Lục Tổ Huệ Năng.

Tổ hỏi: - Ở đâu đến?

Sư thưa: - Ở Tung Sơn đến.

Tổ hỏi: - Vật gì đến?

Sư thưa: - Nói một vật tức khắc không trúng.

- Lại có thể tu chứng không?

- Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được.

Tổ bảo: - Chính cái không nhiễm ô này là chỗ hộ niệm của chư Phật, ngươi đã như thế, ta cũng như thế”.

Thế nên đạo Phật sở dĩ truyền trao chánh pháp không dứt tuyệt, là do tôn chỉ truyền thừa đã nói rõ trên đây. Tôn chỉ đã vững chắc, đạo pháp đã có người truyền thừa thì vạn thế sẽ lưu truyền từ đời này sang đời khác. Vì chánh pháp đã sáng tỏ nơi đời, mạng mạch Phật pháp cũng đã bủa giăng khắp chốn, những người hâm mộ tu thiền muốn đến chỗ cao siêu diệu viễn, đều phải căn cứ vào kinh pháp lưu truyền. Như Thiền sư Thần Hội nói kinh Kim Cang Bát Nhã là một bộ kinh có thể làm kim chỉ nam cho các bậc thiền giả.

Song nếu chúng ta có duyên lành chí lớn, đều có thể thọ trì “Chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” trong cuộc sống sinh hoạt đời thường.

Như trường hợp Thiền sư Bảo Tích:

“Thiền sư Bảo Tích, ở Bàn Sơn U Châu, nhân đi chợ thấy người mua thịt lợn nói với người bán thịt:

- Ông cắt cho tôi một miếng thịt ngon.

Người đồ tể buông dao, đứng khoanh tay nói:

- Này trưởng tử, miếng nào mà chẳng ngon.

Ngay câu nói Sư liền có tỉnh”.

Đây là tinh thần đốn kiến vào nội giới của sư Bảo Tích. Qua câu nói của người đồ tể, Sư thấy rõ pháp pháp đều là chân pháp, pháp pháp đều là thật pháp. Bởi do vô minh chấp trước nên chúng ta không nhận ra được tánh tri kiến như thật của chính mình. Từ đó chúng ta sanh ra bao thứ ảo tưởng ngon dở, tốt xấu, phải trái… nên mãi mãi trôi lăn trong biển khổ sanh tử. Giờ đây với con mắt thuần tịnh nhất như, chúng ta hãy khai phóng vào cảnh giới thực tại đang là, thì tức khắc mảnh đất uyên nguyên liền có mặt. Cũng như sư Bảo Tích qua bao năm tháng lăn lộn trong cuộc sống đời thường, mà ánh sáng Bát Nhã chưa từng khai phóng. Ngày nay do túc duyên lành huân tu nhiều kiếp chạm vật hiện hình, ngay tiếng mà thầm nhận nên Sư liền có tỉnh. Để rồi từ đây trên bước đường công phu tu tập Sư không còn thắc mắc hay nghi vấn nữa, mà trước mắt Sư giờ đây ánh sáng chân lý luôn tỏa rạng trong hào quang của mười phương chư Phật.

Thế nên, trong cuộc sống đời thường này, nếu chúng ta quyết tâm hạ thủ công phu tu tập, thì cảnh giới thực tại sẽ đến với chúng ta. Ta đừng tìm kiếm cảnh giới thực tại này bên ngoài mà vô ích, hãy đốn kiến vào nội tâm thì sẽ rõ biết ta là ai. Hãy thật sự đốn kiến vào mảnh đất thực tại thì hào quang của chư Phật liền hiện tiền.

Do đó, Lục Tổ nói:

Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ đề
Khắp tợ tầm thố giác.

Dịch:

Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
Lìa thế tìm Bồ đề
Giống như tìm sừng thỏ.

“Lần khác Sư ra cửa thấy người khiêng đám tang đi qua, người hát mướn lắc linh, xướng:

 

Vầng hồng quyết định về tây lặn,
Chưa biết hồn linh đến chỗ nào?
Dưới tấm màn hiếu tử khóc hu hu!

Sư chợt thân tâm nhẹ nhõm về đem việc ấy thuật lại với Mã Tổ, Tổ liền ấn khả”.

Đây là nhằm diễn tả cảnh giới ly ngôn thực tại tối hậu. Trong cuộc sống đời thường chúng ta luôn luôn chấp thủ chỗ đi, chỗ đến, nghĩa là trong tri giác của chúng ta luôn luôn chấp trước nơi chốn. Từ chỗ chấp trước đó mà bít lấp ánh sáng giác ngộ của chính mình. Thật ra cảnh giới tối hậu này chỉ có người trong cảnh mới biết. Tuy nhiên đứng về phương diện danh tướng, thì phải tạm ngôn từ mà diễn đạt lý đạo nên nói: “Văn dĩ tải đạo”. Song chỗ ngộ của Sư chính là cảnh giới thực tại tối hậu đang là trong phút giây thực tại.

Như chúng ta biết qua sự kiện này nhằm diễn tả pháp thân luôn luôn hiện hữu ngay khi hiếu tử khóc hu hu! Đó chẳng phải cảnh giới thực tại là gì? Tuy nhiên chớ lầm chấp cho sự đốn kiến vào mảnh đất thực tại là quá ư dễ dàng mà phải nhớ rằng:

Chớ nghe hu hu rồi lầm chấp
Quên rằng ôm ấp đã bao năm!

Bởi vậy người xưa dụng tâm đâu phải là một bề tọa thiền! Mà trong lúc đi, đứng, nằm đều luôn luôn tỉnh giác và kiểm soát nội tâm mình qua các hành động ngôn từ và ý nghĩ. Từ đó chúng ta khẳng định rằng Thiền tông chính là nền tảng của đạo Phật. Như khi xưa Tổ Ca Diếp nhân nhìn cành hoa sen mà đốn kiến vào tự thể của chính mình. Dẫu người xưa và người nay tuy cách xa nhau hằng bao thế kỷ mà chỗ thấy biết nhau cũng như “Hoa lưu động khẩu ưng trường tại”.


II. MỤC ĐÍCH CỦA PHẬT TÂM TÔNG:

Mục đích của Thiền tông là “kiến tánh thành Phật”.

Vì thế nói đến Thiền tông là nói đến sự khai ngộ. Khai ngộ là lẽ sống thực của Thiền, là sanh mạng tất yếu của Thiền. Nếu người nào chưa khai ngộ trực nhận ra được con người chân thật nơi mình thì chưa thật sự tham thiền, cũng như chưa tin chắc tâm mình là Phật. Thế nên không khai ngộ thì không phải là Thiền. Tuy nhiên khi nào chúng ta còn ý thức về sự khai ngộ vẫn còn là sự trói buộc miên man trong dòng sông ý thức.

Như Lục Tổ nói:

Tình còn một niệm ngộ
Sao lụy kiếp mê xưa.

Lại nữa mục đích của Thiền tông là dung hội các tôn giáo trở về chỗ duy nhất, như Thiền tông Trung Hoa vào đời nhà Tống dung hội “Tam giáo đồng nguyên” hay ở Việt Nam vào thời nhà Trần dung hội “Tam giáo đồng nguyên”. Vì sao? Vì dưới con mắt của người giác ngộ thấy rõ trong chiều sâu thẳm tâm thức của tất cả chúng sanh đều đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai không khác: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, mà trong kinh Pháp Hoa Bồ tát Thường Bất Khinh đã nói rõ: “Tôi chẳng dám khinh các ngài vì các ngài sẽ thành Phật”.


Như ngài Đạo Sinh cũng nói: “Nhất xiển đề tuy đoạn thiện căn vẫn có Phật tánh”.

Do đó, chúng ta thấy rõ bằng năng lực khai phóng tri kiến Bát Nhã vào nội giới, các Ngài thấy rõ trong tâm địa sâu thẳm của chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai thanh tịnh tròn sáng, đức tướng này cùng với mười phương chư Phật vốn bình đẳng nhất như tuyệt đối. Ở Thánh không tăng, nơi phàm không giảm. Song tại sao chư Phật quá khứ thì các Ngài đã thành tựu từ vô lượng kiếp, còn chúng ta vẫn chìm nổi lên xuống trong ba đường sáu nẻo? Khi làm thân thú, khi làm thân người, hoặc lắm lúc thì đọa lạc trong ba đường ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Chúng ta hãy chín chắn xem cho thật kỹ ở điểm này để rồi chúng ta gia công tu tập thiền định để không uổng phí một đời sống vô ích.

Như Thiền sư Duy Chiếu thượng đường dạy chúng:

Phật xưa nói: “Khi ta mới thành chánh giác chính thấy chúng sanh trên đại địa thảy đều thành chánh giác”. Sau, Ngài lại nói: “Sâu thẳm xa xôi không người hay đến”. Kẻ không kiến thức khéo đầu rồng đuôi rắn.

Sư liền xuống tòa.

Đoạn này thiền sư Duy Chiếu dẫn chứng trong kinh Hoa Nghiêm, vì trong kinh Hoa Nghiêm có nói rõ về điểm này. Kinh nói:

Lúc ấy, Đức Như Lai dùng thiên nhãn thanh tịnh không chướng ngại quan sát tất cả chúng sanh. Ngài quan sát xong bèn nói: “Lạ thay! Lạ thay! Tại sao chúng sanh ở trong thân có đầy đủ trí tuệ Như Lai mà không tự thấy biết? Ta phải dạy cho các chúng sanh ấy giác ngộ Thánh đạo, để chúng lìa hẳn sự trói buộc của vọng tưởng điên đảo, thấy đầy đủ được trí tuệ Như Lai ở trong thân họ cùng với Phật không khác”.

Tuy nhiên như thế, Ngài lại nói: “Sâu thẳm xa xôi không người hay đến”. đây mới là chỗ cho chúng ta nhắm đến để hạ thủ công phu tu tập. Tuy là chúng ta đồng với đức tánh của Phật, mà đồng ở Phật nhân, còn Phật quả thì phải trải qua công phu tu tập trong vô lượng kiếp.

Như Cổ Đức nói:

Đốn ngộ tuy đồng Phật
Đa sanh tập khí thâm
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.


Tạm dịch:

Đốn ngộ tuy đồng Phật
Nhiều đời tập khí sâu
Gió dừng sóng vẫn vỗ
Lý hiện niệm còn xâm.


Đây là một bài kệ của người xưa để lại răn nhắc cho hàng hậu học. Trong cuộc sống tu tập giữa đời thường, các Ngài đã chứng kiến không biết bao nhiêu hành giả thông tột lý thiền, song trên con đường hành hạnh Bồ tát đạo vẫn còn vấp ngã những chuyện thường tình của thế gian nào là: tài, sắc, danh, thực, thùy… đó là nỗi ám ảnh của các Tông sư luôn răn nhắc các hàng hậu học phải cẩn thận dè dặt. Chớ được một chút mà đã tự cho là đủ. Lỡ khi nghiệp duyên đến thì lấy gì chống đỡ.

Như thiền sư Dũng Tuyền Hân nói:

          “Ta bốn mươi chín năm tại chỗ này còn có tẩu tác, bọn các ông chớ mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, còn người hạnh giải thì trong muôn người mới có một. Kiến giải, ngôn ngữ thảy cần phải cho thấu triệt, nhưng thức tình nếu chẳng hết thì tôi dám nói là hãy còn luân hồi. Sao vậy? Bởi vì thức lậu chưa hết. Ông chỉ cần sạch hết thức lậu thì lúc bấy giờ mới thực thành tự lập”.

Thế nên, mục đích của Thiền tông trước phải kiến tánh rồi sau mới khởi tu. Nghĩa là dạy chúng ta ngay nơi thân sanh diệt này nhận ra “Chân tâm thường trụ khắp pháp giới”. Cũng như tôn chỉ kinh Pháp Hoa nhằm khai thị ngộ nhập “Tri kiến Phật”. Song giai đoạn ngộ nhập “Tri kiến Phật” chưa phải là hoàn toàn thôi nghỉ mà hành giả còn phải gia công tu tập để triệt chứng Chân như Bản thể. Như Hòa thượng Bạch Vân Đoan nói:

“Cần phải ngộ mới được! Sau khi ngộ rồi, cần phải gặp thiện tri thức. Nhà ngươi nói: Ngộ là xong, đâu cần gặp thiện tri thức. Nếu ngộ rồi lại gặp thiện tri thức thì đang lúc ra tay làm phương tiện hẳn tự có đường xuất thân, chẳng làm mù mắt người học. Còn nếu chỉ ngộ được đầu cây cải khô thì chẳng những làm mù mắt người học mà khi chính mình cử động trước tiên phạm nhằm mũi nhọn bị thương tay”.

Như chúng ta đã rõ sở dĩ các Ngài luôn luôn cảnh tỉnh chúng ta là sau khi đốn ngộ rồi cần phải tiệm tu là có mục tiêu chánh đáng. Vì sao? Vì trong vô lượng kiếp sanh sanh tử tử chúng ta tạo không biết bao nhiêu nghiệp chướng nào là: tham dục, sân hận, si mê và ảo vọng. Cứ mỗi lần đọa lạc ta lại tiếp tục tạo nghiệp và cứ như thế ta cứ đi, đi mãi, càng quanh quẩn nhiều ta càng lạc lối thêm. Như vua Trần Thái Tông nói:

Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.

Tạm dịch:

 

Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày cách xa quê muôn dặm đường.

Do đó, ngày hôm nay tuy vào dòng trí yển hà, đốn kiến Bản tâm, song tập khí huân nhiễm từ vô thủy đâu phải một lần là xong việc, cần phải huân tu nhiều năm, nhiều tháng mới hoàn toàn lột sạch bản ngã thể nhập Chân như pháp tánh thường hằng viên miễn. Đến đây rồi mới mặc tình “Chèo nhịp sóng xanh, xướng khúc năm Nghiêu hòa nhạc thanh bình”.

Như Thiền sư Quy Sơn dạy:

“Có vị khách tăng hỏi Sư:

- Người đốn ngộ còn tu nữa chăng?

 Sư bảo:

- Nếu người khi thật ngộ được Bản tánh thì họ tự biết, tu cùng không tu chỉ là lời nói hai đầu. Như nay có người sơ tâm tuy từ duyên được một niệm đốn ngộ chân lý nơi mình nhưng vẫn còn tập khí nhiều kiếp từ vô thủy chưa có thể liền hết, nên cần phải dạy hắn trừ sạch dòng thức tạo nghiệp hiện tại, tức là tu vậy. Không nên nói có một pháp riêng dạy hắn tu hành thú hướng. Từ nghe vào được lý, nghe lý sâu mầu tâm tự tròn sáng không có chỗ mê lầm, hiện thời dù có trăm nghìn diệu nghĩa thăng trầm, hắn vẫn ngồi mặc áo, tự biết tạo sanh kế”.

Nói tóm lại, chỗ lý chân thật không nhận một mảy bụi, trong cửa muôn hạnh chẳng bỏ một pháp. Nếu được như vậy là một mình cầm đao xông thẳng vào, lòng phàm thánh sạch, hiện bày chân thường, lý sự không hai, tức như như Phật.

III. TRÍ DỤNG CỦA PHẬT TÂM TÔNG:

          Thiền tông có chỗ diệu dụng rất sâu kín. Chỗ trí dụng của Thiền tông như rồng ẩn trong mây, như sư tử táng thân trong núi sâu rừng rậm. Các Ngài sau khi triệt chứng Bản tâm, đốn kiến vạn pháp rồi, thì tùy loại đồng sự nhiếp, hay “hòa quang đồng trần” như Tế Điên Hòa thượng là hình ảnh sống động nửa thực nửa hư, như có như không của một người đã đạt đỉnh cao của tâm thức, thanh thản vân du đây đó hoặc tùy duyên hóa độ chúng sanh.

Như qua bài kệ này ta sẽ thấy rõ sức sống tâm linh của Ngài đã đạt đến trình độ sắc sắc không không ảo ảo huyền huyền như thế nào.

Hòa thượng Tế Điên ca:

Tiếc thay người đời chẳng biết không
Mê hoa đắm rượu tỏ anh hùng
Nhọc nhằn rốt cuộc về chầu Tổ
Số hết đến kỳ giũ tay không
Khéo léo nào hơn mèo bắt chuột
Thời gian thấm thoát tợ tên bay
Thảng như lực kiệt tinh tấn hết
Thây chết đành vùi chốn huyệt sâu
Suy đi nghĩ lại tỏ tường
Nam kha giấc mộng cũng dường ấy thôi!
Gấp vội vội, Tây lại Đông
Loạn cào cào, vinh với nhục
Tơ lơ mơ, vùn vụt đã năm canh
Trăm năm cuộc thế xoay vần
Lên voi xuống chó nhọc nhằn mộng thôi!
Tỉnh ra nào có ai đâu   
Vui buồn cảnh mộng chỉ là rỗng không.


Hay là:

Thầy tu đâu có luyến gia môn
Mây nước là nhà tịch diệt tôn
Hoa huệ sáng ngời in lối đạo
Thuyền nan một lá thảnh thơi hồn!!!

Lại nữa, các vị tu theo tinh thần Thiền tông có nhãn quan tự tại, nên tuy sống trong luân hồi mà không bị dính mắc trong luân hồi, ở trong sanh tử mà không bị sanh tử trói buộc; ở trong danh lợi, tài sắc, quyền uy, cung vàng, điện ngọc… mà coi như đôi dép rách, dám bỏ hết tất cả để vào rừng sâu núi thẳm hạ thủ công phu tu hành cho đạt đến quả vị Chân tâm thường trụ. Các vị này đều thành tựu ngôi Bảo giác. Các vị này luôn luôn “tùy duyên mà bất biến, bất biến mà tùy duyên” như trường hợp Sơ Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông qua bài “Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca” nghĩa là “ Bài ca thành đạo ở cảnh u tịch của núi rừng”.

Sinh có nhân thân
Ấy là họa cả
Ai hay cốc được
Mới ốc là đã
Tuần này mà ngẫm
Ta lại xá ta
Đắc ý cong lòng
Cười riêng ha hả
Công danh chẳng trọng
Phú quý chẳng màng
Tần Hán xưa kia
Xem đà nhàn hạ
Yên bề phận khó
Kiếm chốn dưỡng thân
Khuất tịch non cao
Náu mình sơn dã
Vượn mừng hủ hỉ
Làm bạn cùng ta
Vắng vẻ ngàn kia
Thân lòng hỉ xả
Thanh nhàn vô sự
Quét tước đài hoa
Thờ phụng Bụt trời
Đêm ngày hương hỏa
Tụng kinh niệm Bụt
Chúc Thánh khẩn cầu
Tam hữu tứ ân
Ta nguyền được bả
Niềm lòng vằng vặc
Giác tính quang quang
Chẳng còn bỉ thử
Tranh nhân chấp ngã
Trần duyên rũ hết
Thị phi chẳng hề
Rèn một tấm lòng
Đêm ngày đon đả
Ngồi cong trần thế
Chẳng quản sự thay
Vắng vẳng ngàn kia
Dầu lòng dong thả
Học đòi chư Phật
Cho được viên thành
Xướng khúc vô sinh
An thiền tiêu sái
Ai ai xá cốc
Bằng huyễn chiêm bao
Xẩy tỉnh giấc hòe
Châu rơi lã chã
Cốc hay thân huyễn
Chẳng khác phù vân
Vạn sự giai không
Tựa dường bọt bể
Đem mình náu tới
Cảnh vắng ngàn kia
Dốc chí tu hành
Giấy sồi vó vá
Lành người chăng chớ
Dữ người chăng hay
Ngậm miệng đắp tai
Hề chi họa cả
An thân lập mệnh
Thời tiết nhân duyên
Cắt thịt phân cho
Dầu là chim cá
Thân này chẳng quản
Bữa đói bữa no
Địa thủy hỏa phong
Dầu là biến hóa
Pháp thân thường trụ
Phổ mãn thái hư
Hiển hách mục tiền
Viên dung lõa lõa
Thiền tông chỉ thị
Mục kích đạo tồn
Không cốc truyền thanh
Âm hưởng ứng dã
Phô người học đạo
Vô số nhiều thay
Trúc hóa nên rồng
Một mai là họa
Bởi lòng vờ vịt
Trỏ Bắc làm Nam
Nhất chỉ đầu thiền
Sát-na hết cả.

Kệ rằng:

 

Sống yên giữa cảnh lặng lòng không
Gió mát hiu hiu lọt bóng thông
Dưới gốc, giường thiền, kinh một quyển
Thanh nhàn hai chữ đáng muôn đồng.

Lại nữa, các bậc Tông sư tu theo tinh thần Thiền tông là sau khi triệt chứng Bản tâm xuyên suốt muôn pháp, các Ngài có cái nhìn thẩm thấu bằng vào tánh tri kiến Bát Nhã chớ không có cái nhìn phàm phu phân biệt tà kiến như chúng ta nữa. Từ thân hành động, lời nói, ý nghĩ đều là đạt đến trạng thái nhu nhuyến thanh tịnh. Các Ngài tuy sống giữa phố thị đầy ắp sự náo nhiệt mà chẳng khác nào ở trong cảnh giới thuần tịnh A-lan-nhã. Vì sao? Vì các Ngài đã vô sự với tất cả muôn hình vạn tượng, vô sự với tất cả để trở về với tất cả. Trở về là trở về với trời đất, với cỏ cây, hoa lá, suối nguồn… và với nguồn sống vô tận ở trong ta và ở ngoài ta, trở về để như mọi người thấy trăng là trăng, nước là nước.


Như vua Trần Thánh Tông nói:

Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh
Kim niên du thắng, tích niên du.

Tạm dịch:


          Trăng vô sự soi người vô sự
          Nước vẻ thu ngậm trời vẻ thu
          Bốn biển đã quang trần đã lặng
          Chuyến đi này hơn chuyến đi xưa.


Thật vậy, chừng nào trong tâm thái của chúng ta mọi toan tính hận thù, ích kỷ, tật đố, ghen ghét lắng đọng, thì đối với tất cả muôn sự ta mới thật sự vô tâm vô sự. Song trong Tự thể vô tâm vô sự này là chúng ta như ngu như ngơ, si si ám sám không còn biết rõ muôn sự muôn vật thế nào! Mà tâm vô tâm vô sự ở đây chính là một cuộc hành trình trở về, mà trở về là để nhập cuộc, nhập cuộc là nhập vào cái trật tự, tự nhiên như nhiên đã có mặt từ vô thủy vô chung của pháp giới ấy.

Trong sự trật tự ấy, chúng sanh và Phật vốn đồng một Tự thể bình đẳng nhất như tuyệt đối, do đó một hòn sỏi, một cọng cỏ, một chiếc lá, một con kiến, một con chim… cũng đều là một vô sự nên vô vi. Song muôn pháp này vô vi nên bình đẳng nhau trong pháp giới tự tại vô ngại nào là: nước chảy, gió thổi, mây trôi, trăng trong, hoa nở … Tất cả muôn hình vạn tượng đều dung thông nhau nên vô ngại và tự tại, không phải tự tại ở một cảnh giới cao siêu nào, mà tự tại ngay trong giờ phút thực tại, ngay tại đây và bây giờ. Thực tại ấy chỉ có mặt khi nào tâm thái của chúng ta vắng bóng lòng vị kỷ và chấp ngã, thì thực tại ấy mới hiển bày trong ta và pháp giới. Ấy mới chính là dòng sông vĩnh cửu đã có mặt từ vô thủy đến vô chung, vì dòng sông ấy không có sự bắt đầu và kết thúc. Nếu dòng sông ấy có cái bắt đầu và kết thúc thì dòng sông ấy chưa phải là dòng sông vĩnh cửu trong cái đang là hiện hữu. Tâm thái vô tâm vô sự của chúng ta đâu khác gì dòng sông ấy. Không bắt đầu không kết thúc và siêu việt cả không gian, thời gian muôn thuở.

IV. CHỖ CHỈ THÚ CỦA PHẬT TÂM TÔNG:

Nói đến đạo Phật là nói về con đường thực nghiệm, thực chứng trong quá trình gia công tu tập, để gạt bỏ những cù cặn của dòng tâm thức, do đó Phật giáo hướng dẫn hành giả hiểu rõ chỗ chỉ thú của từng Thừa mà người tu Phật sẽ kinh qua:

- Như người tu theo Nhân thừa thì chỗ chỉ thú sẽ được làm người.
- Người tu theo Thiên thừa, chỗ chỉ thú sẽ sanh về các cõi trời.
- Người tu theo hạnh Thanh văn, chỗ chỉ thú sẽ đạt đến quả vị A-la-hán.
- Người tu theo hạnh Duyên giác, chỗ chỉ thú sẽ thành tựu Phật Độc Giác và quả Phật Bích Chi.
- Người tu theo hạnh Bồ tát, chỗ chỉ thú tu pháp Lục độ vạn hạnh, cuối cùng khi viên mãn sẽ thành tựu Vô thượng Chánh giác.
- Riêng về Thiền tông thì chỗ chỉ thú khác biệt hơn: “Thiền tông không chấp Phật để mong cầu, chẳng chấp pháp để mong cầu, chẳng chấp Tăng để mong cầu”.

Như kinh Kim Cang nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Nghĩa là: Phàm cái gì có tướng đều là giả dối, nếu thấy các tướng mà chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai.

Thiền sư Trúc Nguyên cũng nói: “Ngộ suốt Tâm tông của chư Phật, thấu triệt việc bổn phận của Nạp tăng, việc làm và sự hiểu biết xứng hợp nhau, mắt trí tuệ sáng tỏ tròn đầy, đó là chỗ chỉ thú của Thiền tăng. Ba thời bình đẳng một đạo rỗng rang. Khắp mười phương thế giới là toàn thân của Sa-môn, muôn sự muôn vật là Thể tánh kim cương, không hoại không tạp, không thiếu không dư. Trên không có chư Phật để thành, dưới chẳng có chúng sanh để độ, bình ổn nhàn hạ, thân tâm nhất như, chẳng còn có việc gì. Thế mới gọi là chỗ chỉ thú của bậc đạo nhân. Đến chỗ này không có người thứ hai, cũng không có niệm thứ hai. Tình chấp về phàm thánh chân vọng đều hết sạch”.

Thế nên chỗ chỉ thú của Thiền tông là “Minh tâm kiến tánh”, do đó người tu theo tinh thần Thiền tông là cốt khai phóng ánh sáng Bát Nhã từ quê hương tịch thần của chính mình, thì mới tin chắc tâm mình xưa nay là Phật, dẫu cho ai nói ngả nói nghiêng mà tâm họ vẫn nhất như bình đẳng một đạo thanh nhàn. Người như thế mới dám:

Đơn đao đột nhập Vô thượng giác
Tam độc bát phong không chướng ngăn
Chỉ một chân như tam muội ấn
Tiến thẳng vào trong nhà pháp thân.

Như trường hợp Thiền sư Đạt Mai Pháp Thường chẳng hạn:


“Sư họ Trịnh, quê ở Tương Dương, lúc nhỏ xuất gia theo Thầy ở chùa Ngọc Tuyền, Kinh Châu. Ban sơ đến tham vấn Mã Tổ, Sư hỏi:

- Thế nào là Phật?

Mã Tổ đáp:

- Tức tâm là Phật.

Sư liền đại ngộ.

Đời Đường khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-805TL), Sư đến núi Đại Mai cách xa huyện Ngân bảy mươi dặm, kết cỏ làm am, ở ẩn trong rừng mai.

Mã Tổ nghe Sư ở núi bèn sai một vị tăng đến thăm dò. Tăng đến hỏi Sư:

- Hòa thượng gặp Mã Tổ được cái gì, về ở núi đây?

Sư đáp:

- Mã Tổ nói với tôi “Tức tâm tức Phật”, tôi bèn ở núi này.

- Gần đây Mã Tổ lại nói: “Phi tâm phi Phật”.

- Ông già mê hoặc người chưa có ngày xong, mặc ông “Phi tâm phi Phật”, tôi chỉ biết “Tức tâm tức Phật”.

Vị tăng trở về thưa lại Mã Tổ những lời Sư nói. Mã Tổ nói với đại chúng:

- Đại chúng! Trái mai đã chín.

Từ đây nhiều vị Thiền khách đến tham vấn Sư”.

Lại nữa, người tu theo tinh thần Thiền tông chỉ thẳng tiến đến biển trí tuệ Bát Nhã (Nhất thiết chủng trí). Sau khi nhận chân được tánh tri kiến Bát Nhã rồi thì đối với sanh tử không nhàm chán, Niết bàn chẳng chấp thủ, chỉ tùy loài đồng sự, hoặc làm vua, hoặc làm quan, hoặc làm Bà-la-môn, hoặc làm thầy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc lắm lúc làm Đế thiên cai quản các tầng trời Lục Dục. Như câu chuyện Thiền sử thầy trò Đạo Ngô và ngài Tiệm Nguyên chẳng hạn.

“Thiền sư Trọng Hưng Tiệm Nguyên ở Đàm Châu. Nơi Đạo Ngô, Sư làm Thị giả. Một hôm Sư theo hầu Đạo Ngô điếu tang nhà đàn việt. Sư vỗ quan tài nói:

- Sanh ư? Tử ư?

Đạo Ngô nói:

- Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói.

- Vì sao chẳng nói?

- Chẳng nói! Chẳng nói!

Trên đường về Sư thưa:

- Hôm nay Hòa thượng phải vì con nói. Nếu chẳng nói, con đánh Hòa thượng.

Đạo Ngô nói:

- Đánh thì mặc cho ông đánh, nói tức chẳng nói.

Sư liền đánh.

Khi về đến viện. Đạo Ngô bảo Sư:

- Ông nên từ giã đi, e Tri sự biết được việc này không tốt.

Sư lễ bái từ giã ra đi, vào ở ẩn nơi thôn việc trải qua ngót ba năm. Một hôm chợt nghe đồng tử tụng kinh Phổ Môn đến câu “Nên dùng thân Tỳ-kheo được độ tức hiện thân Tỳ-kheo”, bỗng nhiên Sư đại ngộ, bèn đốt hương lễ bái nói: “Rõ thật lời của Tiên sư để lại trọn chẳng hư dối, tự ta chẳng hội, lại oán trách Tiên sư”.

Trong kinh Phổ Môn đức Phật nói rõ về năng lực thần biến thị hiện của Bồ tát Quán Thế Âm. Chúng sanh mong muốn có La hán thì Ngài hiện thân La hán, chúng sanh mong muốn Bích chi Phật thì Ngài hiện thân Bích chi Phật, hoặc làm Phạm Vương, Đế Thích, Thiên đại tướng quân, Tỳ-sa-môn Thiên vương, hoặc làm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… mà để độ chúng sanh thoát ra khỏi con đường sanh sanh tử tử. Đây là bổn phận của mỗi hành giả công hạnh sâu dày tùy theo đại sự nhân duyên. Pháp này tuyệt đối siêu Phật vượt Tổ. Kinh Duy Ma nói “Pháp này không có chỗ so sánh, không có chỗ tương đối”.

Lục Tổ Huệ Năng cũng nói:

“Pháp này phải đến trong tánh Phật mà cầu, chớ hướng ngoài thân mà cầu, phải tự thấy Bản tánh, mê thì làm chúng sanh, giác tức là Phật.

Như nói quy y Phật, Phật ở chỗ nào? Từ ngày nay trở đi xưng “Giác” làm Thầy, lại chẳng quy y tà ma ngoại đạo, dùng Tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh, khuyên thiện tri thức quy y Tự tánh Tam Bảo. Phật là Giác, Pháp là chánh, Tăng là Tịnh vậy. Tự tâm quy y gọi là Lưỡng túc tôn. Tự tâm quy y Chánh, niệm niệm không tà kiến, vì không tà kiến tức là không nhân ngã cống cao, tham ái chấp trước gọi là Ly dục tôn. Tự tâm quy y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao ái dục, tự tánh đều không nhiễm trước, gọi là Chúng trung tôn. Nếu tu hạnh này, ấy là tự quy y”.

Đây là tiêu biểu ngôn cú “Tự tâm chúng sanh tức là Tự tâm giác ngộ”, có thể nói đây chính là chỗ chỉ thú của Thiền tông lấy “Minh tâm kiến tánh” làm nền tảng cho sự giác ngộ giải thoát.

V. ĐƯỜNG HƯỚNG PHẬT TÂM TÔNG:

          Thiền tông chủ xướng đường hướng “Kiến lập pháp tràng giương cao ngọn cờ chánh pháp”. Nương Phật sự làm gia nghiệp, lấy việc độ sanh làm bản hoài, tùy duyên kiến lập đạo tràng mở mang tông chỉ để tiếp độ chúng sanh. Những bậc Thiền sư có chí hạnh rộng lớn, không ngại nhọc gian lao để tiếp Tăng độ chúng. Như Tổ Đạt Ma từ Thiên Trúc lặn lội qua xứ Trung Thổ để nêu cao ngọn cờ chánh pháp, chỉnh lý cơ đồ Phật giáo và chủ xướng Thiền phong:

Bất lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền.
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.

Song con đường mà các chư Tổ trải qua thật là lắm nhiều trở ngại, mạng sống của các Ngài như “chỉ mành treo chuông”, do đó Tổ đã bị Lưu chi Tam Tạng ám độc có hơn sáu lần và cuối cùng thấy cơ duyên sắp mãn, Tổ sẵn sàng cam chịu đầu độc rồi an nhiên thị tịch. Hôm ấy là ngày mùng 9 tháng 10 năm Bính Thìn, nhằm niên hiệu Đại Thông năm thứ hai nhà Lương (529TL)


Rồi đến sự thọ nạn của Nhị Tổ Huệ Khả cũng tương tợ như Sơ Tổ Đạt Ma không khác. Sau khi Sư được Sơ Tổ Đạt Ma truyền y bát, Sư đến huyện Quảng Thành nơi tam quan của chùa Khuông Cứu diễn nói đạo Vô thượng, thính giả kéo đến đông như rừng. Lúc đó, Hòa thượng Biện Hòa làm pháp sư ở chùa ấy đang giảng kinh Niết Bàn, mọi người nghe pháp sư thuyết pháp dần dần bỏ đi, rút đến chỗ Sư đang giảng nói. Biện Hòa vô cùng căm tức bèn đi vu cáo Sư nơi trưởng ấp là Địch Trọng Khản. Khản nghe lời tà, buộc tội sư làm chuyễn phi pháp liền gia hình. Sư vui vẻ chấp nhận.

Bởi vậy chúng ta thấy rõ mặc dầu có nhiều người, thân tuy ở trong cửa đạo mà tâm vẫn còn chạy theo sắc tướng, nhiễm đắm hư danh để chuốc họa vào thân và đọa đày trong các loài phi cầu tẩu thú …

Như Thiền sư Huyền Giác nói:

Khứ thánh viễn hề tà kiến thân
Ma cường pháp nhược đa oan hại
Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn
Hận bất diệt trừ như ngõa toái
Tác tại tâm, ương tại thân
Bất tu oan tố cánh vưu nhân
Dục đắc bất chiêu vô gián nghiệp
Mạc báng Như Lai chánh pháp luân.

Tạm dịch:

 

Hiền thánh xa rồi, tà vạy sâu
Ma mạnh pháp yếu nhiều ác tệ
Nghe nói Như Lai pháp đốn tu
Hận chẳng nghiền nát như ngói bể

Tại tâm làm, tại thân chịu
Đừng có kêu oan chớ trách người

Muốn khỏi nghiệp vương muôn kiếp lụy
Vành xe chánh pháp chớ chê ngươi.

 

Vì vậy đường hướng của Phật tâm tông có hai chiều rõ nét: một mặt mở đạo tràng khắp nơi để thâu nạp những người có chí hướng thượng và có tâm ý muốn tiến thẳng vào con đường giải thoát tri kiến, một mặt đem tinh túy của Thiền tông hoằng truyền cho những người có nhân duyên “xả thân cầu đạo, xả phú cầu bần”.


Nói chung, đường hướng của Thiền tông là đường hướng “Truyền tâm yếu Phật”. Thế nên có nhiều phương tiện, có nhiều nguyện lực, cũng có nhiều đức trí để phát huy tông yếu tế độ quần sanh.

Bởi thế, đường hướng của Thiền tông, không hạn cuộc một bề mà phân ra có nhiều phương hướng để tùy duyên hóa độ đủ mọi thành phần trong xã hội.

Như xưa ở xứ Ấn Độ có ngài Duy Ma Cật, ở Trung Hoa có ông Bàng Long Uẩn, có Việt Nam có Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ và vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông… Tuy các Ngài mang hình thức cư sĩ song chỗ chứng ngộ của các Ngài đều lấy “trời xanh làm nhà, chúng sanh làm bạn hữu”. Như Tuệ Trung Thượng Sĩ nói kệ:


VÀO CÁT BỤI

Xăm xăm cất bước vào bụi đời
Vàng óng đầu mi, mở khơi khơi
Xóm bắc rong chơi vào bụng ngựa
Nhà đông cười nói nhập thai lừa
Roi vàng đánh đuổi trâu sắt chạy
Dây sắt lôi đầu cọp đá về
Rồi một này  mai băng giá hết
Trăm hoa như cũ rộn xuân dài.

Đây nói về đại hạnh nguyện của các bậc Đại Bồ tát. Các Ngài luôn luôn ra vào trong ba đường sáu nẻo hoặc thị hiện làm vua, làm quan, làm trưởng giả, hoặc thị hiện làm những con người danh vọng và quyền uy nhất trong nước… Đây là hình ảnh sống động nhất và cũng là thiết thực nhất trong quá trình hoằng pháp lợi sanh, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn.

Nhìn chung các bậc Bồ tát là những con người không khác chúng ta, song Bồ tát có những đặc tính và phương tiện thiện xảo.

1.     Trí tuệ siêu việt.

2.     Công hạnh rộng lớn.

3.     Tình thương rộng lớn.

Sao gọi là trí tuệ siêu việt? Vì Bồ tát dùng trí tuệ thấy rõ các pháp đều như huyễn, như mộng, như bóng chớp… nên Bồ tát sẵn sàng lao vào cuộc đời này để dìu dắt cho tất cả chúng sanh lên bờ giải thoát. Song tuy thực hành hạnh lợi tha mà dưới con mắt của các Ngài không thấy mình giáo hóa và người được giáo hóa. Đó là tinh thần vô ngã vị tha của nhà Phật, mà cũng chính là nhân tố đưa hành giả đến con đường Phật quả.

Sao gọi là công hạnh rộng lớn? Bồ tát dùng vô số phương tiện thiện xảo và bi nguyện rộng lớn độ vô lượng vô số chúng sanh mà không biết mệt mỏi.  Có khi các Ngài thị hiện vào chốn khổ đau cùng cực như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… để dìu dắt cho chúng sanh tỏ sáng tánh tri kiến của chính mình. Như có người đến hỏi một vị Thiền sư:

- Hòa thượng sau khi chết đi về đâu?

- Làm lừa, làm ngựa!

- Sau đó thế nào?

- Ta vào địa ngục.

- Hòa thượng là bậc đại thiện tri thức vì sao bị vào địa ngục?

- Ta không vào địa ngục thì ai đến đó giáo hóa ông?

Sao gọi là tình thương rộng lớn? Bồ tát dùng con mắt Bát Nhã thấy rõ giữa mình và chúng sanh vốn đồng một thể tánh sáng suốt. Song do một niệm bất giác vọng động truy cầu nên chúng sanh chìm đắm trong tham ái trần cấu. Bồ tát khởi lòng đại bi bình đẳng xem tất cả chúng sanh như người thân của chính mình, thấy chúng sanh đau khổ Bồ tát cảm thấy như mình đang đau khổ. Bồ tát luôn lấy cái khổ của chúng sanh làm cái khổ cho mình nên các Ngài vận dụng lòng từ vô duyên (lòng từ không mục đích) bắc nhịp cầu sanh tử đưa chúng sanh thoát khỏi cảnh sanh tử.

Như Tăng hỏi Thiền sư Triệu Viễn ở Thạch Môn Tương Châu:

“Tăng hỏi: - Thế nào là tác dụng thầm kín của Hòa thượng?

Sư đáp:
- Nước giọt chẳng mục đích
  Ngàn núi chẳng bày thân”.

Lại nữa, bi nguyện của Bồ tát thật là vĩ đại. Tuy các Ngài đã thành tựu Nhất thể vô tướng mà chẳng thể chứng vô tướng, tuy chứng pháp thân thường trụ mà vẫn bi nguyện tiếp vật độ sanh, tùy theo tánh dục của chúng sanh mà thi thiết các phương tiện thiện xảo, hoặc làm dâm nữ, hoặc làm kẻ say, hoặc làm kẻ bần cùng, cũng đờn ca, cũng uống rượu ăn thịt, nhưng không đắm nhiễm các pháp. Đó là hình ảnh “ở trần mà chẳng nhiễm trần” chỉ vì tùy theo nghiệp dụng của chúng anh mà thị hiện ra các tướng. Song đáo cùng đều lấy “không” làm tự thể, “sắc” làm hoạt dụng. Thật là:

Trúc ảnh tảo giai trần bất động
Nguyệt luân xuyên hải thủy vô ngân.


Tạm dịch:

Bóng trúc quét sân bụi chẳng động
Vầng trăng xuyên biển nước không chao.

Như trong quyển Thiền Học Tập Thành có nói về một vị Thiền sư thị hiện để dạy dỗ các đệ tử:

“Xưa có một vị Thiền sư không rõ họ tên, Ngài đã đến trình độ nội chứng thâm sâu. Để đánh thức số người còn chấp trước, Ngài sống một cuộc đời thật thoải mái, ăn uống hỗn tạp, đụng mặn ăn mặn, đụng chay ăn chay, ăn không có chọn lựa, vì thế các đệ tử của Ngài thấy thế cũng bắt chước theo Ngài.

Một hôm có đám hỏa táng, Ngài liền gọi các đệ tử bắt chước hành động của Ngài đi đến nơi hỏa táng. Khi thiêu xác, Ngài gọi các đệ tử đến gần, đến khi tro tàn còn sót lại ít thịt cháy xém, Ngài bèn trộn với đồ ăn thịt cá. Ngài ngồi ăn thản nhiên và bảo các đệ tử đến ăn chung. Các đệ tử người nào cũng xám mặt ói mửa.

Lúc đó, Thiền sư mới bảo: - Ta sở dĩ thị hiện ăn uống như thế này, vì nhiều đời đã tu hành phạm hạnh nên không có chọn lựa như ngày nay. Nếu các ông ngang đây cùng ta ăn uống thì mới duy trì sự ăn uống này.

Các đệ tử nghe rồi liền cung kính ngày đêm lo tu hành giữ giới phạm hạnh”.

Do đó, Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói:

“Cắt tim không đau mới cho ăn thịt. Uống rượu như uống nước tiểu thì mới cho uống. Thấy gái đẹp như thấy tử thi thì mới cho hành dâm. Tuy nhiên như thế cũng chưa thuận nghịch được, há huống chi chưa được mà phạm phải. Khốn thay! Khốn thay!”

Bởi vậy, chúng ta thấy rõ người xưa rất dè dặt về chỗ này, chưa được nói được, chưa chứng nói chứng dẫu cho được thuận nghịch. Song đời này cũng làm người mô phạm như Thiền sư Nam Nhạc làm người mẫu mực ở dất Dĩnh mười một năm rồi mới ra giáo hóa. Người xưa đã còn như thế, huống nữa chúng ta ngày nay vui cười hỉ hả tham nhiễm thế tình, có ai nói thì bảo rằng tùy duyên vô quái ngại! Sao không tự xét lại khi chúng ta vui cười tâm chúng ta còn chạy theo dục nhiễm hay không? Nếu còn thì phải ngày đêm ráng cố gắng công phu tu tập để quên sạch tập khí dư thừa thì mới có chút phần tương ưng. Nếu không thì “gieo nhân lành mà chuốc lấy quả dữ”. Như Ngài Quy Sơn nói:

“Nếu có kẻ trung lưu, chưa thể nhất thời vượt bực, hãy để tâm nơi giáo pháp, bối diệp ôn tầm, tìm tòi nghĩa lý, truyền bá rộng sâu, dẫn dắt người sau để trả ơn Đức Phật; cũng chẳng nên phung phí thời giờ, quyết phải dùng nó để phò trì chánh pháp. Đến như uy nghi trụ chỉ cũng là pháp khí trong Tăng.

Chúng ta đâu chẳng thấy dây sắn nương quấn cội tùng mà vượt lên ngàn trượng, ấy cũng bởi nương nhờ thắng nhân, mới có thể được nhiều lợi ích.

Hãy tha thiết tu trì trai giới, chớ nên dối thiếu vượt qua, kiếp kiếp đời đời gắng gieo trồng nhân quả thù diệu.

Chớ nên lần lựa qua ngày, dần dần hết buổi, thì giờ đáng tiếc lại chẳng cầu tiến lên! Đó là luống tiêu của mười phương tín thí, cũng chính là cô phụ bốn ơn, tội lỗi chứa chất càng nhiều, lòng trần dễ bề khỏa lấp, sự lý không thông bị người khinh phụ.

Cổ đức dạy rằng: Kia đã trượng phu ta cũng vậy. Chẳng nên tự khinh mà thối chuyển. Nếu không như thế, luống ở cửa thiền, lê lết một đời không điều lợi ích”.

Các bài mới

Các bài đã đăng

Pháp Thoại

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 89088
  • Online: 48