Điều Phục Thân Tâm
10/06/2025 | Lượt xem: 48
HT.Thích Thanh Từ
Theo thông lệ vào mùa An cư, tôi có ít lời sách tấn chư Tăng Ni nỗ lực tu học.
Trước tiên, chúng tôi nhận định đạo Phật không phải là một tôn giáo. Điều này khiến nhiều người ngạc nhiên, thắc mắc vì sao chúng ta cũng thờ cúng lễ lạy nhưng không phải là tôn giáo? Ở đây xin giải nghĩa chữ “tôn” là cao quý trên hết, “giáo” là lời dạy của bề trên. Lời phán dạy của đấng tối cao phải quý kính tuân hành, không thể sai khác. Đó gọi là tôn giáo. Đệ tử Phật tôn kính đức Bổn Sư vì sự hướng đạo của Ngài đem đến lợi ích trong hiện tại và tương lai, không phải để được ban ân hay bị giáng tội. Hai khái niệm khác biệt rõ rệt.
Theo cách nhìn của chúng tôi, “đạo” là con đường. “Phật” là giác ngộ. Thực hành lời Phật chỉ dạy, đi con đường giác ngộ giải thoát, đó là tu. Mê lầm là nguồn gốc của mọi đau khổ, muốn hết khổ thì phải giác ngộ, từ đó đi đến giải thoát sanh tử. Mục tiêu của đạo Phật là cứu khổ, đưa chúng sanh từ bờ mê lên bến giác.
Lâu nay chúng ta nghĩ rằng, ngồi thiền bỗng dưng hôm nào đó phát hào quang sáng rực, biết được quá khứ, vị lai là giác ngộ. Quan niệm như vậy là sai lầm, không phải mục tiêu đúng đắn của người đệ tử Phật. Ý nghĩa chữ giác ngộ rất rõ ràng: hiểu sai sự thật là mê, biết đúng như thật là giác ngộ. Cho nên trọng tâm của đạo Phật là phải thấy đúng lẽ thật.
Đặt câu hỏi, giác ngộ điều gì là tối yếu? Đạo Phật nhắm thẳng vào con người. Thấy chân thật, thân quý là mê. Biết nó không thật, giả tạm là giác. Người xuất gia cạo tóc cho xấu, mặc đồ lam lũ cho xấu thêm chút nữa, ăn uống đạm bạc không quá chú trọng chăm sóc cơ thể. Cho nên phải giác ngộ mới can đảm xuất gia. Dù vậy cũng chỉ là giác ngộ bên ngoài.
Vào chùa thời gian đầu, chúng ta chưa thể giác ngộ hết những điều Phật dạy đâu, còn mù mờ lắm. Bởi vì chỗ hết sức thiết yếu chúng ta lại không dám nhìn nhận. Cuộc đời này, thân mạng này là không thật mà thiên hạ cho là thật. Nhưng trong gia đình có người thân bệnh chết, những vị còn lại than khóc não nề, họ không chấp nhận được. Rõ ràng sống còn hoạt động cho là thật. Đến lúc nín thở, nằm xuôi tay như khúc gỗ thì hết thật. Điều này xưa nay như thế, ai không chấp nhận thì khổ. Người hiểu sự thật ấy thì bình thường trước mọi được mất đổi thay.
Chúng ta phải nhìn xa một chút, thấy người chết biết mình ngày nào đó cũng sẽ chết. Hồi xưa, thái tử Tất-đạt-đa chỉ thấy một người chết là Ngài giác ngộ, quyết chí xuất gia tu hành đến thành tựu Phật đạo. Chúng ta hộ niệm bao nhiêu đám tang nhưng vẫn chưa thật ngộ. Thấy giả trong lúc đó, sau lại quên mất. Bởi do không dám nhìn thẳng lẽ thật. Như vậy si mê của mình sâu dày cũng phải đến vài chục thước tây.
Vì vậy người trí khi nhìn thấy thân nhân từ giã cuộc đời ra đi biết rằng lúc nào đó cũng đến lượt mình. Người lớn tuổi đi trước, mình nhỏ hơn sẽ đi sau. Có khi người nhỏ tuổi đi trước, chúng ta càng giật mình tỉnh lại, nhớ rằng người ta giả thì mình thật sao được. Đó là tỉnh giác. Hằng nhớ như vậy thì xuất gia, tại gia tu đều lợi lạc.
Người thế gian cho rằng thân mình là thật nên giành giật danh lợi, tài sắc, gây tội chịu khổ trầm luân muôn kiếp. Nếu thấy giả thì những điều làm thương tổn, phiền hà người khác nhất định không làm. Được như vậy việc tu rất dễ dàng, nhanh tiến. Ngược lại nếu lầm tưởng thân là thật, dù ham tu nhưng rồi cũng muốn thọ hưởng, rốt cuộc chẳng tu tới đâu.
Ham tu mà ai khen thì chịu, chê lại giận là còn ích kỷ sai lầm. Nhiều người nghe khen ngợi mới phấn khởi tu. Mặc dù Phật đã chỉ rõ sắc thân duyên hợp, sẽ đến lúc rã tan, chúng ta vẫn nghĩ mình thật. Nên khi làm Phật sự, huynh đệ mến, Phật tử ủng hộ thì hăng hái, bằng ngược lại bị chỉ trích liền buông xuôi, chán nản. Nếu biết rõ mình không thật thì những thứ đó như huyễn. Làm việc lành, phụng sự Tam bảo là thực hành theo bổn nguyện, với mục đích cao thượng không mong ca ngợi, phước báu. Vì đạo mà làm, tu vậy mới đúng.
Nếu còn thấy mình thật thì dù tu lâu năm cũng không tiến. Nhiều khi huynh đệ nói qua nói lại một hai lời cũng nổi sân cự cãi, mất hết giá trị người tu. Chúng ta vì giác ngộ cuộc đời tạm bợ nên xuất gia cầu giải thoát sanh tử. Con đường đã vạch sẵn, những trăn trở, chướng ngại đều nhất định vượt qua. Quả quyết như vậy nên ngày nào còn có mặt thì phải nỗ lực tu. Luôn luôn tỉnh giác thấy thân giả, lời nói giả, cuộc đời cũng giả thì sự tu dễ biết chừng nào. Lời khen tiếng chê chung quanh chỉ là trò chơi. Không có gì đáng để bận tâm, phiền lòng.
Kinh Bát Nhã Phật dạy, Bồ-tát Quán Tự Tại chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách, nghĩa là Bồ-tát quán chiếu thân từ không, duyên hợp giả có, không thật liền vượt qua tất cả khổ ách. Cho nên nghèo cũng không khổ, làm bao nhiêu chi dùng bấy nhiêu, sống qua ngày. Bề ngoài khó coi một chút cũng không quan trọng. Thân không thật, đẹp xấu cũng không thật, có gì buồn. Chỉ một câu kinh chúng ta thấu suốt, chịu ứng dụng tu thì mọi khổ ách đều qua.
Chúng ta tụng mỗi ngày cũng chỉ để cho Phật nghe, chưa thật sự hành Bát-nhã, sống Bát-nhã. Cho nên đạo Phật đặc biệt hướng dẫn hành giả phải giác ngộ, không nên tin một cách mù quáng. Thông hiểu lời Phật dạy, áp dụng trong cuộc sống đạt được lợi lạc, đó là biết tu. Nhận rõ thân không thật, giả có là chúng ta đã giác ngộ lẽ thật về thân.
Con người gồm có hai phần, người đời gọi là tinh thần và vật chất, trong đạo gọi là thân và tâm. Thân tứ đại là vật chất, tâm là tinh thần. Nhưng thực sự lâu nay người ta lầm nhận rất nhiều về tâm. Thí dụ vừa khởi nghĩ tìm hiểu suy luận một vấn đề, có người hỏi: “Huynh làm gì đó?”. Đáp: “Tôi nghĩ…”. Như vậy suy nghĩ, xét nét, phân biệt là tôi. Một lúc sau, những suy nghĩ đó trôi qua chúng ta tìm lại không còn bóng dáng. Tìm không ra nghĩa là nó không thật, qua rồi mất. Như vậy một ngày trăm ngàn thứ nghĩ, trăm ngàn cái tôi lộn xộn lăng xăng. Cái nào là tôi thật?
Giác ngộ về thân dường như khó nhưng phân tích ra lại dễ. Giác ngộ về tâm rất sâu kín, khó thấy. Như trong đầu chúng ta có bao giờ được năm phút yên lặng không hề suy nghĩ không? Hết nghĩ chuyện này đến nghĩ việc kia, liên tục không ngừng nghỉ. Dòng nghĩ suy liên tục như nước trôi qua mất hút không tồn tại, không chỗ nơi lại chấp là tâm mình.
Tuy nhiên đa số người chấp suy nghĩ là mình. Huynh nghĩ trắng cho rằng phải, đệ nghĩ đen cũng thấy đúng. Hai người suy nghĩ không giống nhau dẫn đến tranh cãi, có khi dám tát tai. Thật sự không ai hoàn toàn đúng bởi vì bản chất suy nghĩ là không thật. Bám vào đó đặt thành vấn đề hơn thua chỉ sanh rắc rối, khổ đau. Nên biết rằng tôi nghĩ trắng, huynh nghĩ đen cũng chỉ là suy nghĩ của mỗi người, không ai đúng mà cũng chẳng ai sai, có gì tranh cãi.
Thí dụ hồi xưa tổ tiên chúng ta tôn trọng những bậc thánh hiền như đức Khổng Tử, nên lời dạy của các ngài là chân lý, muôn đời không đổi: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Tuy nhiên ngày nay những luân lý đạo đức này đã trở thành lỗi thời, không còn giá trị. Cách nhìn của các ngài thích hợp với thời đại quân chủ tập quyền, vua là tối thượng mới có thể cai trị đất nước, thiên hạ. Bây giờ nhân dân làm chủ, đem cách ấy ra áp dụng thì không phù hợp.
Người xưa nói “Tu hành cốt yếu tại tâm”, nhưng biết tu tâm nào? Có người cho rằng nghĩ thiện là tâm tốt nên giữ, nghĩ ác là tâm xấu bỏ đi, đó là tu tâm. Sự thật đến chỗ cứu cánh của nhà thiền thì thiện ác đều buông. Bởi vì khó có thể định nghĩa thiện ác. Thiện ác thế gian chỉ mang tính tương đối. Thí dụ hỗ trợ người nghèo là thiện, nhưng sẽ có người nói: “Anh đó lười lao động nên nghèo đói là đúng rồi giúp đỡ khiến họ càng lười biếng”. Như vậy giúp cho người thêm tật lười biếng thì có phước không? Đó là vấn đề không đơn giản. Cho nên thiện ác không cố định. Tâm chân thật thì không còn thiện ác, hai bên. Chúng ta tu nên bỏ tâm hơn thua, phải quấy, tốt xấu, được mất, trở về chỗ an tĩnh chân thật.
Tu thiền bắt phải ngồi nghiêm trang, đau chân gần chết vẫn phải chịu đựng một tiếng rưỡi, hai tiếng đồng hồ. Đó là để tự mình khắc phục cho được sự khó khổ trên thân. Thân cực khổ vẫn dễ thắng hơn tâm. Trong đầu lăng xăng muốn ngừng nhưng vẫn cứ chạy, nắm cái này nó tuột qua cái kia, không dừng bao giờ. Vọng tưởng là bóng dáng của các trần đã ghi sâu trong tàng thức, sẵn sàng xuất hiện bất cứ lúc nào, không thể ngăn cản, ngừa đón. Thực sự muốn thắng tâm vọng tưởng trước phải thắng thân. Hàng phục thân thành công mới có khả năng hàng phục tâm. Thân nhọc nhằn một chút chịu không nổi, sẽ không bao giờ hàng phục nổi tâm.
Từ lâu nay chúng ta làm nô lệ cho tâm lăng xăng điên đảo. Cả một cuộc đời bị nó câu thúc không yên. Bây giờ dừng lặng lại gọi là định. Tâm chân thật chính là cái thấy biết vọng. Chỉ có thật mới thấy được giả. Lăng xăng là giả, chợt có chợt mất không thể thấy cái thật. Cho nên trong lúc công phu, chúng ta khéo điều phục thân tâm, áp dụng lời chỉ dạy của Phật tổ thì sự tu có kết quả.
Ở đây tôi dẫn giải bài kệ hô thiền để Tăng Ni, Phật tử ứng dụng tu cho đúng. Bài kệ đầu hôm bắt đầu bằng hai câu:
Canh một nghiêm trang ngồi tĩnh tu.
Tinh thần tịch chiếu đồng thái hư.
Dừng lặng gọi là “tịch”. Lặng mà biết gọi là “chiếu”. Khi tâm lăng xăng lóng yên thì tâm chân thật hiển lộ lặng lẽ, sáng suốt, trùm khắp hư không. Niệm dấy lên biến mất liên tục. Tâm thì thầm lặng, rõ ràng, thênh thang vô kể.
Muôn kiếp đến nay chẳng sanh diệt,
Đâu cần sanh diệt diệt gì ư?
Chân tâm tịch chiếu từ muôn kiếp đến nay chưa từng sanh diệt. Tổ dạy ngồi yên tịnh, tâm lặng thì trí sáng, từ đó sống trở lại với bản tánh sẵn có của chính mình. Nhưng làm sao để những vọng tưởng đảo điên dừng lặng?
Nhiều vị hiểu lầm ngồi thiền là diệt vọng. Sự thật, vọng hư dối, nó đâu có thật mà diệt, nên tôi chủ trương “Biết vọng”. Thấy biết nó giả dối chỉ cần không chạy theo, không bị dẫn. Khi tâm hiện lên một bóng giả, biết giả không thèm theo, nó tự lặng trở về bản thể. Câu kệ đánh thức thiền giả đừng nhầm lẫn thấy vọng liền diệt, không vọng lại cố tìm để diệt. Vọng lặng thì chân hiện, đầy đủ không cần tìm kiếm.
Gẫm xem các pháp đều như huyễn,
Bản tánh tự không đâu dụng trừ.
Người tỉnh giác thấy các pháp thế gian tánh Không, duyên hợp giả có, tạm bợ, huyễn hóa nên không sợ hãi muốn trừ bỏ. Đó là thấy biết bằng trí tuệ. Như người tỉnh táo đâu bao giờ cầm dao đâm bóng mình cho chết. Chỉ có kẻ ngu si không biết bóng là giả, mới cố công diệt bóng. Như đang ngồi thiền chợt hiện lên vọng tưởng: hôm qua có người nói thầy tu không ra gì, nổi bực; liền nhớ các pháp huyễn hóa, mình còn giả dối huống nữa lời khen chê. Ngay đó tỉnh, không cần trừ diệt. Ngược lại, nghĩ mình tu nghiêm chỉnh vậy mà họ dám chê thì sự bực bội tăng trưởng. Có khi cố gắng nghĩ ra câu nói nào nặng nề hơn để ăn thua với người đó, như thế càng chìm sâu trong mê muội. Vậy là tự giết hết thời giờ quý báu của mình. Biết các pháp huyễn hóa thì những hồi tưởng buồn vui thương ghét dấy khởi, chúng ta chỉ cười, tự nhiên nó lặng.
Nếu biết tâm tánh không tướng mạo,
Lặng yên chẳng động tự như như.
Tất cả tướng mạo của vọng tâm đều hư dối. Chân tâm bản tánh không hình tướng nhưng hằng tri. Buông xả đến một lúc tâm lặng yên, tự nó như như. Tâm tánh luôn sẵn đó nên một khi sạch hết vọng tưởng, nó liền hiện bày đầy đủ.
Tiếp theo là bài kệ hô thiền vào canh năm, lúc 3 giờ sáng. Đây là lúc ngủ ngon nhưng chúng ta thức dậy rửa mặt tỉnh táo lên Thiền đường. Bước lên bồ đoàn trí tuệ sáng suốt vô biên, không ngằn mé.
Canh năm Bát-nhã chiếu vô biên,
Chẳng khởi một niệm khắp tam thiên.
Dám bỏ cơn ngủ say sưa đi ngồi thiền đã là trí tuệ rồi. Nếu lên bồ đoàn ngồi đàng hoàng, tỉnh táo thì trí tuệ Bát-nhã xuất hiện.
Khi ngồi tu, tâm lặng yên không vọng tưởng, không tướng mạo, cũng không giới hạn gọi là khắp tam thiên. Không một niệm dấy động mà hằng giác hằng tri, đó là Phật. Tu là trở về ông Phật của mình, không nên mong cầu Phật bên ngoài đến vò đầu, ban cho trí tuệ hay rước lên Niết-bàn.
Muốn thấy chân như tánh bình đẳng,
Dè dặt sanh tâm trước mắt liền.
Chân như là chân thật như như, không biến chuyển, sẵn có nơi mỗi người, nên nói là bình đẳng. Muốn thấy tánh ấy phải đừng dấy khởi vọng, tức thì nó hiện ngay trước mắt. Tuy nhiên đó cũng chỉ là gượng nói. Thật ra khi không còn một niệm, chân như bình đẳng hiển lộ ngay nơi tâm mình, không phải bên ngoài. Vì vậy chúng ta không cần tìm cầu Phật ở đâu, chỉ chính mình lóng lặng tất cả những lăng xăng thì chân tâm hiện tiền.
Lý diệu ảo huyền khôn lường được,
Dụng công đuổi bắt càng nhọc mình.
Vọng cầu những phép lạ mầu nhiệm, phi thường là bệnh chung của nhân gian. Đối với người tu thiền, tìm bắt những điều ảo huyền chỉ luống học thân tâm. Nhiều vị tu muốn có thiên nhãn, thiên nhĩ thông... phải biết rằng những thứ đó không thật, cũng không cần thiết. Quan trọng là trở về sống với bản tâm. Khi Phật tánh viên mãn thì diệu dụng tự phát. Thái tử thành Phật tự nhiên có thần thông, chẳng do tìm cầu.
Nếu không một niệm mới thật tìm,
Còn có tâm tìm toàn chẳng biết.
Hai câu sau cùng rất quan trọng. Muốn chân tâm hiện ra phải dừng mọi vọng tưởng, ngay cả ý muốn nhận thấy bản tánh cũng phải bỏ. Được như vậy mới thật dừng lặng. Khi ấy tâm bất sanh bất diệt hiển hiện đầy đủ nhiệm mầu. Nếu còn cố tìm cũng chỉ là uổng công vô ích.
Tóm lại, hai bài kệ trên là lời nhắc nhở hành giả khi dụng công. Một là phản quan tự kỷ, không chạy theo vọng tưởng, uổng phí thời gian tu hành quý báu. Hai là đừng mơ ước những phép mầu huyền bí, tà vạy. Phải cố gắng nỗ lực làm chủ, không quên lãng, bản tánh bất sanh bất diệt luôn hiện tiền không khuất lấp.
Đạo Phật dạy cho chúng ta giác ngộ. Thân là duyên hợp giả tạm, đó là một chân lý hiển nhiên. Tâm có hai phần: hư đối và chân thật. Hư dối là những niệm khởi, tác nhân tạo nghiệp sanh tử. Vì vậy phải buông cả tâm thương ghét, hơn thua, phải quấy thì tánh bình đẳng sẵn nơi mình mới hiện ra. Những diệu dụng mầu nhiệm, siêu thoát từ đó cá đủ, không cần tìm kiếm.
Đối với thân tâm phải nhận biết cái gì thật, cái gì giả, để trở về với tánh thật. Mỗi người có đủ quyền năng thành Phật, chỉ cần xoay lại giác ngộ thân và tâm, sống với tánh bất sanh bất diệt sáng suốt. Bồ-tát Sĩ-đạt-ta khi ra đời cũng quên tánh chân như nên Ngài ráng tu, ngồi yên định dưới cội bồ-đề đến khi tâm lặng lẽ, Phật tánh hiển lộ thành Phật. Chúng ta cũng quên, giờ bắt đầu hơi tỉnh tỉnh. Người tỉnh khá thì vào chùa cạo tóc, mặc áo nhuộm. Người tỉnh sơ sơ thì tập ăn chay, ngồi thiền. Đó là bước mở đầu.
Như vậy đạo Phật rất thực tế, không tìm kiếm cầu xin bên ngoài. Ngay nơi mình nhận biết lẽ thật, sống với bản tâm chân thật đó là giác ngộ. Những điều này Phật không ban cho chúng ta, Ngài chỉ là người hướng đạo vạch đường chỉ lối. Mỗi người phải tự bước tự tu, đừng mơ ước, tưởng tượng hão huyền, dẫn đến sai lầm uổng đi một đời. Đó là lẽ thật.
Kết thúc lại, chúng ta nhờ Thế Tôn chỉ đường, hành theo lời Ngài dạy đi đến đích giác ngộ giải thoát, đó là con đường của đạo Phật. Tăng Ni phải biết, gặp Phật pháp, được xuất gia đó là duyên phúc rất lớn, đừng nên xem thường. Cố gắng nuôi dưỡng chủng tử lành mỗi ngày mỗi tăng trưởng. Chúng ta đừng để mang hình thức người tu mà tâm hồn phàm tục, như thế không xứng ở già-lam, thọ nhận của tín thí. Các vị cư sĩ không nên cầu xin ai ban phước, chỉ theo lời Phật dạy ứng dụng tu thì kết quả tự đến.
Đó là lời nhắc nhở của tôi dành cho chư Tăng Ni nhân mùa An cư.
Các bài mới
- Nói Rõ Đường Lối Tu Hành - 27/05/2025
- Đạo Phật Là Đạo Giác Ngộ - 28/04/2025
- Đức Phật Là Bậc Vô Thượng Y Vương - 26/04/2025
- Ý nghĩa hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm - 18/03/2025
- Ý nghĩa xuất gia - 04/03/2025
Các bài đã đăng
- Niềm Vui Chân Thật - 01/02/2025
- Phật Thành Đạo - 02/01/2025
- Tinh Thần Giáo Ngoại Biệt Truyền - 24/12/2024
- Hai ông vua xem Ngai vàng như dép rách - 30/11/2024
- Đặc Điểm Của Thiền Tông Việt Nam - 19/11/2024
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Video mới
- Thanh Từ Toàn Tập - Quyển 13: Đại Thừa Khởi Tín Luận, Thập Nhị Môn Luận giảng giải
- Thanh Từ Toàn Tập - Quyển 12: Trung Luận Giảng Giải
- Thanh Từ Toàn Tập-Quyển 11: Kinh Hoa Nghiêm Trích Giảng (Phần 02)
- Thanh Từ Toàn Tập - Quyển 10: Kinh Hoa Nghiêm Trích Giảng (Phần 01)
- Thanh Từ Toàn Tập - Quyển 9: Kinh Đại Bát Niết-Bàn trích giảng
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 32753
- Online: 15