Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Giảng Giải (Phần 08)

07/09/2023 | Lượt xem: 1262

HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng giải

Chánh văn:

Có vị khách hỏi:

-  Đệ tử chưa biết Luật sư, Pháp sư, Thiền sư vị nào hơn cả, cúi xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy?

Sư đáp:

-  Luật sư là người mở pháp tạng Tỳ-ni (luật), truyền nề nếp làm mạng sống, thấu suốt Trì Phạm thông đạt Khai Giá, giữ oai nghi để làm mô phạm, phổ cáo ba phen yết-ma để làm nhân sơ khởi cho bốn quả (Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán). Nếu chẳng phải là hàng trưởng lão đức dày thì đâu kham đảm trách. 

Giảng: 

Luật sư là người nắm giữ giới luật. Phật dạy giới luật phân biệt rõ Khai, Giá, Trì, Phạm. Ví dụ Phật tử thọ năm giới rồi, có vị nào được mời đi uống rượu cho vui mà tùy hỷ, đó là phạm giới. Như người giữ giới không nói dối. Có thợ săn rượt đuổi thỏ, nó chạy vào nhà mình, thợ săn đến hỏi anh chị thấy con thỏ chạy qua đây không? Mình thấy nó núp trong nhà rõ ràng nhưng nói không. Tại sao nói không? Vì thương muốn cứu mạng nó. Trường hợp đó cho nói dối, gọi là Khai. Trường hợp kia không cho uống rượu mà uống là Phạm. Người giữ luật nắm vững những trường hợp này. Giữ không uống rượu là Trì, uống rượu là Phạm, giới nói dối tuy mình không giữ nhưng không phạm trong khi cứu người, đó là Khai. Vị Luật sư rành rẽ nghi thức, làm pháp yết-ma cho chư tăng thọ giới Thanh văn. Người như vậy là hàng trưởng lão có đầy đủ đức hạnh mới đảm trách được.

Chánh văn: 

Pháp sư là người ngồi tòa sư tử, biện luận thông như nước chảy, đối với nhiều người đông chúng soi thấu cổng huyền, mở cửa Bát-nhã nhiệm mầu, bình đẳng bố thí tam luân không tịch. Nếu chẳng phải là hàng long tượng làm sao dám đảm đương. 

Giảng: 

Pháp sư là người đăng tòa thuyết pháp, mở rộng cửa huyền vi mầu nhiệm của Phật pháp cho nhiều người, khai sáng trí tuệ cho chúng sanh. Người nghe pháp từ chỗ Pháp sư có thể thấu suốt đạo lý mà tu tập. Vị này bình đẳng bố thí pháp, nghĩa là giảng pháp mà không thấy có người nói, người nghe, pháp được nói, gọi là tam luân không tịch. Người như vậy phải là hàng long tượng đạo cao đức trọng thì mới đảm đương được.

Chánh văn: 

Thiền là người nắm được then chốt của đạo, thấu suốt nguồn tâm, ra vào co duỗi, tung hoành tùy vật ứng hiện; sự lý thảy đồng, chóng thấy Như Lai, nhổ gốc sâu sanh tử, được tam-muội hiện tiền. Nếu chẳng phải người an thiền tịnh lự đến chỗ ấy thảy đều mờ mịt. 

Giảng: 

Then chốt của đạo là cốt tủy chính yếu của đạo đức tu tập, thiền sư phải nắm vững. Thấu suốt nguồn tâm, thấu tỏ tâm tánh, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo điều kiện mà xử sự. Sự lý thảy đồng, chóng thấy được pháp thân. Nhổ gốc sâu sanh tử, được chánh định hiện tiền. Nếu người chưa dứt tâm lăng xăng được định lóng trong thì có nói có giảng cũng làm cho người nghe tối mù, không lãnh hội được.

Chánh văn: 

Tùy căn cơ thọ lãnh pháp tu, ba môn học tuy khác mà được ý quên lời thì đồng Nhất thừa đâu sai biệt. Cho nên kinh nói: “Trong cõi Phật ở mười phương, chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói, chỉ tạm mượn danh tự, để dẫn đường cho chúng sanh.” (Kinh Pháp Hoa). 

Giảng: 

Luật sư, Pháp sư, Thiền sư tuy là ba nhưng thật ra chỉ là một, tùy theo căn cơ mà lãnh pháp tu, ba môn học tuy khác, nếu được ý quên lời thì đồng nhất thừa không sai biệt. Được ý là nắm chỗ gốc Luật để ngừa đón tâm chạy theo ngoại trần, không gây tội lỗi. Tâm không chạy là dừng tâm hư vọng; khi ngừa đón được hoàn toàn rồi thì tâm thanh tịnh, trở về gốc chân thật. Pháp sư dạy đạo lý khai mở Phật pháp cho chúng ta tu hành thấu suốt chỗ nhiệm mầu tiến đến giải thoát.  

Vậy Luật sư và Pháp sư không hai. Thiền sư chỉ cho ta đến chỗ chân thật. Nếu ai đến rồi thì tuy ba mà một, không riêng khác.

Cho nên kinh nói: “Trong cõi Phật mười phương, chỉ pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói, chỉ tạm mượn danh tự, để dẫn đường cho chúng sanh”. Kinh Pháp Hoa nói chư Phật ở mười phương chỉ có một Nhất thừa, tức là Phật thừa, không hai cũng không ba. Trừ phương tiện nói, vì phương tiện mà lập ra thứ lớp cho người ta dễ đi, dễ nhận, cứu cánh trở về nhất Phật thừa. Trong Phật pháp lập ra nhiều danh từ chung quy cũng dẫn đường chúng sanh đến Phật thừa, nhận được Phật tánh của mình sẵn có. Tất cả pháp tu, pháp nào cũng đều đưa chúng ta đến chỗ cứu cánh là nhận chân được nơi mình có Phật. Buông xả tất cả những niệm tưởng lăng xăng để sống thật với Phật của chính mình, đó là gốc.

Chánh văn: 

Khách thưa: 

-   Hòa thượng thâm đạt ý chỉ của Phật, được biện tài vô ngại. 

Lại hỏi thêm: 

-   Tam giáo Nho, Đạo, Thích là đồng hay khác? Sư đáp: 

Người đại lượng dùng đó thì đồng. Kẻ tiểu cơ cố chấp thì khác. Thảy đều từ trên một tánh khởi dụng, tùy căn cơ thấy sai biệt thành ba, mê ngộ do người, chẳng phải tại giáo đồng hay khác.  

Giảng: 

Khổng, Lão và Phật giáo đứng về người tiểu cơ tiểu trí thì thấy khác, người đại cơ đại dụng thì đồng. Bởi vì sao? Vì tất cả việc làm việc tu đều trở về chỗ chính yếu là nhận ra tánh chân thật của mình. Mỗi tôn giáo dùng danh từ khác nhau nên dường như khác lạ một chút, sự thật đến cứu cánh thì không hai.

 Chánh văn:

Pháp sư Đạo Quang chuyên giảng Duy thức đến hỏi: 

-   Thiền sư dùng tâm nào tu đạo? Sư đáp: 

-   Lão tăng không tâm có thể dùng, không đạo có thể tu. 

Đã không tâm có thể dùng, không đạo có thể tu, tại sao mỗi ngày họp chúng khuyên người học thiền tu đạo? 

-   Lão tăng còn không có chút đất cắm dùi thì chỗ nào họp chúng lại. Lão tăng còn không có lưỡi thì đâu từng khuyên dạy người. 

-   Thiền sư đối diện mà nói dối. 

Lão tăng còn không có lưỡi khuyên người thì đâu biết nói dối. 

Thật tôi không hiểu lời luận nghị của Thiền sư. 

-   Lão tăng tự cũng chẳng hội. 

Giảng: 

Lối đối đáp này người ngoài nghe không thể hiểu nổi, vì ngài phủ nhận tất cả. Nên biết ở đây người hỏi là đứng về tướng, người đáp là đứng về tánh. Đứng về tướng để hỏi thì cái gì cũng thật, có hình thức tu có chùa có họp chúng giảng kinh. Ngài đứng về tánh để trả lời, không đất cắm dùi, vì không có một pháp thật thì có đất đâu mà cắm dùi. Rồi như kinh Bát-nhã nói không có mắt tai mũi lưỡi... Các pháp tánh không nên mũi lưỡi không thật, tất cả đều không thật thì làm sao có lưỡi để nói. Không đất cắm dùi, không lưỡi để nói thì lấy gì để dạy. Nghe như vậy Pháp sư cho rằng ngài nói dối, ngài đáp cái lưỡi tôi còn không có, huống là nói dối. Như thế đứng về tướng mà hỏi thì cái gì cũng có, đứng về tánh trả lời thì các pháp đều không. Bởi không nên không có đất cắm dùi. Bởi không nên không có lưỡi để đáp... Người không hiểu thì cho rằng ngài đáp không được nên nói dối cho qua, sự thật lại không phải, các pháp tánh không chẳng có gì là thật. Hiểu chỗ này chúng ta mới thấy các thiền sư ngày xưa dạy đạo thật chí lý, không phải thường. 

Chánh văn: 

Pháp sư Chí chuyên giảng kinh Hoa Nghiêm đến hỏi: 

- Tại sao chẳng nhận “Trúc biếc xanh xanh đồng là Pháp thân, hoa vàng mịt mịt thảy đều Bát-nhã”? 

Sư đáp: 

Pháp thân không tướng, ứng hiện trong trúc biếc thành hình, Bát-nhã vô tri đối với hoa vàng mà hiển tướng, chẳng phải trúc biếc hoa vàng kia có pháp thân Bát-nhã. Kinh nói: “Chân pháp thân của Phật giống như hư không, ứng vật hiện hình như trăng trong nước.” Hoa vàng nếu là Bát-nhã, Bát-nhã tức đồng vô tình. Trúc biếc nếu là pháp thân, trúc biếc lại hay ứng dụng. Tọa chủ hội chăng? 

Giảng: 

Câu hỏi này lặp lại ý trước, nói rằng pháp thân là trúc biếc, Bát-nhã là hoa vàng. Ngài đáp pháp thân không tướng mà ứng hiện ra tất cả, người ngộ được thì từ đó nhận ra Pháp thân trong hoa vàng trúc biếc..., nhưng Pháp thân không phải là hoa, không phải là trúc.

Chánh văn: 

Chẳng ý này. 

Nếu người thấy tánh nói phải cũng được, nói chẳng phải cũng được, tùy dụng mà nói, chẳng kẹt phải quấy. Nếu người chẳng thấy tánh nói trúc biếc thì chấp trúc biếc, nói hoa vàng thì chấp hoa vàng, nói Pháp thân thì kẹt Pháp thân, nói Bát-nhã mà chẳng biết Bát-nhã. Do đó mà trở thành tranh luận. 

Pháp sư Chí lễ tạ lui ra. 

Giảng: 

Chúng ta không nên mắc kẹt trên ngôn ngữ của Thiền sư. Các ngài tùy bệnh cho thuốc, bệnh nào thì nói thuốc ấy, không hẳn có một pháp thật cố định. Chúng ta thường cho rằng pháp Phật quá hay, thật có pháp là chân lý. Sự thật không phải vậy. Phật như thầy thuốc giỏi, ai có bệnh gì thì Phật cho thuốc ấy. Bệnh hết thì thuốc của thầy cũng ngưng. Có thầy nào bệnh hết mà cứ cho thuốc thêm hoài không? Nếu cứ cho thuốc thêm hoài thì sanh ra bệnh khác nữa. Thuốc dù hay mấy cũng chỉ tạm dùng trong khi bệnh thôi. Lục Tổ dạy: Phật nói tất cả pháp để trị tất cả tâm, ta không tất cả tâm đâu dùng tất cả pháp. Nếu cứ chấp lời Phật lời tổ mà sanh phân biệt tranh cãi thì đó là người không biết tu.

Chánh văn:

Có người hỏi: 

-   Đem tâm tu hành bao lâu được giải thoát?

Sư đáp:

-    Đem tâm tu hành ví như lấy bùn lỏng rửa nhơ. Bát-nhã huyền diệu vốn tự không sanh, đại dụng hiện tiền chẳng luận thời tiết.

Giảng:

Câu trả lời này mới nghe như là khó hiểu. Đa số Phật tử chúng ta cũng thắc mắc muốn biết dụng công tu hành bao lâu được giải thoát. Ngài lại đáp: Đem tâm tu hành ví như lấy bùn lỏng rửa nhơ. Bùn lỏng là chất nhơ, đem rửa nhơ thì chừng nào sạch? Đó là việc làm vô ích. Ý ngài muốn nói thấy có dụng tâm tu là chấp có ngã có pháp, còn có ngã pháp thì khó được giải thoát.

Ngài lại nói thêm: Bát-nhã huyền diệu vốn tự không sanh, đại dụng hiện tiền chẳng luận thời tiết. Chúng ta tu cốt yếu dừng lặng tất cả tâm niệm sanh diệt. Nếu còn khởi dụng tâm để tu thì vẫn còn tâm sanh diệt, nên dụ như đem bùn lỏng rửa vết nhơ. Vết nhơ hết mà bùn lỏng vẫn còn, không phải thật sạch. Nếu chúng ta dùng tâm để dẹp tâm, dùng tâm để trị tâm thì tâm bị dẹp bị trị hết, mà tâm hay dẹp hay trị vẫn còn. Vì thế, ngài nói thẳng: Bát-nhã huyền diệu vốn tự không sanh, đại dụng hiện tiền chẳng luận thời tiết. Trí tuệ Bát-nhã rất nhiệm mầu rất sâu kín, không sanh không diệt, đại dụng đã hiện tiền không luận thời tiết. Người chân thật tu không đem tâm này dẹp tâm kia, chỉ buông bỏ hết tất cả niệm sanh diệt để trí Bát-nhã được hiện tiền, không hẹn bao lâu hay lúc nào hết.

Chánh văn:

Hỏi: Phàm phu cũng được như thế chăng?

Đáp: Người thấy tánh thì chẳng phải phàm phu, đốn ngộ thượng thừa thì đã siêu phàm vượt thánh. Người mê luận phàm bàn thánh, người ngộ siêu vượt sanh tử Niết-bàn, người mê nói sự nói lý, người ngộ đại dụng cùng khắp. Người mê cầu đắc cầu chứng, người ngộ không đắc không cầu. Người mê hẹn kiếp xa sẽ chứng, người ngộ chóng thấy liền. 

Giảng:

Hỏi phàm phu cũng được như thế chăng, tức là được trí Bát-nhã huyền diệu đó chăng? Trả lời, người thấy tánh thì chẳng phải phàm phu, đốn ngộ thượng thừa đã siêu phàm vượt thánh. Câu này rất lạ, chúng ta đang mê là phàm, tu là để tỉnh ngộ, để chuyển phàm thành thánh, tại sao đây nói người đốn ngộ thượng thừa thì đã siêu phàm vượt thánh? Vượt hơn thánh là bậc nào?

Câu đầu nói rằng người thấy tánh thì chẳng phải phàm phu, người nào thấy tánh người đó không phải phàm phu, còn phàm phu thì chưa thấy tánh. Bản tánh tự thể không sanh không diệt, mỗi người đều tự có mà quên nên gọi là mê, người nhận được liền đó là thánh, không còn phàm phu nữa. Nhưng lại nói rằng khi đốn ngộ thượng thừa thì siêu phàm vượt thánh. Nghĩa là đến khi đó vượt hơn cả phàm thánh. Tại sao? Vì người đốn ngộ thượng thừa không còn cái tâm đối đãi. Thấy có phàm thánh tức là còn ở trong đối đãi, ra khỏi đối đãi tất nhiên vượt lên trên phàm thánh. Đó là người vô tu vô chứng. Chúng ta lâu nay quen theo đối đãi, dẹp cái này để được cái kia. Người đốn ngộ thượng thừa không còn thấy có đối đãi, không còn thấy đối đãi thì không còn tâm sanh diệt, vì vậy nói siêu phàm vượt thánh.

Người mê luận phàm bàn thánh, người ngộ siêu vượt sanh tử Niết-bàn. Người mê phân biệt bên này là phàm bên kia là thánh, người ngộ thì siêu vượt cả phàm thánh, nên nói siêu vượt cả sanh tử và Niết-bàn. 

Chúng ta tu quen nghĩ bỏ cái này được cái kia, đó là tu trong sanh diệt đối đãi. Đến chỗ cứu cánh thì vượt khỏi đối đãi, không còn thấy có phàm thánh, không còn thấy sanh tử Niết-bàn. Người ngộ đầy đủ thì không còn thấy hai.

Người nói sự nói lý, người ngộ đại dụng cùng khắp. Chúng ta mê nên phân biệt đây là sự đây là lý, bên này bên kia. Người ngộ thì thấy sự lý không hai, không còn giới hạn sự lý nên cái thấy cùng khắp.

Người cầu đắc cầu chứng, người ngộ không đắc không cầu. Chúng ta tu vì chưa thấy được lẽ thật nên mong cầu quả vị Phật, quả vị Bồ-tát. Nếu biết sanh tử Niết-bàn đều không ngoài mình, mê và ngộ đều sẵn nơi tự tâm, chỉ cần trở về với tánh giác tròn đủ nơi mình, lúc đó có tìm cầu gì không? Như người có viên ngọc sẵn nơi chéo áo, vì quên nên không nhận ra, sau được bạn chỉ cho, đưa tay mở ra liền nhận được. Lấy viên ngọc ra sử dụng, mới nhìn thì dường như có được, nhưng sự thật là viên ngọc mình đã có sẵn, thì không gọi là được. Chỉ vì quên dường như mất, nhớ lại thấy như được, thật ra chẳng có gì là được hay mất. Tâm chân thật của chúng ta cũng thế, luôn sẵn đủ nơi mình, khi quên gọi là mê, tỉnh rồi nói tôi được giác ngộ. Giác ngộ đó dường như được mà có được không? Không được, không đắc, không tìm cầu. Lý thật là như thế, nên nói người ngộ không đắc không cầu.

Người mê hẹn kiếp xa sẽ chứng, người ngộ chóng thấy liền. Người mê tu trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật, hoặc là đời này chưa xong, đời sau chưa xong thì nhiều đời nữa sẽ được giác. Người ngộ rồi thì không hẹn đời nào, ngay nơi đây mà nhận, ngay nơi đây mà thấy, vì chuyện này rất gần gũi. Lâu nay chúng ta cứ ngỡ tâm chân thật hay tánh giác của mình ở đâu xa xôi, sâu kín không bao giờ tìm ra, không bao giờ nhìn thấy, nhưng sự thật nó sờ sờ trước mắt mà không chịu nhận chịu hiểu. Tôi nói rất nhiều lần rồi, nhưng chắc quý vị cũng còn chưa đủ lòng tin.

Hằng ngày chúng ta sống với thân tạm bợ này, lo cho nó được ấm no đầy đủ. Nếu người khéo lo, mọi nhu cầu đều thỏa mãn, muốn gì cũng được chỉ trừ muốn trường sanh bất tử. Thỏa mãn mọi nhu cầu của thân rồi rốt cuộc sống bao lâu? Rốt cuộc cũng là thân bại hoại, lo cả một đời để rồi mất. Thân có thật không? Kế nữa là chấp tâm suy nghĩ tính toán của mình là thật. Suy nghĩ điều gì thấy hay thấy đúng mà đem ra trình bày bị phản đối thì sanh phiền não bực bội. Tâm suy nghĩ có thật không? Chấp thân là thật để suốt đời lo cho nó đầy đủ ấm no là mãn nguyện; chấp tâm suy nghĩ là thật, điều gì mình cho là hay là phải, được mọi người hoan nghênh thì thỏa mãn. Người đời chỉ biết thân tâm vô thường tạm bợ, sanh diệt liên miên này cho là mình, thì trách gì không luân hồi sanh tử.

Chấp thân là thật nên khi thân này hoại thì tìm thân khác tốt cũng được, xấu cũng được, miễn có chỗ gá là ưa rồi, cứ thế mà trôi lăn trong vô minh. Tâm suy nghĩ tính toán là tâm tạo nghiệp, nếu tạo nghiệp lành cũng ôm giữ chấp cho là thật thì đi trong đường lành, tạo nghiệp dữ đi trong đường dữ, cũng bị đẩy đi trong ba cõi sáu đường. Nếu chỉ biết có hai thứ thân tâm này thì không thể tu tập ngộ đạo. Phật thương chúng sanh mê muội, chỉ ra con đường giải thoát sanh tử, đó là chỗ quan trọng trong việc tu. Nếu chúng ta tu mà am hiểu thấu đáo mình có một thể tâm chân thật không hề bị lưu chuyển, không lệ thuộc đối đãi sanh diệt, lúc đó mới thấy con đường đi thẳng tắt.

Khi chúng ta khởi tâm suy nghĩ hơn thua phải quấy... đều không ngoài tướng sanh diệt đối đãi. Vì còn tâm đối đãi nên có được gì cũng nằm trong đối đãi. Có một cái không lệ thuộc đối đãi hai bên, nó là chủ có khả năng đưa chúng ta đến giải thoát tự tại nhưng mình không bao giờ biết đến. Như khi đang ngồi nghe giảng, chỉ lắng nghe không suy nghĩ tính toán, không phân biệt phải quấy hơn thua..., gió thổi qua biết mát, tiếng động nghe biết, người đi thấy biết... Tánh biết hằng hữu đó, hình dáng ra sao? Không có hình dáng tướng mạo. Vì khi suy nghĩ về người về cảnh thì có bóng người bóng cảnh hiện ra, cái biết không có niệm dấy khởi thì không có hình dáng. Không có hình dáng thì không vô thường, không động thì không sanh diệt. Chúng ta luôn có tánh biết này, đó là chân tâm hay Phật tánh hiển lộ, chỉ vì chúng ta luôn khởi nghĩ lăng xăng nên quên không nhận ra.

Trong kinh Phật dạy, tu Tịnh độ niệm Phật phải nhiếp tâm, nhiếp tâm tức là trở về chỗ thanh tịnh lặng lẽ không còn suy nghĩ gì nữa. Lúc đó Phật A-di-đà hiện tiền. Tâm tức Phật. Tu thiền quán sổ tức, chỉ nhớ hơi thở đến lúc hơi thở lặng, thở mà không thấy có hơi thở,lúc đó được định chân thật, tâm hiện ra. Các bậc A-la-hán tu đến Diệt tận định, cũng là dẹp bỏ tất cả niệm lăng xăng lộn xộn, chỉ thuần một tâm bất sanh bất diệt. Tâm đó chỉ có các bậc Bồ-tát hay La-hán mới được, còn chúng ta có hay không? Ai cũng có sẵn đủ mà không chịu nhận, cứ chạy theo những thứ phải quấy, đẹp xấu, hơn thua... Đó là những thứ lăng xăng che đậy, làm khuất lấp chân tánh của mình. Phật chỉ dạy phương tiện để chúng ta dừng lặng các thứ niệm khởi lăng xăng đó, những thứ che đậy khuất lấp tan đi thì tâm chân thật hiện. Tâm chân thật hiện thì lúc đó không nói được cái gì, đắc cái gì, vì nó là cái có sẵn. Cũng không có gì lạ ở bên ngoài mình để tìm cầu, nên nói là không cầu, không đắc, không chứng.

Có lúc nào tâm chân thật không hiện hữu? Nếu không có nó thì khi không suy nghĩ chúng ta như gỗ như đá, nhưng xét kỹ tánh biết lúc nào cũng rõ ràng, đi đứng ngồi nằm đều biết, dù lúc đó các tư tưởng đều dừng bặt. Người nhận ra được thì thấy thương chúng sanh tại sao có mà quên! Cả đời chạy theo thân tạm bợ, tâm sanh diệt không dừng, còn tâm chân thật thì không biết không nhớ! Kinh Pháp Hoa, Phật dạy đó là viên ngọc sẵn có trong chéo áo, phải nhớ tánh Phật sẵn có của mình. Tất cả pháp tu tuy khác nhau về phương tiện nhưng chỗ cuối cùng gặp nhau chỉ quy về một. Chúng sanh quên mà không tự nhớ nên dạy niệm Phật, niệm cho đến vô niệm thì chân tâm hiện. Ngồi thiền thì dạy đếm hơi thở hoặc nhớ hơi thở, đến khi hơi thở lặng thì tâm hiện... Chúng ta tu rất thực tế, không viển vông xa vời, chỉ cần thấy rõ hiện tiền không cách một bước chân. 

Hiểu như vậy chúng ta mới thấy giáo lý nhà Phật rất thâm sâu, cốt hướng dẫn chúng ta trở về nhận lại tánh chân thật sẵn có nơi mình. Đó là tánh biết không hình tướng, không sanh diệt, không cần mượn duyên bên ngoài, không suy tư mà vẫn sẵn đủ. Chỉ vì chúng ta quên nên gọi là mê, có cái thật mà cứ chạy theo cái giả hoài nên gọi là mê. Khi mê thì luận bàn muôn kiếp vẫn mê. Người ngộ liền nhận ra ngay tức khắc tánh sẵn đủ của mình, không tìm kiếm đâu xa. Đến đây đôi khi lại hiện vẻ như ngu như ngơ, vì chỗ chân thật không nghĩ phải quấy tốt xấu..., không nhạy bén lanh lẹ. Người thường không thấy quý trọng nhưng người đạt đạo thấy đây là chân không diệu hữu, tánh không mà đủ diệu dụng, cần liền sẵn có không thiếu kém mảy may. Vì thế ngài trả lời rằng người mê luận phàm bàn thánh, người ngộ siêu vượt sanh tử Niết-bàn, người mê nói sự nói lý, người ngộ đại dụng cùng khắp.

Chánh văn:

Pháp sư giảng kinh Duy-ma đến hỏi:

- Kinh nói: “Lục sư ngoại đạo kia v.v... thầy của ngươi, nhân kia xuất gia, thầy kia bị đọa ngươi cũng theo đó mà đọa. Người thí cho ngươi chẳng gọi phước điền, cúng dường cho ngươi đọa trong ba đường ác. Chê Phật, hủy Pháp, chẳng vào số chúng, trọn chẳng được diệt độ. Ngươi nếu như thế mới nên nhận thức ăn.” Thỉnh Thiền sư vì giải thích. 

Sư đáp:

- Người mê chạy theo sáu căn gọi là Lục sư, ngoài tâm cầu Phật gọi là ngoại đạo, thấy có vật để thí chẳng gọi phước điền, sanh tâm nhận cúng dường đọa ba đường ác. Ngươi nếu hay chê bai Phật là chẳng đắm cầu Phật, hủy báng Pháp là chẳng đắm cầu Pháp, chẳng vào số chúng là chẳng đắm cầu Tăng, trọn chẳng được diệt độ là trí dụng hiện tiền. Nếu có người hay hiểu được như thế liền được thức ăn thiền duyệt pháp hỷ.

Giảng:

Kinh thường dạy chúng ta phải kính tin Tam bảo, cúng dường Tam bảo, mà đoạn kinh này nghe rất lạ.

Đây giảng rõ, nếu đọc kinh Phật mà cứ tưởng những lời đó là lẽ thật thì rất lầm. Nghe nói lục sư ngoại đạo mà tưởng là các thầy ngoại đạo Ấn Độ thời đó, không ngờ lục sư ngoại đạo là sáu căn của mình. Sáu căn chạy theo sáu trần tức là chạy ra ngoài nên gọi là ngoại đạo. Thầy kia bị đọa ngươi cũng theo đó mà đọa, khi sáu căn bị đọa thì chính mình cũng phải bị đọa theo.

Đây nói ngoài tâm cầu Phật gọi ngoại đạo. Bây giờ chúng ta tu có thuộc ngoại đạo không? Thờ Phật lạy Phật mỗi ngày, khi bị người chê là ngoại đạo liền nổi giận. Nhưng nếu còn trông Phật ở ngoài tức là ngoại đạo. Thành Phật thì không phải Phật ở ngoài cho mình thành, trở về với Phật của mình mới gọi là thành Phật.

Thấy có vật để thí chẳng gọi phước điền, khi bố thí mà thấy có mình thật, vật thật, người nhận thật đó là nhận phước hữu lậu, nên không gọi là phước điền. Sanh tâm nhận cúng dường đọa ba đường ác, thọ nhận cúng dường mà sanh tâm là đọa ba đường ác.

Ngươi nếu hay chê bai Phật chẳng đắm cầu Phật, hủy báng pháp chẳng đắm cầu Pháp, chẳng vào số chúng là chẳng đắm cầu Tăng, trọn chẳng được diệt độ là trí dụng hiện tiền. Chê bai Phật là không đắm cầu Phật ở ngoài, Phật ở ngoài là phương tiện đánh thức chúng ta nhớ hướng về Phật của mình, nếu chỉ biết Phật ở ngoài mà không hướng về Phật của mình thì sai. Vì thế ở đây không đặt nặng Phật ở ngoài mà đặt nặng Phật ở chính mình. Pháp tức là giáo pháp của Phật dạy cho chúng ta tu để được giác ngộ. Giáo pháp đó là những phương thuốc, nếu chúng ta là người không bệnh thì thuốc không cần thiết. Chúng ta có các thứ bệnh tham sân si... nên thuốc của Phật là quý, không bệnh thì thuốc không có chỗ dùng. Vì vậy, người được chỗ chân thật gọi là chê bai pháp, không đắm cầu pháp. Đối với chúng tăng nếu cứ nhớ nghĩ chư tăng là ngôi phước điền mà không biết trở về Tăng bảo thanh tịnh của chính mình thì cũng không trọn vẹn. Khi lễ Phật, ban đầu chúng ta lễ Tam bảo Phật Pháp Tăng bên ngoài, đến cuối cùng thì tam tự quy y. Tự quy y Phật là quy y Phật của mình. Tự quy y Pháp là trở về Pháp của mình. Tự quy y Tăng là trở về Tăng của chính mình. Mỗi thời tụng kinh đều nhắc như vậy, không lúc nào bỏ qua. Đường lối tu của đạo Phật là ban đầu chưa biết thì nhờ thiện tri thức hướng dẫn chỉ dạy, biết rồi thì phải quay lại với chính mình chứ không trông cậy ở ngoài, đó là lẽ thật, rõ như ban ngày. 

Chánh văn:

Có vị cư sĩ đến hỏi:

-  Có người hỏi Phật đáp Phật, hỏi Pháp đáp Pháp, bảo là pháp môn một chữ, chẳng biết phải chăng?

Sư đáp:

-  Như chim anh vũ học nói tiếng người, tự nói chẳng đặng, vì không trí tuệ. Ví như đem nước rửa nước, đem lửa đốt lửa, trọn không có nghĩa lý gì.

Giảng:

Có những người học đạo không thông mà bắt chước thiền sư, hỏi Phật đáp Phật, hỏi Pháp đáp Pháp. Trả lời như thế là đúng hay sai? Đây ngài nói như chim anh vũ, Việt Nam là con sáo, con cưỡng được người lột lưỡi tập nói. Người “Mô Phật” nó cũng “Mô Phật”, người nói gì nó nói theo nấy, không hiểu gì. Dùng ví dụ để nói những người dốt không trí tuệ, trọn không có giá trị.

Chánh văn:

Có người hỏi:

-   Ngôn với ngữ là đồng hay khác? Sư đáp:

Là một. Bởi vì lời nói (ngôn) thành câu gọi là ngữ. Vả như biện luận thao thao ví tợ như nước chảy trong sông lớn, lời hay chồng chập như hạt châu nghiêng để trong đồ tròn, mở rộng tên vạn tượng như nước chảy, chia chẻ nghĩa nhiều như biển cả, đó là ngữ vậy. Ngôn một chữ hiện bày của tâm. trong chứa huyền vi, bên ngoài hiện diệu tướng, muôn việc khuấy rối mà chẳng loạn, trong đục lẫn lộn mà thường phân biệt. Vua Tề vẫn còn hổ thẹn lời của Đại phu, Bồ-tát Văn-thù còn khen ngợi câu nói của Tịnh Danh, thì người thường làm sao hiểu nổi.

Giảng:

Ngôn là một lời một tiếng, ngữ là nhiều lời ráp thành câu. Từ một danh từ là ngôn để biểu hiện tâm, tâm này ẩn chứa lý huyền và hiện tướng hay khéo ra bên ngoài, đó là dụng của ngữ. Đây nói, trong đục lẫn lộn mà thường phân biệt, dùng ngôn ngữ mà phân biệt cái này đục, cái kia trong... Vua Tề vẫn còn hổ thẹn lời của Đại phu, Bồ-tát Văn-thù còn khen ngợi câu nói của Tịnh Danh... Xưa vua Tề Cảnh Công đi chơi núi Ngưu Sơn, khi đứng trên núi ngắm cảnh xung quanh rồi rơi nước mắt than rằng: “Giang sơn cẩm tú thật là đẹp, thế mà tuổi của ta ngày một già sẽ bỏ nước này mà chết, nếu con người sống mãi thì ta không nỡ bỏ nước Tề mà đi nơi khác.” Khi đó có hai ông quan Lữ Sử Không, Lương Khâu Cứ thấy vua khóc cũng khóc theo, cũng nói: “Chúng tôi là kẻ bề tôi của bệ hạ, được chút lương bổng đủ sống, mà nghĩ đến cái chết cũng tiếc thay, huống chi nhà vua.” Chỉ có một mình Án Tử đứng bên cười. Nhà vua hỏi: Quả nhân đi chơi thấy cảnh buồn, Không với Cứ đều theo quả nhân mà khóc, một mình khanh tại sao lại cười?” Án Tử thưa: “Nếu người giỏi giữ được nước này thì Thái Công, Hoàn Công đã giữ mãi, nếu người mạnh giữ được nước này thì Linh Công, Trang Công đã giữ mãi. Mấy ông vua ấy mà giữ mãi thì ngày nay bệ hạ phải mặc áo tơi đội nón lá giữa cánh đồng làm nông phu rồi. Chỉ vì hết đời này đến đời kia mới đến lượt nhà vua, nhà vua lại than khóc thì thật là bất nhân. Nay tôi thấy vua bất nhân, bầy tôi lại siểm nịnh nên tôi cười.” Câu nói này làm cho nhà vua hổ thẹn.

Như vậy mới thấy ngôn ngữ rất quan trọng, biết dùng thì cũng rất có ích, không phải vô ích. Đây là ngài dùng ví dụ để nói về giá trị của ngôn ngữ.

Chánh văn:

Luật sư Nguyên đến hỏi:

-   Thiền sư thường nói: “Tức tâm là Phật”, không hợp lý. Vả lại, Bồ-tát Nhất địa phân thân ở trăm thế giới chư Phật, Nhị địa tăng lên gấp mười. Thiền sư thử hiện thần thông xem?

Sư đáp:

-   Chính mình Xà-lê là phàm hay thánh?

-   phàm.

-    Đã là phàm tăng sao lại hỏi cảnh giới như thế? Kinh nói: “Nhân giả tâm có cao thấp, chẳng y nơi trí tuệ Phật”, đây là thế. 

Giảng:

Người hỏi muốn nêu vấn đề “tức tâm là Phật” không hợp lý, vì trên quả vị thấy có Bồ-tát Nhị địa cao hơn Bồ-tát Nhất địa, vậy thì hàng phàm phu không thể tức ngay nơi mình là Phật được. Ngài dẫn câu kinh để trả lời. Kinh nói: Nhân giả tâm có cao thấp, chẳng y nơi trí tuệ Phật. Sở dĩ tâm thấy bậc này cao bậc kia thấp... đó là mình không y cứ trí tuệ Phật, nếu y cứ trí tuệ Phật thì bình đẳng không có cao thấp. Cũng như chúng ta thấy hiện tại có người tu trước, người tu sau, người chưa tu... khác nhau, nhưng mỗi người đều có tánh biết không suy nghĩ thường hằng, trên tánh biết thì bình đẳng không khác. Y cứ tâm Phật đó thì không có cao thấp. Cao thấp là do tâm người hỏi.

Chánh văn:

-    Thiền mỗi ngày bảo: “Nếu ngộ đạo thì thân hiện tiền liền được giải thoát”, cũng không hợp lý.

-   Có người trọn đời làm lành, bỗng nhiên ăn cắp đồ người cầm trong tay, ngay khi ấy thân này phải thân kẻ cắp chăng?

-   Phải.

Giảng:

Người hỏi vấn nạn rằng, theo kinh nói phải tu ba vô số kiếp mới giải thoát, nay thiền sư nói nếu ngộ đạo thì thân hiện tiền liền được giải thoát, điều này không hợp lý. Ngài dùng ví dụ, như có người hiền lành nhưng bất thần hôm nào đó thấy đồ người ta để hời hợt liền ăn cắp, khi nắm tang vật trong tay thì người đó là kẻ cắp hay là người hiền? Dù mấy tháng mấy năm hiền, nhưng giờ trong tay đang nắm đồ ăn cắp thì phải gọi là người ăn cắp. Cũng vậy, dù trước đây mình mê lầm nhưng ngay nơi đây tỉnh giác, tỉnh giác tức không còn dính mắc là giải thoát. Đó là thân hiện tiền giải thoát.

Chánh văn:

-    Hiện nay thấy tánh rõ ràng, tại sao không được giải thoát?

-    Đời nay hẳn không được, phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp (ba vô số kiếp) mới được.

-   A-tăng-kỳ kiếp lại có số chăng? Nguyên lên giọng bảo:

Đem kẻ cắp so với giải thoát, được thông đạo lý chăng?

Sư đáp:

-   Xà-lê tự chẳng hiểu đạo, không thể chướng tất cả người hiểu, con mắt mình chẳng mở, không thể chướng tất cả người thấy vật.

Nguyên đổi sắc vừa đi vừa nói:

-   Lão già hỗn tạp vô đạo.

Sư bảo:

-   Chính đường đi đó là đạo của ông.

Giảng:

Luật sư Nguyên nói theo kinh điển: Muốn được giải thoát phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp. Vì a-tăng-kỳ nghĩa là vô số, ngài gạn lại a-tăng-kỳ số chăng? Luật sư bị bắt bẻ nên phản ứng mạnh, ông nói ngài đem kẻ cắp mà ví dụ giải thoát là không hợp lý. Ngài trả lời Xà-lê tự chẳng hiểu đạo, không thể ngăn cản tất cả người hiểu. Con mắt mình chẳng mở, không thể chướng tất cả người thấy vật. Người không thông đạo lý không thể cản trở sự biện luận của người đã tỏ ngộ.

Chánh văn:

Pháp sư Tuệ chuyên giảng Chỉ Quán đến hỏi:

-   Thiền sư biện biệt được ma chăng? Sư bảo:

-   Khởi tâm thiên ma, chẳng khởi tâm ấm ma, hoặc khởi chẳng khởi là phiền não ma. Trong chánh pháp ta không có việc như thế.

Giảng:

Khởi tâm là thiên ma, thiên ma biến hóa không lường nên ví như tâm biến động không yên. Chẳng khởi tâm là ấm ma, ấm ma là mờ mịt không biết gì. Hoặc khởi hoặc chẳng khởi là phiền não ma, phiền não trong tâm chúng ta khi có khi không, khi khởi phiền não thì buồn rầu, khi không khởi thì lặng lẽ. Trong chánh pháp không có việc như thế, ngài giải thích rõ các thứ ma trong tâm, khi chúng hiện như thế nào liền biết cội gốc, khi biết liền tỉnh không bị dối gạt, đó là người hằng an trụ trong chánh pháp không bị ma nhiễu loạn.

Chánh văn:

-   Nhất tâm tam quán, nghĩa thế nào?

-   Tâm quá khứ thì đã qua, tâm vị lai thì chưa đến, tâm hiện tại thì không trụ, ở trong đó lại dùng tâm nào để quán?

-   Thiền sư chẳng hiểu Chỉ Quán.

-   Tọa chủ hiểu chăng?

-   Hiểu.

Giảng:

Người tu chỉ quán dùng tâm quán theo các phương tiện như quán bất tịnh, quán từ bi..., hoặc buộc tâm một chỗ để dừng loạn động gọi là chỉ. Như vậy chỉ quán là có dụng tâm. Nhưng với cái nhìn của ngài, ngài bảo: Tâm quá khứ đã qua, tâm vị lai chưa đến, hiện tại thì không trụ, tâm ba thời đều không thật, vậy dùng tâm nào để quán? Tâm hiện tại có dừng phút nào không? Ví dụ đang suy nghĩ đi chợ nhớ mua rau, mua đậu... niệm niệm tiếp nối không dừng, nó là dòng sanh diệt thì như vậy cái nào là tâm hiện tại mà quán? Nghe vậy Tọa chủ lại càng rối rắm. Ngài hỏi: Tọa chủ hiểu chăng? Hiểu.

Chánh văn:

-   Như Trí Giả đại sư nói Chỉ để phá Chỉ, nói Quán để phá Quán, trụ Chỉ thì chìm trong sanh tử, trụ Quán thì tâm thần loạn. Thế là, phải đem tâm chỉ tâm, hay khởi tâm quán để quán? Nếu có tâm quán là pháp thường kiến, nếu không tâm quán là pháp đoạn kiến, cũng có cũng không là pháp nhị kiến. Thỉnh Tọa chủ xét kỹ nói xem?

-   Nếu hỏi như thế đều không thể nói được.

-   Vậy thì đâu từng Chỉ Quán.

Giảng:

Pháp tu thiền chỉ quán của Trí Giả đại sư có chia ra pháp chỉ và pháp quán, chỉ là để dừng tâm lăng xăng, quán là để phá tâm đắm nhiễm. Khi quán thành tựu rồi phải phản quan nhìn lại, không thấy có năng quán sở quán, lúc đó chân tánh hiện tiền. Vậy chỉ quán đều không phải là pháp thật, không phải là pháp thật mà chấp làm nền tảng thì không đúng. Pháp sư chuyên giảng Chỉ Quán nhưng không thấu tột lẽ thật nên không đáp được chỗ biện luận của ngài.

Chánh văn:

Có người hỏi:

-   Bát-nhã lớn chăng? Sư đáp:

-   Lớn.

-   Lớn bằng chừng nào?

-   Không có ngằn mé. 

-   Bát-nhã nhỏ chăng?

-   Nhỏ.

-   Nhỏ bằng chừng nào?

-   Xem chẳng thấy.

-   Chỗ nào Bát-nhã?

-   Chỗ nào chẳng phải Bát-nhã?

Giảng:

Chúng ta thường có bệnh chấp tướng nên phân biệt lớn nhỏ... Bát-nhã là trí tuệ phá chấp, trí tuệ thấy tất cả pháp tánh không, không có tướng mạo hình thức để chúng ta có thể phân biệt. Như vậy hỏi lớn hay nhỏ là hỏi trên tướng. Hỏi lớn thì ngài nói lớn, nó không tướng nhưng trùm hết. Hỏi nhỏ thì ngài nói nhỏ, mắt không thấy. Hỏi chỗ nào là Bát-nhã, ngài nói chỗ nào chẳng phải Bát-nhã. Nghĩa là nhìn tất cả pháp đều thấy tánh không thì tất cả chỗ cũng đều là Bát-nhã. Nghe rất đơn giản mà ngài trả lời đầy đủ cho chúng ta biết, Bát-nhã không hình tướng, không thể dùng bất cứ cái gì để mô tả.

Chánh văn:

Pháp giảng kinh Duy-ma hỏi:

-   Chư Bồ-tát mỗi vị nhập pháp môn Bất nhị, ngài Duy-ma lặng thinh là cứu cánh chăng?

Sư đáp:

Chưa phải cứu cánh. Thánh ý nếu tột thì đến quyển ba lại nói việc gì?  

Pháp sư im lặng giây lát, thưa:

-   Thỉnh Thiền sư vì tôi nói ý chưa cứu cánh. Sư bảo:

-    Căn cứ trong kinh thì quyển nhất là “dẫn chúng gọi mười vị đại đệ tử trụ tâm”. Quyển hai là “chư Bồ-tát mỗi vị nói nhập pháp môn Bất nhị, dùng lời nói để hiển bày không lời; ngài Văn-thù dùng không lời để hiển bày không lời; ngài Duy-ma chẳng dùng lời chẳng dùng không lời, cho nên lặng thinh để thâu ngôn ngữ ở trước”. Quyển ba là “từ chỗ lặng thinh khởi nói, lại hiển thần thông tác dụng”. Tọa chủ hội chăng?

-   Thật là kỳ quái, đúng thế!

-   Cũng chưa đúng thế.

-   Tại sao chưa đúng thế?

-   Vả lại, vì để phá tình chấp của người nên nói như thế. Nếu y cứ ý kinh thì chỉ nói sắc tâm không tịch khiến người thấy bản tánh, dạy bỏ hạnh giả vào hạnh thật, chớ nhằm trên ngôn ngữ giấy mực mà thảo luận suy tính, cốt hội được hai chữ Tịnh Danh là đủ. Tịnh là bản thể. Danh là tích dụng. Từ bản thể khởi tích dụng, từ tích dụng trở về bản thể. Thể và dụng không hai. Bản (xưa) và tích (nay) không khác. Do đó, cổ nhân nói: “Bản tích tuy khác, chẳng nghĩ bàn là một vậy. Một cũng chẳng phải một.” Nếu hiểu hai chữ Tịnh Danh là giả hiệu, lại nói cái gì cứu cánh cùng chẳng cứu cánh?  

Không trước không sau, chẳng phải gốc chẳng phải ngọn, chẳng phải Tịnh chẳng phải Danh, vì chỉ bày cho chúng sanh bản tánh bất tư nghì giải thoát. Nếu người không thấy tánh, trọn đời chẳng thấy được lý này.

Giảng:

Câu đầu hỏi: Chư Bồ-tát mỗi vị nhập pháp môn Bất nhị, đến ngài Duy-ma ngồi im lặng không nói câu nào, vậy là cứu cánh chưa? Ngài đáp chưa cứu cánh, vì nếu cứu cánh thì ngay đó đã chấm dứt rồi, nên nói thánh ý nếu tột mà đến quyển ba còn tiếp tục thì chưa phải là cứu cánh.

Pháp sư im lặng giây lát thưa: Thỉnh Thiền sư vì tôi nói ý chưa cứu cánh. Sư bảo: Căn cứ kinh thì quyển nhất là “dẫn chúng gọi mười vị đại đệ tử trụ tâm”. Kinh Duy-ma-cật theo bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập có chia làm ba quyển. Quyển nhất hay quyển thượng nói về việc cư sĩ Duy-ma-cật ở thành Tỳ-da-ly bị bệnh, Phật sai các vị đại đệ tử và các Bồ-tát đến thăm bệnh, mỗi vị đều từ chối không dám khởi tâm đi thăm bệnh, vì chỗ biện luận của mình không bằng Duy-ma-cật.

Quyển hai hay quyển trung nói về Bồ-tát Văn-thù- sư-lợi thăm bệnh. Cuối quyển là chư Bồ-tát mỗi vị nói nhập pháp môn Bất nhị, dùng lời nói để hiển bày không lời; ngài Văn-thù dùng không lời để hiển bày không lời; ngài Duy-ma chẳng dùng lời chẳng dùng không lời, cho nên lặng thinh để thâu ngôn ngữ ở trước. Như vậy qua quyển hai là nói thẳng về lý pháp môn Bất nhị, trong đó mỗi vị Bồ-tát trình bày kiến giải của mình, ngài Văn-thù thì không chấp nhận có lời nói, lời nói là chưa cứu cánh. Nhưng đến Duy-ma-cật ngồi lặng thinh không nói gì hết, dùng lặng thinh để thâu ngôn ngữ. Quyển ba hay quyển hạ là “từ chỗ lặng thinh khởi nói, lại hiển thần thông tác dụng”. Như vậy đến đây mới rốt ráo ý kinh, chỗ Phật muốn chỉ dạy là từ thể vô ngôn mà khởi thần thông diệu dụng.

Pháp sư khen đúng thì ngài lại nói chưa đúng. Vì sao? Vì để phá tình chấp của người nên nói như thế. Chỗ trọng yếu của kinh là trở về lý sắc tâm không hai, nhân đó chúng ta nhận được bản tánh của mình, bỏ hạnh giả trở về hạnh thật. Đó là cội gốc của Phật Bồ-tát dạy. Cho nên nói chỉ cần hội hai chữ Tịnh Danh là đủ. Tịnh là bản là thể, Danh là tích là dụng. Từ bản thể khởi tích dụng, từ tích dụng trở về bản thể, thể và dụng không hai. Như từ mặt biển mà có gió thì dậy sóng, gió ngừng thì sóng lặng lại trở về mặt biển. Sóng và biển là một hay là hai? Khi có sóng thì thấy như hai, hết sóng thì thấy không hai. Nếu người sáng suốt, tuy sóng ầm ầm mà vẫn thấy sóng không rời biển, sóng và biển là một. Người không hiểu thì ngồi đó chia chẻ lượn sóng số một, lượn sóng số hai, lượn sóng cao, lượn sóng thấp... đếm suốt đời không hết. Biết nước là thể, sóng là dụng, ngay nơi thể khởi dụng, thể dụng không rời nhau. Ý thâm sâu của pháp môn Bất nhị là chỗ đó.

Chúng ta thấy và hiểu thế nào về tâm của mình, nói lý không hai ra sao? Khi ngồi bình thản yên lặng không có việc gì coi như mình không có nghĩ, vừa thấy ai ở ngoài cửa bước vào kêu tên nói việc này việc kia... thì lúc đó sao? Khởi nghĩ này nghĩ nọ. Bình thản không nghĩ thì tâm mình trùm hết, đó là như biển. Nếu có ai gọi rồi khởi nghĩ lăng xăng, đó là gió thổi sóng dậy. Tâm khởi hiểu lăng xăng, thân sơ... không ngoài tâm thể hằng biết. Vì có duyên nên có dấy động, tuy dấy động mà không ngoài tâm thể. Như vậy tâm nghĩ suy không ngoài tâm chân thật, khi nghĩ suy lặng thì trở về tâm chân thật. Chạy theo nghĩ suy là chạy theo dụng, là giả tạm, thể chân thật lại bỏ quên. Chúng ta tu, muốn được cái thật thì đừng chạy theo cái giả. Ý đoạn này rất rõ ràng, ngài dẫn chứng chữ Tịnh Danh để nói về thể và dụng. Bản là gốc, tích là dụng, từ thể khởi dụng, từ dụng trở về thể. Biết rõ cuối cùng thì sao? Tịnh Danh là thể dụng không hai, là hợp đạo lý. Nếu còn thấy hai thấy khác là chưa hợp đạo lý. 

Chánh văn:

Có vị tăng hỏi:

-   Muôn pháp trọn không, thức tánh cũng vậy. Ví như bong bóng nước một khi tan thì không hợp lại. Thân này chết chẳng sanh trở lại tức là rỗng không thì chỗ nào mà có thức tánh?

Sư đáp:

-   Bong bóng nhân nước mà có, bong bóng tan đâu thể không nước. Thân nhân tánh mà có, thân chết đâu thể nói tánh diệt.  

Giảng:

Chỗ này rất quan trọng. Xưa nay chúng ta thường hiểu lầm, nghe Phật nói thân như huyễn như hóa, như bọt như bóng, tưởng là tất cả đều không. Nên vị tăng này nói rằng muôn pháp trọn là không, tánh cũng vậy. Thí như bong bóng nước tan rồi thì không hợp trở lại. Thân này chết rồi thì không sanh trở lại, nó rỗng không như vậy thì thức tánh không nương gá vào đâu. Đây là lối chấp đoạn diệt.

Ngài trả lời: Bong bóng nhân nước mà có, bong bóng tan đâu thể không nước. Do nước mà nổi bong bóng, bong bóng tan thì trở về nước, không thể nói không có nước. Thân nhân tánh mà có, thân chết đâu thể nói tánh diệt. Thân này từ nơi tánh giác do mê lầm tạo nghiệp mà có ra. Tuy mê lầm tạo nghiệp đi trong sanh tử, nhưng tánh giác không tan hoại.

Chánh văn:

-   Đã nói có tánh, thử đem ra xem?

-   Ông tin có ngày hôm qua chăng?

-   Tin.

-   Ông đem ngày hôm qua đến xem?

Ngày hôm qua thật là có, nhưng mà hiện giờ không thể đem đến được.

-    Ngày hôm qua không thể đem đến được, chẳng phải không ngày hôm qua, ông tự không thấy tánh, chẳng phải không có tánh. Nay thấy mặc y, ăn cơm, đi đứng ngồi nằm đối diện mà chẳng biết, đáng gọi là ngu mê. Ông muốn thấy ngày hôm qua thì cùng ngày nay chẳng khác. Đem tánh đi tìm tánh muôn kiếp trọn chẳng thấy, cũng như có người chẳng thấy mặt trời, chẳng phải mặt trời không có.

Giảng:

Ngài lý luận rất khéo. Ông tăng nói có tánh thì thử đem tánh ra xem sao? Ngài hỏi: Ông tin có ngày hôm qua không? Nói có. Có ngày hôm qua, ông đem ngày hôm qua lại tôi xem coi? Ông tăng đáp: Có, nhưng hiện giờ không đem đến được. Như vậy, rõ ràng tánh là có mà đem ra không được, nên ngài kết luận: Ngày hôm qua không đem tới được, chẳng phải không có ngày hôm qua. Ông tự không thấy tánh, chứ chẳng phải không có tánh.

Ngài nói thêm: Nay thấy mặc y, ăn cơm, đi đứng nằm ngồi đối diện mà chẳng biết, đáng gọi là ngu mê. Nếu không có tánh làm sao biết ăn, đi, đứng...? Đối diện mà không nhận ra nên gọi là ngu mê. Mình rõ ràng có mà không nhận, không nhận rồi nói không có. Như vậy để thấy rằng cả ngày chúng ta mê rồi quên đi nên nói không có.

Ông muốn thấy ngày hôm qua thì cùng ngày nay chẳng khác. Ngày hôm qua làm sao đem lại được? Muốn biết ngày hôm qua thì nhìn thẳng ngày nay, sáng mặt trời mọc, chiều mặt trời lặn..., thấy ngày nay là biết ngày hôm qua. Muốn biết tánh thì tất cả hành động của mình hiện tại là tánh. Đem tánh tìm tánh muôn kiếp trọn chẳng thấy. Nói tìm tánh chỉ là tìm cái sanh diệt bên ngoài, còn của mình thì sẵn đủ rồi, không cần tìm đâu xa, càng tìm càng không gặp. Như có người mù chẳng thấy mặt trời, không thể nói mặt trời không có. Người mê không thấy tánh, không thể nói không có tánh.

Chánh văn:

Pháp sư chuyên giảng Thanh Long sớ đến hỏi:

-   Kinh nói: “Không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp.” Thiền sư thể hội như thế nào?

Sư đáp:

-   Vì thể Bát-nhã cứu cánh thanh tịnh, không một vật thể được, ấy gọi “không pháp”. trong thể không tịch của Bát-nhã đủ diệu dụng như sa, không việc gì chẳng biết, ấy gọi “nói pháp”. Cho nên nói: “Không pháp thể nói, ấy gọi nói pháp.”

Giảng:

Kinh Kim Cang Phật nói “Không nói pháp ấy là nói pháp”. Tại sao? Vì không có pháp gì có thể nói. Tất cả pháp tự tánh là không, duyên hợp hư giả không thật, không có pháp thật thì làm sao có thể nói. Thấy được như vậy, nói được như vậy, gọi đó là nói pháp. Những câu này thường chúng ta nghe rất khó hiểu, nhưng nhìn cho tường tận thì thật là rõ ràng.

Ngài giải thích: Vì thể Bát-nhã cứu cánh thanh tịnh, không một vật có thể được, ấy gọi là “không pháp”. Biết tánh không của các pháp rất thanh tịnh, không có một vật, biết rõ như vậy thấy rõ như vậy, đó là nói pháp. 

Nói pháp là diệu dụng khởi lên từ trí tuệ biết các pháp duyên hợp hư giả, trí tuệ đó khiến chúng ta thấy tường tận không nghi ngờ. Trí tuệ Bát-nhã thấy được pháp chân thật rồi thì diệu dụng không thể lường được. Nên kinh nói không pháp thể nói, ấy gọi là nói pháp.

Chánh văn:

Pháp sư giảng kinh Hoa Nghiêm hỏi:

-   Thiền sư tin tình là Phật chăng? đáp:

Chẳng tin. Nếu vô tình là Phật thì người sống chẳng bằng người chết, lừa chết chó chết lẽ ra hơn người sống. Kinh nói: “Phật thân tức là pháp thân, từ giới định tuệ mà sanh, từ tam minh lục thông mà sanh, từ tất cả pháp lành mà sanh.” Nếu nói vô tình là Phật, Đại đức hiện giờ chợt chết liền thành Phật rồi.

Giảng:

Pháp sư giảng kinh Hoa Nghiêm hỏi Thiền sư có tin vô tình là Phật chăng? Ngài nói không tin. Tại sao? Bởi vì nếu nói tình Phật thì người sống chẳng bằng người chết. Sống là hữu tình, chết thành vô tình. Như vậy sống là phàm, chết thành thánh sao? Đến như con lừa con chó chết, chết thành vô tình thì nó hơn người sống sao? Ngài dẫn Kinh nói: “Phật thân tức là pháp thân từ giới định tuệ mà sanh, từ tam minh lục thông mà sanh, từ các pháp lành mà sanh.” Nghĩa là thân Phật từ pháp thân mà có, do nhờ tu giới định tuệ mà sanh, từ tam minh lục thông..., tất cả pháp lành mà sanh. Thân Phật có vô lượng công đức như thế, không phải là vô tình. Nếu nói vô tình là Phật thì bây giờ người hỏi là Đại đức, khi chết liền thành Phật. Như thế không đúng.

Chánh văn:

Có Pháp sư hỏi:

-   Trì kinh Bát-nhã công đức rất nhiều, Thầy có tin chăng?

Sư đáp:

-   Chẳng tin.

-   Nếu vậy sự linh nghiệm truyền lại hơn mười quyển đều không thể tin sao?

-   Người sống giữ hiếu tự có cảm ứng, không phải xương trắng hay có cảm ứng. Kinh là chữ giấy mực, chữ giấy mực tánh nó không, thì chỗ nào có linh nghiệm? Sự linh nghiệm tại người trì kinh dụng tâm nên thần thông cảm vật. Thử đem một quyển kinh để trên bàn không có người thọ trì, tự nó có linh nghiệm chăng?

Giảng:

Chúng ta thường hay nói kinh này linh nghiệm, kinh kia linh nghiệm, nhưng ở đây ngài nói linh nghiệm là từ nơi người. Linh nghiệm từ nơi người hay từ kinh? Kinh là chữ, viết bằng mực trên giấy trắng, cả hai đều không có tình thức. Không có tình thức thì linh nghiệm chỗ nào? Chỉ có người trì kinh đem hết tâm tư, đem hết lòng chí thành tưởng niệm trì tụng kinh văn, có sự linh nghiệm. Linh nghiệm ở người chứ không phải ở kinh.

Chánh văn:

Có vị tăng hỏi:

-   Chưa biết tất cả danh tướng và pháp tướng, nói cùng với nín, thế nào thông hội liền không có trước sau?

Sư đáp:

-     Khi một niệm khởi xưa nay không tướng không danh, làm sao được nói có trước sau? Chẳng rõ danh tướng vốn tịnh, vọng chấp có trước sau. Cổng danh tướng khóa, chẳng phải chìa khóa trí thì không thể mở. Hễ nói Trung đạo thì bệnh tại Trung đạo, nói hai bên thì bệnh tại hai bên. Chẳng biết hiện dụng là pháp thân vô đẳng đẳng (Phật). Mê ngộ được mất là pháp của người thường, tự khởi sanh diệt, chôn vùi chánh trí. Hoặc đoạn phiền não, hoặc cầu Bồ-đề đều là chối bỏ Bát-nhã.

Giảng:

Đoạn vấn đáp này nghe khó hiểu. Ý người hỏi muốn biết khi còn ở trong danh tướng pháp tướng, còn có nói và nín làm sao thông hội để được không trước không sau. Ngài giải thích rằng: Khi khởi một niệm xưa nay không tướng không danh, làm sao nói có trước sau. Như vậy thì cái trước sau là cái không thật, vì chẳng rõ danh tướng vốn tịnh, vọng chấp có trước sau. Danh tướng vốn trong lặng nhưng chúng ta vọng tưởng sanh chấp trước, nên thấy có trước có sau. Danh tướng khi chúng ta chấp thật thì nó là cái cổng bị khóa, muốn mở được phải có chìa khóa trí tuệ. Nếu không có trí tuệ, khi nói trung đạo thì bệnh tại trung đạo, nói hai bên thì bệnh tại hai bên.

Chẳng biết hiện dụng pháp thân đẳng đẳng. Chỗ này chúng ta phải hiểu cho rõ. Tất cả pháp là bất định pháp, không có gì cố định. Chúng ta quen chấp danh chấp tướng, chấp phải chấp quấy, chấp trước chấp sau, cái nào cũng chấp thật. Từ chỗ chấp thật đó nên mở miệng nói câu nào kẹt câu đó. Như đây nói, nói trung đạo thì bệnh tại trung đạo, nói hai bên thì bệnh ở hai bên. Tất cả những gì mở miệng nói đều dính đều kẹt mà không biết tất cả đều là hiện dụng của pháp thân vô đẳng đẳng. Tại sao ngài nói như vậy? Vì những công dụng thấy biết của chúng ta đều từ pháp thân hiện ra. Thấy biết đó là tánh giác, là tánh Phật, nhưng khi thấy biết chúng ta lại sanh tâm chấp bên đây là phải bên kia là quấy, bên đây là đúng bên kia là sai, từ đó bế tắc không hiện được diệu dụng của pháp thân.

Ngài nói thêm: ngộ được mất pháp của người thường, tự khởi sanh diệt, chôn vùi chánh trí. Hoặc đoạn phiền não, hoặc cầu Bồ-đề đều là chối bỏ Bát-nhã. Câu này nghe có dễ tu không? Đoạn phiền não, cầu Bồ-đề là chỉ cho người rất tha thiết tu hành, tại sao gọi là chối bỏ Bát-nhã? Vì còn thấy phiền não thật cho nên muốn đoạn, còn thấy Bồ-đề thật cho nên muốn cầu. Tất cả pháp, chấp một pháp nào là thật thì đều bệnh. Thế nên biết phiền não tánh không, Bồ-đề cũng chỉ là giả danh khi dứt sạch phiền não, không có danh tướng thật. Cái thật là chân lý bất sanh bất diệt, không còn dính kẹt hai bên, đó là chân Bát-nhã. Bỏ cái này cầu cái kia đều là trên đối đãi, mà đối đãi thì chưa phải chỗ tột cùng, chưa phải cứu cánh. Nhưng chúng ta tu mà nói không đoạn phiền não thì tham sân si nổi lên làm sao đây? Đó là một việc rất khó. Biết tu thì không có gì khó, không cần đoạn phiền não mà chỉ cần biết phiền não tánh không. Tham tánh không, sân tánh không... Biết rõ tánh không thì tự nhiên hết phiền não, không cần dụng công để đoạn.

Ví dụ có mấy đứa bé thấy người ta un khói phía trước, khói đùa vào nhà, nó lấy cây đập, lấy chổi đánh cho khói tan, được không? Biết khói chỉ là hơi hám không thật, tánh nó rỗng, đợi luồng gió chuyển là qua, không cần đánh đập vô ích. Cũng vậy, phiền não của chúng ta dường như thật, mà có thật không? Như trong nhà, vợ chồng có việc bất đồng ý kiến sanh ra cãi cọ với nhau. Cãi thì nổi sân. Hai người đang sân si giận dữ như vậy, bất thần có người thân rất quan trọng ở xa về, vừa bước vào tới cửa thì cả hai đều thấy mừng. Lúc đó vợ chồng quay lại nhìn nhau, hết sân giận. Cái sân đó chạy đi đâu, chỉ được không? Sân giận bản tánh không thật, khi có duyên khác đến, chúng ta vui lên thì nó không còn.

Phiền não không thật, chỉ vì chúng ta chấp cho là thật, nuôi dưỡng thành một khối rồi bỏ không được. Vừa giận chuyện này, nghĩ thêm gì đó giận thêm chút nữa, cứ nghĩ tiếp tục để sân giận sâu thêm, dồn đi dồn lại thành có chuyện. Nếu biết tánh nó không thật, khởi nghĩ liền buông, buông riết rồi tìm cái giận không có. Tu như thế rất khỏe, nhận ngay bản tánh phiền não không thật, chẳng cần trừ dẹp. Biết rõ tánh nó không thật thì phiền não ngay đó liền được lặng. Như vậy trong khi tu nếu khéo một chút thì dụng công ít mà hiệu quả nhiều, còn nếu không khéo cứ cho cái này thật cái kia thật, rồi bỏ cái này tìm cái kia, rốt cuộc lao đao lận đận mà chẳng được gì.

Nếu phiền não không thật thì Bồ-đề thật không? Cũng như vì sợ sanh tử nên tìm Niết-bàn, Niết-bàn là đối với sanh tử, Bồ-đề là đối với phiền não. Thấy phiền não không thật, không cần tìm cách đoạn trừ, chỉ một cái thấy không thật thì phiền não tan mất. Phiền não không cần trừ dẹp mà tự tiêu, không còn phiền não thì cũng không tìm cầu Bồ-đề. Cả hai đều tiêu vong trong trí Bát-nhã. Trí Bát-nhã là trí thấy biết đúng như thật, biết rõ các pháp tánh không, phiền não tánh không, Bồ-đề cũng tánh không. Đến được chỗ này chỉ cần ngồi nhìn các pháp thế gian rồi cười chơi. Tu như vậy khó hay dễ? Có cần lên non lên núi tìm kiếm đâu xa không?

Ngay nơi sự vật thế gian thấy đúng như thật là trí, thấy sai lầm là mê. Cùng một lời nói, một hoàn cảnh xảy ra mà biết người duyên hợp hư giả, cảnh duyên hợp hư giả thì cả ngày buồn hay vui? Bất cứ việc gì đến chúng ta đều thấy là giả, buông bỏ không quan trọng. Trí tuệ đó giúp chúng ta tu dễ được an lạc. Tại sao dễ? Vì không cố chấp. Không cố chấp thì không cần đoạn phiền não, không cần tìm Bồ-đề giải thoát. Nó ở ngay một bên. 

Đây ngài dạy: ngộ được mất pháp của người thường, tự khởi sanh diệt, chôn vùi chánh trí. Hoặc đoạn phiền não, hoặc cầu Bồ-đề đều là chối bỏ Bát-nhã. Giản trạch rõ ràng để chúng ta thấy đâu là ngu si, đâu là trí tuệ. Nếu chạy theo pháp hư vọng sanh diệt, chạy theo vọng tưởng chợt khởi chợt dừng là chôn vùi chánh trí, là ngu si. Bỏ ngu si thì hết đau khổ, trí tuệ hiện tiền, đi đứng nằm ngồi đều quán các pháp tánh không, luôn luôn an nhàn tự tại.

Đây là một lẽ thật, chúng ta hiểu rồi mới thấy giá trị của người tu. Không hiểu thì tu mà khổ vẫn khổ, khi hiểu thấy đúng như thật thì không còn gì mong cầu. Ví dụ cái chết đến, mình không mong cầu sống, phiền não đến không mong cầu hết, phiền não không thật thì còn hay không còn mặc kệ nó có gì đâu sợ. Chỉ nó dấy lên biết không thật là đủ. Vừa có khởi niệm giận ai liền biết cái giận này không thật, chỉ mặt nó thì hết. Còn nổi giận ôn lại chuyện quá khứ người đó xử sự với mình, thêm hai ba lớp giận nữa rồi nổi nóng sanh chuyện. Nếu vừa giận liền nhìn cái giận, biết bản chất nó không thật, không bận tâm thì nó tự hết, vậy là khéo tu.

Chánh văn:

Có người hỏi:

-   Luật cớ sao chẳng tin thiền? đáp:

-   lý sâu kín khó hiển bày, danh tướng dễ giữ. Người không thấy tánh nên chẳng tin thiền. Nếu người thấy tánh gọi đó là Phật, người biết Phật mới hay tin vào, Phật chẳng xa người mà người xa Phật. Phật là tâm tạo, mà người mê căn cứ trong văn tự để tìm. Người ngộ nhằm nơi tâm mà giác, người mê tu nhân đợi quả, người ngộ thấu rõ tâm không tướng, người mê chấp vật giữ cái ngã làm mình. Người ngộ Bát-nhã ứng dụng hiện tiền, người ngu chấp không chấp có sanh kẹt. Người trí thấy tánh liễu tướng linh thông. Hàng càn tuệ (tuệ khô) biện luận mỏi miệng, bậc đại trí thấu suốt bản thể tâm an vui. Bồ-tát chạm vật soi tỏ, Thanh văn sợ cảnh làm mờ tâm. Người ngộ hằng ngày được vô sanh, người mê hiện tiền cách xa Phật.

Giảng:

Đoạn này rất quan trọng. Người hỏi: Luật sư cớ sao không tin thiền? Những người tu về luật thì không tin thiền. Tại sao? Ngài giải thích: Vì lý sâu kín khó hiển bày, danh tướng dễ giữ. Lý sâu kín khó hiển bày nên người ta không thấy, không thấy nên không tin, còn về danh về tướng dễ thấy, dễ thấy nên dễ tin. Ví dụ người giữ luật đi phải bước nhè nhẹ, đầu cúi xuống, có hành động hiển lộ nên ai cũng thấy. Hình tướng bên ngoài là cái dễ tin dễ tu tập. Thiền tông nói về tâm mình sẵn có tánh giác, chúng ta có thấy được không? Không thấy được tánh giác làm sao tin. Người tu về tâm tánh rất khó nhận, khó hiểu. Vì thế, người tu luật nặng về tướng thì không tin thiền.

Người không thấy tánh nên chẳng tin thiền. Người không thấy tánh, không nhận ra bản tánh thì khó tin đường lối tu của thiền tông. Vì thiền tông là chỉ thẳng tâm tánh của chính mình. Tâm sanh diệt có hình tướng dễ thấy, tâm chân thật không hình tướng nên khó thấy khó tin. Chúng ta đã nghe giảng rất nhiều nhưng tin mình có tánh Phật chưa? Tin vững vàng hay là bán tín bán nghi? Điều này thật là dễ nhưng cũng thật là khó. Ai cũng có tánh Phật, điều này không chối cãi. Vì chúng ta quen quan niệm nói tới Phật là thấy hào quang sáng rỡ mới gọi là giác, chúng ta còn thân phàm phu làm sao gọi là giác. Có mà không dám tin, tôi nhắc tới nhắc lui mãi. Người có sẵn tánh giác mà không tin, không tin tức là quên mình; còn người tin thì nhớ được mình.

Tất cả chúng ta đều có tánh giác, nhưng người gan dạ lắm mới tin được, còn yếu ớt thì không dám tin. Có khó gì mà phải gan dạ? Ví dụ khi thấy lẵng hoa là thấy lẵng hoa, không nghĩ gì hết, lúc đó thấy bằng tánh thấy. Nếu thấy lẵng hoa mà khen đẹp chê xấu là thấy bằng tâm thức phân biệt. Tâm thức phân biệt là sanh diệt, tánh thấy có sanh diệt không? Tánh thấy lúc nào cũng sẵn đủ. Có người nói mở mắt mới thấy còn nhắm mắt thì không thấy, điều đó đúng không? Đây là chỗ ngài A-nan nghi hỏi Phật. Phật bảo nếu ông nói nhắm mắt không thấy thì hỏi mấy người mù nhìn trước thấy cái gì? Ngài A-nan thưa, người mù nói thấy trước mắt tối. Phật dạy, người mù nói trước mắt tối thì cho là không thấy, người sáng vào trong nhà tối thấy trước mắt cũng tối đen. Cái tối của người có mắt thấy và cái tối của người mù có khác nhau không? Cũng là một. Như vậy người mù thấy tối gọi là thấy hay không thấy? Có thấy nhưng thấy tối. Còn nếu nói người có mắt thấy tối là không thấy, thì khi mở đèn sáng lên là đèn thấy hay mắt thấy? Mắt thấy.  

Như vậy thấy tối, thấy sáng là mắt thấy. Với người mù nếu có phương tiện chữa trị được sáng trở lại thì thấy rõ ràng. Tánh thấy lúc nào cũng sẵn đủ, luôn hiện tiền, khi ngủ thức lúc nào cũng thấy hết. Như chúng ta đang ngủ trong phòng, đèn tắt, nhưng có người nào mở đèn mình cũng cảm biết. Đang ngủ mê, nhưng có người gõ cửa cộp cộp mình nghe liền.

Tánh thấy nghe luôn hiện tiền, khi chúng ta đóng cửa mắt, đóng cửa tai thì thấy mờ nghe yếu nghe nhẹ, còn không đóng thì thấy rõ nghe rõ. Tánh thấy nghe hằng hữu đó là của chính mình, còn cái phân biệt đẹp xấu khi có khi không, khi sanh khi diệt. Chúng ta chấp cái sanh diệt là mình, tánh thấy nghe hằng hữu lại không nhớ. Sống mà quên mình đó là người mê, sống mà nhớ mình đó là người tỉnh. Tỉnh giác và mê mờ gần nhau không đâu xa, chúng ta phải can đảm nhận thì mới thấy. Lục Tổ nói “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”. Phật pháp ngay nơi thế gian, khi nhìn hoa hồng mà mê khác giác khác, không phải lìa thế gian mà có giác. Nếu lìa thế gian tìm giác ngộ thì không khác gì việc tìm sừng thỏ, đó là chuyện không có mà đi tìm uổng công. Ngay trong cuộc đời mà chúng ta không lầm mê, đó là giác. Mê là chúng sanh, giác là Phật. Phật hiện tiền ngay mỗi chúng sanh, chỉ mình bỏ Phật chứ Phật không bỏ mình. Cũng cái thấy, nếu chúng ta nhớ mình đang thấy thì Phật hiện tiền, còn phân biệt cái này tốt cái kia xấu thì Phật ẩn mất, vì bị vọng thức phân biệt che đậy. Nhưng chúng ta lại quen sống với vọng thức che đậy đó, vì vậy cam chịu làm kẻ mê. Ngài nói tường tận: Nếu người thấy tánh gọi đó là Phật. Người biết Phật mới hay tin vào thiền, Phật chẳng xa người mà người xa Phật.

Phật là tâm tạo, mà người mê căn cứ trong văn tự để tìm. Phật là tâm tạo, tức là tâm mình hiện bày Phật, người mê không nhận ra chỗ này, cứ tìm trong văn tự để thấy Phật hiểu Phật, đó là sai lầm. Người ngộ nhằm tâm mà giác, người mê tu nhân đợi quả. Người ngộ tức ngay tâm mê mà giác, không tìm ở đâu. Còn người mê thì đợi tạo nhân rồi chịu quả, tức là đã đi xa.

Người ngộ thấu rõ tâm không tướng, người mê chấp vật giữ cái ngã làm mình. Tâm không tướng là như khi có lẵng hoa thì chúng ta thấy có lẵng hoa, nếu dẹp nó đi nơi khác thì thấy không lẵng hoa. Thấy có lẵng hoa hay không có lẵng hoa, không phải không thấy. Tánh thấy hiện tiền, không đổi thay, không sanh diệt, không có tướng nên chúng ta không nhận ra. Thân tứ đại này có tướng, nặng mấy mươi ký, đi đứng rõ ràng, ăn uống, làm việc..., chúng ta thấy được nên nói nó là thật. Cái mà chúng ta cho là thật thì Phật nói giả, cái chúng ta chưa biết, chưa nhận ra Phật lại nói thật. Bởi thân này dù khéo giữ thì trăm năm cũng hoại, có sanh có diệt thì không phải là thật. Tánh thấy nghe không tướng mạo thì không hoại, nó là bất sanh bất diệt. Chúng ta sẵn có cái bất sanh bất diệt mà quên, cứ bám vào cái sanh diệt cho là thật, nên Phật nói chúng ta mê, mê tại chỗ này. Thật tình ai cũng chấp nhận thân sanh diệt vì vui và dễ nhận, còn cái không sanh diệt xem ra khó tìm quá. Tâm Phật vô tướng nên nhìn không thấy, muốn tìm thấy Phật thì đó là đầu thêm đầu. Tánh thấy là Phật, lại muốn thấy Phật nữa thì Phật là cái bị thấy. 

Cho nên chỉ nhận từ nơi mình, không thêm cái thấy nào. Đó là chỗ khó mà người tu phải khéo nhận.

Người ngộ Bát-nhã ứng dụng hiện tiền, người ngu chấp không chấp có sanh kẹt. Qua câu này chúng ta liền biết ai mê ai ngộ. Như có người kể sự việc này sự việc nọ cho người khác nghe, người nghe hỏi cái này có thật không, cái kia có thật không. Lúc đó phải xác nhận là có hay không, người nghe mới tin. Như vậy chúng sanh đều dựa vào có hoặc không, luôn luôn chấp như vậy nên không thoát ra được. Người ứng dụng trí Bát-nhã thấy các pháp như trò huyễn hóa nên không chấp cái gì thật có hoặc thật không, tâm rỗng rang không vướng mắc. Đối với sự việc không nói có cũng không nói không thì dường như ba phải. Ví dụ hai người nhìn xuống hồ nước thấy bóng trăng, một người nói có thật, người kia nói không có. Trường hợp này nói sao cho đúng? Nếu bảo có thật thì mò vớt lên không được, nhưng nếu bảo không có thật thì rõ ràng có bóng trăng dưới nước. Hai người đó cãi nhau, ai cũng cho mình đúng. Người trí muốn can thiệp vào đó thì phải nói sao? Nói mặt trăng dưới đáy hồ chỉ là cái bóng, không có thật mà cũng không phải là không ngơ. Nếu có thật tại sao mò vớt không được, còn nếu không ngơ tại sao mắt thấy? Chỉ là bóng không phải thật có, không phải thật không. Nói như vậy là người có trí. Người trí thấy các pháp như bóng trăng trong nước, chỉ là giả tướng duyên hợp.

Thân này là thật có hay không thật có? Bình thường chúng ta sờ mó được, đi đứng được, ăn uống được..., vì có những công dụng đó nên không thể bảo là không. 

Nếu thật có thì nó sẽ còn hoài nhưng đến ngày tan hoại thì tìm thân không thấy. Chỉ ngay thân này nói rõ một câu rằng: Thân này do duyên hợp mà có, duyên tan thì không còn, có không thật có mà cũng không thật không. Hiểu như vậy thì chúng ta đã có trí hay chưa? Chỉ cần chuyển cách nhìn dễ như trở bàn tay.

Có bài kệ, tôi rất thích:

Tạc nhật dạ xoa tâm,

Kim triêu Bồ-tát diện;

Bồ-tát dữ dạ-xoa,

Bất cách nhất điều tuyến.

Dịch:

Hôm qua tâm dạ-xoa,

Ngày nay mặt Bồ-tát;

Bồ-tát và dạ-xoa,

Chẳng cách một sợi tơ.

Chuyển được là xong, không có gì trở ngại. Điều này khó tin hay dễ tin? Các pháp không có thật thể cố định, duyên hợp hư giả, thấy được như vậy thì đó là mặt Bồ-tát. Còn thấy cái gì cũng thật hết cho nên thèm ăn ngon, thèm mặc đẹp, thèm đủ thứ, thì đó là tâm dạ-xoa. Nếu thấy thân này tùy duyên tụ tan không có thật, thì không chiều theo sự đòi hỏi, không chạy theo dục lạc đó là làm chủ thân. Thấy đúng như thật là cái thấy của Bồ-tát, thấy lầm lẫn là cái thấy của dạ-xoa. Đổi cái thấy lầm lẫn qua cái thấy đúng như thật, không có gì ngăn cách, nên nói không cách một đường tơ. Tại sao chúng ta không chịu đổi? 

Chúng ta tu trên hình tướng mê lầm, không thật nhận được chỗ siêu thoát giác ngộ mà Phật đã chỉ dạy. Nhiều khi ăn chay, đi chùa, tu hành cực khổ nhiều năm tháng mà không được kết quả. Bề ngoài xem như trung thành với Phật, nhưng bên trong chẳng chịu đổi tâm mê thành tâm Phật. Phật dạy mình ứng dụng trí Bát-nhã, quán sát các pháp duyên hợp tạm có như huyễn, chẳng phải thật có chẳng phải thật không. Dù đi đến đâu, cảnh đẹp xấu hay gặp chuyện vui buồn thuận nghịch đều nhớ tánh không của Bát-nhã, không quan trọng không dính mắc. Như thế là được giác ngộ, hết phiền não, hết bực bội khổ đau. Chỉ cần chuyển tâm mê thành tâm giác, đâu khó khăn lâu xa gì. Phút trước mê, phút sau giác thật là nhẹ nhàng an ổn. Có mấy ai tu mà thấy được chỗ quan trọng này?

Người trí thấy tánh liễu tướng linh thông. Hàng càn tuệ (tuệ khô) biện luận mỏi miệng, bậc đại trí thấu suốt bản thể tâm an vui. Người trí thấy tánh thì rõ được tướng nên nói linh thông. Người trí lúc nào cũng biết tánh của mình sẵn, bởi có tánh sẵn nên mới thấy vật nghe tiếng, rõ tướng hư giả nên được linh thông. Còn hàng càn tuệ thì biện luận mỏi miệng, tức là người có học chút ít, trí chưa thông suốt mà cứ biện luận cách này cách nọ không tới đâu hết. Bậc đại trí thấu suốt bản thể chân thật sẵn có của mình, nên tâm lúc nào cũng an vui tự tại.

Bồ-tát chạm vật soi tỏ, Thanh văn sợ cảnh làm mờ tâm. Đây là đối chiếu Thanh văn và Bồ-tát. Thanh văn luôn thích chỗ thanh vắng, sợ đối cảnh làm tâm mờ tối nên trốn cảnh để tu cho thanh tịnh. Bồ-tát thì chạm vật soi tỏ, tức là thấy vật mà dùng trí Bát-nhã thấy cho nên không có một vật thật, không có vật thật thì không có gì làm mờ nên vẫn sáng tỏ. Người ngộ hằng ngày được vô sanh, người mê hiện tiền cách xa Phật. Nếu chúng ta nhận được tánh giác của mình từ sáu căn hiện tiền thì giờ nào cũng có Phật, ngay nơi đó được vô sanh. Còn người mê nên thấy Phật ở ngoài mình xa xôi. Đó là hai quan niệm mê ngộ khác nhau.

Chánh văn:

Có người hỏi:

-   Thế nào được thần thông? Sư đáp:

Thần tánh linh thông khắp giáp thế giới như cát bụi, núi sông đá vách qua lại không ngại, trong sát-na đi muôn dặm, qua lại không dấu vết, lửa không thể đốt, nước không thể chìm. Người ngu tự không tâm trí muốn thân tứ đại này được bay trong hư không. Kinh nói: “Phàm phu chấp tướng tùy nghi vì họ nói: Tâm không hình tướng tức là sắc thân vi diệu; không tướng tức là tướng thật, tướng thật thì thể nó không, gọi là thân hư không vô biên, muôn hạnh trang nghiêm nên gọi là pháp thân công đức.” Chính pháp thân này là gốc của muôn hạnh, tùy công dụng đặt tên, nói thật chỉ có pháp thân thanh tịnh.

Giảng:

Hỏi thế nào được thần thông thì ngài giải thích:

Thần tánh linh thông khắp giáp thế giới như cát bụi,núi sông vách đá qua lại không ngăn ngại, trong sát-na đi muôn dặm qua lại không dấu vết, lửa không thể đốt, nước không thể chìm, đó là thần thông. Chúng ta có thần thông đó không? Thần thông tức chỉ cho tâm tánh linh thông bủa khắp thế giới, không chỗ nào không có.

Kinh Lăng-nghiêm đức Phật gạn hỏi về nghĩa khách trần, ngài Kiều-trần-như dùng ví dụ ánh sáng mặt trời chiếu qua khe hở thấy bụi lăng xăng. Bụi lăng xăng trong khoảng hư không đó gọi là trần. Trần thì lay động sanh diệt, hư không thì yên lặng. Phật xác nhận lời của ngài. Như vậy khách trần sanh diệt tạm thời rồi mất, cái không sanh diệt là chủ thì không bao giờ mất.

Như khi chúng ta nhìn bình hoa, cái nhìn thấy bình hoa và cái khởi niệm tốt xấu về bình hoa, cái nào động, cái nào không động? Cái nhìn bình hoa thấy rõ mà không động, còn cái suy nghĩ đối chiếu bình hoa này đẹp xấu thế nào, đó là động, là sanh diệt. Tâm linh thông của chúng ta sẵn có không động mà không tướng. Không động không tướng thì có bị giới hạn không? Nó trùm khắp cả số thế giới nhiều như cát bụi, xuyên qua núi sông tường vách, đến đi không ngăn ngại... Sống được với tâm đó là có thần thông, còn sống với tâm thức phân biệt đẹp xấu là sống với tâm sanh diệt, là tạo nghiệp luân hồi.

Có người nào trong chúng đây không thấy bình hoa không? Ở gần cũng thấy, ở xa cũng thấy. Cái thấy đó không tướng mạo, nó có giống nhau không? Đừng khởi so sánh phân biệt thì cái thấy đó là một, nhưng khởi niệm phân biệt thì có người khen người chê thành ra sai khác. Tất cả chúng ta đều có sẵn tánh linh thông bất sanh bất diệt mà không nhận không biết, chạy theo vọng thức sanh diệt tạo nghiệp luân hồi. Chỉ nhận được tánh linh thông thì lửa không đốt được, nước không làm chìm được, không cần tìm thần thông đâu xa, mà cần dùng thì có đủ.

Người ngu tự không tâm trí, muốn thân tứ đại này được bay trong hư không. Người luyện tập để cho thân tứ đại này bay trong hư không cho đó là hay, cho đó là đặc biệt nhưng ở đây ngài cho đó là người ngu. Chúng ta có thích cái ngu đó không? Nếu nghe ai nói luyện tập thế này thế kia ba tháng biết bay, luyện dở thì bay tới nóc nhà, còn luyện hay hơn thì bay lên mấy trăm thước. Nghe như vậy thích biết mấy, nhưng nếu bay được có sung sướng không? Không biết có sung sướng không, chứ tôi thấy bay càng cao càng sợ, lỡ mất thần thông rớt nát thây! Bây giờ chúng ta chưa luyện tập thần thông mà có thể bay một lúc mấy trăm người, bay từ chỗ này qua chỗ kia một cách dễ dàng. Không cần gì phải luyện tập, chỉ nhận ra bản tánh không sanh không diệt tự tại, không có gì hại nó được, đó là thần thông.

Kinh nói: “Phàm phu chấp tướng tùy nghi vì họ nói: Tâm không hình tướng tức là sắc thân vi diệu; không tướng tức là tướng thật, tướng thật thì thể nó không, gọi là thân hư không vô biên, muôn hạnh trang nghiêm nên gọi là pháp thân công đức.” Vì chúng ta quen chấp tướng nên Phật tùy nghi mà nói cho dễ nhận. Tâm không hình tướng này là sắc thân vi diệu. Tâm không hình tướng tức là tánh biết không tướng mạo. Không tướng đó là thật tướng, tướng thật thì thể không, thể nó không do duyên hợp, gọi là thân hư không vô biên, muôn hạnh trang nghiêm gọi là pháp thân công đức. Như vậy kinh nói pháp thân, nói công đức cho chúng sanh ưa thích, thật ra thể chân thật đó không sanh không diệt, nhận được là được tất cả công đức.

Chính pháp thân này là gốc của muôn hạnh, tùy công dụng đặt tên, nói thật chỉ có pháp thân thanh tịnh. Tất cả công dụng thấy nghe ngửi nếm... muôn hạnh trang nghiêm đều tùy dụng đặt tên. Thần thông cũng là dụng của pháp thân, dù bay trên hư không hay vào lửa vào nước..., tất cả đều từ gốc pháp thân thanh tịnh mà ra. Nếu chúng ta biết quay lại, trở về pháp thân thanh tịnh là giác là làm chủ sáu căn, còn theo sáu căn để phân biệt sáu trần đó là mê, là mất thần thông. 

Chánh văn:

Có người hỏi:

-   Kẻ nhất tâm tu hành thì nghiệp chướng đời quá khứ được tiêu diệt chăng?

Sư đáp:

-   Người không thấy tánh chưa được tiêu diệt. Nếu người thấy tánh như mặt trời giọi sương tuyết. Lại người thấy tánh, ví như gom cỏ bằng ngọn núi Tu-di chỉ dùng một đóm lửa là cháy rụi. Nghiệp chướng như cỏ, trí tuệ như lửa.  

Giảng:

Hỏi rằng kẻ nhất tâm tu hành, tức là quyết tâm tu hành thì nghiệp chướng đời quá khứ được tiêu diệt chăng? Ngài trả lời: Chưa thấy tánh thì chưa được tiêu diệt. Nếu người thấy tánh thì giống như tia nắng mặt trời soi chiếu sương tuyết đều tan. Người thấy tánh ví như gom một núi cỏ chỉ cần một mồi lửa đốt rụi hết. Như vậy trí tuệ là cây kiếm bén, trí tuệ là ngọn lửa tiêu diệt hết tất cả những cố chấp của chúng ta. Cho nên muốn hết tất cả nghiệp chướng thì phải có trí tuệ.

Chánh văn:

-   Thế nào biết được nghiệp chướng hết?

-   Hiện tiền tâm thông thì việc sanh trước sau đều thông. Ví như nhìn thấy Phật trước Phật sau, muôn pháp đồng thời. Kinh nói: “Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng vì thành tựu Nhất thiết trí.”

Giảng:

Đây nói hiện tiền tâm thông thì việc trước sau đều thông. Khi tâm chúng ta thấu triệt lý Bát-nhã rồi thì bất cứ việc gì mình cũng thông, không mắc kẹt thời gian trước sau. Đây ví như thấy Phật trước Phật sau, muôn pháp đồng thời, tức là Phật trước hay Phật sau đều là Phật không khác, tất cả một lúc hiện tiền. Dẫn lời kinh nói Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng vì thành tựu Nhất thiết trí. Được Nhất thiết trí thì nơi nào chỗ nào cũng là đạo tràng, còn không biết thì không có đạo tràng. 

Chánh văn:

Có vị cư sĩ hỏi:

-   Thế nào được trụ chánh pháp? Sư đáp:

Cầu trụ chánh pháp là tà. Vì cớ sao? Vì pháp không có tà chánh.

Giảng:

Thường thường chúng ta hay nói đây là chánh, kia là tà, muốn được chánh pháp phải bỏ tà pháp. Nhưng với cái nhìn của ngài, nói tà chánh là hai bên, mà hai bên là không thật. Nếu bỏ cái này tìm cái kia là bỏ cái giả này tìm cái giả khác, đó cũng là mê lầm chứ chưa thấy được lẽ thật.

Chánh văn:

-   Làm sao được thành Phật?

-    Chẳng cần bỏ tâm chúng sanh, cốt đừng ô nhiễm tánh mình. Kinh nói: “Tâm, Phật và chúng sanh cả ba đều không sai biệt.”

Giảng:

Cư sĩ hỏi làm sao được thành Phật? Nếu hỏi câu này, người thường trả lời thì phải tu cách này, tu cách nọ để thành Phật. Đây ngài trả lời chẳng cần bỏ tâm chúng sanh, cốt đừng ô nhiễm tánh mình. Ngay nơi tâm tánh mà chúng ta đừng cho nhiễm, đừng cho dính mắc, thường thanh tịnh thì Phật tại chỗ, không tìm kiếm đâu xa. Thành Phật không ngoài tâm mình. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm, Phật, chúng sanh tam vô sai biệt.” 

Tâm, Phật và chúng sanh cả ba đều không sai biệt. Tại sao? Phật ngộ được tâm mình mới thành Phật. Như vậy gọi tên tâm, tên Phật, tên chúng sanh, tuy ba nhưng gốc có một. Chúng ta thấy Phật và mình dường như cách biệt muôn trùng, thật sự chúng ta có tâm nên có Phật, chẳng xa cách chút nào hết.

Chánh văn:

-   Nếu hiểu như thế được giải thoát chăng?

-    Vốn tự không phược (trói buộc) chẳng cần cầu giải. Pháp vượt ngoài ngôn ngữ văn tự, chẳng dùng trong câu số mà cầu; pháp chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai, không thể do trong nhân quả mà khế hội; pháp vượt tất cả, không thể so sánh; pháp thân không hình tượng, ứng vật hiện hình, chẳng rời thế gian mà cầu giải thoát.

Giảng:

Hỏi: Nếu hiểu như ngài dạy, không cần bỏ tâm chúng sanh thì làm sao được giải thoát? Ngài đáp: Vốn tự không trói buộc, chẳng cầu giải thoát. Tổ Đạo Tín khi còn Sa-di gặp tổ Tăng Xán, hỏi: Bạch Hòa thượng dạy cho con pháp giải thoát? Tổ Tăng Xán nhìn thẳng vào mặt hỏi: Ai trói buộc ngươi? Ngài Đạo Tín thưa: Không ai trói buộc. Tổ bảo: Không ai trói buộc cầu giải thoát làm gì? Đến đây ngài Đạo Tín chợt ngộ.

Chúng ta nghĩ rằng tu giải thoát sanh tử, thật sự đó là ôm ấp tưởng tượng trong danh từ chữ nghĩa, giải thoát đâu không thấy. Chúng ta hiện bị trói buộc hay không bị trói buộc? Tất cả không có gì trói buộc cả mà trói buộc tại mình. Chúng ta cứ nghĩ rằng mình bị nghiệp trói. Kinh có nói đến thập triền thập sử đó là mười cái trói buộc, nhưng kể như vậy để biết tên gọi, còn bản chất thập triền thập sử không thật. Bản chất nó không thật thì cái gì trói mình? Nên nói rằng bị trói mà nhìn kỹ lại không có cái gì trói hết. Không bị trói thì cười chơi có gì đâu rên rỉ!

Tôi ví dụ cái khổ nhất của thế gian là trong gia đình, chồng hoặc vợ thay trắng đổi đen. Khổ đó là tự mình trói buộc, người ta thương mình thì ở với mình, người ta không thương mình thì đi chỗ khác. Người ta đã không thương mình mà mình khổ có phải dại không? Sao lại chịu thiệt thòi vậy. Nếu biết lúc thương thì ở hòa với nhau, lúc không thương mình mà thương người khác là quyền của người ta, mình cũng vui vẻ chấp nhận. Như vậy cái buồn khổ đó ai trói ai? Quan niệm người đời có nhiều lầm lẫn tự cột trói vào mình, không ai cột trói hết.

Chúng ta tu biết các pháp không thật, tâm hiện tiền đang thấy nghe không hình không tướng, ai làm gì mà trói buộc nó được. Chỉ tại mình khởi vọng, chạy theo tâm phân biệt thương ghét buồn giận... từ đó sanh trói buộc buồn khổ, nếu buông hết tâm thương ghét buồn giận thì khổ không trói buộc. Tu là biết xả, biết buông bỏ tất cả là hết khổ, còn không biết thì khổ hoài. Đó là lẽ thật, không cần tìm giải thoát mà tự mình đã được giải thoát rồi.

Như vậy chúng ta thấy rằng, người không sáng suốt thì bị các pháp trói buộc, còn sáng suốt thì không bị cái gì trói buộc hết. Không bị trói buộc thì pháp thân hiện tiền, ứng vật hiện hình, không rời khỏi thế gian mà luôn luôn giải thoát. Đi tới đi lui tất cả là tự tại giải thoát, không có gì khó hết. 

Chánh văn:

Có vị tăng hỏi:

-   Cái Bát-nhã?

-   Ngươi nghi cái gì không phải Bát-nhã, thử nói xem?

-   Thế nào được thấy tánh?

Thấy tức tánh, không tánh thì không thể thấy.

Giảng:

Đây nhắc tới nhắc lui, thấy tức tánh, nếu không tánh là không thấy, biết là tánh, nếu không tánh thì không biết. Chúng ta có thấy biết là có tánh rồi, không cần tìm kiếm nữa. Chỉ gạt qua hết những phiền não, những tập khí chấp chặt của mình thì tánh hiện tiền không tìm không kiếm.

Chánh văn:

-  Thế nào là tu hành?

Cốt đừng ô nhiễm tự tánh tức là tu hành, chớ tự lừa dối là tu hành, đại dụng hiện tiền tức là pháp thân vô đẳng đẳng (Phật).

Giảng:

Nói về tu hành thì ngài dạy mình chỉ có một việc là đừng dính đừng nhiễm, tự tánh thanh tịnh đó là tu hành.Không buông xả nhiễm ô dính mắc mà lạy Phật cầu cho hết phiền não, làm sao hết? Cứ buông xả thì tự nó hết. Buông xả được thì đại dụng hiện tiền, tức là pháp thân vô đẳng đẳng, cũng chính là pháp thân bình đẳng. Hiện giờ tất cả chúng ta đều có pháp thân bình đẳng như nhau. Ở tại đâu? Ngay nơi bình hoa này, ai cũng thấy bình hoa nhưng không khởi so sánh phân biệt tốt xấu, cái thấy đó có khác nhau không? Mấy trăm người nhìn thì cũng thấy như nhau, tức là pháp thân bình đẳng hiện tiền. Vừa dấy niệm phân biệt thì liền sai biệt mất bình đẳng, còn cứ ngay ở cái nhìn thấy thôi, dừng chỗ đó là pháp thân bình đẳng. Thật đơn giản, không bao giờ thiếu, không bao giờ phải tìm. Nó hiện tiền như vậy mà không nhận. Tất cả chúng ta đều có cái thấy bình đẳng, có cái nghe bình đẳng, nếu chùa đánh trống đánh chuông thì ai cũng nghe trống nghe chuông, không khởi niệm gì hết. Đại dụng hiện tiền luôn ở ngay trước mắt. Đây là trở về với chân tánh bất sanh bất diệt rõ ràng sẵn có, là cứu cánh của việc tu.

Chánh văn:

-   Trong tánh có ác chăng?

-   Trong đây thiện còn chẳng lập.

Giảng:

Người hỏi muốn biết trong tự tánh bình đẳng có ác không. Đã gọi là bình đẳng thì làm gì có thiện ác, nên ngài trả lời: Trong đó thiện cũng chẳng lập huống nữa là ác. Còn có thiện ác là có hai bên đối đãi, mất tánh bình đẳng.  

Chánh văn:

-   Thiện ác đều chẳng lập, đem tâm dùng vào chỗ nào?

-   Đem tâm dùng tâm là đại điên đảo.

-   Làm thế nào mới phải?

-   Không làm thế nào, cũng không phải.

Giảng:

Không lập thiện ác thì dùng tâm tu chỗ nào? Nếu đem tâm này đuổi tâm kia là điên đảo, chỉ biết tất cả tâm thiện ác đều không thật, thấy rõ như vậy thì không chạy theo thiện ác. Đây là chỗ tu dứt thiện ác phải quấy lăng xăng, không thấy gì để tu tập, tìm kiếm bên ngoài, nên nói không làm thế nào, cũng không gì là phải quấy. Thấy có phải quấy là chưa phải chỗ chân thật.

Chánh văn:

Có người hỏi:

-  Có người chèo thuyền, lườn thuyền cọ chết con ốc con hến, là người chịu tội hay thuyền chịu tội?

Sư đáp:

Người thuyền cả hai đều không tâm, tội chính tại ông. Ví như cuồng phong thổi gãy cây hại mạng, mà không có người làm, không có người chịu, nhưng trong thế giới đâu không phải là chỗ chúng sanh chịu khổ.  

Giảng:

Khi người ta đi trên sông rạch cạn, thuyền chở nặng cọ dưới bùn rồi sò hến chết thì thuyền chịu tội hay người chịu tội? Ngài đáp: Người thuyền cả hai đều không tâm, tội chính tại ông. Tại ông nghĩ tội thì ông thành tội. Người chèo thuyền không thấy sò hến, chiếc thuyền thì vô tri không nghĩ tội nghĩ phước, hỏi tội hay không tội là do ông khởi tâm.

Trong thế giới này, ai cũng gặp chuyện vui buồn đau khổ, tất cả những vui buồn đau khổ không phải cố tình gây cho mình, vì nó vô tâm. Ví dụ xứ sở mình bị bão lụt thử hỏi ai gây bão lụt đó? Bây giờ kết tội ai? Thiên nhiên như vậy, mưa nhiều nước lớn thì lụt lội, thôi thì ráng vươn lên, cười với nhau mà sống. Cõi này là cõi khổ, chớ ngồi đó mà trách trời trách đất, có ông trời nào chịu trách nhiệm đâu. Hiểu đúng như thật chúng ta mới an ổn tùy duyên. Vì đã sanh ra trong thế giới này không thể tìm kiếm nơi nào không khổ đau, chỉ biết vạn vật vô tâm, mình cũng vô tâm thì không ngăn ngại.

Chánh văn:

Có vị tăng hỏi:

Chưa biết “thế thác tình” (gửi tình), “thế chỉ cảnh”, “thế nói nín”, cho đến “thế nhướng mày chớp mắt” v.v... làm sao được thông hội ở trong khoảng một niệm?  

Giảng:

Trong nhà thiền dùng nhiều phương tiện để dạy người. Thế thác tình, tức là mượn hình ảnh để nói lên chỗ muốn chỉ của mình. Thế chỉ cảnh, tức là chỉ cảnh ở bên ngoài để nói đạo. Thế nói nín, là khi thì nói khi im lặng. Thế nhướng mày chớp mắt, là khi học hỏi đạo, vị thầy nhướng mày hoặc chớp mắt để đáp chứ không nói. Gặp những biểu thị này làm sao có thể hiểu được trong khoảng chốc lát?

Chánh văn:

Sư đáp:

- Không có việc ngoài tánh. Người dụng diệu thì động yên đều diệu. Người tâm chân thì nói nín thảy chân. Người hội đạo thì đi đứng ngồi nằm đều là đạo. Vì mê tự tánh nên muôn lầm phát sanh.

Giảng:

Ngài nói tất cả phương tiện của các thiền sư chẳng qua là để chỉ bày tự tánh, ngoài ra không có việc khác. Nếu người đạt được tự tánh thì diệu dụng đầy đủ, khi động khi yên đều là diệu dụng, người tâm chân thật rồi nói nín động tĩnh đều là chân. Người hội đạo thì đi đứng nằm ngồi đều hội đạo. Bởi vì chúng ta còn mê tự tánh nên muôn sự lầm lẫn đều từ đó mà phát sanh.

Tất cả các hành động đều không ngoài tự tánh, bậc thiền sư đạt đạo khi nói khi nín, khi chỉ cảnh, khi gá tình đều chỉ thẳng. Người không hiểu thì tìm cầu suy nghĩ, càng tìm cầu suy nghĩ càng xa đạo.  

Chánh văn:

-   Thế nào là pháp có tông chỉ?

-   Tùy chỗ kia lập liền có các nghĩa. Ngài Văn-thù nơi gốc vô trụ lập tất cả pháp.

Giảng:

Chữ vô trụ này gần với chữ “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang. Chư Phật Bồ-tát, thiền sư đều lấy vô trụ làm căn bản. Tại sao các ngài lập nghĩa vô trụ làm gốc? Vì tất cả chúng ta đối duyên xúc cảnh gặp cái gì thì dính cái đó, gặp cái gì thì mắc kẹt cái đó, suốt ngày tâm không được bình an. Bị ngoại cảnh cột trói, đem tâm dính cảnh nên sanh ra đủ thứ suy nghĩ tưởng tượng, không dừng được. Nếu đối với tất cả pháp chúng ta không trụ, không dính không kẹt một pháp nào thì tâm thản nhiên tự tại, thản nhiên tự tại là tâm an lành giải thoát. Vì vậy mà nói lấy vô trụ làm gốc.

Chánh văn:

-   Chẳng đồng thái hư chăng?

-   Ngươi sợ đồng thái hư chăng?

-   Sợ.

-   Cái biết sợ là chẳng đồng thái hư.

Giảng:

Câu trả lời này rõ ràng tường tận làm sao! Bởi vì nghe nói vô trụ là không dính mắc, không dính mắc thì rỗng rang giống hư không. Có dính mắc là có cảnh có tâm, không dính mắc là không cảnh không tâm, người nghe lầm chỗ đó là thái hư. Còn có tánh biết thì không đồng với thái hư. Thái hư rỗng rang mà vô tri, tâm chúng ta rỗng rang thanh tịnh mà có tri giác, nên không phải như hư không.

Chánh văn:

-   Chỗ nói không thể đến, làm sao được hiểu?

-   Nay chính khi ngươi nói, nghi chỗ nào chẳng đến.

Giảng:

Nếu đó là chỗ nói không đến, nghĩ bàn không đến thì làm sao hiểu? Ngài dạy: Nay chính chỗ ngươi nói, nghi chỗ nào chẳng đến. Nghe câu này chúng ta càng ngơ ngẩn không biết ngài nói cái gì. Tôi nhắc lại câu chuyện lúc ngài Huệ Hải đến hỏi Mã Tổ Đạo Nhất: Cái gì là kho báu của Huệ Hải? Mã Tổ bảo: Chính cái ông hỏi ta là kho báu của ông, đầy đủ tất cả đâu cần tìm bên ngoài. Ngài ngay đó tự biết bản tâm. Đây cũng là chỗ ngài áp dụng để dạy học nhân.

Chúng ta thấy hình như có mâu thuẫn trong đây. Tại sao chỗ chân thật ngôn ngữ nói không đến, mà lại nói cái biết hỏi là kho báu nhà mình? Không có gì mâu thuẫn hết. Bởi vì lời nói ra là nằm trong đối đãi, không đến chỗ chân thật, nhưng vừa khởi nói là có tánh biết, tánh biết đó từ chỗ chân thật hiện ra, không đâu xa lạ. Cho nên có biết nói, biết ăn, biết đi, biết hoạt động... thì cái biết đó là kho báu nhà mình, không riêng có biết nói thôi. Nhà mình đã có kho báu mà không biết dùng, cứ đi tìm nơi này nơi nọ. Vì thế chư tổ chỉ kho báu ngay nơi chỗ sử dụng hằng ngày của chúng ta.

Chánh văn:

Có hơn mười vị Túc đức đồng đến hỏi:

-    Kinh nói “Phá diệt Phật pháp”, chưa biết Phật pháp có thể phá diệt chăng?

Sư đáp:

-   Phàm phu ngoại đạo bảo Phật pháp có thể phá diệt, người Nhị thừa bảo Phật pháp không thể phá diệt, trong chánh pháp của tôi không có hai cái thấy này. Nếu luận về chánh pháp chẳng những phàm phu ngoại đạo, cho đến hàng Nhị thừa chưa đến vị Phật cũng là người ác.

Giảng:

Túc đức là những vị có đức độ nhiều rộng. Hỏi, những người làm những điều tàn ác, làm những điều tà là phá diệt Phật pháp, Phật pháp có thể phá diệt được chăng?

Câu trả lời của ngài rất mạnh. Phàm phu, ngoại đạo cho đến Nhị thừa cũng là người ác, vậy tu chứng quả A-la-hán cũng ác sao? Đó là một cái nghi nhiều người thắc mắc. Ở đây chữ ác không phải nói nghĩa hung dữ, mà nói còn thiên lệch chưa phải cứu cánh, phải hiểu nghĩa như vậy mới không lầm. 

Hỏi Phật pháp có phá diệt được không, ngài trả lời rằng phàm phu thì thấy Phật pháp có thể phá diệt, Nhị thừa thì thấy Phật pháp không thể phá diệt, chỗ chân thật cứu cánh này không có hai bên, không có diệt và không diệt, còn mắc kẹt hai bên là chưa đến chỗ viên mãn. Vì vậy ngài nói Nhị thừa là người ác, tức là còn thiên lệch một bên chưa phải chỗ cứu cánh. Còn thấy phàm phu chịu cảnh sanh tử luân hồi, Nhị thừa chứng quả Niết-bàn vô sanh hết sanh tử luân hồi, thấy như vậy là thiên lệch nên gọi là ác. Trong chánh pháp của ngài không có sanh thì nói gì có tử. Thể chân thật của chính mình từ thủy chí chung không bao giờ vắng thiếu. Không vắng thiếu thì có lúc nào gọi là sanh, không vắng thiếu thì có lúc nào gọi là tử. Chỉ thân phàm phu thì có sanh tử, thể chân thật không bao giờ sanh tử. Tu giải thoát sanh tử tức là nhận được thể chân thật của chính mình. Nhận được rồi thì không thấy có gì là phá diệt Phật pháp hay không phá diệt Phật pháp.

Chánh văn:

-  Pháp chân, pháp huyễn, pháp không, pháp chẳng không, mỗi thứ có chủng tánh chăng?

-  Pháp tuy không có chủng tánh, ứng vật đều hiện. Tâm huyễn nên tất cả pháp đều huyễn, nếu có một pháp chẳng huyễn thì huyễn ắt có định. Tâm không, nên tất cả đều không, nếu có một pháp chẳng không thì nghĩa không chẳng lập. Khi mê thì người theo pháp, lúc ngộ thì pháp do người. Như sum la vạn tượng đến không là tột, trăm sông các dòng đến biển là tột. Tất cả hiền thánh đến Phật là tột. 

Mười hai phần kinh, năm bộ Tỳ-ni (luật), năm Vi-đà luận đến tâm là tột. Tâm là gốc diệu của tổng trì, là nguồn lớn của muôn pháp, cũng gọi là kho đại trí tuệ, vô trụ Niết-bàn, trăm ngàn muôn tên thảy là tên khác của tâm mà thôi.

Giảng:

Các vị tôn túc này muốn hỏi về pháp chân thật, pháp huyễn hóa, pháp không và pháp chẳng không, mỗi pháp có chủng tánh riêng hay không, ngài đáp: Pháp tuy không có chủng tánh, ứng vật đều hiện. Nghĩa là chân, huyễn, không, có đều không có chủng tánh nhưng mỗi pháp tùy theo vật, ứng theo tâm người mà hiện rõ ràng.

Đây nói tâm huyễn nên tất cả pháp đều huyễn. Nếu có một pháp chẳng huyễn thì huyễn ắt có định. Tâm hư vọng thì các pháp nó đặt ra cũng huyễn. Như tâm suy nghĩ là huyễn nên đặt tên cái đồng hồ cũng là huyễn, cái ly cái tách cũng là huyễn. Nếu trong các pháp huyễn đó có cái gì cố định thì ắt pháp không phải là huyễn, nhưng không có một pháp nào cố định nên tất cả pháp đều là huyễn.

Tâm không nên tâm tất cả pháp đều không. Nếu có một pháp chẳng không thì nghĩa không chẳng lập. Nếu tâm mình không còn dính không còn kẹt, không còn những bóng dáng gì nữa thì thấy các pháp đều không; không pháp gì có thể lập.

Khi mê thì người theo pháp, ngộ thì pháp do người. Như khi mê, chúng ta thấy cụm hoa hồng này đẹp rồi trầm trồ khen ngợi và sanh tâm yêu thích, đó là người theo pháp. Khi tỉnh ngộ biết bông hoa này do nhân duyên tạo ra không có gì thật, biết do nhân duyên tạm có nên không khởi khen chê đắm trước, hoa hồng là hoa hồng, mình không chạy theo nó. Nên nói mê thì người theo pháp, ngộ thì pháp do người. Tất cả chúng ta là người mê hay ngộ? Chúng ta thường chê cái gã này mê muội quá, mà thật sự là chúng ta đang mê. Thấy cái gì thì chỉ biết phân biệt xấu đẹp..., không biết cái đó do nhân duyên tạo, không có thật. Nếu tỉnh ngộ quán sát biết các pháp do nhân duyên kết tụ thành, tự nó không có đẹp hay xấu, như vậy chúng ta mới biết tu tập chuyển mê thành ngộ. Đó là ý nghĩa mê và ngộ.

Như sum la vạn tượng đến không là tột, trăm sông các dòng đến biển là tột. Muôn hình vạn trạng ở thế gian này đến không là tột. Không là gì? Là không tự tánh. Từ cái lẵng hoa, cây cối, bàn ghế... tất cả đều đến chỗ tột cùng là tánh không duyên hợp giả có. Biết như vậy là biết tột cùng các pháp không có gì thật.

Tất cả hiền thánh đến Phật tột. Thứ bậc tu tập từ quả vị Thanh văn đến Bồ-tát, Tam hiền Thập thánh đến quả vị Phật là tột, đến giác ngộ viên mãn là chỗ tột.

Mười hai phần kinh, năm bộ Tỳ-ni, năm Vi-đà luận đến tâm là tột. Tất cả kinh luật luận của Phật dạy gốc đều chỉ cho chúng ta nhận ra bản tâm của mình, đó là chỗ cuối cùng. Ai nhận ra được bản tâm thì có đủ kinh luật luận trong đó. Bởi chúng ta quên tâm, chỉ một bề chạy theo vọng tưởng, vì vậy Phật phải dùng phương tiện nào kinh nào luật nào luận, giải thích chỉ bày cho chúng ta hiểu, nhận ra. Nhận ra là nhận ra cái gì? Nhận ra bản tâm.

Chỗ cuối cùng trọng yếu là bản tâm thanh tịnh. Mỗi người đều sẵn có bản tâm, chỉ vì mê muội chạy theo hư dối, bị nó lừa gạt dẫn dắt đi trong luân hồi sanh tử. Phật thương nên dùng đủ phương tiện, chư tổ cũng dùng đủ cách nhắc nhở chúng ta thức tỉnh trở về nhận ra bản tâm đó. Khi mê thì quên tâm, khi tỉnh biết mình có cái chân thật gọi là ngộ. Ngộ được tâm là đầy đủ tất cả kinh luật luận không thiếu gì cả.

Tâm là gốc diệu của tổng trì, là nguồn lớn của muôn pháp, cũng gọi là kho đại trí tuệ vô trụ Niết-bàn. Trăm ngàn muôn tên thảy là tên khác của tâm mà thôi. Chúng ta biết tâm này có rất nhiều tên, có chỗ gọi là diệu, có chỗ gọi là trí tuệ, đại trí tuệ, có chỗ gọi là vô trụ, chỗ gọi là Niết-bàn... Tất cả danh từ này đều nói lên một thể chân thật, tùy chỗ hiểu của chúng sanh mà đặt ra.

Chánh văn:

-   Thế nào huyễn?

-   Huyễn không có tướng nhất định, như vòng lửa quay, như thành Càn-thát-bà, như người gỗ bằng máy, như sóng nắng, như hoa giữa không, đều không có pháp thật.

Giảng:

Đã gọi là huyễn thì không có tướng nhất định.

Huyễn như vòng lửa quay. Chúng ta thấy mấy đứa bé cầm cây nhang quay nhanh như vòng tròn sáng. Vòng tròn đó có thật không? Chỉ là những đốm sáng tiếp nối. Con mắt chúng ta nhìn không theo kịp nên thấy như có vòng lửa, sự thật không có. Như vòng tròn lửa, như thành Càn-thát-bà, như người gỗ bằng máy, như sóng nắng, như hoa giữa hư không đều... không có thật, do con mắt người thấy dường như thật có. Tất cả pháp ở thế gian này không có gì thật, chúng ta mê lầm cho nó là thật, từ đó tranh giành hơn thua, làm khổ cho nhau.

Chánh văn:

-   Sao gọi là thầy đại huyễn?

Tâm gọi là thầy đại huyễn. Thân là thành đại huyễn. Danh tướng là đồ ăn mặc của đại huyễn. Thế giới nhiều như cát bụi không có việc gì ngoài huyễn. Phàm phu chẳng biết huyễn, nơi nơi mê nghiệp huyễn. Thanh văn sợ cảnh huyễn, mờ tâm vào tịch diệt. Bồ-tát biết pháp huyễn, đạt thể huyễn, chẳng câu nệ tất cả danh tướng. Phật là thầy đại huyễn, xoay bánh xe pháp đại huyễn, thành Niết-bàn đại huyễn, chuyển sanh diệt huyễn, được chẳng sanh chẳng diệt, chuyển cõi ô uế như cát bụi thành pháp giới thanh tịnh.

Giảng:

Biết các pháp là như huyễn không thật, nhưng hằng ngày chúng ta sống trong đó, làm sao biết được cái gì tạo nên các huyễn này. Vì thế hỏi sao gọi là đại huyễn sư, là thầy huyễn thuật đại tài tạo nên các cảnh huyễn.  

Ngài trả lời: Tâm là thầy đại huyễn. Các pháp đều do tâm tạo, nó tạo ra muôn hình tướng. Thân này là thành huyễn lớn, là nơi các huyễn gom chứa trong đó. Chúng ta tự tỉnh xét kiểm điểm những sự việc trước mắt từ con người tới muôn vật, hồi tưởng có giống như huyễn không? Như hình ảnh ông bà cha mẹ đã qua mất, hình ảnh đó có huyễn không? Nhớ lại người chung quanh, người giàu người nghèo, người thân người sơ... đều là những cái bóng không còn, có phải là huyễn không? Chúng ta ngày nay đang lăn lộn, đang tranh giành trong cuộc sống, rồi đến ngày nào đó cũng không còn. Cho tới hoàn cảnh, vạn sự vạn vật đều thay đổi, không có gì chắc thật. Không phải như huyễn là gì?

Có người cho rằng đạo Phật nói huyễn hóa là bi quan. Đã huyễn hóa thì còn ham muốn, còn ra sức làm gì nữa. Nhưng không phải vậy, Phật biết các pháp là huyễn nhưng chúng sanh mê cho là thật. Chúng sanh không biết huyễn nên tạo khổ trong huyễn. Với người chưa tỉnh giấc mê, Phật dùng phương tiện đánh thức ra khỏi huyễn. Nhờ tâm huyết đánh thức mọi người qua cơn mê đó mà Phật không bao giờ dừng hóa độ chúng sanh, không bao giờ dừng phương tiện cứu người mê. Vì biết huyễn nên không sợ sanh tử mà lăn vào sanh tử để giáo hóa không chán mỏi. Chúng ta hiểu lẽ này không lầm các pháp huyễn, cũng không chán đời bi quan. Tuy huyễn hóa mà chúng ta làm tất cả việc huyễn, nói pháp như huyễn, độ hữu tình như huyễn, dùng huyễn để độ huyễn.

Danh tướng là đồ ăn mặc của đại huyễn. Danh là danh từ tên gọi, tướng là hình tướng. Những thứ này giúp cho huyễn thêm lớn mạnh, như thức ăn y phục trợ giúp cho con người. Chúng ta sở dĩ lầm mê các pháp huyễn lâu dài vì lầm mê chấp trước vào danh từ hình tướng. Nói như vậy để nhận rõ cái lầm lạc của mình.

Thế giới nhiều như cát bụi, không có việc gì ngoài đại huyễn. Phàm phu chẳng biết huyễn, nơi nơi mê nghiệp huyễn. Hàng phàm phu chúng ta không biết, những gì hiện tại mắt thấy tai nghe sinh hoạt bình thường đều ngỡ là thật, không biết đó là đại huyễn, bất cứ ở đâu cũng mê nghiệp huyễn.

Thanh văn sợ cảnh huyễn, mờ tâm vào tịch diệt. Như chúng ta có tâm thức tỉnh hiểu đạo, muốn đánh thức cho huynh đệ cùng tỉnh cùng biết như mình; nhưng khi nói với người này, người này còn ừ hử, nói với người kia, người kia lắc đầu, như vậy có chán không? Nhiều khi không khéo, chính mình cũng mắc kẹt tâm Thanh văn. Mình dạy khô môi rát cổ mà lâu lâu thiên hạ cũng nổi sân gây cãi với nhau. Thấy như vậy mình nghĩ uổng phí bao nhiêu công lao, đã hết lời dạy nhắc mà người ta không tỉnh. Họ không tỉnh thì biết đến bao giờ mới tỉnh, nghĩ vậy đâm ra chán, thôi mình lo tu nhập Niết-bàn cho xong, chúng sanh khó dạy quá. Trong kinh có nói “chúng sanh nan điều nan phục”, khó dạy khó hướng dẫn lắm. Ngày nay nói họ tỉnh được một chút, ngày mai họ cũng vậy, không lẽ nói hoài. Đó là tâm niệm Thanh văn muốn rời bỏ chúng sanh, nhập Niết-bàn tịch diệt.

Chúng ta tu Phật phải phát tâm mãnh liệt làm hạnh Bồ-tát. Bồ-tát biết pháp huyễn, đạt thể huyễn, chẳng câu nệ tất cả danh tướng, khen chê được mất không quan trọng, cứ như vậy mà lăn lộn trong sanh tử đánh thức mọi người, không lo nghĩ về phần mình. Vì biết như huyễn rồi không có gì để sợ.

Phật là thầy đại huyễn, xoay bánh xe pháp huyễn, thành Niết-bàn đại huyễn, chuyển sanh diệt huyễn, được chẳng sanh chẳng diệt, chuyển cõi ô uế như cát bụi thành pháp giới thanh tịnh. Đây là diệu dụng đặc thù của chư Phật Bồ-tát, các ngài cùng với Thanh văn khác nhau chỗ đó. 

Chánh văn:

Có vị tăng hỏi:

-     Tại sao chẳng chịu tụng kinh, mà gọi là “khách ngữ” (kẻ học nói)?

Sư đáp:

-    Như chim anh vũ chỉ học tiếng người mà không hiểu ý người. Kinh là truyền ý Phật, chẳng nhận được ý Phật mà chỉ tụng, ấy là người học ngữ. Do đó nên chẳng chịu tụng kinh.

Giảng:

Nhà thiền ít tụng kinh, thường gọi lời tụng kinh là khách ngữ hay học ngữ. Vì sao? Chúng ta quan niệm tụng kinh tức là tu. Nhưng đặt lại câu hỏi: Tụng kinh là tu, vậy tu bằng cách nào? Như kinh Bát-nhã dạy chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Chúng ta tu năm năm, mười năm tụng biết bao nhiêu lần kinh Bát-nhã mà có hết khổ ách chưa? Như vậy là chỉ đọc lời Phật chứ không có thực hiện lời Phật dạy. Chỉ đọc lời Phật thì như chim sáo học nói, nghe người ta nói gì nó nói theo như vậy.

Lời Phật dạy trong kinh không bảo chúng ta cứ đọc kinh là hết khổ hết tội, mà bảo phải chiếu kiến. Không chịu thực hành lời dạy rồi trách Phật không linh. Không hiểu rằng Phật dạy chiếu kiến năm uẩn đều không là dùng trí tuệ quán chiếu thấy rõ thân không thật, rồi đến quán cảnh bên ngoài, sắc thanh hương... đều không thật, tạm có hư dối, lúc đó tâm được rỗng rang không chướng ngại, qua hết khổ ách. Chúng ta chỉ đọc tụng mà không chiếu kiến nên không hết khổ. Đó là Phật nói sao mình nói vậy, học nói không phải là học tu, nên nhà thiền bảo tụng kinh là học ngữ. Nếu tụng kinh mà không hiểu ý Phật, không tìm được ý nghĩa để thực hành thì chẳng khác nào con két học nói, vì vậy mà thiền sư ít tụng kinh.

Các thiền viện chúng ta ít tụng kinh mà tối thì sám hối. Sám hối vì thấy sáu căn của mình mỗi ngày dính kẹt với sáu trần rồi gây tạo tội lỗi, nên sám hối kể lể từng căn xem nó dính như thế nào, có tội gì, nhắc tới nhắc lui để gỡ lần. Sám hối là tu sửa, vì thấy tội lỗi của mình để nhớ sợ, chừa bỏ. Ngoài thời sám hối, chúng ta thường tụng Tâm Kinh Bát-nhã. Đó là sự nhắc nhở tu hành thiết thực.

Tâm Kinh là lời chỉ dạy của Phật nói về Bồ-tát Quán Tự Tại thực hành chiếu kiến sâu xa về thân năm uẩn, mục đích là để độ thoát khổ ách. Chúng ta muốn thoát khổ cũng phải áp dụng bài kinh này, thường quán sát chiếu soi. Thực hành lời dạy của kinh là luôn luôn quán sát thân, cảnh, các thức đều là tánh không, duyên hợp tạm có. Bát-nhã nói “sắc tức là không, không tức là sắc” chính là nói lên các pháp không có tánh cố định. Áp dụng trí tuệ quán sát để tâm mình đừng vướng kẹt, chấp trước nhiễm ô. Không chấp trước nhiễm ô thì không gây tạo tội lỗi. Đó cũng là cách sám hối thực tế. Nếu thấy lẽ thật có ích lợi thì chúng ta biết cách tụng kinh mà không phải là người học ngữ.

Chánh văn:

Không thể lìa văn tự ngôn ngữ mà riêng có ý?

-   Ngươi nói như thế cũng là học ngữ.

Đồng ngôn ngữ sao Thầy chẳng nhận lời tôi?

Ngươi hãy lắng nghe, trong kinh có đoạn văn rất rõ ràng: “Ta nói ra là nghĩa ngữ mà chẳng phải văn, chúng sanh nói ra là văn ngữ mà chẳng phải nghĩa, người được ý vượt ngoài lời, người ngộ lý vượt ngoài văn tự, pháp vượt ngôn ngữ văn tự, đâu thể nhằm trên câu văn mà cầu.” Thế nên, người phát Bồ-đề thì được ý quên lời, ngộ lý mà lờ kinh, cũng như được cá quên nơm, được thỏ bỏ bẫy.

Giảng:

Thường tụng kinh là để tìm ý Phật, ý Phật thì không rời ngôn ngữ. Như vậy tại sao không chịu cho tụng kinh? Ngài nhắc lại trong kinh Phật nói rằng: Lời Phật nói ra là nghĩa ngữ, là những lời nói có ý nghĩa sâu xa ở trong, chứ không phải văn; còn chúng sanh nói ra là văn ngữ, nói theo chữ bên ngoài không theo nghĩa. 

Vì vậy người ngộ được ý vượt ngoài lời nói, tức là đạt lý rồi thì không còn mắc kẹt nơi văn tự, nếu không thì nghe văn tự rồi cố chấp vào văn tự. Thế nên lời nói để diễn đạt ý nghĩa, nhận được ý thì không mắc kẹt lời nói.

Pháp vượt ngôn ngữ văn tự, đâu thể nhằm trên câu văn mà cầu. Pháp Phật chỉ dạy vượt ngoài văn nghĩa. Như câu “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, văn tự là như vậy, còn chiếu kiến có nằm trong văn tự không? Chiếu kiến là tâm mình tự soi lại, tự quán chiếu không phải tìm trên văn tự. Nghe chiếu kiến ngũ uẩn giai không biết được ý nghĩa đó, chúng ta tự ngồi lại quán chiếu, không phải tự ngồi lại mà đọc. Thế nên nói nghĩa rời văn tự, không thể tìm cầu trên văn tự.

Như hai người cùng tụng kinh Bát-nhã, một người tụng đến câu “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, ngang đó không tụng nữa, cứ ngồi lại quán chiếu thân năm uẩn này tự tánh nó là không. Hiểu rõ tất cả hiện tướng chỉ là tướng huyễn hóa, chiếu soi như vậy hằng ngày để thâm nhập. Người đó không còn đọc câu “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” mà tất cả khổ ách đều qua. Người thứ hai ngày nào cũng đọc “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” mà không quán chiếu thì có mau hết khổ không?

Lời Phật dạy cốt cho chúng ta áp dụng tu tập có kết quả. Như khi mình soi thấy năm uẩn là giả dối, thì gặp ai chửi mắng mình cũng coi thường, nó có thật đâu. Thấy năm uẩn giả dối nên gặp tốt không mừng, gặp xấu cũng không khổ, như vậy là hết khổ. Còn ngày nào mình cũng tụng “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” cứ thế mà tụng hoài, không chịu soi lại thì có hết buồn hết khổ không? Hai bên phân biệt rõ ràng, một bên biết dùng nghĩa để quán chiếu, còn một bên mắc kẹt với chữ, cứ đọc chữ hoài, vậy bên nào đem lại kết quả thật sự cho đường tu của mình?

Chúng ta học để tu, không phải học để nhiều lời nhiều chữ. Vì thế nói người phát tâm Bồ-đề được ý quên lời, ngộ lý lờ kinh, cũng như được cá quên nơm, được thỏ thì bỏ bẫy. Đi nơm cá mà con cá vào nơm rồi thì nhắm vào cá mà bắt, chứ ai nhắm vào nơm, phải không? Như lấy bẫy gài thỏ được thỏ rồi xách thỏ, chứ ai xách bẫy về.

 
   

Chánh văn:

Có Pháp sư hỏi:

-   Niệm Phật là “hữu tướng Đại thừa”, ý Thiền sư thế nào?

Sư đáp:

-  Vô tướng vẫn chẳng phải Đại thừa, huống là hữu tướng. Kinh nói: Phàm phu chấp tướng, tùy nghi vì họ nói.

Giảng:

Pháp sư hỏi: Người tu niệm Phật thuộc hữu tướng, tức là Đại thừa về bên tướng tông, ý Thiền sư thế nào?

Ngài đáp, vô tướng còn chẳng phải Đại thừa huống là hữu tướng. Vì còn hữu vô là còn đối đãi, còn đối đãi là còn một bên chưa viên mãn nên không phải là Đại thừa. Ngài dẫn Kinh nói Phàm phu chấp tướng, tùy nghi vì họ nói. Nghĩa là tùy nghi vì họ nói đừng để họ mắc kẹt.

Chánh văn:

Nguyện sanh Tịnh độ, chưa biết thật có Tịnh độ chăng?

-  Kinh nói: “Muốn được Tịnh độ phải tịnh tâm kia, tùy tâm kia tịnh tức Phật độ tịnh.” Nếu tâm thanh tịnh thì chính chỗ ở hiện giờ là Tịnh độ. Ví như sanh trong nhà Quốc vương, nhất định nối nghiệp Quốc vương. Phát tâm hướng Phật đạo là sanh nơi cõi Phật tịnh. Tâm kia nếu chẳng tịnh thì chính chỗ ở hiện giờ là uế độ. Tịnh và uế độ là tại tâm chẳng phải tại cõi nước.

Giảng:

Câu này trích trong kinh Duy-ma-cật. Muốn được tịnh độ phải tịnh tâm kia, tùy tâm kia tịnh tức Phật độ tịnh. Người hỏi, mình nguyện sanh tịnh độ nhưng chưa biết tịnh độ có thật hay không. Ngài dẫn kinh Duy-ma-cật để trả lời, nếu tâm mình tịnh thì cõi Phật tịnh không có lo gì.

Như chúng ta hiện ở trong thế gian này có người vui có người khổ, cái vui khổ đó từ đâu mà ra? Nếu cho rằng vì giàu nên vui, nghèo thì khổ, nhưng người giàu không hẳn vui, giàu mấy đi nữa mà có một hai đứa con hút chích xì-ke ma túy thì có vui không? Giàu cũng vẫn khổ. Còn người nghèo, sống ngày hai bữa đạm bạc, nhưng tâm họ không tham, không sân, không si thì họ vẫn vui. Như vậy cái vui hay khổ là tùy tâm, chứ không phải tại cảnh. Cảnh dầu đẹp mấy mà tâm không an cũng không vui, cảnh dầu không đẹp nhưng tâm ta an thì cũng vẫn vui.

Chúng ta hay tìm cảnh chứ không hướng về tâm. Nhiều người ở nhà phiền não tu không được, mong vào chùa tu cho an, khi vào chùa bị huynh này chê, huynh kia rầy lúc đó lại không an. Lên núi tu cho an, ở trên núi nay hết gạo, mai hết nước, ngày kia hết củi, cứ lo gạo nước củi hoài cũng không an. Dù ở đâu tâm chúng ta biết an thì mọi việc đều tốt, đều an, muốn tìm nơi này nơi kia thì không chắc. Ngài nói một câu rất rõ: Ví như sanh trong nhà quốc vương, nhất định nối nghiệp quốc vương. Phát tâm hướng Phật đạo là sanh nơi cõi Phật tịnh. Tâm kia nếu chẳng tịnh thì chính chỗ ở hiện giờ là uế độ. Tịnh và uế độ là tại tâm chẳng phải tại nước.

Như người tham sân si đầy bụng, gần chết nhờ niệm Phật cầu nguyện sanh về Cực lạc. Nếu lời cầu nguyện có hiệu nghiệm đưa mình về Cực lạc được rồi, sang đó thấy có người trong hoa sen sanh ra ở thượng phẩm thượng sanh, trung phẩm trung sanh, mình ở tuốt dưới hạ phẩm thua xa quá nên nổi sân lên. Về Cực lạc muốn sung sướng mà mình ở hạ cấp không được sung sướng rồi muốn về Ta-bà, đức Phật mất công đưa về nữa, rước qua đưa về mệt quá. Tâm mình an thì ở ngay cõi Ta-bà cũng là tịnh độ. Tâm mình đã an đã thanh tịnh, đã hướng về Phật thì nhắm mắt sẽ được gặp Phật, sanh cõi Phật không nghi ngờ, còn tâm mình không tịnh mà đòi về cõi Phật thì điều đó rất khó. 

Chánh văn:

-   Mỗi ngày nghe nói đạo, chưa biết người nào hay thấy?

-   Người có tuệ nhãn hay thấy.

-   Rất thích Đại thừa làm sao học được?

-   Ngộ là được, chẳng ngộ là chẳng được.

-   Làm sao được ngộ?

-   Phải quán kỹ.

Giảng:

Muốn học đại thừa thì phải ngộ. Ngộ thì được, không ngộ thì không được. Muốn được ngộ thì phải quán kỹ các pháp Phật dạy thì sẽ được ngộ.

Chánh văn:

-   Giống vật gì?

-   Giống không vật.

Giảng:

Ngộ kỹ là thấy các pháp không tự tánh, cho nên gọi là giống không vật.

Chánh văn:

-   Thế nào là rốt ráo Không?

-   Không chẳng rốt ráo.

Giảng:

Không là không chẳng có gì rốt ráo.  

Chánh văn:

-   Thế nào Hữu?

-   Hữu mà không tướng.

Giảng:

Tất cả cái có tướng là hữu tướng nhưng bản tánh nó là không tướng.

Chánh văn:

-   Chẳng ngộ thì sao?

-   Đại đức tự chẳng ngộ, chẳng phải tại người làm chướng ngại.

Giảng:

Không ngộ là tại ông không ngộ chẳng phải ai làm chướng ngại ông. Không ai che đậy, không ai giấu giếm mà tự mình không ngộ thôi.

Chánh văn:

- Pht pháp nơi ba (trong ngoài giữa) chăng?

Thấy tại vô tướng chẳng ở ngoài, ứng dụng không cùng, chẳng ở tại trong, chặng giữa không có chỗ trụ, ba mé không thể được.

Giảng:

Ông hỏi, Phật pháp ở nơi ba mé trong ngoài giữa phải vậy không? Ngài đáp pháp không ở ba mé, ở ngay chỗ không trụ. Không trụ nơi nào, đó là pháp chân thật. 

Chánh văn:

-  Câu đáp này rất hỗn tạp.

-  Chính khi Thầy nói hai chữ “hỗn tạp” là ở trong hay ở ngoài?

Đệ tử xét nghiệm trong ngoài không dấu vết.

Nếu không dấu vết thì biết rõ lời nói từ trước đến giờ không có hỗn tạp.

Giảng:

Ý người hỏi: Pháp ở ngoài ở trong hay ở giữa, Thầy lại nói nó không ở chỗ nào, không trụ thì như vậy là lẫn lộn, nên gọi là hỗn tạp. Ngài vặn lại, chính khi Thầy nói hai chữ hỗn tạp là ở trong hay ở ngoài?

Chánh văn:

-  Thế nào được làm Phật?

-  Tâm ấy Phật, tâm ấy làm Phật.

Giảng:

Tâm ấy là chỉ cho tâm chân thật của chính mình, tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật. Như vậy chúng ta nhận ngay tâm mình là Phật. Biết rõ tâm mình muốn làm Phật, muốn thành Phật thì từ tâm đó mà được chứ không đâu khác.

Chánh văn:

-  Chúng sanh vào địa ngục, Phật tánh có vào chăng? 

Như  hiện  nay  chính   khi    làm                 ác        lại        có lành chăng?

-   Không.

-    Chúng sanh vào địa ngục, Phật tánh cũng như thế.

Giảng:

Câu hỏi này có nhiều người nghi. Khi chúng sanh vào địa ngục, Phật tánh có vào theo không? Ngài dùng một ví dụ để trả lời, khi làm ác lại lành không? Chúng ta biết rằng khi thân miệng ý làm ác thì không có lành. Ngài bèn hợp pháp, chúng sanh vào địa ngục, Phật tánh cũng như vậy. Cũng như vậy là sao? Ẩn đi không vào địa ngục, giống như khi mình làm ác thì không có cái lành hiện ra. Tức là Phật tánh ẩn, không hiện không mất cũng không vào địa ngục.

Chánh văn:

-  Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh là thế nào?

Tạo dụng Phật là tánh Phật, tạo dụng kẻ cướp là tánh cướp, tạo dụng chúng sanh là tánh chúng sanh. Tánh không hình tướng, tùy dụng đặt tên. Kinh nói: “Tất cả hiền thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt.” (Kinh Kim Cang).

Giảng:

Đây hỏi tất cả chúng sanh đều Phật tánh thế nào? Ngài đáp chỉ do tạo dụng, tức là do ứng dụng tạo tác của mình. Ứng dụng tạo tác theo Phật đó là tánh Phật, ứng dụng tạo tác theo kẻ cướp đó là tánh cướp, ứng dụng tạo tác theo chúng sanh đó là tánh chúng sanh. Thể tánh không hai không hình tướng nhưng tùy ứng dụng mà có khác. Chúng ta ai cũng có tánh giác nhưng khi khởi niệm ác thì tạo ác, khi khởi niệm thiện thì tạo thiện, không phải Phật tánh là ác là thiện.

Như nước ở trong lu chúng ta đã lóng sạch, nước đó không phải ngọt, không phải chua, nhưng khi múc ra ly bỏ đường vào thì thành nước ngọt, bỏ chanh vào thì thành chua. Nước chua nước ngọt là tại cái gì? Tại nơi ứng dụng, dụng ngọt biến thành ngọt, dụng chua biến thành chua. Phật tánh ở nơi tất cả chúng sanh khởi, tùy dụng thế nào mà biến thành thế ấy. Ngài dẫn kinh Kim Cang: Tất cả hiền thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt. Pháp vô vi tức là chỉ cho Phật tánh, vì khởi dụng khác nhau nên có hiền, có thánh, có phàm phu. Như vậy hiền, thánh, phàm phu gốc từ Phật tánh, tùy khởi dụng sai biệt mà có tất cả.

 

Chánh văn:

Có vị tăng hỏi:

-   Thế nào là Phật? Sư đáp:

-   Rời ngoài tâm thì không có Phật.

-   Thế nào là Pháp thân? 

-   Tâm là Pháp thân, nghĩa là hay sanh muôn pháp nên gọi là Pháp giới thân. Luận Khởi Tín nói: “Nói là pháp đó, nghĩa là tâm chúng sanh, tức y tâm này hiển bày nghĩa Đại thừa.”

Giảng:

Đây có hai câu hỏi. Hỏi thế nào là Phật, ngài đáp: Rời tâm ra không có Phật, Phật tức là tâm. Hỏi thế nào là pháp thân, ngài đáp: Tâm là pháp thân. Tại sao? Vì tâm sanh ra muôn pháp nên gọi là pháp giới thân.

Ngài dẫn luận Đại Thừa Khởi Tín: Nói là pháp đó, nghĩa là tâm chúng sanh vậy. Mỗi pháp đều từ tâm chúng sanh mà khởi, tức y tâm này hiển bày nghĩa Đại thừa. Biết các pháp đều do tâm khởi thì hiểu được nghĩa Đại thừa. Thế nào gọi là các pháp đều do tâm khởi? Chữ Pháp đây là chỉ cho muôn sự muôn vật trên thế gian này. Như cái đồng hồ, từ đâu mà có? Từ các bộ phận ráp lại thành, các bộ phận đó phải do người biến chế vẽ kiểu thì mới tạo thành đồng hồ được. Biến chế vẽ kiểu đó là cái gì? Là tâm! Bình hoa này từ đâu mà có? Tự nó ở ngoài vườn, người ta hái vô chế biến chưng cho khéo thành bình hoa. Từ đồng hồ, bình hoa cho đến tất cả mọi sự vật đều do tâm nghĩ tạo dựng mà có. Nên nói ngoài tâm không có Phật, tâm là pháp thân vì hay sanh muôn pháp. Phật, pháp hay tâm chúng sanh đều là một.

Chánh văn:

-   Thế nào là nói có quyển kinh lớn trong hạt bụi nhỏ?  

-   Trí tuệ là quyển kinh lớn. Kinh nói: “Có quyển kinh lớn lượng bằng thế giới tam thiên đại thiên, ở trong một hạt bụi nhỏ.” Một hạt bụi là một niệm tâm trần vậy. Cho nên nói “trong một niệm trần nói ra hà sa bài kệ, người đời tự chẳng biết”.

Giảng:

Đây dẫn kinh Hoa Nghiêm, trong kinh có ví dụ “Phá vi trần xuất kinh quyển”, tức là đập hạt bụi nhỏ lấy ra quyển kinh lớn. Có thể tin được không? Quyển kinh lớn lượng bằng tam thiên đại thiên thế giới nhét trong hạt bụi nhỏ xíu. Tâm chúng ta thênh thang, không giới hạn lại bị nhét trong thân tứ đại như hạt bụi nhỏ. Bây giờ ngay trong thân tứ đại này nhận được tâm thênh thang đó, gọi là phá vi trần xuất kinh quyển. Phật phá được hạt bụi lấy quyển kinh nên ngài biết được tất cả. Chúng ta chưa phá được nên không biết gì cả.

Ngài giải thích thêm, một niệm là một niệm tâm trần, là một hạt bụi. Phá được một niệm tâm trần đó thì được quyển kinh. Dấy khởi một niệm là một hạt bụi, khi tất cả hạt bụi sạch hết rồi thì quyển kinh hiện ra chẳng lo. Bụi trong tâm các vị sạch hết chưa? Biết là bụi dơ nhưng chùi không nổi, nên quyển kinh đó không xuất hiện. Chúng ta có sẵn của báu mà không bao giờ thấy vì bị tâm trần che đậy.

Chánh văn:

-    Sao gọi là thành đại nghĩa? Sao gọi là vua đại nghĩa? 

-    Thân là thành đại nghĩa. Tâm là vua đại nghĩa. Kinh nói: “Người đa văn giỏi về nghĩa, mà chẳng giỏi về nói năng, nói năng là sanh diệt, nghĩa chẳng sanh diệt, nghĩa không hình tướng, ngoài lời nói năng. Tâm là quyển kinh lớn, tâm là vua nghĩa lớn. Nếu người chẳng biết tâm rành rõ thì không gọi là giỏi nghĩa, chỉ là người học ngữ.”

Giảng:

Hỏi thành đại nghĩa, vua đại nghĩa, ngài chỉ thành đại nghĩa là tâm, vua đại nghĩa cũng là tâm. Vì vậy nói ngay nơi thân mình có quyển kinh lớn, đó là vua đại nghĩa.

Chánh văn:

Lại hỏi: - Kinh Bát-nhã nói “Độ chín loài chúng sanh đều vào dư Niết-bàn”, lại nói “thật không chúng sanh được diệt độ”, hai đoạn văn kinh này làm sao thông hội? Người xưa người nay đều nói “thật độ chúng sanh mà không chấp tướng chúng sanh”. Tôi vẫn còn nghi, thỉnh Thầy vì tôi giải nghi.

Giảng:

Chỗ này ngày xưa tôi cũng nghi. Kinh nói, độ tất cả chúng sanh vào Vô dư Niết-bàn, mà không có chúng sanh được diệt độ. Mình chưa được Vô dư y Niết-bàn, làm sao độ chúng sanh vào Vô dư y Niết-bàn? Độ chúng sanh mà lại thật không có chúng sanh được diệt độ. Hai ý dường như trái nhau, nên vị tăng này nêu câu hỏi. 

Chánh văn:

đáp:

- Chín loài chúng sanh trong một thân đầy đủ, tùy tạo nghiệp tùy thành quả. Vô minh là noãn sanh, phiền não bao bọc ở trong là thai sanh, nước ái đượm nhuần là thấp sanh, chợt khởi phiền não là hóa sanh. Ngộ liền là Phật, mê gọi là chúng sanh. Bồ-tát chỉ dùng tâm niệm niệm làm chúng sanh. Nếu thấu rõ niệm niệm nơi tâm, thể nó đều không, gọi là độ chúng sanh. Người trí căn cứ trên bản tế (tâm) của mình mà độ lúc chưa thành hình, chưa thành hình đã không thì biết thật không chúng sanh được diệt độ.

Giảng:

Tất cả niệm, mỗi niệm mỗi niệm đều là chúng sanh. Biết như vậy rồi mình không theo mỗi niệm là độ chúng sanh, mỗi niệm đều dừng bặt hết là chúng sanh được diệt độ. Đó là độ tất cả mà không có chúng sanh được diệt độ.

 
   

Chánh văn:

Có vị tăng hỏi:

-   Ngôn ngữ là tâm chăng? Sư đáp:

-   Ngôn ngữ là duyên chẳng phải tâm.

-   Lìa duyên cái gì là tâm?

-   Lìa ngôn ngữ không tâm. 

Giảng:

Ngôn ngữ là duyên từ tâm phát khởi không phải là tâm. Nói là ngôn ngữ mà cái biết để nói là tâm. Rời tâm có ngôn ngữ không, rời ngôn ngữ là lìa duyên có thể biết được tâm không? Cả hai không rời nhau. Vì vậy ngài đáp lìa ngôn ngữ không tâm.

Chánh văn:

-     Lìa ngôn ngữ đã không tâm, vậy cái gì là tâm?

-   Tâm không hình tướng, chẳng lìa ngôn ngữ, chẳng phải chẳng lìa ngôn ngữ, tâm thường lặng lẽ, ứng dụng tự tại. Tổ nói: “Nếu thấu rõ tâm phi tâm, mới hiểu tâm tâm pháp.”

Giảng:

Tâm không phải là ngôn ngữ cũng không rời ngôn ngữ. Rời ngôn ngữ thì không có cái biết. Cái biết phát ra ngôn ngữ, nên nó không lìa mà cũng chẳng không lìa.

Tổ sư nói: Nếu thấu rõ tâm phi tâm, tức biết rõ tâm mà không phải tâm. Tâm là biết khi nó còn nguyên trạng là biết là tri giác thì đó là tâm, khi khởi lên phân biệt so sánh thì đó là phi tâm. Cũng biết, nhưng biết hư dối nên là phi tâm.

Mới hiểu tâm tâm pháp. Được như vậy mới hiểu được tâm chân thật và tâm pháp. Tâm chân thật là thể sẵn có nơi mỗi người, từ đó khởi lên muôn pháp, phân biệt muôn pháp gọi là tâm pháp.

 
   

Chánh văn:

Có vị tăng hỏi:

-   Thế nào là định tuệ đồng học? Sư đáp:

-   Định là thể, tuệ là dụng, từ định khởi tuệ, từ tuệ về định, như nước với sóng, một thể lại không có trước sau, gọi là định tuệ đồng học. Phàm kẻ xuất gia chớ tìm lời theo câu, đi đứng ngồi nằm đều là tánh dụng của ngươi, thì có chỗ nào cùng đạo không tương ưng? Hãy tự nhất thời thôi dứt đi, nếu chẳng theo gió ngoại cảnh thì nước tánh thường tự lặng lẽ.

Vô sự, trân trọng!

Giảng:

Lục Tổ nói các nơi khác dạy thiền trước định sau tuệ, còn với ngài thì định tuệ đồng thời hay còn gọi định tuệ đồng học. Thế nào là đồng học? Định là thể, tuệ là dụng, từ định khởi tuệ là từ thể lặng lẽ khởi trí tuệ sáng suốt, từ tuệ về định là từ trí tuệ sáng suốt trở về thể an định, như nước với sóng, một thể lại không có trước sau. Từ nước dấy lên sóng là từ định trở thành tuệ, khi sóng lặng trở về nước là từ tuệ trở về định. Gọi là định tuệ đồng học tức là hai cái không rời nhau.

Người tu chúng ta phải biết rõ khi đi đứng nằm ngồi, tất cả đều là tánh dụng của mình, không có gì khác. Ở bất cứ chỗ nào cũng thích hợp với đạo. Nếu chúng ta không theo gió ngoại cảnh thì nước tánh thường lặng lẽ.  

Nước sông nước biển nếu không có gió thì không nổi sóng, khi nổi sóng là do gió. Cũng vậy, ngoại cảnh là gió, tâm mình không dính mắc với ngoại cảnh tức là không gió; không gió thì nội tâm lăng xăng không? Sở dĩ nội tâm rối bời là vì dính với ngoại cảnh. Nghe người khen, dính với cái khen; nghe người chê, mắc kẹt với cái chê; cứ như vậy mà tâm không bao giờ an. Muốn tâm an thì đừng để dính mắc với ngoại cảnh. Đó là chỗ chân thật.

Người tu muốn được đạo không phải là chuyện khó, không phải ông thần ông thánh nào ban cho, không phải cầu nguyện được, chỉ do tự mình không dính không mắc với ngoại cảnh, đó là biết tu, đó là được an, đúng với chữ vô trụ đã nói ban đầu. Tâm không trụ tất cả pháp thì tâm đó là chân thật, tâm đó là giác. Như vậy, trên đường tu nhất là tu thiền, cái gốc là phải trở về tâm chứ không phải là từ cảnh.

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 00032
  • Online: 23