Dụng Công Tu Thiền - Phần 04: Chương 03 - Nguyên Lý Dụng Công Tu Tập Thiền
28/06/2024 | Lượt xem: 505
TT.Thích Tâm Hạnh
CHƯƠNG 3:
NGUYÊN LÝ DỤNG CÔNG TU TẬP THIỀN
1. DẪN NHẬP.
Còn là chúng sanh thì còn đau khổ. Không ai trong chúng ta muốn mình khổ đau, ai cũng muốn vượt khổ. Mà muốn vượt khổ tức là muốn tu hành, bởi tu hành để hết khổ, được an vui. Cũng thế, hiện nay chúng ta phát tâm tu hành là vì muốn chấm dứt khổ đau, được giải thoát an vui mãi mãi. Đồng thời muốn cứu cho tất cả chúng sanh đều được như thế. Muốn vậy, cần phải tìm ra nguyên nhân chính khiến cho con người khổ đau là gì? Kể ra thì nhiều, nhưng nói tóm gọn lại thì con người bị đau khổ bởi hai nguyên nhân chính, đó là vô minh, mê mờ và loạn động, sanh diệt.
Vô minh mê mờ thì không nhận ra được bản chất thật của vấn đề. Loạn động sanh diệt thì đánh mất đi năng lượng sống. Có hai nguyên nhân trên, con người bắt đầu đau khổ. Cứ thế theo thời gian, vô minh mê mờ và loạn động sanh diệt càng tăng thì khổ đau con người càng nhiều. Khổ đau càng nhiều thì làm cho vô minh loạn động càng thêm lớn mạnh. Cứ đắp đổi và tăng vọt như thế khiến cho nỗi đau càng thêm chất chồng, biến cuộc đời thành bể khổ, không dễ thấy được lối ra.
Muốn vượt khổ cho nên muốn tu. Tu hành là để thoát khỏi biển khổ lớn sanh tử. Tìm được nguyên nhân căn bản và sâu xa của khổ đau, cũng có nghĩa là xác định được điều trọng yếu của việc tu hành. Đó là trừ dẹp vô minh và hàng phục vọng tâm loạn động.
Lâu rồi, tất cả chúng sanh vốn ở trong tự tánh giác sáng không sanh không diệt của chính mình. Nhưng rồi có lần thoáng chợt bất giác, quên tự tánh ấy, liền bị mê mờ vô minh, rơi vào loạn động sanh diệt, từ đó luống chịu các thứ khổ đau trong sanh tử. Hôm nay tu hành cũng ngay chỗ đi ra để trở về. Cụ thể là hàng phục vọng tâm, trở lại tự tánh giác sáng, hết mê mờ và loạn động thì đau khổ cũng chấm dứt, được an vui.
2. XÁC ĐỊNH NGUYÊN LÝ CÔNG PHU – GIÁC LÀ TU.
2.1. Vọng tưởng có ra từ đâu?
Chúng sanh do tâm khởi vọng, tạo nghiệp rồi đi trong sanh tử chịu không biết bao nhiêu nỗi khổ niềm đau. Muốn thoát khổ đau, trước mắt cần phải hàng phục vọng tâm, vọng tưởng. Vậy, vọng tưởng từ đâu mà có?
2.1.1. Vọng tưởng không có chỗ cố định được sanh ra.
Tìm chỗ vọng tưởng sanh khởi, không có nghĩa nhất thiết phải có chỗ. Khi soi xét tột cùng, sẽ thấy bản chất của vọng tưởng vốn không thật có. Do đó, cũng không có chỗ cố định sanh ra nó. Ví như có một dây chuyền sản xuất, sản phẩm sẽ có ra hoài, không ngớt. Cũng vậy, nếu có chỗ sản sinh ra vọng tưởng thì nó sẽ được sản xuất mãi, có mãi, còn mãi, không bao giờ hết. Nếu vọng tưởng không bao giờ hết thì không ai tu hành thành Phật thành Tổ được, bởi vì Phật Tổ chỉ có diệu dụng chứ không có vọng tưởng. Đồng nghĩa là Phật Tổ không có. Nhưng trên thực tế thì có Phật có Tổ, có những bậc tu hành đạt đạo, tức là vọng tưởng sẽ có lúc hết sạch. Vì đã có lúc hết sạch, thành Phật tác Tổ, cho nên vọng tưởng không có chỗ được sanh ra.
Chính vì vọng tưởng không có chỗ được sanh ra và có ngày nó dứt bặt, không còn cho nên chúng ta mới hy vọng tu hành đạt đến giác ngộ giải thoát được. Đây là điểm then chốt cần xác định để thấy rõ, để vững tin trong việc tu hành. Như vậy, đã không có chỗ sanh thì vọng tưởng từ đâu mà có?
2.1.2. Bất giác thì vọng liền sanh, vọng tưởng chợt có ra.
Đang ngồi an tịnh, tỉnh sáng. Vừa thoáng bất giác, quên tỉnh, nghĩ về một điều gì đó thì liền có vọng tưởng. Cho thấy, khi vừa bất giác, thoạt quên tánh giác thì vọng tưởng liền đó có ra; chứ nó không có chỗ thật sanh.
2.1.3. Vọng tưởng không thật có.
Qua hai nguyên lý trên, chúng ta thấy rõ vọng tưởng không thật có. Cụ thể:
- Do vọng tưởng không có chỗ được sanh ra cho nên nó không thể tồn tại mãi được.
- Khi bất giác thì vọng tưởng chợt có.
- Ngay khi đang có, nhìn thấy thì có, nhưng tìm lại thì không thấy bóng dáng tung tích gì.
- Hơn nữa, nó lại không cố định mà thường biến đổi, sanh diệt. Niệm này vừa sanh, niệm kia lại diệt một cách liên tục, chập chờn, không bền chắc.
- Qua những yếu tố trên cho chúng ta thấy rõ, vọng tưởng không thật có. Như khi không có ánh sáng thì bóng tối tạm có. Nhìn thì thấy có bóng tối, nhưng nắm thì không có gì. Chỉ cần mở đèn thì bóng tối hết. Vọng tưởng cũng tương tự. Khi mê thì tạm có. Thấy thì có đó, nhưng tìm lại thì mất tăm dạng, không có gì. Chỉ cần giác sáng lại thì vọng tưởng toàn không.
2.2. Khi còn mê, do đâu mà vọng tưởng được duy trì, tồn tại?
2.2.1. Căn thức duy trì, khiến cho vọng tưởng tồn tại.
Khi vừa bất giác, căn thức (nguồn mê) liền có, vọng tưởng chợt sanh. Chính căn thức này tiếp dầu để duy trì, khiến cho lửa vọng tưởng chập chờn có mãi. Giống như dầu không tự sanh ra lửa, nhưng nó lại duy trì cho ngọn lửa tồn tại.
2.2.2. Căn thức là gì?
Khi vừa bất giác thì thức liền có. Tùy theo sự biến hiện của nó thô hay tế, ngầm hay nổi mà cái thức lúc này có hai phn:
a) Phần nổi là thức phân biệt.
Vọng động phân biệt đẹp xấu, phải trái, thương ghét... là thức phân biệt của chúng sanh. Đây là phần thô của thức được biểu hiện lên cho chúng ta nhận thấy được. Phần này là hiện tướng của căn thức ngủ ngầm sâu kín bên trong.
b) Phần chìm là căn thức, có chỗ gọi là thức thần.
Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm nói:
Ai người học đạo chẳng rõ chân,
Chỉ bởi từ lâu nhận thức thần.
Từ vô thủy kiếp gốc sinh tử,
Kẻ si lại gọi bổn lai nhân.
(Học đạo chi nhân bất thức chân,
Chỉ vị tùng lai nhận thức thần.
Vô thủy kiếp lai sinh tử bổn,
Si nhân hoán tác bổn lai nhân).
Thức thần là cái mê không có hình tướng, ngủ ngầm sâu kín trong sâu thẳm mỗi chúng sanh. Chỉ người đã tỏ ngộ tự tánh, vượt qua rồi mới nhận biết. Hành giả tu hành đạt đến thanh tịnh tuyệt đối rồi, nhưng đại pháp chưa sáng, còn thiếu tiếng “à”, trí chiếu phá sanh tử chưa phát huy thì vẫn hãy còn nằm trong căn thức, chưa thoát ra được. Thiền sư Pháp Thành ở Hương Sơn nói: “Dù được thuần thanh tuyệt điểm vẫn là chân thường lưu chú”.
Chữ lưu chú là vọng tưởng trôi chảy nhỏ nhiệm. Hành giả tu hành đạt đến chỗ thanh tịnh tuyệt đối, trong ngần, không còn mảy may động niệm, nhưng trí tuệ vô sư chưa chiếu diệu thì vẫn còn sự trôi chảy nhỏ nhiệm trong tự tánh chân thường kia. Như đứng từ xa nhìn ngọn thác trông giống dải lụa bất động, nhưng đến gần mới thấy bọt nước trắng xóa đang tung tóe liên tục. Lúc này ví như trời đã rạng sáng mà mặt trời chưa lên vậy.
2.3. Xác định “Giác là tu”.
2.3.1. Ví dụ như ngọn đuốc lồ-ô.
Lồ-ô là một loại tre, vỏ mỏng, dưới có cái mắt tre làm đáy, giữa đổ dầu, trên có nùi vải bỏ vào trong làm tim đuốc, thấm dầu và bật hộp quẹt thì lửa bùng cháy lên thành ngọn đuốc. Như vậy, lửa của đuốc lồ-ô từ đâu mà có? Có phải từ hộp quẹt không? Nếu từ hộp quẹt mà không có bùi nhùi thì đâu có lửa. Bản chất của các pháp, các hiện tượng là nhân duyên sinh, do nhiều yếu tố hợp lại thành, không có một thứ gì do một yếu tố làm nên cả. Cây đuốc cũng vậy. Không do một nhân nào ban đầu làm nên mà phải hội đủ đuốc, dầu, bùi nhùi, hộp quẹt... cộng với tác động của con người. Tất cả những duyên đó hợp lại với nhau mới tạo ra lửa. Khi lửa có ra thì dầu sẽ tiếp nối để duy trì ngọn lửa tồn tại. Không thể dùng miệng thổi tắt lửa được, mà còn làm cho đuốc bùng lớn hơn. Chỉ cần đục thủng đáy ống lồ-ô, rút hết dầu ra thì ngọn lửa tự tắt.
Lửa này ví dụ cho vọng tưởng. Vọng tưởng không có chỗ sanh (không do một nhân), mà thoạt quên tự tánh thì đủ duyên tạm có. Dầu ví dụ cho căn thức. Dầu không tự sanh ra lửa mà hay duy trì lửa tồn tại. Hết dầu thì lửa tắt. Cũng vậy, căn thức tự nó không thể sanh ra vọng tưởng, nhưng lại là cái mê ngủ ngầm khiến cho vọng tưởng được duy trì, chợt sanh chợt diệt mãi không dứt. Căn thức nếu dứt bặt thì vọng tưởng cũng tự hết, không cần làm thêm gì.
2.3.2. Dứt trừ căn thức – giác tức là tu.
a) Làm hoặc không làm gì, đều nuôi lớn căn thức.
Vừa làm gì đó, tức là rơi vào tạo tác thì chính là đã làm cho căn thức thêm mạnh. Bởi quên tự tánh nên mới tạo tác, làm gì đó. Vi tế hơn, khi vừa chuẩn bị làm gì đó thì trước đó đã mê tự tánh. Cho nên, ngay khi muốn làm gì đó, tu tập như thế nào đó thì đã quên tự tánh, rời tự tánh để tu hành. Mà vừa quên tự tánh là đã rơi vào mê, khiến cho căn thức mạnh. Do đó, tu hành không khéo rơi vào tạo tác, cũng đã vô tình làm cho căn thức này mạnh thêm, công phu không đắc lực.
Nhưng nếu để yên, không tu hành, không làm gì cả thì vô minh càng sâu dày, căn thức cũng theo đó được lớn mạnh.
Như khối ung thư ác tính. Để yên không làm gì thì nó cũng phát triển, giết chết bệnh nhân. Mà đụng dao kéo mổ xẻ thì nó di căn, bệnh nhân chết càng sớm hơn. Vậy phải làm sao để dứt trừ căn thức?
b) Tìm một thứ mà căn thức không ưa, không chịu được.
Không thể trực tiếp làm gì hoặc không làm gì để dứt trừ căn thức được. Vì vậy nên chọn phương án tác động gián tiếp, tìm một thứ mà căn thức không ưa, không chịu được. Hễ cái này có mặt thì căn thức phải tự mất đi, chứ không phải “có làm hay không làm” gì trên nó. Cái mà căn thức không ưa, không chịu được là gì?
Tự xét lại nơi mình. Đang ngồi yên, tỉnh sáng thì không có vọng tưởng, không chút mê mờ, không có căn thức. Vừa thoạt quên thì thức mê mờ liền sanh, có vọng tưởng. Cho thấy, khi giác sáng thì căn thức không có mặt. Như vậy, muốn trừ căn thức thì không làm thêm gì cả. Chỉ cần giác sáng, liền xong.
c) Giác là tu.
Qua các phần vừa xác định trên cho chúng ta thấy ra rằng, giác sáng là đang tu hành. Cho nên nói “Giác là tu”.
Tu chỉ là giác thôi, chứ không làm thêm gì cả; cho nên “Tu mà không tu”. Tuy không làm gì cả mà đang giác sáng, không mê; do đó “Không tu mà vẫn đang tu”. “Tu mà không tu; không tu mà tu”, đó là chân thật tu hành. Khéo dụng công tu tập như vậy thì mới khế hợp với tự tánh vô sanh, công phu mới đắc lực, tiến bộ.
Hạ thủ công phu tu tập như thế theo thời gian sẽ được thuần thục, sức giác tỉnh mạnh và thường xuyên hơn. Cho đến khi sức giác mạnh đến tột cùng thì căn thức theo đó cũng bị yếu tột độ. Không nằm trong sự tính toán, lường trước mà khi thời tiết nhân duyên chín muồi, không trước, không sau, thình lình tự tánh bùng vỡ, căn thức liền đó dứt bặt, vọng tưởng tự tan biến, không còn. Sống ngay tánh đó là chân thật tu hành. Do đó nói, kiến tánh (hay y tánh) khởi tu. Sống thẳng bằng nhân vô sanh này để tu hành thì mới thành quả vị vô sanh (Phật) được.
2.4. Tóm lại.
2.4.1. Nhận định rõ về vọng niệm và căn thức.
Không phải có một chỗ cố định hay một nhân ban đầu, mà bất giác thì liền mê, có căn thức, có vọng niệm (như lửa của ngọn đuốc). Căn thức này nuôi dưỡng duy trì vọng niệm tồn tại, có mãi (như dầu tiếp lửa). Căn thức nếu dứt thì vọng niệm cũng không còn (như hết dầu thì lửa cũng tắt).
2.4.2. Xác định công phu tu tập.
Để yên, không làm gì thì thêm lớn vô minh, căn thức cũng lớn mạnh. Nhưng nếu có làm gì thì rơi vào tạo tác, liền đó là căn thức, cũng làm cho nó thêm mạnh. Nhân tố căn thức không ưa chính là sức giác tỉnh, sự giác sáng. Như mở đèn thì bóng tối tự tan chứ nó không đi về đâu cả. Cũng thế, khi giác sáng thì căn thức tự dứt bặt. Cho nên, chỉ cần giác sáng là đang công phu tu tập. Vì vậy nói: “Giác là tu”.
Tu tập giác sáng như thế, theo thời gian, sức giác sáng sẽ lớn mạnh. Khi sức giác này mạnh đến tột cùng thì căn thức cũng yếu tột độ. Không trước, không sau, thình lình tự tánh bùng vỡ, căn thức liền dứt, vọng tưởng không còn. Sống ngay đó là tu hành; là kiến tánh (y tánh) khởi tu.
3. ÁP DỤNG CỤ THỂ VÀO CÔNG PHU TU TẬP.
Qua hai lĩnh vực.
3.1. Trong cảnh tịnh, lúc tọa thiền.
3.1.1. Mới bắt đầu thực tập thiền.
Đối với hành giả mới bắt đầu thực tập thiền, chưa thuần thục thì thực hành qua các bước cơ bản như đã nêu tại chương 2 (Căn bản dụng công tu tập thiền).
a) Sổ Tức.
b) Tùy Tức.
Hai bước này chú trọng điều thân hơn là điều tâm, chưa phải công phu chính thức, chỉ là để hỗ trợ cho công phu chính sau này. Do đó không nên chấp vào đây cho là công phu tu thiền.
c) Biết Vọng Không Theo: Thực tập công phu.
d) Biết Là Chơn Tâm: Công phu tu tập chính thức.
(Xem đầy đủ tại Mục 3, Chương 2).
3.1.2. Đã thuần thục.
Đối với hành giả đã thuần thục thì vào bất kỳ thời điểm nào, ở bất cứ nơi đâu, luôn luôn không mê, đang giác sáng là tu hành. Giác sáng ở đây không phải là ý thức lập nên cái giác để chăn giữ, công phu như thế là chưa phải. Chỉ là không mê mờ thì tâm mình tự nó đã giác sáng rõ ràng, như là đang sẵn sàng ra đó chứ không có tướng mạo của tâm, biết hoặc giác gì cả. Khéo mất hút tất cả thì tâm thể bàng bạc, trùm khắp, tự sáng biết. Không nên làm thêm gì để còn gợn chút bóng dáng của tâm, của tánh.
Nếu muốn cụ thể hơn, hành giả có thể kiểm tra công phu của mình qua ba điểm.
a) Buông xuống.
Buông bỏ là nói bao quát chung cho tất cả. Buông xuống, rũ xuống là chúng tôi muốn nhấn mạnh đến chỗ dụng công tu tập. Buông mà vẫn không động, không rơi vào tạo tác sanh diệt. Không phải có động tác hay khởi tâm buông xuống, buông bỏ gì. Buông làm sao giống như là sự rũ thả xuống một cách tự nhiên, tất cả tự rơi rụng mà không có tác ý hoặc tâm khởi thấy có buông. Buông cảnh duyên, tình huống, sự kiện... buông tất cả mọi thứ đang đối diện. Kế đến buông cả thân, tâm; buông hết mọi sự cảm nhận của thân tâm... Buông rũ xuống tất cả để mất hút, không còn gì cả. Đây là bước để sẵn sàng, hỗ trợ công phu.
b) An nhiên.
Khi tất cả đều được buông rũ xuống, chúng ta đang thực sự được buông thư, an nhiên, thấy biết rất bình thường.
c) Giác sáng.
Buông thư, an nhiên, nhưng giác sáng, chứ không phải điềm nhiên tỉnh bơ, cứng đờ, không sáng, không linh hoạt, hoặc như đang nửa tỉnh, nửa say, lơ mơ ngủ.
d) Tóm kết.
Buông xuống là bước đệm để hỗ trợ, sẵn sàng cho công phu. Kế đến, an nhiên – giác sáng là đang sống trong công phu tu tập. Buông xuống để rơi rụng, vỡ vụn, hoát toang và an nhiên. An nhiên thì không động mà không lập thành tướng của định. Giác sáng thì không có tướng sáng mà không một vết mê mờ. An nhiên luôn đi đôi với giác sáng, cả hai phải đồng thời. Bởi thực chất giác sáng và an nhiên chỉ là một thể sáng biết không động. Nếu an nhiên mà thiếu giác sáng sẽ khiến cho hành giả dễ rơi vào hôn trầm (ngủ trong mê mờ) hoặc vô ký. Nếu giác sáng mà thiếu sự an nhiên thì trong đầu cảm thấy hơi căng, nếu nặng hơn sẽ bị mất ngủ. Nhận biết triệu chứng để khéo léo kịp thời điều chỉnh cân bằng trong công phu. Khi tất cả đã hiện tiền đúng rồi thì liền đó sống thẳng, đừng sanh tâm gì nữa.
Cụ thể khi tọa thiền, trước tiên chúng ta chỉnh thân cho thật ngay ngắn, đúng pháp. Kiểm tra lại xem thân tâm mình chỗ nào chưa ổn thì chỉnh lại cho thật ổn định, dứt khoát, tự tin. Kế đến bắt đầu buông thân, tâm, hơi thở, các cảm giác... cho đến gân, cơ... Tất cả đều buông thư cho thật nhẹ nhàng, không bị gượng, cố hoặc gồng. Ngứa, đau hoặc những nghĩ ngợi gì đến thân này đều buông nhẹ, không thèm để ý. Khi nhận thấy tất cả đã được thông suốt hết rồi thì không cần để ý đến hơi thở nữa, để nó tự lưu thông; không nín, không cố làm gì đó. Những tư tưởng còn lảng vảng thì phải dứt khoát buông hẳn xuống. Kiểm tra tất cả đã được buông thư, rũ xuống, được ổn định rồi thì khéo không luôn tất cả những gợn tý, những “khái niệm buông” trong tâm... Sau cùng khéo léo buông thư nhẹ xuống mà không còn tí nào máy động trong tâm nữa. Thân tâm sẽ nhẹ nhàng, thông suốt, sáng biết một cách tự nhiên, bình thường, không thèm khởi tâm tác ý phân biệt. Sống ngay thể tự an như thế sẽ được an nhiên, nhưng sáng rỡ rõ ràng. Khéo dụng công như thế sẽ tự mình nhận ra những tín hiệu tốt và tích cực sau đó.
3.2. Trong sinh hoạt.
3.2.1. Giác sáng trên mọi hoàn cảnh.
Hằng ngày, trong sinh hoạt, trên mọi hoàn cảnh, ở bất cứ nơi đâu, vào bất kỳ thời điểm nào, sức giác sáng này vẫn luôn có mặt. Nghĩa là hành giả luôn giác sáng trên mọi hoàn cảnh. Lên lớp giảng, giác sáng rõ ràng, nhìn khắp hết, thấy biết suốt qua hết mà không cần phân biệt, không cần động niệm, không chú tâm hoặc trụ vào đâu cả, biết rõ, giác sáng đang có mặt, hiện tiền. Không cần suy nghĩ, ngay tự tánh giác sáng ấy cứ thế mà pháp tự lưu xuất ra, nói mà cũng như chưa từng nói gì thì ngay đó, đang nói mà cũng là giác sáng. Sống và làm các công việc khác cũng dụng công tu tập như thế. Nếu nhỡ quên thì giác lại. Tập lâu ngày sẽ thành thói quen. Khi quen rồi thì sẽ thuần thục và sức giác sẽ mạnh.
Khi được phân công làm việc gì đó vất vả, đừng khởi phiền não trước, mà cứ giác sáng, tỉnh táo rồi làm. Vào bếp nấu ăn, đừng khởi đúng và sai trước, mà cứ giác sáng, sau đó mặn, nhạt, chua, cay, ngọt, bùi gì đó thì cứ như thế biết rõ và làm, sẽ không có gì gây trở ngại cho mình được. Nhớ là mình đang giác sáng, giống như thế hổ tựa sơn, không mất mình để biết theo ngoại cảnh.
Khi giác sáng, thứ nhất là chúng ta có nội lực. Thứ hai là sáng rõ cho nên sức giác mạnh thêm. Khi nội lực mạnh thì mọi thứ tự nhiên nhỏ bé lại, không còn chi phối được nữa. Tuệ giác sáng cao cho nên thấy biết đầy đủ, tường tận, lô-gic, không sai lệch. Có tuệ thấy ra, có lực làm chủ, cho chúng ta sống đúng như những gì mình sáng biết, cuộc sống sẽ ngày một an vui, tiêu sái, sẽ cảm nhận được việc tu tiến rõ ràng. Dụng công như thế là đã khéo công phu trên các hoàn cảnh, trên mọi sinh hoạt.
3.2.2. Suốt qua các tướng.
a) Không lập tướng.
Chúng ta dễ bị thói quen trong đời chi phối khiến mình nhận hiểu vấn đề theo kiểu lập trình, hoạch định thành tướng sẵn để dễ dàng nắm bắt, thực hiện. Lâu ngày ở mãi trong đời đã tạo thành lối mòn tư duy, cho nên khi học đạo, tu hành cũng học hiểu và ứng dụng theo cách này. Cụ thể khi đọc học hay nghe giảng Phật pháp, nhiều vị nghe hiểu đại khái rồi quy nạp toàn bộ trong một câu khẩu hiệu để theo đó mà tu cho gọn, cho đơn giản và khỏe. Không chịu học hiểu một cách đầy đủ, khúc chiết, chặt chẽ, kỹ càng. Khi nghe nói ‘giác là tu’ thì trong đầu chỉ nhớ mỗi một khẩu hiệu ‘giác là tu’, không chịu hiểu biết cho đầy đủ, tường tận, thấu đáo, sâu sắc. Kết quả chỉ có một lập trình, một khái niệm hay một quan niệm rồi theo đó mà tu hành, chứ không phải do suốt thông thấu tột đạo lý hay kỹ thuật dụng công. Quan niệm hay khái niệm đó chỉ là một thứ kiến thức ập lên đầu mình, nó cài đặt mình. Như vậy là đem kiến thức chồng lên kiến thức chứ chưa phải biết học và tu đúng mực.
Nhiều vị từng hỏi: “Thưa thầy, con biết tu trong một chữ ‘nhớ’, nhưng tại sao con lại hay quên ?”. Hay “Giác là tu, tại sao con lại hay bị bất giác?”. Đó là do lập một khẩu hiệu, một công thức, một lập trình, một kiến thức... Hễ lập nên một cái gì đó thì nó thành một lớp màng che phủ lên tâm trí mình. Từ đó dụng công kiểu gì cũng chỉ là một sự tạo tác. Làm các công việc là loại tạo tác dễ nhận thấy. Tu hành theo kiểu ập lên mình một khẩu hiệu đã được lập trình là một cách làm, một kiểu tạo tác theo cách thứ hai. Do nó khác với công việc mưu sinh, mang tên gọi và tư tưởng là tu hành cho nên chúng ta khó nhận thấy đó là sai lầm. Nếu đúng ‘giác là tu’ là ngay đây không theo cảnh, khéo mất hút các tướng, không mê mờ là đang giác sáng chứ không khởi tạo tác thêm gì; là đang thực hành công phu đích thực.
Chúng sanh sống theo thức tình, thường hay phan duyên, dính mắc cho nên nghe điều gì cũng dễ bị lập thành một tướng để vin theo cho dễ nhớ, dễ hiểu. Quen như thế đến mức tâm thức này tự động làm công việc lập trình mà chính mình cũng đang bằng lòng, không thể nhận ra. Cho đến khi nghe pháp để tu cũng lại lập trình rồi vướng vào tướng của pháp, tướng của tu, thậm chí có cả hiện tướng của sự chứng đắc để thỏa mãn cho sự vin vào và bám chấp theo tướng của tình thức. Tu theo tướng như vậy một thời gian sẽ bị chính tướng này làm cho hành giả bị chướng ngại công phu. Kinh Kim Cang, đức Phật dạy: “Người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đối với tất cả pháp nên biết như thế, thấy như thế, tin hiểu như thế, chẳng sanh pháp tướng”. Nghe chỉ là nghe như thế, không khởi lập thêm (không sanh pháp tướng), ngay đó tâm giác bồ đề hiện tiền. Không sanh pháp tướng là không khởi tâm để lập có một tướng của pháp rồi hiểu về pháp ấy. Nói tóm lại là ‘nên chỉ như thế mà biết, thấy và tin hiểu; không sanh tâm thêm gì cả’. Cụ thể ở đây, nghe nói ‘giác là tu’ thì nghe thẳng như thế, ngay đây dứt sạch, sáng trong, không chút mê muội, là đang giác sáng. Sống thẳng ngay đó là tu hành chứ không phải lập thành khẩu hiệu ‘giác là tu’, hoặc tìm trong tâm cho có một cái giác để chăn giữ nó rồi cho là tu hành. Nhận ra như thế gọi là không sanh pháp tướng. Pháp tướng không sanh thì tâm giác hiển hiện, sống thẳng ngay đó là sống bằng tâm bồ-đề, là khéo phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác như đức Phật đã dạy.
Nếu không khéo học Phật pháp, khi nghe nói giác là tu, liền sanh pháp tướng có chữ giác để tu. Pháp tướng đã hình thành thì nó đã ập lên đầu mình. Công việc hằng ngày đã đầy ắp, căng thẳng, bây giờ tu hành lại bị cái pháp tướng ập chồng lên thêm một lớp nữa. Trên pháp (vạn vật, công việc) lại chồng thêm pháp (pháp tướng tu hành), tướng lại thêm tướng, tu hành như thế một thời gian sẽ căng thẳng, loạn động, mỏi mệt rồi bỏ cuộc. Đó là do chưa biết học đạo, không khéo tu hành.
b) Suốt qua các tướng.
Các pháp xưa nay bản chất không thật, vốn không có pháp nào làm ngăn ngại pháp nào cả. Do đó, tu hành là dùng trí tuệ để thấu suốt chân lý, suốt tột bản chất thật như vậy để dụng công, không cần phải chăn giữ, kềm đè. Cụ thể, mọi duyên rũ xuống, mất hút các tướng thì bản tâm chân thật hiện bày. Trong không thấy có tâm để giữ. Ngoài không thấy có pháp để trụ. Thấy biết tất cả mà suốt qua tất cả, không dừng trụ trên bất kỳ một vật gì thì ngay đó bàng bạc, thênh thang, trùm khắp. Lúc này, không mê là đang giác sáng chứ không có cái giác sáng nào bên trong tâm để gìn giữ. Thấy biết mà suốt qua, không để tâm hay dừng trụ vào bất cứ gì. Ngay đây công phu đang hiện tiền. Sống bình thường, tự nhiên như nhiên như thế là đang giác sáng, đang tu hành.
Ví dụ khi đi kinh hành, chúng ta đừng có cảm giác ngại cảnh vật, cũng đừng theo cảnh. Nghĩa là không nhìn theo, không chú tâm, cũng không lơ qua, không mặc kệ, rũ hết toàn thân xuống, bình thường như nhiên. Đi và nhìn mọi thứ một cách bình thường, cũng chẳng phải cố nhìn tất cả, cũng chẳng phải nhìn vào một cá thể nào cả. Hay suốt qua các tướng như thế nhưng cũng chẳng phải có tướng để suốt qua. Thấy rõ, mình không mê mờ là đang giác sáng chứ không phải có cái giác bên trong để gìn giữ. Cứ bình thường như nhiên thì tất cả tự thênh thang. Không mình không vật mà hay suốt thông tất cả. Đi mà chân chẳng động. Cảnh và mình đều tan biến, không còn khác. Nhưng vẫn thấy mình, cảnh và mọi thứ rõ ràng, không xen lẫn, cho nên cũng chẳng phải là một. Chẳng phải một, chẳng phải khác, ngay đây thấy biết như thị, vượt cả năng và sở, có và không; sức sống thiền đang bàng bạc, hiển hiện sáng ngời.
Với người công phu chưa thuần thục, khi đi kinh hành cũng ứng dụng công phu tu tập như trên, nhưng phải luôn giác sáng rõ ràng. Nếu thấy cái giác hơi có vết của tướng thì rũ xuống, không thêm gì cả. Khi cảm thấy hơi lờ mờ, không rõ ràng thì giác sáng lên. Nếu thấy có ‘cái tâm’ để giữ thì nhẹ nhàng không tâm ấy đi. Trong không trụ căn bản, không có một tâm căn bản để gìn giữ. Ngoài suốt qua các pháp thì bản tánh tự thênh thang, hiện tiền. Đó là khéo ứng dụng công phu ‘giác là tu’.
Cho thấy, chữ ‘Giác Là Tu’ này có sâu, có cạn. Tùy theo công phu tu tập của từng người.
3.2.3. Áp dụng một vài kỹ năng khác.
Kỹ năng khác có nghĩa là những vấn đề phụ, nói thêm, chứ không phải là vấn đề chính, căn bản.
a) Dứt khoát, không tha thứ niệm tưởng.
Chư Tổ dạy: “Nhất ba tài động, vạn ba tùy”. Nghĩa là một đợt sóng vừa chớm động thì muôn ngàn đợt sóng khác theo đó có ra. Thả một hòn sỏi xuống mặt nước phẳng lặng, sẽ có gợn sóng tròn. Tiếp theo đó nó lan dần ra, tạo nên muôn ngàn đợt sóng khác, gọi là ‘nhất ba tài động vạn ba tùy’. Cũng vậy, nếu chúng ta tha thứ cho một niệm thì các vọng niệm khác cũng theo đó đua nhau sanh khởi và mạnh thêm lên.
‘Điều đó đáng giận quá mà, làm sao mà không tức lên cho được!’... Con người thường tha thứ cho những quan niệm mà họ cho là thích đáng. Có một quan niệm là hợp lý và chấp nhận nó, đó là chúng ta đang tha thứ cho một vọng niệm. Mà khi tha thứ một vọng niệm này thì các niệm khác theo đó có ra. Bởi còn niệm là còn mê. Còn mê thì một niệm hay nhiều niệm gì cũng là mê cả. Trong mê sẽ có vô vàn vọng niệm chập chờn sanh diệt chứ không bao giờ chỉ có một niệm. Do đó, vừa có một niệm gọi là thích đáng để chấp nhận thì muôn ngàn thứ khác có ra, gây chướng ngại công phu tu tập.
b) Đối với công việc.
Trên thực tế, chúng ta vẫn còn làm một số công việc cho nên phải tư duy, ghi nhớ. Nhưng kiểm tra lại, việc cần nhớ thì ít, việc không cần mà nó cứ lởn vởn trong đầu mãi thì lại nhiều. Cũng bởi chúng ta tha thứ, chấp nhận có những niệm tưởng cần thiết cho công việc, theo đó, cũng sẽ có rất nhiều niệm tưởng không cần thiết khác ùa theo (như vừa phân tích ở trên). Với trường hợp này, chúng ta có thể thực hiện kỹ năng viết ra giấy.
Những gì cần làm, chúng ta ngồi ngay ngắn, tỉnh tại, giác sáng, liệt kê tất cả những công việc cần thiết vào giấy rồi theo đó để thực hiện. Mục nào đã làm xong thì gạch đi. Khi nào có việc mới thì viết ra. Tất cả giao cho mẩu giấy ấy chứ đừng nhớ trong đầu làm gì cho lãng phí trí não. Nên buông xuống hết cho đầu óc tỉnh táo, thư giãn, mạnh mẽ, sẵn sàng thì năng lượng dồi dào, trí tuệ sáng suốt, chúng ta sẽ đón nhận cuộc sống và công việc tốt hơn.
4. THỰC CHẤT VIỆC TU HÀNH.
Tu hành đạt đến ngộ tánh, hành giả cần lưu ý hai điều trọng tâm: Không sai và phải đúng, để khế hợp tự tánh, mới có lúc tánh này bừng ngộ.
- Không sai - Tránh sai lầm.
Cụ thể là không theo các tướng. Không rơi vào tướng dụng công để phải rơi vào tạo tác. Không tạo thành dấu vết của tâm (Lập phần hạn của tâm).
- Phải đúng - Dụng công đúng.
Tức là phải khế hợp tự tánh. Cụ thể, hướng tánh tu tập, bặt các tướng, mất hút dấu vết, không một vết mê, ngay đó tự khế hợp tự tánh sẵn vậy chính mình.
- Vì sao chúng ta chưa ngộ tánh, phải chịu khổ đau?
Do nhận những thứ huyễn giả bên ngoài mà bỏ quên tự tánh. Thực tế mỗi người chúng ta ai cũng sẵn đủ Phật tánh (tự tánh), nhưng do bỏ sót, quên nhận lại cho nên bị mây mờ vô minh che lấp. Từ đó, nhận thân tâm sanh diệt làm mình, mê lầm, sống trong vọng tưởng, thấy biết theo sáu trần, dính mắc, bị trói buộc, tạo nghiệp, khổ đau.
- Lý do trước mắt.
Do sống theo vọng tưởng cho nên bị loạn động, khiến con người thiếu nội lực, mất năng lượng, bị áp lực, căng thẳng, đưa đến khổ đau. Khi tiếp duyên xúc cảnh thì thấy biết theo trần cảnh do đó bị trần cảnh trói buộc, sai sử, không tự chủ được bản thân, bao nhiêu đau khổ từ đây mà có.
Chúng ta thường nghe nói, giá như trước kia hành xử như thế thì tôi đã khá hơn. Đó là nói lên việc thiếu tự chủ trước đó của chúng ta, hậu quả đưa đến sự đau khổ bây giờ khiến mình hối tiếc. Nguyên nhân chính ở đây đều do thiếu tự chủ. Mà thiếu tự chủ là do bị dính mắc, trói buộc. Sống theo vọng tưởng, dính mắc trần cảnh sẽ đưa đến khổ đau là vậy.
- Nguyên nhân sâu xa.
Chúng sanh tạo nghiệp, theo nghiệp thọ sanh vào các nẻo luân hồi chịu các khổ não. Nhưng nghiệp bắt đầu từ một niệm có ra. Do thấy vọng niệm là thật cho nên niệm nghiễm nhiên tồn tại. Từ đó sống theo niệm, tạo thành chủng tử nghiệp thức trong đầu. Đối trước các cảnh duyên cũng tương tự. Thấy cảnh là thật liền bị dính mắc, tạo các nghiệp. Có nghiệp thì bị nghiệp đẩy đi thọ sanh, chịu các đau khổ.
Nếu trên cảnh, ngay niệm, thấu tột bản chất huyễn hóa, không khởi thêm niệm thì không lưu dấu của niệm trong tâm, sẽ không có nghiệp. Không nghiệp thì không bị câu thúc, chúng ta mới được thảnh thơi, tự tại. Đây chính là sự tu tập. Cụ thể hơn, tu như thế nào? Bằng cách nào?
4.1. Chặt thẳng cội nguồn.
4.1.1. Đốn ngộ.
Hành giả ngay đây đốn ngộ, nhận thẳng tự tánh, liền xong. Ngay đó sống thẳng tự tánh là chân thật tu hành. Tất cả chỉ như cũ, bình thường, sáng ngời, không dấu vết.
4.1.2. Đốn tu.
Bởi chưa ngộ nên còn phải tu. Nhưng lại không rơi vào tướng của phương pháp, tướng dụng công hoặc dấu vết của tâm; không trải qua các thứ bậc như tiệm tu cho nên tạm gọi là đốn tu.
Cụ thể, ngay niệm, ngay cảnh, khéo suốt qua, không can thiệp mọi thứ, sống ngay sức giác sáng. Lực giác càng mạnh thì vọng niệm và các cảnh duyên tự mất sự chi phối. Theo thời gian, công phu đắc lực, không trước không sau, căn thức mê dứt bặt, tánh tự bừng ngộ, vọng tự vắng bặt, không còn. Cách dụng công này chỉ là không mê, mất hút các tướng chứ không làm thêm gì cả. Bặt tướng – không mê – giác sáng là đang tu hành miên mật. Nhưng không tạo tác thêm gì, không có tướng tu hành cho nên lại như là không tu gì cả. Khéo tu trong vô tu như thế, đạt đến vô công dụng hạnh, gọi là đốn tu.
4.2. Đối diện, nhìn thẳng.
4.2.1. Khái quát.
Theo cách trên, có nhiều vị thấy mình không tu hành gì cả, dễ rơi vào miên man, không chịu được, do đó mới nói thêm cách đối diện, nhìn thẳng. Phương pháp này cũng không qua thứ lớp phương tiện nên cũng là đốn tu, nhưng hành giả thấy có hạ thủ công phu tu tập.
Cụ thể, nếu chưa ngộ, còn vọng niệm thì một cách dụng công nữa là Đối Diện - Nhìn Thẳng. Nếu chúng ta cố tình lảng tránh hoặc chạy trốn vọng niệm, đồng nghĩa đã thấy vọng niệm là thật và quan trọng, nên mới quay lưng để trốn. Nhưng khi vừa thấy niệm là quan trọng thì nó đã in bóng trong đầu rồi, không lìa được. Phải khéo ngay niệm nhìn thẳng, thấu tột trước khi niệm khởi vốn không niệm, liền được vô niệm.
4.2.2. Áp dụng hạ thủ công phu tu tập.
Không quay vào trong để kềm giữ tâm. Không nhìn theo vọng niệm hay các cảnh duyên. Không biết theo, biết về vọng niệm và các pháp. Tức là không làm thêm bất cứ gì cả. Chỉ nhìn thẳng đến trong lặng, không phân biệt, tâm tự sáng biết.
Ví dụ trước đây có tức giận ai đó. Cố tu tập, thấy hết giận. Nhưng thời gian sau gặp lại người ấy thì thấy cái giận vẫn còn. Lý do là thấy cái giận thật, từ đó nó đã tự khắc in dấu trong đầu. Muốn chế ngự cho nên tìm cách tu tập như thế nào đó. Đó là cố tình lảng tránh, chạy trốn và đè nén chứ chưa phải tu tập đúng pháp. Vì vậy tu tập nhiều năm, nhưng gặp lại vẫn thấy còn sự tức giận hoặc xúc cảm.
Cụ thể, áp dụng công phu trong phương pháp này là không chạy trốn hay làm thêm gì cả. Nhìn thẳng cho đến khi nó tự trong lặng, tất cả sẽ trở nên bình thường, tự vô hại, không còn giá trị. Sẵn một chân trời tự tánh lặng trong, sáng ngời cho cái giận mặc tình trôi trên đó. Hành giả không tác ý theo nó để phân tích hay làm thêm gì. Sẽ đến lúc lực của nó tự yếu, tánh chúng ta tự mạnh thì tất cả dù còn, nhưng trở nên lặng trong, bình thường, vô hại. Chúng ta không cần hết mà nó tự lặng mất bao giờ cũng không quan thiết.
Có khi tất cả tự ngưng đọng, trong lặng, sáng rỡ, cái “đang là” hiện tiền. Còn thấy có bất kỳ một vật gì dù đó là cái “đang là” đi chăng nữa, cũng chưa thật là bản tánh vốn tự sáng biết không vật chính mình. Hành giả không dừng trụ chấp vào đó mà phải vượt suốt qua cái “đang là”. Bằng cách, không khởi thêm gì, không tìm xem nó như thế nào, chỉ khéo mất hút dấu vết, sẽ có lúc bất ngờ tánh tự bùng vỡ, mới thấu tột.
4.2.3. Lưu ý.
Cố nhìn chằm chằm là mặt khác của việc can thiệp trên vọng, kềm giữ tâm, sẽ bị căng đầu. Nếu cố cho được trừng lặng, sẽ hiện tướng lạ. Nếu cố lờ qua là do còn sợ vọng, vô tình đã in dấu trong đầu, là đã rơi vào tạo tác. Nếu thấy có một cái “đang là” để sống, chăn giữ, là chưa rời tướng của tâm, còn dấu vết, không khế tự tánh. Chủ yếu là sáng biết rõ ràng. Tất cả đều buông thư, bình thường, nhưng lặng trong, rõ ràng rành mạch, không động, không dấu vết là tốt.
Cứ thế công phu, khéo suốt qua mọi thứ. Niệm và cảnh tuy đang có, nhưng vẫn như không. Theo thời gian, công phu thuần thục, sẽ sáng tột đến chỗ không còn gì, tâm tự vô niệm. Lưu ý, trong đầu không khởi mọi thứ, chứ không phải đòi hỏi vọng niệm hay các cảnh phải không. Được vậy, đối duyên xúc cảnh, sinh hoạt... mọi thứ vẫn vận hành, nhưng tự trong lặng. Như thế, sinh hoạt, vận hành, đối cảnh, nhưng không huân chủng tử nghiệp thức. Khi chết, đối trước mọi cảnh duyên hiện ra, cũng một cái thấy biết trong lặng như vậy, sẽ tự chủ. Đây là cách dụng công trong khi vọng niệm vẫn còn.
Tóm lại, chỉ một cái nhìn tổng trì, nhưng tự thấy và sáng biết tất cả. Không phải khởi nhiều cái biết để nhìn theo đuôi từng vọng tưởng hoặc cảnh duyên. Nhìn thẳng, giác sáng, suốt tột tận nguồn tâm, sẽ có lúc tánh này bừng ngộ, niệm tự dứt bặt, các pháp tự trong lặng, thấy biết như thị.
4.3. Biết rõ việc thực tập và chánh tu, không nhầm lẫn trong lúc dụng công.
Y cứ vào tự tánh, ngộ tánh để xác định đâu là việc dụng công của thực tập, đâu là chánh tu. Dụng công khế tự tánh mới có lúc tánh này bừng ngộ, đây là chánh tu. Nếu còn trong tạo tác sanh diệt, do chưa khế hợp thể tánh vô sanh, đây là nằm trong phạm vi tạm thời còn thực tập, chưa thể dụng thẳng đến vô tác, tạm gọi là thực tập.
4.3.1. Thực tập, đối trị tạm thời.
Hành giả chưa thể ngay đây hướng thẳng tự tánh, tu trong vô tu mà phải còn áp dụng một số phương tiện đối trị, điều phục; đây là trong giai đoạn thực tập cho thuần thục để đi vào hạ thủ công phu tu tập dễ dàng hơn. Điển hình ngồi thiền còn hôn trầm, đau chân, vô ký thì phải điều phục. Bước đầu thực tập phải thực hành pháp sổ tức, tùy tức để điều thân, điều hơi thở cho thuần thục. Nếu bị bệnh sân giận mạnh, không thể tức thời hóa giải thì cần phải quán từ bi để đối trị. Có vị nặng về chấp trước, không thể thẳng đó toàn không thì phải quán nhân duyên. Người tâm tu còn yếu, dễ bị các duyên trần lôi kéo thì phát tâm bồ đề dõng mãnh để tự điều phục thân tâm, vững tiến trên đường đạo… Và vô lượng phương tiện khác. Hễ dụng công còn trong tạo tác sanh diệt, mang tính điều phục và đối trị tạm thời, chưa dụng đến chỗ vô sanh thì thuộc về phạm vi tu hành còn trong quá trình thực tập cho được thuần thục.
4.3.2. Chánh tu.
Gọi là chánh tu, bởi dụng công khế tự tánh. Hành giả chưa ngộ tánh thì hướng tánh tu tập, không rơi vào tất cả tướng. Cụ thể, không rơi vào tướng của phương pháp, tướng của dụng công. Không lập phần hạn, chấp sở đắc hay rơi vào tất cả tướng hoặc dấu vết của tâm. Tóm lại, khéo bặt dấu vết, mất hút các tướng, nhưng không mê, tức đang sáng biết, chứ không thấy có tướng sáng biết nào khác để gìn giữ. Dụng tâm như thế sẽ khế tự tánh, mới có lúc bừng ngộ nên gọi là chánh tu.
Với hành giả đã kiến tánh thì khéo bảo nhậm, sống thẳng tự tánh là tu hành. Tùy duyên tiêu dung tập khí, nhưng không thấy có tập khí được tiêu dung. Đây thực sự là chánh tu, thẳng đến thành Phật.
4.3.3. Không nhầm lẫn trong lúc hạ thủ công phu tu tập.
Hành giả hạ thủ công phu tu tập, cần nhận ra đâu là thực tập đối trị tạm thời, đâu là chánh tu thẳng tự tánh. Không nhầm lẫn, khi đối trị thì nghi ngờ làm sao khế hợp tự tánh? Lúc chánh tu thì lại vụng về, hoặc đặt bày tạo thành tướng, rơi vào tạo tác sanh diệt.
Ví dụ, hành giả mới tu, chưa thuần thục, tập khí còn nặng, bị sân si, phải lo quán chiếu để đối trị thì nghĩ: “Sao tu nhiều mà chưa kiến tánh như huynh đệ?”. Được khuyên bảo nên hướng tánh, bặt dấu vết để tiêu dung tập khí thì thưa: “Tu sao mà như không làm gì cả”, không chịu. Đây là do nhầm lẫn giữa việc thực tập đối trị tạm thời với chánh tu, khiến mình tự mâu thuẫn, không tiến. Còn đối trị là còn trong tạo tác, chưa lìa sanh diệt cho nên chưa khế hợp tự tánh vô sanh thì làm sao ngộ được? Muốn có lúc tánh này bừng ngộ thì phải dụng công vô tác, thẳng đến chỗ vô sanh mới được, thì lại bảo giống như không tu, không chịu. Nếu nhận chân rõ ràng sẽ không bị mâu thuẫn trên, mới biết hướng để tu tiến.
Pháp đối trị chỉ áp dụng cho những ai thấy là cần thiết và chỉ áp dụng trong một thời điểm nhất định nào đó. Muốn giác ngộ, phải hướng tánh vô sanh, mới có lúc bừng ngộ tự tánh. Y tánh tu hành là nhân vô sanh, mới viên thành quả vị Phật đạo vô sanh, không thể khác.
5. TỔNG QUAN NGUYÊN LÝ DỤNG CÔNG TU TẬP THIỀN.
Nói thẳng đến việc tu hành là kiến tánh khởi tu. Nếu đã tỏ tâm thì sống ngay tự tâm giác sáng đó là tu hành chứ không tạo tác thêm gì khác. Hơn nữa, khi giác sáng là sáng lại tự tâm nơi chính mình đang sẵn đủ, chứ không phải làm thêm gì. Do đó, tu mà như thể là không tu. Tuy vậy, nhưng đang sống bằng tâm giác sáng thì đã là tu hành rồi; cho nên không tu mà tu. “Tu mà không tu, không tu mà tu”, đó là khéo dụng công tu hành đắc lực.
Nếu chưa kiến tánh, còn tu theo thứ lớp thì nên biết đây chỉ là việc tạm thời để hướng đến ngộ tánh, chứ không quan trọng, không dừng kẹt trên những phương tiện công phu. Tuy có dụng công, nhưng do đã biết rõ là tạm thời do đó không chấp vào việc dụng công, không rơi vào tướng của công phu; cho nên dù có tu mà như là không tu hành gì. Tuy vậy, nhưng vẫn đang hạ thủ công phu miên mật; do đó cũng là đang tu. ‘Tu mà không tu, không tu mà tu’, khéo léo dụng công tu tập như vậy mới đích thực tu hành, công phu mới tiến bộ thực sự. Nếu không như thế thì rơi vào tạo tác, là chỉ đi loanh quanh bên ngoài, không khế hợp đạo lý chân thật.
Tóm lại, chương này nhắm đến việc xác định nguyên lý dụng công tu tập. Ngàn xưa, tất cả chúng ta đang ở trong tự tánh. Do thoạt bất giác, căn thức mê mờ liền sanh, vọng tưởng liền có. Từ đây căn thức mê mờ duy trì cho vọng tưởng tồn tại và mạnh thêm. Bây giờ tu hành thì điều trước mắt dễ nhận thấy nhất là hàng phục vọng tưởng. Nhưng vọng tưởng nó không chịu hết thì phải đi tìm xem thứ gì đã nuôi dưỡng cho vọng tưởng này còn mãi như vậy, mới biết đó là căn thức. Ngay căn thức này mà trị thì vọng tưởng tự hết chứ không thèm can thiệp trên vọng nữa, chỉ cần không theo nó thôi.
Trị căn thức này như thế nào? Vừa làm gì thì ngay đó chính là căn thức, nó lại càng mạnh thêm. Nếu không làm gì hết là vô minh, thì nó cũng càng thêm mạnh. Không thể can thiệp trực tiếp thì phải tìm một nhân tố mà căn thức này không chịu được, đó là giác. Khi giác sáng thì căn thức sẽ bị yếu, cho nên chỉ giác thôi chứ đừng làm gì trực tiếp đến căn thức cả (tức là không khởi tâm diệt trừ nó). Trên các hoàn cảnh, luôn khéo sống giác sáng như vậy thì căn thức sẽ yếu đi. Tu tập như vậy cho đến khi sức giác sáng lớn mạnh tột cùng thì căn thức sẽ yếu tột độ. Nhân duyên chín muồi, không trước không sau, tự tánh giác sáng bùng vỡ, căn thức liền tan, vọng tưởng không còn, tâm thể hiện tiền, sống ngay đó là tu hành.
Thấy ra nguyên lý tu hành một cách rõ ràng như vậy thì mới tự tin và an tâm, mới hết lòng một bề quyết chí hạ thủ công phu, thẳng tiến. Nhất là các hành giả đã từng nhập thất có tiến bộ thì nhận ra việc này rất rõ.
Thẳng tự tánh giác đã bừng ngộ đó mà sống là sống bằng Phật nhân, là “tự giác”. Không rời tánh ấy để tùy duyên hành hạnh lợi tha gọi là làm Phật sự; là “giác tha”. Trải qua nhiều kiếp, sống và tu hành như vậy cho đến khi công viên quả mãn, tức là “Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn” thì sẽ thành Phật quả. Đó là nguyên lý tu hành.
Phần phụ: CÂU HỎI VẬN DỤNG THỰC TIỄN
Câu số 1:
Tu tập gạn lọc thân tâm dần dần được thanh tịnh, sạch hết vọng niệm thì chân tâm hiện tiền. Hiểu như thế nào về điều này?
GỢI Ý TRẢ LỜI:
1. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ.
- Tỉnh dậy thì hết mộng, hay hết mộng mới được tỉnh?
Đang ngủ say mộng thấy nhiều điều. Khi tỉnh dậy thì hết mộng, hay phải đợi đến khi mơ cho trọn câu chuyện trong giấc mơ, cho hết mộng rồi thì mới được tỉnh dậy? Nếu phải đợi hết mộng mới tỉnh dậy, như vậy là đã tỉnh táo chủ động rồi, đâu còn say mộng nữa. Thực tế, khi ngủ say thì mộng thấy đủ thứ. Thình lình tỉnh dậy thì không còn gì. Không có chuyện đợi giấc mơ trong mộng tan biến từ từ rồi mới được tỉnh dậy. Tương tự để xét lại tâm mình.
- Chân tâm vốn sẵn vô niệm, hay đợi đến khi hết vọng niệm thì chân tâm mới hiện tiền?
Ai cũng đang có niệm. Nếu đợi vô niệm mới là chân tâm thì sẽ có làm gì đó cho được vô niệm. Mà có làm là rơi vào tạo tác, là bản chất của niệm nữa rồi, làm sao được vô niệm?
Chân tâm nơi mỗi chúng ta, thể của nó vốn sẵn vô niệm. Nhưng do bất giác, liền bị mê mờ (như người ngủ say) cho nên tạm có vọng niệm và bị che lấp. Nếu khéo hạ thủ công phu tu tập, nhận ngay tự tánh giác sáng, hàng phục vọng tưởng phiền não. Thời tiết nhân duyên chín muồi, tâm này bừng sáng, vọng niệm tự dứt bặt. Như người thức giấc thì mộng mị không còn. Khéo sống trở về chân tâm là tu hành, không do tạo tác.
2. TU HÀNH NHƯ THẾ NÀO?
Không phải có làm gì, cũng chẳng phải để không, không làm gì, mà khéo léo dụng công tu tập đúng pháp. Tu mà không tu; không tu mà đang tu, là đích thực tu hành.
Hoặc là, ngay đây liền nhận bản tâm. Nếu chưa thể như thế thì gạn lọc từ từ. Thân – Tâm – Muôn vật đồng thời buông xuống sạch. Chỉ còn tâm an nhiên – rỗng lặng – giác sáng. Công phu đúng mức, thời tiết nhân duyên chín muồi thì chân tâm tự bùng vỡ, hiện tiền, không còn vọng niệm nữa.
Câu số 2:
Có người nói: Đã từng tự nghiên cứu và tập thiền. Nhưng khi ngồi thiền thì loạn tưởng lung tung, không đi đến đâu cả cho nên đã bỏ. Nên giải thích và khuyên vị này như thế nào?
GỢI Ý TRẢ LỜI:
Thiền không phải nghe qua và học ngang một cách thiếu chuyên nghiệp như thế, sẽ không tiến bộ, có khi còn không tốt. Tu thiền cần phải học kỹ, dụng công đúng pháp, chuyên nghiệp thì mới thấy rõ đường đi, vững niềm tin, công phu tiến bộ và không bị những điều đáng tiếc.
1. CẦN BIẾT NGƯỠNG TỐI THIỂU ĐẦU TIÊN CẦN PHẢI CHẠM ĐẾN LÀ GÌ?
Đó là kiến tánh - Y tánh khởi tu - Viên mãn thành Phật. (Xem kỹ trong phần chính của chương 3 này).
2. TRONG KHI CHƯA KIẾN TÁNH, PHẢI THỰC HÀNH CÔNG PHU TU TẬP NHƯ THẾ NÀO?
2.1. Trong cảnh tịnh, tọa thiền.
Dụng công qua các bước cơ bản: Sổ tức, tùy tức, biết vọng không theo, biết là chân tâm.
2.2. Trong cảnh động, sinh hoạt.
- Chưa thuần thục: Thân đâu tâm đấy, không bất giác, thất niệm hay lo ra.
- Đã thuần thục: Giác sáng rõ ràng trên mọi sinh hoạt.
(Xem đầy đủ tại Mục 3, Chương 2).
3. TU THIỀN, TỌA THIỀN, ĐẾN BAO GIỜ MỚI HẾT VỌNG TƯỞNG?
Khi còn mê thì tạm có vọng tưởng. Khi kiến tánh thì vọng tưởng tự hết chứ không do tạo tác (làm gì đó), hoặc để yên không làm gì.
Ví dụ như cây đuốc lồ-ô. Khi dầu căn thức dứt bặt, tự tánh hiện tiền, thì lửa vọng tưởng tự hết. Biết rõ nguyên lý, nắm vững chắc chắn phương pháp dụng công rồi thì yên tâm tu hành, không nóng vội mong chờ bao giờ mới hết vọng. (Xem đầy đủ trong phần chính của chương 3 này).
Biết vậy, hành giả chỉ dụng công đúng pháp, không quan tâm đến vọng. Thời tiết nhân duyên chín muồi, tự tâm bừng sáng, các vọng sẽ tự dứt bặt, vắng lặng, sáng rỡ; chứ không mong ngóng hay làm thêm gì cả. Nếu càng mong muốn hết vọng, là đã can thiệp sâu trên vọng, đồng nghĩa đã quên tâm. Như thế, sẽ càng bất an, rối rắm. Càng trông mong hết vọng thì lại càng tăng thêm vọng, là đã trái với nguồn cơn mong muốn hết vọng, sẽ không hết vọng được.
4. DỤNG CÔNG NHƯ THẾ NÀO, ĐẾN BAO GIỜ MỚI KIẾN TÁNH?
4.1. Dụng công.
Căn cứ vào ví dụ đuốc lồ ô. Từ đó cho chúng ta thấy rõ: “Giác là tu”.
4.2. Kiến tánh.
Khi sức giác mạnh tột cùng, căn thức cũng yếu tột độ. Không trước không sau, tự tánh bất chợt bừng sáng, căn thức tự dứt bặt, vọng tưởng mê mờ không còn bóng dáng, tự tánh hiện tiền.
5. TRONG THỜI GIAN CÒN VỌNG TƯỞNG, ĐAU CHÂN…, NGỒI THIỀN SẼ CÓ ÍCH LỢI GÌ?
Thời gian đầu mới tập ngồi thiền, tuy còn mỏi mệt, đau chân, mê mờ, vọng tưởng lung tung… Nhưng cứ ngồi đúng pháp, một thời gian sau kiểm tra lại sẽ thấy trong tâm có tiến bộ tích cực hơn so với khi chưa tập thiền. Cần có thêm thời gian để thân tâm thuần thục, sự tiến bộ sẽ nhiều hơn. Lúc này, tu hành là vui chứ không còn vất vả nữa.
Cho thấy, kết quả của thiền là không có gì, nhưng khi kiểm tra lại trong tâm thì thấy có tác dụng tốt rõ ràng chứ không phải là không ngơ. Tuy có, nhưng chỉ là sự thầm nhận trong vô tướng thôi, không thấy có tướng kết quả gì cả. Ngoài ra, nếu thấy có tướng lạ, ánh sáng, hào quang hay sự mầu nhiệm gì đó, đều là không phải. Đừng chấp, không nên theo. Nếu hành giả nhận theo các tướng lạ đó rồi cho là chứng đắc, sẽ rất dễ bị lạc và sai lầm.
Câu số 3:
Khi nghe người khác khen liền vui, chê liền buồn. Mỗi lần như thế thì nhìn thẳng vào những tâm niệm đó, tĩnh tâm lại và nhận biết, nhận ra mình đang bị dính mắc hai đầu, đó không phải là đạo. Những lần sau cảm thấy cường độ buồn vui giảm dần. Lần thứ ba, thứ tư thì cảm thấy yên dần và an ổn hơn. Có phải thực hành đối diện như thế lâu ngày sẽ đến gần với cái gọi là “sự bình lặng của tâm” hay không?
¯ GỢI Ý TRẢ LỜI:
- Đây chỉ là sự thực tập công phu mang tính đối trị của buổi đầu.
- Giảm dần chỉ là tạm thời, không đáng kể. Vì còn trong mê thì chưa thể dứt sạch hoặc làm chủ tuyệt đối được.
- Sự bình lặng của tâm là tâm vốn đã tự bình lặng, chứ không phải do làm cho được bình lặng từ từ. Bởi có làm là đã rơi vào tạo tác sanh diệt, là đã trái với bản tâm chân thật, không thể sống được với sự bình lặng thực sự từ bản tâm toát ra.
- Tu hành, suốt tột bản tâm thì tâm tự bình lặng. Động hay tĩnh đều không dính dáng đến tâm này, chúng ta được bình lặng và an lạc thực sự.
Câu số 4:
Càng công phu thì nhận ra tại sao mình phân biệt quá nhanh. Hễ thấy một sự việc hay sự vật gì, chưa kịp định thần thì niệm phân biệt đã khởi lên. Khởi rồi mới tỉnh, toàn thấy sau đuôi của nó. Vậy, khi đối diện với cảnh, có phương pháp nào để tỉnh sáng mà không bị dính mắc, phân biệt?
GỢI Ý TRẢ LỜI:
- Khi nào còn mê thì hãy còn vọng tưởng, còn nằm trong cái mê của căn thức. Căn thức mê này tự nó dính mắc, rồi phân biệt. Như thể tự nó làm việc dính mắc của nó, xong rồi mình mới nhận biết thành quả. Do đó, khi chúng ta nhận thấy sự dính mắc là trước đó đã bị dính rồi. Khi thấy, là chỉ thấy được tướng trạng đã được hình thành từ sự dính mắc trước đó.
- Xem đầy đủ tại mục 2, chương 4 dưới đây.
- Thức này rất vi tế, tinh vi hơn cả khí Hy-dro xuyên qua ruột cao su của xăm lốp xe.
- Niệm vốn không có tướng thì lấy đâu để có đầu và đuôi của niệm?
- Đối diện với cảnh, muốn tỉnh sáng mà không khởi phân biệt thì không thể cố gắng hay nóng vội mà được. Bởi nếu như thế, vô tình chúng ta đã làm cho vọng động, phân biệt rồi rối rắm, mờ mịt thêm, trái với nguồn cơn tỉnh sáng và không khởi phân biệt mà mình mong muốn. Chỉ có khéo léo ngay đây nhận thẳng tánh giác sáng, không quan tâm đến việc có niệm phân biệt hay không niệm. Sống thẳng đó là tu hành. Khi công phu đủ lực, tự tánh bừng sáng. Tánh này tự không khởi phân biệt mà vẫn sáng biết. Nếu chưa thể nhận được như thế thì tu tập buông xả, an nhiên, giác sáng. Theo thời gian, công phu mạnh dần thì mới giúp cho chúng ta có khả năng làm chủ được. (Xem đầy đủ cụ thể tại Chương 4 và Chương 5 phía sau).
Các bài mới
- Dụng Công Tu Thiền - Phần 03: Chương 02 - Căn bản Dụng Công Tu Tập Thiền(02) - Các Lưu Ý Khác; Câu Hỏi Vận Dụng Thực Tiễn - 11/06/2024
- Dụng Công Tu Thiền - Phần 02: Chương 02 - Căn bản Dụng Công Tu Tập Thiền(01) - 19/05/2024
- Dụng Công Tu Thiền - Phần 01 : Chương 01: Thiền Là Cốt Tủy Của Đạo Phật - 06/05/2024
- Nguồn Càng Sâu - Dòng Càng Dài - 21/02/2024
- Biết Là Chân Tâm - 08/02/2024
Các bài đã đăng
- Tư tưởng Cư Trần Lạc Đạo của Phật Hoàng Trần Nhân Tông - 09/12/2023
- Biết Vọng - Liền Là Chân - 24/01/2023
- Tự ngắm lại vầng trăng mình - 13/09/2019
- Trói buộc và giải thoát - 23/12/2016
- Chúng ta tọa thiền như thế nào - 13/11/2016
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 04789
- Online: 94