Hồi quang phản chiếu - Phản quan tự kỷ
01/03/2017 | Lượt xem: 7881
Hôm nay Thầy nhắc tụi con hai từ ngữ rất quan trọng trong nhà thiền, giản trạch để tụi con biết rõ sự tu. Đây là những vấn đề then chốt mà Thầy e chúng chưa nắm vững. Tụi con hằng ngày thuộc câu: “phản quan tự kỷ” rồi, còn “hồi quang phản chiếu” có thuộc không? Đó là câu châm ngôn căn bản của người tu thiền.Giả sử có ai hỏi tụi con hồi quang phản chiếu và phản quan tự kỷ khác nhau như thế nào? Tụi con giải thích ra sao?
Phản quan tự kỷ, chữ phản là ngược lại, quan là xem xét quán chiếu, tự kỷ là chính mình. Còn hồi quang phản chiếu, hồi là quay lại, quang là ánh sáng, phản là ngược trở lại, chiếu là soi sáng. Như vậy, hồi quang và phản quan khác nhau chỗ nào? Một bên là xoay ngược ánh sáng trở lại mình; một bên là soi xét, xem xét lại mình. Hai từ đó nếu không giản trạch rõ tụi con sẽ lúng túng. Giả sử có ai hỏi, hai thứ là một phải không? Nếu một tại sao nói hai câu? Như vậy mỗi câu có một ý nghĩa khác, thấy như na ná, nhưng mang tánh chất khác. Tụi con phải hiểu cho thật kỹ, thật rõ.
Hồi quang phản chiếu là xoay ánh sáng lại để chiếu rọi mình. Đó là ánh sáng gì mà mình soi? Bây giờ Thầy nhắc lại hình ảnh này tụi con sẽ nhớ. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đưa tay lên hỏi A-nan: “Thấy không?” A-nan thưa: “Dạ thấy.” Phật hạ tay xuống, hỏi: “Thấy không?” A-nan thưa: “dạ không”, liền bị Phật quở quên mình theo vật.
Phật quở là vì sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chúng ta luôn luôn phóng ra sáu trần bên ngoài, có nó tưởng như có mình. Thấy tay Phật đưa lên gọi là thấy, tay Phật không đưa lên gọi là không thấy. Nếu không thấy lúc đó mù rồi sao? Không mù tại sao nói không thấy? Bây giờ tụi con có bệnh đó không? Có cái gì đưa lên chỉ thì nói thấy, nếu không đưa lên, không chỉ nói là không thấy. Không thấy tức là mù, nhưng khi không có vật tụi con có mù không? Như vậy không mù mà nói không thấy, đó là chỗ lầm lẫn muôn đời của mình, chỉ nhớ cái bên ngoài mà không nhớ cái hay thấy của mình.
Chúng sanh luôn phóng sáu căn chạy theo sáu trần, sáu căn có mang tánh chất tri giác, cho nên gọi là quang tức ánh sáng. Chúng ta dồn hết tri giác để phân tích, để soi rọi ngoại cảnh mà không hề nhớ mình có ánh sáng đó. Bởi vậy thông suốt ngoại cảnh mà ngu muội đối với mình. Sự sống của mình ra sao không biết, còn chuyện này chuyện nọ của thiên hạ thì bén nhạy sáng suốt vô cùng. Chuyện năm trên năm dưới của ai đâu nhớ rõ, còn chuyện mình thì quên bẵng, không nhớ cái gì hay, điều gì dở để sửa đổi, chỉ thấy chuyện bên ngoài.
Đây là bệnh của nhân loại. Ai cũng đua nhau tìm kiếm, học đòi, phân biệt tất cả chuyện bên ngoài, giỏi chừng nào tốt chừng nấy. Ít ai quay lại tìm hiểu mình là cái gì, kể cả người tu chúng ta cũng thả trôi, chạy ra ngoài nhiều. Chúng sanh mê lầm đem tất cả ánh sáng mình có phóng ra ngoài, ánh sáng ở sáu căn dồn ra tìm hiểu tất cả ngoại cảnh mà không quay lại tìm biết chính mình. Khi có ngoại cảnh tưởng như mình biết, không có ngoại cảnh tưởng mình không biết, đâu ngờ cái không là ngoại cảnh chớ cái biết vẫn hằng hữu nơi mình.
Quên mình chạy theo vật, theo cảnh, đó là bệnh chúng sanh. Đức Phật muốn tất cả người tu biết mình trước, nhận ra cái gì là mình rồi hãy biết những thứ chung quanh. Không biết mình mà biết chung quanh là biết rỗng, không lợi ích gì. Biết bên ngoài là thứ sanh diệt, gốc sự tu là biết lại mình, mà muốn biết mình thay vì sáu căn phóng ra phải quay vào. Phóng ra là đuổi theo cảnh, quay vào là soi sáng lại mình. Cho nên nói hồi quang là xoay ánh sáng trở lại.
Hai chữ sau là phản chiếu tức chiếu ngược lại chính nơi mình. Đức Phật đưa tay lên hỏi, ngài A-nan thấy tay Phật đưa lên nói là thấy, khi Phật không đưa tay lên, bảo là không thấy. Đó là ngài A-nan mắc kẹt hình tướng bên ngoài, cho cái tay bên ngoài là cái thấy, mà quên tánh hay thấy của chính mình. Sự thật là có tay hay không có tay, chớ cái thấy lúc nào cũng sẵn. Khi có tay nói thấy, buông tay xuống nói không thấy, như vậy có cảnh biết có, không cảnh tưởng mình không. Quên hẳn chính mình và lệ thuộc dính mắc vào ngoại cảnh là hai căn bệnh rất sâu kín, trầm trọng của chúng sanh.
Trong nhà thiền chú trọng hai cơ quan tối quan yếu là mắt và tai, cho nên Phật dùng thuật đánh chuông và đưa tay. Đánh chuông để chỉ Tánh nghe, đưa tay chỉ Tánh thấy. Như vậy khi con người chạy theo âm thanh, sắc tướng là quên. Bây giờ hồi quang phản chiếu là không kẹt ở âm thanh, sắc tướng, trái lại biết rõ mình đang nghe, đang thấy. Sự vật có động tĩnh, sanh diệt nhưng cái thấy nghe của mình hằng hữu.
Ngày xưa, các Thiền sư dùng đủ thủ thuật, đưa phất tử hoặc đưa ngón tay... để nhắc cho hành giả ngay nơi hình ảnh đó mà biết được mình. Cho nên Phật đưa cành hoa lên, ngài Ca-diếp mỉm cười. Đó là thông cảm được cái gì Phật muốn chỉ. Thấy cành hoa không lệ thuộc cành hoa, mà biết được mình có cái hay thấy.
Chúng ta tu là nhìn cảnh mà chẳng quên mình hay nhân nơi cảnh mà biết mình, trong nhà thiền gọi là “kiến sắc minh tâm”, nghĩa là thấy hình sắc bên ngoài mà sáng tâm mình. Tâm mình ở đâu? Ở trong tim phải không? Chúng ta nghe nói tâm ở trong này lăng xăng, lộn xộn, tưởng đó là tâm. Không ngờ chính cái hay thấy hay biết mới là tâm của mình. Tâm đó không hề lăng xăng, lộn xộn. Bởi vậy, thấy được cành hoa tức là kiến sắc, rồi nhận nơi mình có cái hay thấy, hay biết hằng hữu không vắng thiếu lúc nào, đó gọi là minh tâm.
Biết được tâm, rõ được tâm là nhớ mình không theo vật. Còn nếu chỉ biết cành hoa ở ngoài, có thì nói thấy, không có nói không thấy, đó là quên mình theo vật. Quên mình theo vật là mê, còn nhớ mình không theo vật là giác, không có gì xa lạ. Chúng ta biết nhớ lại như vậy là hồi quang, còn quên mình chạy theo sắc, thanh là phóng quang.
Vậy là dễ hay khó? Tụi con có hồi quang không? Hay là phóng quang? Giả sử ai ngồi bên cạnh mình nói chuyện, họ nói gì thì nói, chúng ta cứ nhớ mình đang nghe chớ không nhớ chuyện của họ. Nhớ mình đang nghe, như vậy là hồi hay phóng? Giả sử ai hỏi: “hồi nãy người đó nói cái gì”, mình trả lời: “không biết”. Vì hồi nãy mình chỉ nghe chớ không chú ý nhớ từng lời từng câu của họ. Bởi vậy trong nhà thiền nói nghe mà như điếc.
Lại giả sử ở trước mình có người ăn mặc sang trọng hay rách rưới đi qua chúng ta đều thấy.
Thấy tất cả nhưng chỉ nhớ mình đang thấy, không nhớ cái sang trọng hay rách rưới. Người qua rồi thôi, vật qua rồi mất, chúng ta chỉ nhớ mình đang thấy. Đó là hồi quang, tức là nhớ lại mình mà không mắc kẹt nơi vật, nên nói thấy mà như mù. Tại sao nói thấy như mù? Nghĩa là ai đi qua trước mắt mình thấy, nhưng qua rồi thôi, không lưu tâm, không chú ý, chỉ nhớ mình đang thấy. Cho nên nếu ai hỏi: “hồi nãy đi qua mấy người, ai đẹp ai xấu”, trả lời: “tôi đâu có nhớ”. Vì có thấy mà không để ý phân biệt đẹp xấu, nên nói thấy mà như mù.
Tụi con nhớ cho thật kỹ, thấy như mù, nghe như điếc, đừng hiểu như mù là không thấy gì hết, như điếc là không nghe được. Không phải vậy! Thấy nghe rõ ràng nhưng không dính mắc. Cho nên các vị Thiền sư không cần ngồi thiền nhiều. Họ thấy cũng như mù, nghe cũng như điếc, tất cả đều không dính mắc nên các ngài không bận bịu về việc kềm chế hay ngồi thiền. Các ngài sống rất tự tại, thoải mái, dù ngồi giữa chợ cũng như ngồi thiền. Còn tụi con ngồi thiền mà ai nói gì cũng lắng nghe, thấy cái bóng gì liền nhìn kỹ rồi phân tích, đó có phải thiền chưa?
Như vậy tụi con thấy tu hết sức gần, không nặng nề chút nào. Chớ nghe nói hồi quang rồi dòm vào ngực mình hoài, xoay nhìn từng nhịp đập của tim, từng mạch máu nhảy, lâu ngày tức ngực, đau tim, đó là sai lầm. Hồi quang có nghĩa là đối với sáu trần, nó qua mình biết, nhớ có cái hay biết sáu trần. Luôn luôn nhớ cái hay biết sáu trần, đó là hồi, còn chỉ theo sáu trần mà không nhớ có cái biết sáu trần, đó là phóng. Như vậy hồi với phóng xa hay gần? Nó rất gần nhưng khéo thì biết, không khéo quên ngay. Cả ngày tụi con tu hồi nhiều hay phóng nhiều? Gần như phóng hoài, chẳng có hồi, phải không?
Vậy nên khi tu tụi con phải hiểu cho thật rõ. Nhiều khi không giản trạch, tụi con không hiểu, dùng từ ngữ làu làu mà không biết ứng dụng để tu. Như vậy chúng ta có thể ngồi chơi ngoài băng đá, ngắm trời ngó thông... nhưng chỉ nhớ mình đang ngó thông, còn thông ra sao mặc nó. Cũng như khi ai nói mình nghe hết, nhưng chỉ nhớ mình đang nghe, không chạy theo tiếng theo lời. Như vậy tụi con tu rất hay, là đang hồi quang phản chiếu. Còn nếu chạy theo tiếng, theo hình ảnh bên ngoài, như có người khách đi qua liền khen là ăn mặc sang trọng, nhớ kỹ từng chi tiết, đó là đang phóng. Nghe đằng kia ai nói rù rì nho nhỏ, bèn ráng nghe, nhớ từng câu khen ai chê ai, đó là đang phóng.
Tụi con phải tập nghe tất cả nhưng không chú ý đến lời tiếng, chỉ nhớ mình đang nghe; thấy tất cả mà không lưu tâm tới cảnh, chỉ nhớ mình đang thấy. Như vậy là không quên mình, không mất mình. Ngược lại, chạy theo âm thanh, sắc tướng bên ngoài, là quên mình theo vật, như lời Phật quở trong kinh Lăng Nghiêm.
Chúng ta tu là phải xoay lại chính mình. Chính mình không phải ở trong tim, gan, mật, mà là cái đang nói, đang nghe, đang xúc chạm, thấy, biết đây. Như vậy hằng ngày đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng biết hồi quang là tụi con tu miên mật. Nếu không được như vậy là tu lôi thôi.
Người xưa sợ chúng ta tu lôi thôi, nên làm bất cứ hành động nào cũng bắt đọc bài kệ, câu chú để cho mình nhớ, không chạy theo cảnh chớ không có gì lạ. Còn bây giờ tụi con hồi quang như vậy khỏi chú hay kệ gì nữa. Người xưa dạy đọc kệ, niệm chú vì cái đó dễ nhớ, đọc lẩm nhẩm để không chạy theo bên ngoài. Còn bây giờ tụi con biết hồi quang phản chiếu thì lúc nào cũng tỉnh, lúc nào cũng biết mình đúng như thật, nên không phải nhờ đến chú và kệ.
Còn nương chú, kệ là biết mà chưa biết, chỉ là không chạy ra ngoài thôi, nhớ kệ, nhớ chú mà chưa biết mình. Ở đây tụi con không chạy theo cảnh tức là đang sống với chính mình. Tụi con thích sống với mình hay thích sống với cảnh? Nếu theo cảnh thì mất mình. Tu mà không biết mình chỉ biết ngoại cảnh! Cảnh sanh diệt, đổi thay tìm biết nó để làm gì? Chính mình là gốc, là nguồn cội mà không biết là sơ sót rất lớn.
Bởi vậy nên Phật Tổ nhắc hồi quang phản chiếu. Hồi quang là xoay ánh sáng trở lại mình. Nói xoay thật ra không có gì xoay, chỉ là nhớ mình, không chạy theo cảnh. Không phóng tức là hồi. Phản chiếu là rọi sáng lại mình, không cho phóng chạy theo vật bên ngoài, đó là tu. Tụi con tu đúng như vậy là tu thiền. Vậy nên ngài Pháp Loa dạy trong Thanh qui: “ra vào không giao thiệp gọi là ngăn dừng”, nghĩa là đối với trần không chạy theo, như vậy là giữ giới thanh tịnh, là tu chân chánh.
Sự tu hết sức tế nhị chớ không phải chỉ hình thức bên ngoài. Người xưa sợ người mới xuất gia phóng tâm quá nên mượn chú, mượn kệ đọc cho bớt phóng tâm. Còn chúng ta tu thiền, chư Tổ dạy phải quay lại, hằng nhớ hằng biết thì cảnh bên ngoài dù đổi thay, sanh diệt mình cũng không mất, không bị ảnh hưởng. Không mất mình nên khi nhắm mắt chúng ta tự có lối đi riêng, thân này bại hoại nhưng cái đó không bại hoại. Đó là yếu chỉ Thiền tông. Như vậy, hồi quang phản chiếu nói lên tinh thần tu thiền, là cốt tủy, tâm yếu của người tu thiền chớ không phải thường.
Bây giờ đến câu phản quan tự kỷ. Chữ quang phản chiếu và chữ quan phản quan tự kỷ là hai chữ khác nhau. Quan là xem xét, ngắm nhìn; còn quang là soi sáng, là ánh sáng của mình. Như vậy, hồi quang là soi ánh sáng trở lại. Còn phản quan là xem xét trở lại, hai cái khác nhau.
Nguyên câu nói của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.” Đó là yếu chỉ Thiền tông. Thầy cho rằng câu này có tánh cách quảng bác hơn câu trên, bao gồm tất cả các phương pháp và pháp môn tu. Còn hồi quang phản chiếu có tánh cách chuyên môn về Thiền tông.
Thí dụ tụi con đếm hơi thở hoặc theo hơi thở, đó không phải hồi quang mà là phản quan tự kỷ. Khi chúng ta xem xét hơi thở của mình và sự sanh diệt của từng hơi thở, thấy rõ tinh tường những biến chuyển của nội tâm hay của bản thân, đây là phản quan tự kỷ. Lối tu này tổng quát, bao trùm hết cả giáo lý nhà Phật.
Thầy nói đại khái cho tụi con biết. Thí dụ Phật dạy tu thiền quán Tứ niệm xứ, là pháp căn bản mà các kinh A-hàm thường nhắc, thường dạy rất rõ. Một là quán thân bất tịnh, nghĩa là xem xét, phân tích tường tận từng bộ phận, thấy rõ thân này nhớp nhúa, hôi hám. Hai là quán thọ thị khổ, tức là đối với tất cả các cảm giác do tiếp xúc với sáu trần ở ngoài, chúng ta biết rõ ràng nó vô thường, không thật, là gốc của đau khổ. Ba là quán tâm vô thường, là thấy rõ những tâm niệm của mình luôn luôn sanh diệt không dừng. Bốn là quán pháp vô ngã, tức quán tất cả các pháp, từ tâm pháp nơi mình cho tới ngoại cảnh đều là tướng duyên hợp không có chủ. Hằng quán như vậy.
Trong kinh A-hàm, đức Phật dạy: Người nào cột tâm ở Tứ niệm xứ bảy ngày không dời đổi sẽ chứng quả A-na-hàm, chẳng những bảy ngày mà ba ngày cũng chứng quả, rồi chẳng những ba ngày mà một ngày cột tâm ở Tứ niệm xứ không dời đổi cũng chứng quả A-na-hàm. Quán đó tức là phản chiếu, xem xét soi sáng lại mình, cho nên pháp tu của các kinh A-hàm trong Phật giáo Nguyên thủy chính là phản quan tự kỷ.
Ngũ đình tâm quán cũng là soi xét lại mình, quán Phật, quán từ bi, quán bất tịnh, quán sổ tức, quán nhân duyên... Quán như vậy để trụ tâm, cũng là để soi sáng lại mình.
Đó là nói về hệ thống A-hàm, còn hệ thống Bát-nhã, mỗi đêm chúng ta đều tụng “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Đây cũng là soi sáng lại chính mình để biết rõ năm uẩn không thật, không có thực thể rồi qua tất cả khổ nạn.
Kế đến Thiền tông, như Thầy thường dạy và hướng dẫn tụi con nhìn lại từng niệm khởi, đừng chạy theo nó, gọi là biết vọng không theo, cũng là phản quan. Câu chuyện Tổ Huệ Khả tìm tâm không được chính là phản quan. Tâm ở đâu? Quay lại liền biết đường vào.
Như vậy, các pháp tu từ A-hàm, sang Bát-nhã cho đến Thiền tông đều là phản quan. Các hệ thống tu đều lấy việc xem xét, quán chiếu lại mình làm trọng tâm, không để tâm buông lung chạy theo cảnh, không cho vướng mắc, dính kẹt bên ngoài.
Thầy thường dạy mấy người mới tu đếm hơi thở hoặc theo hơi thở, đó là phản quan, vì nếu hướng ra ngoài thì quên. Tu mà không biết phản quan tự kỷ thì người tu càng ngày càng mất mình, bị ngoại cảnh lôi kéo. Cho nên tụi con ngày nào, giờ nào cũng phải thường thấy, thường biết rõ từng tâm niệm, chạy theo cảnh, hay không theo đều phải biết, đó là phản quan. Còn hồi quang là nhớ tánh hằng hữu của mình, không cần thấy chi tiết, chỉ cần nhớ rõ.
Hai câu nói nghe qua thấy như tương tự nhưng sự thật khác nhau. Phản quan tự kỷ dễ tu hơn. Còn hồi quang phản chiếu hơi khó, thuần thục lắm mới làm được, nó có tánh cách kỳ đặc, thiết yếu cho người tu Thiền tông. Lối tu này dành cho hàng thượng căn như Lục tổ Huệ Năng hay Tổ Lâm Tế... Các Ngài đã kiến tánh rồi nên đi đứng nằm ngồi không rời Tự tánh, vì vậy các Ngài không cần phương tiện. Có khi Lục Tổ thấy chúng ngồi thiền, Ngài tới kéo lỗ tai thổi “phù”. Ngài Lâm Tế cũng không thích ngồi thiền.
Vậy các Ngài tu cái gì? Đó là đang hồi quang phản chiếu. Nơi sáu căn các Ngài sáng rỡ mà không phóng chạy ra ngoài, cho nên Tổ Lâm Tế nói: Các ngươi tìm cái gì? Người đang nghe pháp đây là ai? Ngài chỉ cho chúng ta biết nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình hiện có cái chân thật. Sống được với cái đó tức là đang thiền. Như thế, ai đến trình độ này ngồi giữa chợ cũng thiền. Nội tâm đã trong sạch, yên lặng hết nên dùng lối hồi quang phản chiếu, đi đứng nằm ngồi biết mọi cảnh bên ngoài mà không dính một điều gì, thấy như mù, nghe như điếc, tự tại vô ngại.
Còn nếu bị dính, bị lôi ra ngoài như cá mắc lưới đang vùng vẫy, càng vùng vẫy càng mắc thêm nữa thì xin phản quan tự kỷ giùm, thấy từng niệm nên không chạy ra ngoài, như vậy dễ hơn. Người xưa sống với hồi quang ngồi thiền là dư, còn tụi con phóng quang quá, nên bắt ngồi thiền để quán chiếu lại mình, thấy rõ từng phần, bớt đuổi theo bên ngoài, bớt chấp trước. Nếu cứ để tự do, bắt chước những vị quen tu hồi quang phản chiếu, tụi con sẽ phóng mãi đến mất luôn cả mình! Hiểu rồi mới thấy tại sao chư Tổ có vị tán thán ngồi thiền, có vị không thích ngồi thiền.
Như vậy khi tu thiết yếu là phải xoay lại mình. Chính ngài Điều Ngự Giác Hoàng cũng ứng dụng phản quan tự kỷ qua câu nói của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ở đây chúng ta dùng phản quan nhiều hơn. Chỉ người nào triệt ngộ rồi, nghĩa là đi đứng nằm ngồi không quên mình mới dùng hồi quang được, còn nếu quên mình thì khoan dùng.
Tụi con phải biết tường tận để trong sự tu thấy ai ứng dụng được lối nào mình biết họ tu tới đâu. Không nên cho rằng mình ngồi thiền giỏi, thấy ai không ngồi thiền liền chê bai e có khi bị lầm. Nếu người ta sống được hồi quang phản chiếu thì đâu cần ngồi, ở giữa chợ cũng là thiền. Còn mình chưa được vậy mà lạm dụng hành động đó sẽ dễ bị trầm luân đau khổ.
Cho nên hiểu tường tận thì trên đường tu có hướng đi cụ thể, dù nghe ai nói hoặc chỉ trích gì chúng ta cũng không sợ sệt. Nếu không hiểu, khi mình đang ngồi thiền lại nghe nói Lục Tổ thấy người ngồi thiền xách lỗ tai thổi, sẽ hoang mang.
Như vậy ngồi thiền đúng hay như Lục Tổ là đúng? Nếu được như Lục Tổ thì làm như Ngài được, vì khi nghe giảng kinh Kim Cang Ngài liền triệt ngộ, thấy cái chân thật hiện tiền hoài không mất, như vậy ngồi thiền cũng là dư. Còn mình nghe hoài không ngộ, nên phải ngồi lại cho lóng lặng, lắng sâu, đến phút giây nào đó thức tỉnh, giác ngộ, hoặc phải nhờ đọc kinh, nghe giảng từ từ rồi sẽ thấy.
Hôm nay Thầy giản trạch rõ, để tụi con biết căn nguyên và ý nghĩa thiết yếu của hai câu nói này. Chỉ hai câu đó thôi mà là nền tảng của tất cả người theo đạo Phật. Tụi con nắm vững để trên đường tu không lầm lẫn.
HT.Thích Thanh Từ
Trích " Phụng hoàng cảnh sách"
Các bài mới
- Phăng tìm cội gốc của đạo Phật - 26/05/2016
- Những lời dậy của Sư Ông - 13/03/2016
- Taị sao tôi tu thiền - 05/03/2016
- Tu thiền - 25/02/2016
- Pháp môn không hai - 05/02/2016
Các bài đã đăng
- Ngỗng chúa uống sữa từ nước - 05/11/2015
- Người leo núi - 10/10/2015
- Bài pháp kỳ diệu - 10/10/2015
- Đức tự tín của người Phật tử - 29/06/2015
- Nói chuyện về Thiền Tông - 05/01/2015
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 96144
- Online: 21