Kinh Đại Bát-Niết-Bàn Trích Giảng - Phần 2: Phẩm Thuần Đà

22/03/2024 | Lượt xem: 204

HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng

PHẨM THUẦN-ĐÀ  

Bấy giờ trong đại hội có vị Ưu-bà-tắc, con nhà thợ thuyền trong thành Câu-thi-na, tên là Thuần-đà cùng với mười lăm bạn đồng nghiệp, vì muốn đem quả lành đến cho người đời, nên đến trước Phật, quỳ gối chắp tay cúi lạy chân Phật, buồn khóc rơi lệ, bạch rằng: “Ngửa mong đức Thế Tôn và Tỳ-kheo tăng thương xót nhận phần cúng dường cuối cùng của chúng con, cho vô lượng chúng sanh được độ. 

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay nghèo cùng đói khổ không ai cứu giúp, không nơi nương nhờ, muốn xin phước lộc tương lai ở đức Thế Tôn. Cúi xin xót thương nhận chút lễ mọn rồi sẽ nhập Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn! như người nghèo cùng đến xứ xa lạ ra sức làm ruộng, đặng trâu cày giỏi, ruộng đất tốt màu, bằng phẳng sạch cỏ, chỉ còn chờ trời mưa. Trâu giỏi dụ cho bảy nghiệp của thân và miệng, ruộng tốt bằng phẳng dụ cho trí huệ, sạch cỏ dụ cho trừ sạch phiền não. Bạch Thế Tôn! Nay đây con đã có trâu giỏi ruộng tốt sạch cỏ, chỉ còn trông chờ trận mưa pháp cam lồ của Như Lai. Người nghèo kia chính là con đây, nghèo nơi của báu pháp bảo vô thượng. Ngửa mong xót thương dứt trừ sự nghèo cùng khốn khổ của chúng con và cả vô lượng chúng sanh. Cúng phẩm của con dầu kém mọn, cũng mong đức Như Lai và chư tăng dùng được đủ. Ngày nay con không nơi nương nhờ, không ai nâng đỡ, xin đức Thế Tôn rủ lòng thương xót coi con như La-hầu-la.” 

Đức Thế Tôn, bậc Nhất thiết chủng trí thượng Điều ngự, bảo Thuần-đà rằng: “Lành thay! Lành thay! Hôm nay Như Lai trừ sự nghèo cùng cho ông, mưa pháp thượng xuống cho ruộng thân tâm ông mọc mầm pháp. Ông muốn cầu thọ mạng, sắc, lực, an lạc, ngại biện tài nơi Như Lai. Như Lai sẽ ban cho ông các thứ ấy. 

Thuần-đà! Thí thực có hai, đồng một quả báo; một là thọ xong liền chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hai là thọ xong liền nhập Niết-bàn. Hôm nay Như Lai nhận phần cúng dường cuối cùng của ông, cho ông đầy đủ Bố thí ba-la-mật.” 


Phẩm này nói về ý nghĩa thường trụ của đại Niết-bàn.

Trước hết, Thuần-đà đến Phật để cầu xin Phật thương xót nhận phần cúng dường của ông. Thuần-đà bạch với Phật về sự nghèo cùng đói khổ không ai cứu giúp của mình, mong nhờ Phật thương xót và cứu giúp. Nghèo cùng khốn khổ của Thuần-đà khác cái nghèo cùng khốn khổ theo nghĩa thông thường. Ông nghèo cùng khốn khổ là do chưa được trận mưa pháp để cho các hạt giống Bồ-đề nảy mầm đâm được, không phải là nghèo cùng đói rách. Nhưng không phải ông chưa có nhân sẵn mà muốn cầu quả; ông đã có nhân sẵn, nhân đó là nhân trí tuệ. Ruộng dụ cho trí tuệ, sạch cỏ dụ cho trừ sạch phiền não, trâu giỏi dụ cho bảy nghiệp của thân miệng. Nơi thân nơi miệng đã thanh tịnh, lại có trí tuệ và đã sạch phiền não, chỉ cần một trận mưa pháp của Phật thì ông liền phát Bồ-đề, tức là nảy mầm Bồ-đề. Ông yêu cầu Phật thương xót ông như thương xót La-hầu-la, tức là bình đẳng thương ông như thương con.

Phật trả lời đại ý là sẵn sàng mưa pháp xuống, giúp cho ruộng thân tâm ông được mọc mầm pháp và được thọ mạng, sắc lực, an lạc, vô ngại biện tài như ý. Phật nói thêm, lần cúng dường cuối cùng này công đức ngang bằng lần cúng dường khi Phật sắp thành đạo.

Thuần-đà liền bạch Phật rằng: “Như đức Thế Tôn vừa dạy rằng hai lúc cúng thí quả báo đồng nhau, theo ý con nghĩ, e rằng không đúng nghĩa. Vì vị thọ thí trước là bậc chưa sạch phiền não, chưa chứng Nhất thiết chủng trí cũng chưa có thể làm cho chúng sanh đầy đủ Bố thí ba-la-mật. Còn vị thọ thí sau là bậc Nhất thiết chủng trí, đã sạch phiền não, có thể làm cho khắp chúng sanh đầy đủ Bố thí ba-la-mật. 

Vị thọ thí trước còn là chúng sanh, vị thọ thí sau là bậc trời trong các trời. Vị thọ thí trước là thân tạp thực, thân phiền não, thân vô thường cuối cùng; vị thọ thí sau là thân kim cang không phiền não, là pháp thân chân thường vô cùng. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí quả báo đồng như nhau? 

Vị thọ thí trước chưa được đầy đủ Đàn ba-la-mật nhẫn đến Bát-nhã ba-la-mật, chỉ có nhục nhãn chưa có huệ nhãn nhẫn đến Phật nhãn. Vị thọ thí sau đã được đầy đủ cả sáu ba-la-mật nhẫn đến Phật nhãn. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng như nhau? 

Bạch đức Thế Tôn! Vị thọ thí trước, thọ xong ăn nuốt vào bụng tiêu hóa đặng sống còn, đặng sức khỏe, xinh đẹp, an vui, vô ngại biện. Vị thọ thí sau chẳng ăn chẳng tiêu, không năm sự quả. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau?” 

Thuần-đà không chịu, ông nói lần cúng dường đầu Phật chưa thành đạo cho nên quả báo không bằng, lần cúng dường này Phật đã thành đạo viên mãn rồi thì quả báo phải cao hơn.

Vị thọ thí trước chưa trừ sạch phiền não, chưa thành Phật, chưa chứng Nhất thiết chủng trí, cũng chưa làm chúng sanh đầy đủ Bố thí ba-la-mật. Vị thọ thí sau là Nhất thiết chủng trí, đã sạch phiền não, đã làm khắp chúng sanh đầy đủ Bố thí ba-la-mật. Như vậy người cúng dường sau phải có phước hơn.

Đoạn thứ hai ông nói về thân. Vị thọ thí trước còn là chúng sanh, vị thọ thí sau là bậc trời trong các trời, tức là thành Phật rồi. Vị thọ thí trước là thân tạp thực, thân phiền não, thân vô thường cuối cùng; vị thọ thí sau là thân kim cang, không phiền não, là pháp thân chân thường. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí quả báo đồng như nhau? Đây là mở màn để Phật nói về pháp thân.

Bồ-tát không nhìn Phật trên thân ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, lại nhìn Phật bằng thân kim cang bất hoại, nhìn Phật là pháp thân chân thường. Vì vậy cho nên khi cúng dường Phật, nhắm vào pháp thân chân thường mà cúng, nhắm vào thân kim cang mà cúng, chứ không nhắm vào thân vô thường. Như vậy thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt hâm mộ mà tu, đó là hâm mộ của phàm phu, Nhị thừa. Bồ-tát thì thấy pháp thân Phật bất sanh bất diệt nên hâm mộ mà tu.

Vị thọ thí trước chưa đầy đủ Đàn ba-la-mật nhẫn đến Bát-nhã ba-la-mật, nghĩa là chưa đầy đủ lục độ. Chỉ có nhục nhãn, chưa có tuệ nhãn nhẫn đến Phật nhãn, nghĩa là chưa có ngũ nhãn. Vị thọ thí sau đã được đầy đủ sáu ba-la-mật, đầy đủ ngũ nhãn, sao hai lần cúng dường lại bằng nhau được?

Vị thọ thí trước ăn xong nuốt vào bụng, tiêu hóa để sống còn, được sức khỏe, xinh đẹp, an vui, vô ngại biện.

Vị thọ thí sau chẳng ăn chẳng tiêu, không năm sự quả, tức chỉ cho pháp thân. Sao lại cho rằng hai việc cúng thí được quả báo đồng nhau? Như vậy tất nhiên hai quả báo phải có sai biệt, trước là quả báo cúng cho người phàm, sau là quả báo cúng cho bậc thánh. Đó là ý của Thuần-đà nêu lên.

Đức Phật phán: “Thuần-đà! Như Lai đã từ vô lượng vô biên vô số kiếp không có những thân ăn uống, thân phiền não, thân sau cùng, mà là thân chân thường, thân kim cang, là pháp thân. 

Thuần-đà! Người chưa thấy Phật tánh gọi là thân tạp thực, phiền não, cuối cùng. Lúc đó Bồ-tát thọ đồ ăn uống rồi nhập Kim cang tam-muội, đồ ăn tiêu hóa xong liền thấy Phật tánh, chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì lẽ ấy nên Như Lai nói hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau. 

Lúc thành đạo, Bồ-tát phá hoại bốn ma, nay nhập Niết-bàn cũng phá hoại bốn ma, nên Như Lai nói hai quả báo không sai khác. 

Lúc trước dầu Bồ-tát chẳng rộng giảng diễn mười hai bộ kinh nhưng đã thông đạt rồi, nay nhập Niết-bàn rộng vì chúng sanh phân biệt giảng dạy. Vì thế nên Như Lai nói hai quả báo đồng nhau. 

Thuần-đà! Thân của Như Lai đã từ vô lượng vô số kiếp chẳng thọ sự ăn uống. Vì hàng Thanh văn mà nói rằng trước thọ cháo sữa của hai nàng chăn bò là Nan-đà và Nan-đà-ba-la, rồi sau mới chứng quả Vô thượng Chánh giác, nhưng chính thật Như Lai không ăn. Hôm nay vì đại chúng trong hội này, mà Như Lai nhận sự cúng dường cuối cùng của ông dâng. Thật ra Như Lai không ăn. 

Phật xác nhận Như Lai đã từ vô lượng, vô biên, vô số kiếp không có những thân ăn uống, thân phiền não, thân sau cùng, không phải là thân do tứ đại giả hợp, mà là thân chân thường, thân kim cang, là pháp thân. Pháp thân là Phật tánh bất sanh bất diệt, nên gọi là chân thường. Bất sanh bất diệt nên còn mãi, như kim cang rắn chắc không gì phá được. Lúc đó Bồ-tát thọ đồ ăn uống rồi nhập Kim cang tam-muội, đồ ăn tiêu hóa xong, sau đó thấy Phật tánh mà chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì lẽ ấy Như Lai nói hai vị cúng thí quả báo đồng như nhau. Một bên người thọ cúng rồi đạt Phật quả, một bên người thọ cúng rồi nhập Niết-bàn, hai thí quan trọng như nhau nên quả báo không khác.

Lúc thành đạo, Bồ-tát phá hoại bốn ma là tử ma, thiên ma, phiền não ma, ngũ ấm ma. Nay nhập Niết-bàn cũng phá hoại bốn ma là đất, nước, gió, lửa. Chính tứ đại là bốn ma làm cho mình khổ sở. Khi sắp nhập Niết-bàn thì tứ đại rã rời, là phá hoại bốn ma. Vì hai lần đều là phá hoại bốn ma, nên Như Lai nói quả báo không sai khác.

Lúc trước dầu Bồ-tát chẳng rộng giảng diễn mười hai bộ kinh nhưng đã thông đạt rồi, nay nhập Niết-bàn rộng vì chúng sanh phân biệt giảng dạy. Vì thế nên Như Lai nói hai quả báo đồng nhau. Nghĩa là trước không giảng kinh nhưng thông đạt kinh nay đem ra giảng.

Sự thông đạt và giảng dạy như nhau nên hai quả báo cũng không khác.

Thuần-đà! Thân của Như Lai đã từ vô lượng vô số kiếp chẳng thọ ăn uống. Vì hàng Thanh văn mà nói rằng, lúc thọ cháo sữa của hai nàng chăn bò là Nan-đà và Nan-đà-ba-la, rồi sau mới chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng chính thật Như Lai không ăn. Hôm nay vì đại chúng trong hội này mà Như Lai nhận sự cúng dường cuối cùng của ông nhưng thật ra Như Lai không ăn. 

Buổi đầu không ăn, buổi chót cũng không ăn. Ở đây Như Lai chỉ cho pháp thân, không phải như nghĩa Nhị thừa nói là thân có ba mươi hai tướng tốt. Như vậy cái nhìn Phật của Thanh văn khác với cái nhìn của Bồ-tát. Bồ-tát nhìn Phật bằng pháp thân, cho nên nói thân Phật là kim cang, là bất hoại. Còn Thanh văn nhìn Phật bằng thân ba mươi hai tướng, nên thấy thân Phật là vô thường. Đó là những điểm khác nhau của hai bên.

Đại chúng nghe đức Thế Tôn khắp vì đại hội mà nhận sự cúng dường cuối cùng của Thuần-đà, đều vui mừng hớn hở, đồng rập tiếng khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Hy hữu thay cho Thuần-đà! Thật ông không uổng tên là Thuần-đà. Vì hai chữ Thuần-đà là “hiểu diệu nghĩa”. Ông nay kiến lập diệu nghĩa như thế, cứ nghĩa đặt tên gọi là Thuần-đà. Hiện đời đây ông được đầy đủ cả danh tiếng, tài lợi, đức hạnh, chí nguyện. Rất lạ cho ông Thuần-đà! Sanh trong loài người lại được quả lành vô thượng rất khó được. Lành thay cho Thuần-đà! Trong đời khó có người thứ hai. Khác nào hoa ưu-đàm. Đức Phật ra đời là rất khó. Gặp Phật sanh lòng tin, được nghe chánh pháp, lại là rất khó. Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, thỉnh được đức Phật nhận phần cúng dường cuối cùng lại càng khó hơn. Nam-mô Thuần-đà! Nam-mô Thuần-đà! Nay ông đã đầy đủ Bố-thí ba-la-mật.” 

Đại chúng liền nói kệ rằng: 

Ông dầu sanh nhân đạo,

Đã siêu trời thứ sáu,

Tôi cùng tất cả chúng

Nay xin yêu cầu ông: 

Đấng tối thắng trong người

Nay sẽ nhập Niết-bàn, 

Ông nên thương chúng tôi

Xin kíp thỉnh đức Phật 

lâu lại thế gian 

Diễn thuyết pháp vô thượng

Mà bậc trí tán thán 

Hầu lợi ích chúng sanh.

Nếu ông không thỉnh Phật,

Mạng tôi ắt khó toàn, 

Ông nên vì chúng tôi

Đảnh lễ đức Điều ngự. 


Thuần-đà vui mừng hớn hở như người có cha mẹ vừa chết bỗng sống lại.

Ông đảnh lễ Phật mà nói kệ rằng: 

Vui thay được lợi mình!

Khéo thọ nơi thân người

Dẹp trừ tham sân si

Thoát hẳn ba ác đạo. 

Thích thay được lợi mình!

Được gặp kho vàng báu

Gặp gỡ đức Điều ngự

Chẳng sợ đọa súc sanh. 

Phật như hoa ưu-đàm

Khó gặp gỡ tín kính,

Gặp rồi trồng căn lành

Dứt hẳn khổ ngạ quỷ,

Lại cũng hay tổn giảm

Chủng loại a-tu-la. 

Hột cải ghim đầu kim

Phật ra đời khó hơn,

Tôi đã đủ đàn độ 

Độ thiên nhân sanh tử.

Phật chẳng nhiễm việc đời

Như hoa sen ở nước 

Khéo dứt giống tam giới

 Thoát hẳn dòng sanh tử.

Sanh làm người là khó,

Gặp đời Phật cũng khó

Dường như trong biển lớn

Rùa mù gặp bộng cây. 

Nay tôi dâng thực phẩm

Nguyện đặng báo vô thượng

Xô phá phiền não kiết 

Tất cả không bền chắc.

Nay tôi ở nơi đây 

Chẳng cầu thân nhân thiên

Dầu có được thân ấy 

Cũng không lòng ham thích.

Được Phật nhận cúng phẩm

Tôi vui sướng không lường

Khác nào bông y-lan 

Ngát mùi hương chiên-đàn.

Thân tôi như y-lan 

Thế Tôn nhận cúng phẩm

Như ngát hương chiên-đàn

Vì thế tôi vui mừng. 

Tôi nay được hiện báo

Chỗ tối thắng thượng diệu

Đế-thích cùng Phạm thiên

Đều đến cúng dường tôi,

Tất cả các thế gian 

Đều sanh lòng buồn khổ

Vì biết Phật Thế Tôn,

Muốn nhập Đại Niết-bàn,

Đồng cất tiếng xướng to:

Đời sẽ không Điều ngự

Chẳng nên bỏ chúng sanh

Phải xem như con một,

Phật ở giữa chư tăng 

Diễn thuyết pháp thượng

Như núi báu Tu-di 

Cao vọi giữa biển cả.

Trí Phật vậy khéo dứt

Tối vô minh của tôi 

Dường như giữa hư không

Mây nổi đặng mát mẻ. 

Như Lai khéo dứt trừ

Tất cả các phiền não

Như mặt trời mọc lên

Tan mây sáng khắp soi.

Các loài chúng sanh đây

Khóc than sưng cả mắt

Đều bị dòng sanh tử

Đẩy trôi rất khốn khổ.

Đức Thế Tôn cần phải

Thêm căn lành chúng sanh

Vì dứt khổ sanh tử 

nán lại thế gian. 

Khi đại chúng nghe Thuần-đà được Phật chấp nhận những phần cúng dường và khen công đức của ông, giải thích những nghi vấn của ông về hai lần cúng dường, thấy Thuần-đà có lợi ích lớn, cho nên đồng tán thán ca ngợi công đức của ông và giải thích tên ông. Chữ Thuần-đà là tiếng Phạn, nghĩa là hiểu diệu nghĩa, người hiểu được diệu nghĩa là Thuần-đà. Diệu nghĩa là nghĩa Như Lai thường trụ, bất hoại. Thuần-đà hiểu được nghĩa đó là hiểu được nghĩa thầm kín nhiệm mầu lâu nay người ta không hiểu, nên toàn chúng đều hoan hỷ cúng dường, khen ngợi, đồng thời yêu cầu ông nên thỉnh Phật trụ thế thêm một thời gian nữa.

Thuần-đà vui mừng vì việc làm của mình, lợi mình và lợi người. Ông nói kệ tán thán công đức của Phật đã khéo làm lợi ích chúng sanh, khen Phật ra đời rất ít có, người gặp được Phật hết sức khó khăn như con rùa mù gặp được bộng cây. Ý Phật cao vọi, làm mọi người được an lạc, nên yêu cầu đức Phật nán ở thêm trên đời để chúng sanh nhờ. Và ông cầu thỉnh Phật dạy tiếp.

Phật bảo Thuần-đà: “Đúng như lời ngươi nói. Phật ra đời là khó như hoa ưu-đàm. Gặp Phật sanh lòng tin lại khó hơn. Phật sắp nhập Niết-bàn, được cúng dường lần cuối cùng đầy đủ Bố thí ba-la-mật, lại là việc rất khó gấp bội.

Nay ông chớ buồn khổ, nên phải vui mừng đã được dịp cúng dường Như Lai lần cuối cùng, do đây thành tựu Bố thí ba-la-mật. Ông chẳng nên thỉnh Phật ở lại nơi đời, mà phải quan sát cảnh giới của chư Phật thảy đều vô thường, tánh và tướng của các hành pháp cũng như vậy.” 

Phật khen Thuần-đà nhận xét rất đúng, Phật ra đời khó gặp như hoa ưu-đàm, gặp Phật được lòng tin cũng rất khó và cúng dường Phật lần cuối cùng càng khó gấp bội. Phật khuyên ông chớ buồn khổ mà phải vui mừng vì được cúng dường Phật lần cuối cùng.

Phật giải thích những hành pháp ở thế gian này thảy đều vô thường, dù cảnh giới Phật cũng là cảnh giới vô thường.

Đức Phật liền vì Thuần-đà mà nói kệ rằng:

Tất cả các thế gian 

Có sanh đều có tử, 

Dầu thọ mạng vô lượng

Tất có kỳ phải hết. 

Có thạnh tất có suy,

Sum hiệp có biệt ly,

Tuổi trẻ chẳng dừng lâu

Khỏe mạnh bị bệnh xâm, 

Sự chết nuốt mạng người

Không có gì thường còn.

Bậc vua chúa tự tại 

Thế lực không ai bằng

Tất cả đều dời đổi 

Mạng sống cũng như vậy.

Sự khổ xoay không ngằn 

Lưu chuyển không thôi dừng

Ba cõi đều vô thường 

Mọi loài không có vui.

Tánh tướng của pháp có,

Tất cả đều trống không,

Pháp sanh diệt lưu chuyển

Luôn có những lo khổ, 

Sợ sệt, các lỗi ác, 

Già, bệnh, chết, buồn rầu.

Những khổ ấy không ngằn

Hư rã nhiều tai hại, 

Phiền não bao gói kín

Khác nào tằm ở kén,

Là người có trí huệ 

Đâu nên thích chốn này.

Các khổ nhóm nơi thân

Tất cả đều nhơ nhớp,

Tai nạn, ghẻ nhọt thảy

Cội gốc của khổ đau,

Dầu là thân chư thiên

Đều cũng giống như vậy.

Dục ái đều vô thường 

Nên Phật chẳng tham ưa,

Ly dục khéo tư duy 

Đặng chứng quả chân thật

Rốt ráo dứt sanh tử 

Nay sẽ vào Niết-bàn.

Phật đã vượt bờ kia

Đã thoát hẳn các khổ

Vì thế nên hiện nay 

Thuần hưởng những diệu lạc,

Do các nhân duyên ấy 

Chứng quả vị chân thật

Dứt hẳn những triền phược

Hôm nay vào Niết-bàn. 

Phật không già, bệnh, chết,

Thọ mạng vô cùng tận,

Phật nay vào Niết-bàn 

Như ngọn lửa lớn tắt.

Thuần-đà! Ông chẳng nên

 Suy lường nghĩa Như Lai,

Nên xét tánh Như Lai

Dường như núi Tu-di. 

Phật nay vào Niết-bàn

Thọ trì đệ nhất lạc,

Pháp chư Phật như vậy

Các ông chớ nên khóc.

Bài kệ nói, tất cả tướng thế gian sanh lão bệnh tử, là tướng chia ly buồn khổ không có gì an ổn. Sanh lão bệnh tử là tướng vô thường ai ai cũng phải chịu, vì mang thân ở thế gian, dù thân của chư thiên cũng phải chịu chung luật đó. Khi quán sát các tướng thế gian là đau khổ vì sanh già bệnh chết thì người ly dục sẽ được Niết-bàn. Khi được Niết-bàn cũng như củi hết lửa tắt.

Phật giải thích Niết-bàn của Nhị thừa, chán sanh già bệnh chết là khổ, cho Niết-bàn là lạc. Phật khuyên Thuần-đà, khi thân này dứt được mầm sanh tử, vào Niết-bàn không sanh không già không bệnh không chết là an vui, ông không nên năn nỉ Thế Tôn ở lại thế gian này chi nữa.

Thuần-đà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng như lời Phật dạy. Trí huệ của con kém nhỏ như muỗi mòng, đâu có thể nghĩ bàn được nghĩa Niết-bàn sâu kín của Như Lai. 

Bạch Thế Tôn! Ví như người tuổi thơ ấu mới xuất gia, dầu chưa thọ giới cụ túc, mà đã được dự vào số chúng tăng. Con nay cũng vậy, nhờ thần lực của Phật và Bồ-tát, mà con được dự vào số đại Bồ-tát, đã được cùng hàng với các bậc đại long tượng dứt phiền não, như ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử v.v... 

Thế nên hôm nay con muốn đức Như Lai thường ở nơi đời mà chẳng vào Niết-bàn.”

Đến đây Thuần-đà nhận rằng lời Phật dạy rất đúng, trí tuệ của ông nhỏ xíu như muỗi mòng không thể nào nghĩ bàn đến nghĩa Niết-bàn tôn kính của Như Lai. Sở dĩ ông được lợi ích lớn là nhờ công đức của Phật hay thần lực của Phật và Bồ-tát mà được gia nhập hàng đại long tượng, nghĩa là trong hàng Bồ-tát.

Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử bảo Thuần-đà rằng: “Ông chẳng nên nói rằng muốn đức Như Lai thường ở nơi đời mà chẳng vào Niết-bàn. Ông phải quán sát tánh tướng của hành pháp, quán sát như thế đặng Không tam-muội. Muốn cầu chánh pháp nên học pháp quán sát như vậy.” 

Thuần-đà nói: “Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai là bậc cao cả nhất trong người trên trời. Đức Như Lai như thế há lại là hành pháp sao? Nếu là hành pháp thời là pháp sanh diệt. Ví như bóng nước chóng nổi chóng tan, qua lại xoay vần như bánh xe lăn, các hành pháp cũng thế. Tôi nghe chư thiên sống rất lâu, tại sao đức Thế Tôn là bậc trời trong các trời mà lại sống chẳng đầy trăm tuổi. 

Các hành pháp là pháp sanh tử, nếu đức Như Lai nhập diệt thời đồng với hành pháp, đâu được gọi là bậc trời trong các trời, là Pháp vương tự tại. Vì thế chẳng nên xem đức Như Lai đồng với hành pháp. 

Đức Như Lai hàng phục phiền não ma, ngũ ấm ma, thiên ma, tử ma, do nhân duyên ấy mà thành tựu đầy đủ vô lượng công đức chân thật, nên hiệu là Như Lai Ứng cúng Chánh biến tri, hiệu là Tam giới tôn.

Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Chẳng nên ức tưởng phân biệt mà đem pháp Như Lai cho đồng với các hành pháp. Ví như phú ông sanh con trai, nhà tướng số xem trẻ ấy có tướng đoản mạng. Phú ông biết rằng trẻ ấy không thể nối lấy gia nghiệp, nên chẳng ái trọng. Vả kẻ đoản thọ thời chẳng được mọi người kính trọng. Nếu đức Như Lai đồng với các hành pháp, ắt chẳng được Sa-môn, Bà-la-môn, tất cả trời người kính thờ, mà pháp chân thật bất biến bất dị của Như Lai dạy ra cũng không ai tín thọ. Vì lẽ ấy, Ngài chẳng nên nói rằng Như Lai đồng với các hành pháp. 

Ngài Văn-thù-sư-lợi khuyên Thuần-đà không nên cầu thỉnh Như Lai ở lại đời đừng vào Niết-bàn, mà phải quán sát tánh tướng của các hành pháp, rồi được Không tam-muội... Thuần-đà bác lại, ông cho rằng hành pháp là chỉ cho các pháp hữu vi có sanh có diệt, nếu thấy Như Lai là một hành pháp có sanh có diệt thì trái đạo lý. Vì sao? Nếu đức Như Lai có sanh có diệt thì không ai tin chứng. Ở thế gian người nào sống lâu thì được kính nể, nếu Như Lai là sanh diệt, là vô thường tạm bợ thì pháp của ngài không được kính nể, phải thấy Như Lai là bất sanh bất diệt nên mới được mọi người kính trọng. Như con ông trưởng giả sanh ra, người ta coi tướng là đoản mạng tất nhiên ông trưởng giả không nuôi. Người nào nhận lầm đức Như Lai chỉ có tám mươi tuổi chết thì chính người đó không tin vào lý của đức Phật.

Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Như bần nữ đang có mang mà lại đói khát không nhà cửa, đẻ nhờ dưới mái nhà kia, chủ nhà xua đuổi, bần nữ bồng con muốn đến xứ khác để mưu sinh. Dọc đường phải lội qua con sông, ra giữa dòng bị nước chảy, xoáy mạnh, không nỡ buông con nên mẹ con đồng bị chết đuối. Vì tấm lòng từ ái ấy, bần nữ được sanh lên cõi Phạm thiên.

Nếu có thiện nam tử muốn hộ trì chánh pháp, chớ nói Như Lai đồng với các hành pháp hay chẳng đồng với các hành pháp. Chỉ nên tự trách mình ngu si không có huệ nhãn, chánh pháp của Như Lai không thể nghĩ bàn, không nên tuyên nói Như Lai quyết định là hữu vi hay vô vi. Nếu là người chánh kiến nên nói Như Lai quyết định là vô vi. Vì sao thế? Vì nói Như Lai là vô vi thời có thể sanh pháp lành cho chúng sanh.

Thiện nam tử hộ trì chánh pháp thà chết chứ chẳng nói Như Lai đồng với pháp hữu vi, mà chỉ nên nói Như Lai đồng với pháp vô vi. Nhân vì hộ trì chánh pháp nói Như Lai đồng với pháp vô vi mà đặng quả Vô thượng Chánh giác. Như bần nữ thà chết đuối giữa dòng chứ không chịu buông con, nhân đó mà được sanh lên cõi Phạm thiên. Thiện nam tử này chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự đến, khác nào bần nữ kia chẳng cầu sanh Phạm thiên mà quả Phạm thiên tự đến.

Thuần-đà muốn nêu lên Như Lai là thường trụ, bất sanh bất diệt, Như Lai là vô vi, chứ không phải là hành pháp. Người thấy Như Lai là vô vi bất sanh bất diệt thì xứng đáng là đệ tử của Phật và sẽ được bao nhiêu công đức lành. Như bần nữ mang con qua sông rồi vì thương con không nỡ bỏ mà chết đuối, về sau được phước sanh lên cõi trời Phạm thiên. Tại sao? Vì lòng từ thương con không nỡ bỏ. Cũng vậy, người nào hộ trì chánh pháp thấy Như Lai là vô vi bất sanh bất diệt thì người đó cũng có phước đức vô lượng, còn nói Như Lai vô thường... là tổn đức.

Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Như người đi xa giữa đường mỏi mệt, nghỉ nhờ nhà người. Giữa lúc ngủ; nhà ấy bỗng bốc lửa to. Người ấy choàng dậy biết chắc phải chết, lòng hổ thẹn sợ thân thể lõa lồ bèn lấy y áo vấn thân mà chết, liền được sanh lên cõi trời Đao-lợi. Sau đó tám mươi đời làm Đại Phạm vương, trăm ngàn đời làm Chuyển luân vương, người ấy mãi hưởng phước lành như vậy, hẳn không bị đọa vào ác đạo. Vì duyên cớ ấy, nếu là người có tâm tàm quý chẳng nên xem Như Lai đồng với các hành pháp.

Bọn ngoại đạo tà kiến mới được nói Như Lai đồng với pháp hữu vi. Là Tỳ-kheo trì giới đâu nên có quan niệm rằng Như Lai là pháp hữu vi. Nếu nói Như Lai là pháp hữu vi, đó chính là vọng ngữ. Phải biết người này sẽ đọa địa ngục.

Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Như Lai chân thật, chính là pháp vô vi, chẳng nên lại nói là hữu vi. Từ nay ở trong đường sanh tử, Ngài nên bỏ vô trí mà cầu nơi chánh trí. Phải biết Như Lai chính là vô vi. Được chánh quán như thế, sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng, chóng thành tựu quả vô thượng Bồ-đề.”

Ví dụ thứ hai, như người đi đường xa mỏi mệt, nghỉ nhà người khác, nhà cháy, thấy thân mình lõa lồ bèn lấy y quấn vào rồi chết. Biết hổ thẹn lấy y quấn vào rồi chết, được phước sanh lên cõi trời. Cũng vậy, người nào thấy Như Lai là vô vi bất sanh bất diệt thì có phước, nếu thấy Như Lai là hành pháp sanh diệt thì đồng với ngoại đạo tà kiến.

Giáo lý của Phật dạy người giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, nếu thấy Phật còn sanh tử thì giáo lý của ngài làm sao tin được! Chúng ta phải thấy được pháp thân bất sanh bất diệt của Phật.

Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát khen Thuần-đà rằng: “Lành thay! Lành thay! Nay ông đã tạo nhân duyên trường thọ, ông biết được Như Lai là pháp thường trụ, là pháp chẳng biến dị, là pháp vô vi. Nay ông khéo che đậy tướng hữu vi của Như Lai, sau này ông sẽ đặng đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình, mười tám pháp bất cộng, thọ mạng vô lượng, luôn được an vui, không còn sanh tử, sẽ thành bậc Ứng cúng Chánh biến tri. Như người lữ khách bị lửa thiêu mà có lòng hổ thẹn lấy y áo vấn thân, nhờ tâm lành ấy nên được sanh lên cõi Đao-lợi, lại nhiều đời làm Phạm vương, Chuyển luân vương luôn được an vui chẳng sa ác đạo.

Tôi cùng ông cũng đều nên che đậy tướng hữu vi của Như Lai, lát nữa đức Thế Tôn sẽ giảng rộng về ý nghĩa ấy. Nên để hữu vi vô vi lại đó. Ông nên kíp lo cúng dường cơm nước cho kịp giờ và cũng nên sắm sửa đồ cần thiết cho hàng tứ chúng từ xa hội về đang mỏi mệt. Cúng dường như thế chính là đầy đủ chủng tử căn bản của Đàn ba-la-mật.

Thuần-đà! Nếu cúng dường đức Phật và chư tăng lần cuối cùng, hoặc nhiều hay ít, đủ hay thiếu, đều phải sớm lo cho kịp giờ. Đức Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.”

Thuần-đà nói: “Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Sao Ngài lại tham chút uống ăn mà nói hoặc ít hoặc nhiều, đủ hay chẳng đủ, rồi bảo tôi lo cho kịp giờ? Xưa kia đức Như Lai khổ hạnh trọn sáu năm còn chịu nổi, huống là giây lát hôm nay. Ngài thật cho rằng đức Như Lai Chánh giác thọ đồ uống ăn này ư? Tôi thời biết quyết định thân Như Lai chính là pháp thân, không phải thực thân.”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khen Thuần-đà khéo che tướng hữu vi của Như Lai mà nêu bày tướng vô vi của Như Lai, tức là che tướng vô thường của thân tứ đại để chỉ thẳng tướng bất sanh bất diệt của pháp thân, như vậy ông đã được phước trường thọ. Nhưng ngài khuyên gác lại chuyện hữu vi vô vi mà nên dâng cúng cho kịp thời vì chúng tăng đang mỏi mệt. Thuần-đà trách, sao ngài sao lại nghĩ đến chuyện ăn uống. Ngày xưa đức Phật tu khổ hạnh bao nhiêu năm mà còn không nghĩ đến chuyện ăn uống, huống gì nay nán lại một lúc có gì mà phải nghĩ đến như vậy. Ngài đừng nói Thế Tôn là thân ăn uống, bởi thân Như Lai là pháp thân.

Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Thật đúng như lời của Thuần-đà. Lành thay Thuần-đà! Ông đã thành tựu đại trí huệ, khéo thâm nhập kinh điển Đại thừa.”

Văn-thù-sư-lợi nói với Thuần-đà: “Ông cho rằng Như Lai là vô vi, thân Như Lai là trường thọ, hiểu biết như vậy đức Phật rất hài lòng.”

Thuần-đà nói: “Đức Như Lai chẳng riêng gì hài lòng nơi tôi, mà cũng hài lòng với tất cả chúng sanh.”

Văn-thù-sư-lợi nói: “Đức Như Lai đối với ông, với tôi, với tất cả chúng sanh, đều hài lòng.”

Thuần-đà nói: “Ngài chẳng nên nói đức Như Lai hài lòng. Luận về hài lòng, chính là đảo tưởng. Phàm có đảo tưởng thời là sanh tử, có sanh tử thời là pháp hữu vi. Vì lẽ ấy Ngài chẳng nên cho Như Lai là hữu vi. Nếu nói Như Lai là hữu vi thời Ngài cùng tôi đều điên đảo cả.

Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai không có ái niệm. Luận về ái niệm, như trâu mẹ kia ái niệm con của nó, dầu là đói khát đi tìm cỏ nước, hoặc no hay chưa no, bỗng nhiên nhớ con liền trở về. Chư Phật Thế Tôn không có ái niệm như vậy, bình đẳng xem tất cả chúng sanh như La-hầu-la. Từ niệm bình đẳng như vậy chính là cảnh giới trí huệ của chư Phật.

Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ví như quốc vương ngự trên xe tứ mã, có người muốn cho xe theo kịp xe vua, tất không thể được. Ngài cùng tôi muốn cùng tận chỗ vi mật thâm áo của Như Lai cũng không thể được.

như kim sí điểu bay vọt trên cao vô lượng do-tuần, nhìn xuống biển cả thấy rõ những loài thủy tộc cùng loài rồng và bóng của nó. Kẻ phàm tục trí kém, không thể suy lường chỗ thấy của kim sí điểu được. Cũng thế, Ngài cùng tôi không thể suy lường được trí huệ của Như Lai.”

Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát bảo Thuần-đà rằng: “Đúng như lời ông vừa nói. Đối với những việc ấy không phải là tôi không hiểu. Chẳng qua vì muốn đem việc của Bồ-tát thử ông đó thôi.”

Bấy giờ đức Thế Tôn từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng chiếu thân ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù liền bảo Thuần-đà rằng: “Nay đây đức Như Lai hiện thoại tướng từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng như thế chẳng phải là không duyên cớ, đó là điềm đức Phật sắp nhập Niết-bàn. Ông phải sớm lo dâng lễ cúng dường lên đức Phật và chư tăng cho kịp giờ.”

Đức Phật khen Thuần-đà: Ông đã thành tựu đại trí huệ, khéo thâm nhập kinh điển Đại thừa. Nếu người không nhận ra Phật tánh, không thấy được pháp thân thì không bao giờ tin được kinh điển Đại thừa. Người tin được kinh điển Đại thừa là người thành tựu được trí tuệ, nhận ra Phật tánh, biết được pháp thân. Nếu khen ngợi thì không biết dùng lời nào khen cho đủ.

Các vị thiền sư sau khi thâm nhập Phật tánh, biết được pháp thân rồi, dù không nói một câu kinh mà lời vẫn phù hợp với kinh điển Đại thừa. Chúng ta nhiều khi giảng kinh mà không nhận được Phật tánh, không thấy được pháp thân thì cũng không hiểu được kinh điển Đại thừa. Đó là chỗ trọng yếu.

Ngài Văn-thù khen Thuần-đà: Ông cho rằng Như Lai là vô vi, thân Như Lai là trường thọ, hiểu biết như vậy đức Phật rất hài lòng. Thuần-đà lại không chấp nhận. Nói Phật hài lòng tức là còn ái, còn ái là còn sanh tử luân hồi, như trâu mẹ thương trâu con, đi đâu cũng phải nhớ trở về, Phật không có ái nên không có sanh tử. Phật đối với mọi người bình đẳng, xem như La-hầu-la. Do trí tuệ mới có lòng từ bi bình đẳng, thấy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả như nhau nên đều đồng đẳng thương nếu họ chưa ngộ, không kể thân sơ. Vì vậy khi nói từ bi bình đẳng thì phải có trí tuệ nhận mọi người đều có Phật tánh.

Ông lại nói rằng trí tuệ của ngài Văn-thù và ông không thể nào cùng tận được chỗ vi mật thâm áo của Như Lai, chỉ những ai thể nhập đến đó mới thấy rõ, như chim đại bàng bay tít trên cao, những loài rồng... ở dưới biển cả không thể suy lường được khả năng của nó. Đây chỉ rõ nghĩa đẳng giác và bất đẳng giác. Phật thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, còn các vị Bồ-tát cũng giác mà chưa được Chánh đẳng Chánh giác. Chữ đẳng là liên tục, không có khe hở. Giác ngộ của Phật là bất cứ lúc nào, nơi nào ngài cũng giác. Còn Bồ-tát thì có vị thường giác, có vị mới giác từng phần.

Đến đây ngài Văn-thù nhắc lại là Thuần-đà nói đúng, không phải ngài không hiểu mà chỉ là thử xem ông có phải là Bồ-tát hay chưa. Giờ đây đức Phật phóng hào quang đó là điềm Phật sắp vào Niết-bàn, vậy ông nên cúng dường cho kịp giờ.

Đức Phật bảo Thuần-đà: “Đã phải giờ cho ông dâng thực phẩm cúng dường Phật và đại chúng. Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.”

Đức Phật bảo luôn ba lần như vậy.

Thuần-đà nghe đức Phật dạy như vậy, bất giác nghẹn ngào khóc than nức nở: “Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sẽ trống rỗng.” Rồi ông lại thưa cùng đại hội: “Hôm nay chúng ta phải đồng tha thiết đảnh lễ cầu đức Phật đừng nhập Niết-bàn.”

Đức Thế Tôn lại bảo Thuần-đà: “Ông chớ nên khóc than tiều tụy như vậy. Ông phải quán sát thân này như cây chuối, như ánh nắng, như bọt nước, như huyễn hóa, như thành càn-thát-bà, như đồ gốm chưa hầm, như làn chớp, như hình vẽ trên nước, như tù sắp hành hình, như trái muồi, như cục thịt, như bức dệt đã hết khổ, như chày giã lên xuống. Phải quán sát các hành pháp như món ăn lẫn chất độc, pháp hữu vi nhiều tai hại.”

Phật bảo ta sắp nhập Niết-bàn, ông hãy mau đem phẩm vật cúng dường. Ở đây Phật cũng ẩn tướng bất sanh bất diệt mà nói ra tướng sanh diệt, là tướng nhập Niết-bàn. Khi ấy Thuần-đà nghẹn ngào khóc than nức nở. Phật an ủi, ông nên quán sát thân này như cây chuối, lột từng bẹ chuối ra cuối cùng chẳng có gì, như ánh nắng ở ngoài trời không thật, như bọt nước, như huyễn hóa, như thành càn-thát-bà, như đồ gốm chưa hầm đụng đến là bể, như làn chớp, như hình vẽ trên nước, như người tù sắp bị hành hình, như cục thịt để lâu một chút là thối, như bức dệt đã hết khổ còn vài sợi chỉ nữa là dừng, như chày giã cất lên rồi hạ xuống không ở một chỗ... Ông hãy luôn luôn quán sát các hành pháp như vậy, không bị nó làm hại.

Thuần-đà bạch Phật: “Đức Thế Tôn chẳng muốn ở lại đời, làm sao con chẳng buồn khóc cho được. Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sẽ trống rỗng. Ngửa mong đức Thế Tôn thương xót chúng con và chúng sanh mà ở luôn nơi đời, chẳng nhập Niết-bàn.”

Phật bảo Thuần-đà: “Ông chẳng nên nói rằng thương xót các ông mà ở luôn nơi đời. Chính vì thương xót ông và các chúng sanh mà hôm nay Phật mới muốn nhập Niết-bàn. Vì sao thế? Chư Phật pháp nhĩ như vậy. Pháp hữu vi cũng thế. Nên chư Phật nói kệ rằng:

Các pháp hữu vi

Tánh nó vô thường

Sanh rồi chẳng trụ

Tịch diệt là vui.

Thuần-đà! Ông nên quán sát các hành pháp là tạp độc, các pháp hữu vi là vô ngã vô thường chẳng trụ. Tấm thân này có rất nhiều tai hại như bóng nước. Vì lẽ ấy, ông chớ nên khóc lóc.”

Thuần-đà một bề xin Phật thương xót mà ở lại đời không vào Niết-bàn. Phật dạy chính vì thương xót các ông mà Phật muốn vào Niết-bàn. Tại sao? Tâm lý chúng sanh dễ chán, dễ khinh thường. Đây là hai căn bệnh lớn nhất. Dù cảnh đẹp như thần tiên nhưng ở vài ba năm cũng chán, dù một vị thánh sống mà ngồi bên cạnh mãi cũng khinh thường. Gần nhau thì lờn, ở lâu thì chán. Phật muốn trị căn bệnh đó, nên khi việc xong là ngài vào Niết-bàn, để chúng sanh không sanh chán, không khinh thường. Ngài vào Niết-bàn là vì thương xót chúng sanh, không phải bỏ ra đi để chúng sanh khổ.

Chư Phật pháp nhĩ như vậy, nghĩa là các pháp thường là như vậy.

Pháp hữu vi cũng thế.

Nên chư Phật nói kệ:

Các pháp hữu vi

Tánh thường

Sanh rồi chẳng trụ

Tịch diệt là vui.

Pháp hữu vi nào cũng vô thường, có sanh thì có diệt. Tịch diệt là vui, khi dứt được mầm sanh diệt lúc đó mới là vui, là tuyệt. Phật dạy Thuần-đà nên quán sát các hành là tạp độc, các pháp hữu vi là vô ngã vô thường chẳng trụ, thân này có rất nhiều tai hại như bóng nước. Phật bỏ thân tai họa để nhập Niết-bàn là sự an vui sung sướng, đâu có gì phải than khóc.

Thuần-đà bạch Phật: “Thật đúng như lời Thế Tôn dạy. Mặc dầu con vốn biết đức Như Lai phương tiện thị hiện nhập Niết-bàn, nhưng con không làm sao ngăn sự buồn thảm được. Giờ đây tự suy xét, con lại sanh lòng vui mừng.”

Phật khen Thuần-đà: “Lành thay! Lành thay! Ông có thể rõ biết Như Lai thị hiện đồng với chúng sanh mà phương tiện nhập Niết-bàn.

Thuần-đà bạch Phật, đúng như lời Thế Tôn dạy, Như Lai nhập Niết-bàn con hối tiếc vì không cách nào ngăn được, giờ đây suy xét con lại sanh lòng vui mừng. Nghĩa là ông tuy biết Như Lai nhập Niết-bàn là thị hiện nhưng cũng vẫn buồn vẫn khóc. Khóc rồi suy nghĩ lại, Phật thị hiện thôi chứ không phải diệt hẳn.

Phật khen: Lành thay! Ông có thể rõ biết Như Lai thị hiện đồng với chúng sanh mà phương tiện nhập Niết-bàn. Phật sanh hay diệt cũng chỉ là phương tiện thị hiện, không thật. Cũng như có vô lượng sóng trên mặt biển dấy lên rồi lặn xuống, biển cả vẫn như như. Bao nhiêu hóa thân hiện ra rồi cũng trở về pháp thân. Hóa thân khi có khi không, khi sanh khi diệt, pháp thân vẫn bất diệt. Nếu đạt được pháp thân thì biết Phật là trường thọ bất sanh bất diệt, không khác không đổi.

Thuần-đà! Ông nên nghe đây: Như mùa xuân chim ta-la-tà đều nhóm nơi ao A-nậu-đạt. Chư Phật cũng thế đều đến chỗ ấy. Ông chẳng nên suy nghĩ chư Phật là trường thọ hay đoản thọ. Tất cả các pháp đều như tướng huyễn thuật. Như Lai ở trong ấy do sức phương tiện không có nhiễm trước. Vì sao thế? Vì chư Phật pháp nhĩ như vậy.


Thuần-đà! Nay Như Lai nhận phần cúng dường của ông, là vì muốn cho ông thoát khỏi các dòng sanh tử trong ba cõi. Hàng nhân thiên ở nơi sự cúng dường cuối cùng đối với Như Lai đây, đều sẽ được quả báo bất động, luôn được an vui. Vì sao thế? Vì Như Lai là phước điền tốt của chúng sanh. Nếu ông muốn vì chúng sanh mà làm phước điền, thời phải kíp sắm sửa cúng phẩm, chẳng nên để trễ.”

Bấy giờ Thuần-đà vì các chúng sanh được độ thoát nên cúi đầu lau lệ mà bạch Phật: “Lành thay đức Thế Tôn! Nếu lúc con kham có thể làm phước điền, thời có thể biết rõ Như Lai là nhập Niết-bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn. Nay trí huệ của chúng con cùng Thanh văn Duyên giác nhỏ kém như kiến muỗi, thật không thể suy lường Như Lai nhập Niết-bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn.”

Bạch xong, Thuần-đà cùng quyến thuộc buồn rầu khóc lóc, thiêu hương rải hoa, hết lòng cung kính, rồi liền cùng ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát đi lo sắm sửa thực phẩm.

Phật nói, ông không nên suy nghĩ đức Phật trường thọ hay đoản thọ. Tất cả các pháp đều như tướng huyễn thuật, không có gì. Như Lai trong ấy do sức phương tiện, không nhiễm trước. Vì sao thế? Vì chư Phật pháp nhĩ như vậy. Thân Phật là hóa thân như huyễn thuật nên không thể nói dài ngắn... Pháp nhĩ như vậy thôi.

Phật lại bảo Thuần-đà cùng đại chúng nên sửa soạn trai phạn cúng dường, đó là việc phước điền lớn lao.

Thuần-đà thưa: Nay trí huệ của chúng con cùng Thanh văn Duyên giác nhỏ kém như kiến muỗi, thật không thể suy lường Như Lai nhập Niết-bàn hay chẳng nhập Niết-bàn. Tuy rằng thấy Phật sắp nhập Niết-bàn nhưng sự thật không thể nào biết được Phật có nhập hay không nhập Niết-bàn. Hóa thân thì có nhập Niết-bàn, pháp thân thì có bao giờ nhập Niết-bàn? Bấy giờ Thuần-đà và đại chúng vẫn còn buồn khổ, sửa soạn cúng dường Phật.

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 48116
  • Online: 47