Kinh Lăng Nghiêm giảng giải - CHƯƠNG V: NGHIỆP QUẢ - CÁC CẢNH GIỚI - CHƯỚNG NẠN

20/12/2021 | Lượt xem: 2003

HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng giải

I. NGHIỆP QUẢ

1. Nhân quả của sáu đường

Đức Phật nói lời đây rồi, khi ấy A-nan và cả đại chúng được nhờ Như Lai mở bày nghĩa mật ấn Bát-đát-la, và được nghe những tên gọi của kinh liễu nghĩa này, liền đốn ngộ thiền-na, tăng thượng diệu lý, tu tiến đến Thánh vị, tâm lự được rỗng rang lắng đọng, đoạn trừ được sáu phẩm phiền não vi tế tu tâm trong tam giới. Liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:

- Đức Thế Tôn có oai đức lớn dùng lời từ bi không ngăn ngại, khéo mở bày cho chúng sanh những mê lầm vi tế sâu kín, khiến ngày nay thân tâm con được vui thích được lợi ích lớn. Bạch Thế Tôn, nếu chân tâm thanh tịnh sâu mầu sáng suốt ngày xưa nay là tròn khắp, như thế cho đến đại địa cỏ cây, các loài sinh vật nhuyễn động, cội gốc là chân như, tức là chân thể thành Phật của Như Lai, Thể tánh của Phật là chân thật, tại sao lại có các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, người, trời?

Theo lời Phật dạy, tất cả chúng sanh đều từ một chân tâm thanh tịnh sâu mầu sáng suốt mà ra. Như vậy tất cả thế giới, cỏ cây, mọi loài sinh vật vốn từ chân như, tức thể tánh chân thật của Phật. Vậy sao lại sanh ra sáu đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v... Đây là câu hỏi rất hệ trọng, những người tu Phật nếu không rành, khi bị người ta hỏi sẽ lúng túng không thể nào đáp được. Hơn nữa, chính mình trên đường tu cũng đâm ra hoang mang. Cho nên những câu hỏi này chúng ta phải chú tâm nhớ kỹ, hiểu rõ, mới thấy giá trị của lời Phật giải thích cho ngài A-nan.

Bạch Thế Tôn, sáu đường này là xưa nay tự có hay do vọng tập của chúng sanh sanh khởi?

Câu hỏi thứ hai cũng rất hệ trọng. Như hiện nay chúng ta thường nghe có nhiều người hỏi: "Cảnh địa ngục, ngạ quỷ là do ai sắp bày sẵn, hễ phạm tội liền xuống đó hay do chúng sanh làm tội mà tự có ra?" Thời nay, có người nặng về lý, giảng là không có địa ngục nào hết, nếu mình làm xấu làm ác thì lương tâm cắn rứt giày vò, tức là địa ngục. Đó là một lối giải bất chấp lời Phật dạy. Phật đã nói có lục đạo luân hồi. Nhưng lục đạo luân hồi từ đâu mà có? Nó đã sẵn từ thuở nào hay do sự huân tập nghiệp của chúng sanh mới có? Đó là vấn đề rất then chốt.

Bạch Thế Tôn, như Tỳ-kheo-ni Bảo Liên Hương giữ giới Bồ-tát mà lén làm việc dâm dục, nói dối rằng hành dâm không phải là giết hại, không phải là trộm cướp, nên không có nghiệp báo. Khi nói lời ấy rồi, trước hết nơi nữ căn phát ra ngọn lửa cháy rực, sau đó từng phần thân thể đều bị lửa lớn thiêu đốt, đọa vào địa ngục Vô gián.

Vua lưu-ly và Tỳ-kheo Thiện Tinh, vua Lưu-ly vì giết dòng họ Cồ-đàm, Tỳ-kheo Thiện Tinh vì nói dối tất cả pháp đều không, ngay thân đang sống mà rơi vào địa ngục A-tỳ. Các địa ngục này là có chỗ nơi nhất định hay lại là tự nhiên, do mỗi người kia phát nghiệp, chỉ mỗi người nhận riêng?

Địa ngục là sẵn có cố định, ai làm tội đều phải vô đó, hay là do những người kia tạo nghiệp rồi tự họ cảm nhận cảnh địa ngục riêng cho mình, chứ không có địa ngục chung?

Câu chuyện vua Lưu-ly giết dòng họ Thích-ca, trong kinh Tăng Nhất A-hàm kể rằng: Vua Ba-tư-nặc cầu hôn con gái họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ, nếu không bằng lòng sẽ dùng áp lực bức bách. Họ Thích thuộc dòng dõi lớn, không muốn kết thân, bèn đem con gái của Ma-ha-nam do một nữ tỳ sanh ra, diện mạo đoan chánh, cho mặc áo đẹp, ngồi xe vũ bão, đưa đến cho vua Ba-tư-nặc nói dối là công chúa con vua Ma-ha-nam. Vua Ba-tư-nặc lập công chúa làm đệ nhất phu nhân, sanh con trai là Tỳ-lưu-ly. Vua rất yêu thương thái tử. Khi Tỳ-lưu-ly lên tám, vua gửi sang bên ngoại, cho học bắn cung cùng năm trăm trẻ dòng họ Thích.

Bấy giờ trong thành Ca-tỳ-la-vệ mới dựng một giảng đường, chuẩn bị rất trang nghiêm. Những người dòng họ Thích định thỉnh Phật cùng chúng tăng đến đó để cúng dường. Thái tử Lưu-ly cùng năm trăm đứa trẻ đến giảng đường, leo ngay lên tòa sư tử. Những người họ Thích trông thấy hết sức giận dữ, bèn lôi Tỳ-lưu-ly kéo ra ngoài cửa, xô xuống đất mắng: "Đây là đứa con của nô tỳ, chư thiên và mọi người chưa có ai dám vào đây, mà đứa con nô tỳ này dám vào đây ngồi!"

Tỳ-lưu-ly bảo một người con của Phạm chí tên là Hiếu Khổ rằng: "Họ Thích hủy nhục ta đến thế này. Về sau nếu ta nối ngôi vua, ông nên nhắc ta chuyện này." Từ đó, mỗi ngày người con Phạm chí tâu nhắc ba lần: "Hãy nhớ mối nhục họ Thích." Đến khi thái tử Lưu-ly lên ngôi, Hiếu Khổ nhắc lại chuyện xưa, vua nổi giận dẫn bốn bộ binh đến nước Ca-tỳ-la-vệ.

Phật muốn can gián vua Lưu-ly, bèn đến một cây khô không cành lá bên đường, ngồi kiết già. Vua Lưu-ly từ xa thấy Phật ngồi, liền xuống xe cúi lạy rồi hỏi:

- Có những cây tốt cành lá sum suê, sao Ngài lại ngồi dưới cây khô này?

- Bóng mát của thân tộc hơn hẳn người ngoài.

Vua Lưu-ly liền nghĩ:

"Hôm nay Thế Tôn cố vì thân tộc. Vậy ta nên trở về, chẳng nên chinh phạt Ca-tỳ-la-vệ."

Về triều nghe lời nhắc lại, vua tức giận lại kéo quân đi đánh. Nửa đường lại thấy Phật ngồi dưới cây khô và nói như lần trước, vua trở về. Lại được nhắc mối nhục xưa, vua kéo quân đi đánh nữa. Lần thứ ba này, tôn giả Đại Mục-kiền-liên muốn cứu dòng họ Thích, nhưng Phật nói: "Hôm nay họ Thích túc duyên đã chín, sẽ thọ báo."

Những người dòng họ Thích đều trì giới, tu hành pháp lành, nên dù có quân binh mạnh vẫn không chống cự. Vua Lưu-ly giết hết dòng họ Thích, quanh thành Ca-tỳ-la-vệ máu chảy thành sông. Bảy ngày sau, vua Lưu-ly và quân lính, khi đến bên bờ sông A-chi-la vui chơi và nghỉ đêm, bị nước lớn cuốn trôi ra biển, chết sanh vào địa ngục A-tỳ.

Tỳ-kheo Thiện Tinh là con trai của thái tử Tất-đạt-đa, ngài thọ trì đọc tụng giải thuyết mười hai bộ kinh, chứng được tứ thiền. Vì gần gũi bạn ác nên mất tứ thiền, sanh kiến chấp tà ác mà nói rằng không Phật, không pháp, không nhân quả, không có tạo nghiệp, không có Niết-bàn. Phật thường thuyết pháp cho Tỳ-kheo Thiện Tinh mà ông không có lòng tin thuận. Khi ông đang ở gần sông Ni-liên-thiền, thấy Phật từ xa đi đến, ông liền sanh tâm tà ác. Do tâm ác này thân đang sống đọa vào địa ngục A-tỳ.

Tại Việt Nam, những năm về trước có xảy ra trường hợp "trời trồng". Có những người làm tội ác, cầm dao hay cầm cây đánh cha mẹ thì tự nhiên đứng sững, rồi từ từ lún xuống, đó là ngay thân đang sống rơi vào địa ngục.

Tóm lại, câu hỏi thứ nhất: Tất cả chúng sanh đều từ nơi chân như, chư Phật cũng trở về chân như, tại sao chân như đó lại sanh ra lục đạo chúng sanh?

Câu hỏi thứ hai: Lục đạo chúng sanh phát sanh ra, đó là tự sẵn có hay do chúng sanh tạo nghiệp rồi mới có?

Câu hỏi thứ ba: Những nghiệp chúng sanh gây tạo, hiện đời thấy đọa địa ngục, địa ngục có sẵn nhất định, ai phạm tội thì rơi xuống, hay do chúng sanh phát nghiệp nên mới có địa ngục đó?

Nếu chúng ta hiểu ba câu hỏi thiết yếu này, ắt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề mà lâu nay có thể chưa nắm vững.

Cúi mong đức Thế Tôn rủ lòng đại từ mở rộng cho kẻ mới vào đạo, khiến cho tất cả chúng sanh trì giới, nghe được nghĩa quyết định, vui vẻ tôn trọng kính cẩn gìn giữ cho trong sạch, không trái phạm.

Phật bảo A-nan:

- Hay thay câu hỏi này, khiến cho các chúng sanh không vào tà kiến. Nay ông lắng nghe kỹ, ta sẽ vì ông nói.

Này A-nan, tất cả chúng sanh thật vốn là chân như thanh tịnh, do vọng kiến kia mà có vọng tập sanh khởi. Nhân đây mà phân chia ra phần trong và phần ngoài.

Này A-nan, phần trong tức là phần trong của chúng sanh. Từ các ái nhiễm mà phát khởi vọng tình. Vọng tình chất chứa không thôi, hay sanh ra nước ái. Thế nên, tâm chúng sanh nghĩ nhớ đến những thức ăn ngon thì trong miệng liền ra nước miếng. Khi tâm nhớ lại những người xưa, người mình thương hoặc người mình giận thì nước mắt tuôn tràn.

Khi đói bụng mà nhớ đến những thức ăn ngon, tự nhiên trong lưỡi ra nước miếng. Khi nhớ lại những người đau khổ nhất thì trào nước mắt. Đó là hiện tượng của ái. Từ ái mà thành ra nước rơi xuống.

Người tham cầu tiền của thì tâm phát ra nước ái, toàn thân họ đượm ướt và sáng. Nếu tâm đắm trước sự hành dâm thì nơi nam căn, nữ căn tự nhiên có dịch chảy ra.

Những người thích của báu thì toàn thân họ đượm ướt, có vẻ hơi sáng. Điều này chúng ta ít thấy vì hiện tại hiếm có người ham tới cỡ đó, trừ những người đi bòn vàng, còn thường thì không thấy.

Tất cả những điều trên là bằng chứng cụ thể, cho thấy bên trong chúng ta tích lũy tình nhiều, dễ phát ra nước ái, là lý do đưa mình chìm xuống cõi dưới. Nước thì nặng nên rơi xuống, không thể chảy ngược lên, nên tình nhiều là trầm luân, không nghi ngờ gì. Ai tình cảm nặng quá thì coi chừng rơi xuống, chứ không đi lên nổi. Đó là kinh nghiệm bên trong con người, đức Phật kể rõ ràng như vậy, để biết nếu chúng ta chất chứa cái gì nhiều thì cái đó sẽ lôi mình đi.

Này A-nan, các thứ ái tuy khác nhau nhưng kết quả chảy nước là đồng, thấm ướt không thể bay lên được, tự nhiên theo đó mà rơi xuống. Đây gọi là phần trong.

Các thứ ái tuy khác nhau, hoặc thích món ăn, hoặc thương hoặc giận, hoặc ưa tiền bạc của báu, sắc đẹp... nhưng ái trước cái nào cũng ra nước, rơi xuống trôi đi, kết cuộc đều dẫn mình đi xuống, là đồng chứ không khác. Nên nói nghiệp ái dẫn đi xuống. Bên trong con người chất chứa những thứ đó thì rơi xuống, không nghi ngờ. Ái thuộc về tình, ái ít thì chìm cạn, ái nhiều thì nhất định chìm sâu.

Này A-nan, ngoại phần là phần bên ngoài của chúng sanh. Nhân các khát ngưỡng mà phát ra những hư tưởng. Tưởng đó tích chứa không thôi, hay sanh ra khí thù thắng.

Tưởng là phần bên ngoài, còn ái hoặc tình là phần bên trong. Khi mơ ước, trông mong khao khát một điều gì, do tích lũy sự tưởng tượng, mơ ước đó lâu ngày nên có sức mạnh, hơi mạnh đó đưa mình đi lên. Ví dụ như người khao khát muốn về Cực lạc, họ tưởng tới Phật, tưởng cõi Cực lạc. Bởi khao khát nên mới có mơ tưởng, tích lũy lâu rồi liền có diệu dụng. Còn người khao khát muốn thành tiên cưỡi hạc dạo chơi cõi trời, tưởng tiên lâu ngày cũng có hơi mạnh phát ra.

Thế nên, trong tâm chúng sanh giữ gìn giới cấm thì toàn thân nhẹ nhàng thanh tịnh. Tâm trì ấn chú thì mắt nhìn xem thấy mạnh mẽ kiên quyết. Tâm muốn cầu sanh cõi trời thì khi mộng thấy mình bay lên. Tâm nhớ cõi Phật thì cảnh Phật thầm hiện. Nếu thờ phụng thiện tri thức thì xem thường thân mạng. Này A-nan, các tưởng tuy khác nhưng nhẹ nhàng bay lên là đồng. Bay lên không chìm xuống, tự nhiên vượt lên. Đây gọi là phần bên ngoài.

Các tưởng tuy có khác: tưởng giữ giới, tưởng cõi Phật, tưởng sanh cõi trời, tưởng trì chú v.v... đều là đi lên.

Đến đây, chúng ta có thể sẽ có một điều nghi: Người muốn sanh lên cõi trời, cứ tưởng mãi thì thấy mình bay lên, muốn sanh về cõi Phật cứ tưởng mãi sẽ mộng thấy Phật hay thấy hoa sen, như vậy là tu có hiệu nghiệm. Còn người tu thiền thường không thấy gì hết, có phải là thua thiệt không? Do vì chúng ta tưởng mãi cái gì thì mộng thấy cái đó. Tu tịnh độ tưởng nhớ tới Phật nên mới thấy cảnh Phật, còn tu Thiền không cho mong tưởng, làm sao thấy!

Tại sao chúng ta không tưởng thấy Phật cho tốt? Bởi đây là đứng về mặt tình và tưởng: tình thì sanh trong các loài chìm sâu ở dưới, tưởng thì sanh lên các cõi ở trên, còn người tu thiền là dẹp cả tình lẫn tưởng. Không tưởng thì làm sao thấy có những cảnh mình mơ tưởng. Vậy người tu thiền sanh ở đâu? Do không muốn sanh nữa nên mới dẹp tình dẹp tưởng, tâm lặng lẽ như như bất động, cho nên gọi là "Bất động địa", không kẹt bên này bên kia.

Lại có người hoang mang, vì khi tu thỉnh thoảng thấy mộng dữ, hoặc những tật cũ đời nào. Bởi vì người tu thiền không tưởng thêm cái mới, chỉ bỏ cái cũ thôi. Nhưng trong khi đang trừ dẹp, tàng thức vẫn còn chứa những chủng tử nhiều đời, tốt xấu đều có. Ban ngày, chúng ta bỏ những chủng tử đang hiện hành trong hiện tại, còn những thứ chất chứa trong quá khứ chúng ta chưa làm chủ được, nên khi nằm mộng nó trồi lên. Những thứ chất chứa không phải hoàn toàn tốt, cho nên khi mộng có thể thấy những cảnh bất thường, dữ xấu làm mình hoảng hốt. Bởi vậy, các bậc thầy xưa dạy, nếu người tu thiền đêm mộng thấy những cảnh dữ, thức dậy phải sám hối, vì biết những chủng tử xấu ở trong còn nhiều.

Nếu thấy cảnh lành, như thấy mình đang thuyết pháp hoặc trong chùa có lễ lạt, thấy huynh đệ cùng tu hành, đó là mộng thấy trở lại chỗ sống hàng ngày, chứ không phải thấy cảnh mình tưởng ra. Đây là dấu hiệu tốt lành, cho biết chủng tử quá khứ đã nhẹ rồi, chỉ có cảnh hiện tại.

Hiểu thật kỹ, mới biết mỗi lối tu có ảnh hưởng rất nhiều tới tâm tưởng. Nếu không hiểu, khi thất lạ sanh ra hoảng hốt, không biết tại sao hồi trước niệm Phật, cầu sanh tịnh độ thì thấy mộng lành, nay tu thiền thấy mộng dữ. Ở đây Phật dạy rõ tình là thế nào, tưởng là thế nào. Khi tình nhiều, mộng thấy cảnh của tình, còn tưởng nhiều thì mộng thấy cảnh của tưởng.

Đó là nêu lên cho biết nơi con người chúng ta, vọng nghiệp chia ra làm hai phần: phần tích chứa ở trong là tình và phần ở ngoài là tưởng.

Này A-nan, tất cả thế gian sanh tử tiếp nối: sanh thì thuận theo tập nghiệp, còn tử thì theo biến chuyển.

Xưa huân tập những gì thì nay theo đó mà đi, gọi là thuận tập. Vậy nên nói sanh là thuận mà tử là nghịch, vì phá hoại cái hiện hữu này nên gọi là nghịch, còn theo chiều nghiệp cũ dẫn đi gọi là thuận.

Khi sắp mạng chung chưa hết hơi ấm, những việc thiện ác trong một đời đồng thời hiện ra.

Điều này giúp chúng ta hiểu rõ tinh thần của con người sắp mạng chung. Khi sắp chết, chưa hết hơi ấm, những nghiệp thiện ác đã làm trong đời mình liền hiện ra. Cho nên, nếu là thiện, như người niệm Phật thành công thì thấy chư Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí. Còn những người làm ác, khi ấy thấy cảnh dữ, liền đọa xuống địa ngục. Chỉ có những người nửa tình nửa tưởng được sanh làm người, lúc đó mới có việc chờ cha mẹ trong vòng bốn mươi chín ngày, mới có chuyện cầu nguyện cho họ. Ở đây Phật nói rất kỹ cho chúng ta biết rành rẽ.

Như vậy, nặng về tình thì đi xuống, nhiều tưởng thì đi lên, nhưng cũng không ngoài luân hồi. Nếu muốn hết luân hồi thì phải hết tình hết tưởng.

Chết là nghịch, sanh là thuận, hai tập nghiệp giao nhau.

Hai tập nghiệp sanh thuận và tử nghịch giao tiếp nhau. Chết là nghịch vì thân này bị hoại, sanh là thuận là đi theo nghiệp cũ dẫn tạo nghiệp cũ dẫn tạo nghiệp mới, nên hai nghiệp mới cũ giao kết nhau.

Nếu thuần tưởng tức bay lên, ắt sanh trên cõi trời. Nếu bay lên mà trong tâm gồm đủ phước tuệ và nguyện thanh tịnh, thì tự nhiên tâm mở sáng, thấy được các cõi tịnh độ của chư Phật mười phương, tùy nguyện mà vãng sanh.

Nếu người thuần tưởng cõi tịnh độ, hay cõi đức Phật A-súc... không còn chút tình nào chen vào, có nguyện sanh về cõi đó, đồng thời làm phước tu tuệ đầy đủ thì khi lâm chung trí tuệ họ mở sáng, liền thấy cõi thanh tịnh của chư Phật mười phương, rồi tùy theo nguyện của mình mà sanh về cõi Phật, gọi là vãng sanh. Đó là tưởng cộng với phước, tuệ và nguyện, đủ bốn điều này thì sanh về cõi Phật.

Đây là lý do tại sao khi trong gia đình có người chết, đừng nên khóc mà phải tụng kinh. Khóc là tăng trưởng cái tình, tức là làm người chết chìm xuống các cõi dữ. Muốn nuôi dưỡng cái tưởng cho thuần khiết nên khuyên người sắp mất phải nhớ Phật, phải nghe kinh, để cho tâm tưởng nhẹ nhàng, dễ bay lên các cõi trên. Đó là điều thiết yếu.

Tình ít tưởng nhiều thì cũng nhẹ nhàng bay lên, nhưng không được xa, liền làm phi tiên, đại lực quỷ vương, phi hành dược-xoa, địa hành la-sát, dạo đi trong cõi trời Tứ thiên vương không bị chướng ngại.

Chừng chín phần tưởng một phần tình, hoặc tám phần tưởng hai phần tình thì cũng bay lên nhưng không xa, được tự tại ở trong khoảng trời Tứ thiên vương trở xuống. Chúng ta tự kiểm lại thì biết mình đang tới chỗ nào.

Trong đó nếu có những người tâm lành nguyện lành, hộ trì pháp Phật, ủng hộ giới cấm theo người giữ giới, hoặc ủng hộ thần chú theo những người trì chú, hoặc ủng hộ thiền định thì giữ yên pháp nhẫn, chính những người ấy được ở dưới tòa Như Lai.

Những người có tâm lành nguyện lành đó sẽ làm những vị thần để bảo vệ người giữ giới, người trì chú, người tu thiền định. Do đó họ luôn luôn ở dưới tòa Như Lai, tức là ở trong chùa, gọi là Hộ pháp, chứ không đi làm thần thánh các nơi khác.

Tình tưởng bằng nhau, không bay lên cũng không rơi xuống thì sanh ở nhân gian. Người tưởng sáng thì thông minh, người tình tối thì ngu độn.

Người sanh ở nhân gian, ai trước có tưởng nhiều hơn tình thì người đó thông minh, còn nếu tình nhiều thì ngu độn. Thử kiểm lại thì biết mình đời trước thuộc loại nào.

Nếu tình nhiều tưởng ít thì phải trôi giạt trong loài hoành sanh. Nếu nặng thì làm loài có lông, nếu nhẹ làm loài có cánh.

Nếu khoảng sáu phần tình bốn phần tưởng thì vào loài hoành sanh hay bàng sanh, tức là loài đi ngang, như trâu bò heo chó... Nặng thì làm loài thú có lông, nhẹ thì làm loài có cánh như chim chóc bay đi. Bây giờ nhìn lại mình tự biết mình thuộc loại nào, tương lai như thế nào, biết rõ chứ không nghi ngờ. Nếu tự đánh giá thấy tưởng nhiều thì tốt, còn nếu tình nhiều phải dẹp bớt lần lần.

Bảy phần tình ba phần tưởng thì chìm xuống thủy luân, sanh bên mé hỏa luân, nhận chịu hơi nóng bốc lên rất mạnh, thân làm ngạ quỷ, thường bị lửa đốt, vì nước có thể hại mình, không ăn không uống, trải qua trăm ngàn kiếp.

Trong nhà Phật nói ở ngoài trái đất là phong luân, kế đến thủy luân, hỏa luân, kim luân v.v... Người sanh ở giữa ranh giới thủy luân và hỏa luân này, do nhận chịu hơi lửa xông lên mà thân họ luôn luôn có lửa, trong miệng thường ra lửa, nên nói làm ngạ quỷ khổ vô cùng. Những người tự tử chết oan hay đọa làm ngạ quỷ, vì thắt cổ, uống thuốc độc... là nặng về tình mà chết, nên rơi vào loài này.

Chúng ta sống bảy tám mươi năm thấy cũng dài, ngạ quỷ sống cả trăm ngàn kiếp, tuổi thọ cũng không biết bao nhiêu. Nên làm loài đó rồi khó mà chuyển nổi, khổ quá không biết chừng nào mới tu được! Chúng ta thường nghĩ ngạ quỷ luôn đói khát là do không ai cúng cho họ ăn uống. Nước đầy cả sông cả biển, uống lúc nào cũng được, nhưng họ vẫn luôn luôn khát. Tại sao vậy? Vì nước có thể làm hại họ, thân họ như lửa, vào nước là tắt là chìm, nên họ không dám tới gần nước. Do đó khi cúng cho họ, phải tụng chú biến thực biến thủy, họ mới ăn uống được.

Vậy mới thấy, được làm thân người là rất quý. Mất rồi, nếu rơi vào những chỗ này không biết chừng nào mới trở lại làm người, thoát khỏi khổ đau!

Chín phần tình một phần tưởng thì chìm xuống thấu hỏa luân. Thân vào chỗ ranh giới giao nhau giữa phong luân và hỏa luân. Nếu nhẹ thì sanh nơi địa ngục hữu gián, còn nặng thì sanh địa ngục vô gián.

Địa ngục hữu gián là chỗ tra khảo còn có lúc nghỉ, còn tại địa ngục vô gián thì tra khảo suốt ngày suốt đêm không khi nào ngừng nghỉ.

Thuần tình thì chìm vào địa ngục A-tỳ.

Trọn mười phần tình, không có tưởng thì vào địa ngục A-tỳ, không biết chừng nào ra. Thế giới hoại, địa ngục A-tỳ vẫn chưa hoại.

Nếu trong tâm chìm vào đó mà còn chê bai Đại thừa, phá giới cấm của Phật, cuồng vọng nói pháp để tham cầu của tín thí, lạm nhận sự cung kính của người khác, phạm tội ngũ nghịch hoặc thập trọng thì lại sanh vào địa ngục A-tỳ ở mười phương.

Trọn mười phần tình lại thêm những tội ngũ nghịch thập trọng thì sanh địa ngục A-tỳ, khi thế giới này hoại, địa ngục A-tỳ ở đây mất lại sanh vào địa ngục A-tỳ ở thế giới mười phương khác. Ở đâu có thế giới, có địa ngục A-tỳ thì đều sanh vào đó, không biết đến chừng nào ra.

Theo nghiệp ác đã tạo, tuy là tự chiêu cảm quả báo, nhưng trong chúng đồng phần thì đã có chỗ sẵn.

Nếu hỏi rằng địa ngục là chỗ có sẵn hay do người tạo rồi mới có với người đó, đức Phật dạy: Tuy tùy nghiệp chúng sanh chiêu cảm mà có, nhưng vì nhiều người tạo nghiệp ác chiêu cảm như vậy, thành ra có chỗ sẵn.

Ví dụ như ở thế gian nếu người dân hiền lành không phạm luật pháp, không có ai tạo tội thì nhà nước đâu cất khám đường làm gì! Giả sử có một người hoặc hai người phạm, có lẽ cũng khỏi cất khám đường. Nhưng nếu cả trăm, ngàn người phạm tội, gọi là chúng đồng phần, nhiều người cùng chiêu cảm, phải có chỗ nhất định để giáo dục họ, hoặc phải có khám đường để chứa họ.

Như vậy có thể khẳng định là địa ngục có sẵn hay không có sẵn? Câu trả lời là: Không phải có ai tạo địa  ngục sẵn cho con người, chỉ do vọng nghiệp chúng sanh tạo tác, tự gây nhân rồi chuốc lấy quả, nên thấy có cảnh khổ phải chịu. Nhưng vì nhiều người tạo tác như vậy, cùng chuốc quả báo giống nhau, nên phải có cảnh nhất định cùng chung chịu khổ. Địa ngục rõ ràng như ở thế gian vậy.

Chúng ta học kỹ mới biết rõ tại sao mình được thăng, tại sao phải trầm. Vậy chúng ta phải như thế nào? Thăng trầm lên xuống là hai bên, chúng ta không nên kẹt một bên nào. Nếu chưa giải thoát được, thì thà là thăng chứ đừng trầm, khổ lắm!

Hãy thử xét nơi mình, nếu có nhân trầm nhiều thì phải ráng cạo gọt cho nhẹ bớt, đừng để tới sáu bảy phần tình là nguy. Năm phần tình là tối đa, để còn có thể trở lại làm người, tiếp tục tu nữa chứ quá phần đó thì nguy. Nhẹ thì làm các loài chim chóc cũng không tu được, cứ lẩn quẩn lo kiếm trái ăn. Nếu làm trâu bò, bị bắt kéo cày cực nhọc chịu sao nổi!

Tu là để chuyển hướng đi lên. Nếu người chưa thể đạt được giải thoát, nhờ chuyển hướng lên mà càng ngày càng nhẹ hơn. Còn người không biết tu cứ chìm ở trong tình thương ghét, do tình đó mà bị chìm sâu. Học kinh rồi mới thấy thương chúng sanh, thế gian này có mấy người biết tưởng, chỉ sống với tình thôi. Cứ giận người này, ghét người kia, thương người nọ, ngày ngày ngồi lại bàn nói chỉ có bấy nhiêu. Buồn, thương, giận, ghét... toàn là tình! Đeo mang tình đầy dẫy thì làm sao đi lên được!

Phật nói mất thân này rồi, tìm lại được rất khó. Chúng ta thử kiểm lại những người thân quanh mình, xem tình nhiều hay tưởng nhiều? Ít có người tưởng nhiều, trừ một vài người biết tu biết nhớ Phật, còn đa số là sống theo tình, ắt phải chìm sâu khó mà lên được. Bởi vậy, người biết tu rồi thấy thương chúng sanh mê muội không biết chỗ nào để thoát ra.

Con người sống một đời này mấy chục năm có nghĩa gì, mà trong đó lại tạo cái nhân chìm đắm khổ đau, đến mấy kiếp hoặc là mấy ngàn năm. Quả là đem một chút vui đổi lấy khổ muôn đời, giống như đứa con nít ham ăn, thấy có chút đường dính ở lưỡi dao bén, vội le lưỡi liếm. Liếm chút xíu đường, không ngọt được bao lâu mà họa đứt lưỡi đau không biết mấy ngày mấy tháng. Con người mê muội đến như vậy!

Người tu là người biết chọn hướng đi để thoát khổ, còn người không biết tu cứ vùi đầu trong khổ đau mà không tự biết. Đời này khổ một ít, rồi đời sau khổ nữa, không biết đâu là ngằn mé. Người đời trong lòng chứa toàn là tình. Nếu làm cha mẹ thì giận đứa con này thương đứa con kia, thằng đó nghèo quá, đứa kia ngỗ nghịch quá... Cứ kể lể bao nhiêu chuyện ấy, ít có ai nói chuyện niệm Phật, mộng thấy Phật Di-đà, hoặc mong sẽ sanh về cõi trời Đâu-suất, thấy Phật Di-lặc… 

Do vậy, người thế gian chết rồi mà được trở lại làm thân người là vô cùng khó, trong trăm ngàn người chưa biết có được một người trở lại không, nói gì là lên các cõi trên! Bởi vì họ sống theo một lối một hướng như nhau là cứ đuổi theo tình, suốt ngày có bao nhiêu đó. Chúng ta biết tu, hiểu đạo rồi mới thấy chỗ quý báu của sự tu, nhìn lại thấy chúng sanh mê muội đáng thương. Phật thương chúng sanh nên chỉ cho họ hướng đi. Do đó, thuyết pháp là việc thiết yếu, để nhắc cho mọi người nhớ đường đi lên.

2. Mười tập nhân và sái giao báo

A-nan, những điều này đều do nghiệp của các chúng sanh kia tự chiêu cảm, tạo mười tập nhân thì lãnh thọ sáu giao báo.

Mười tập nhân là do mình huân tập hay gây tạo, nên phải chịu hậu quả phát sáng, chứ không phải có ai ác ý muốn làm khổ mình.

a. Thế nào là mười nhân?

Này A-nan, một là tập khí dâm dục giao tiếp phát ra sự cọ xát lẫn nhau, cọ xát nhau không thôi, như thế nên ở trong có ngọn lửa lớn cháy sáng dấy lên. Giống như người lấy hai tay tự xoa với nhau, cảm giác nóng liền hiện tiền. Hai tập khí đốt nhau nên mới có các việc giường sắt cột đồng v.v... Thế nên tất cả Như Lai ở mười phương xem việc hành dâm này đồng gọi là lửa dục. Bồ-tát trông thấy dục như tránh hầm lửa.

Chúng ta thấu nhân và quả rõ ràng: nhân là tự mình tạo ở trong, đưa đến quả phải chịu thiêu đốt trên giường sắt nóng hoặc ôm cột đồng cháy v.v... ở địa ngục. Vậy là từ hành dâm dục ở trong mà có quả báo bên ngoài. Như vậy, rõ ràng từ tập nhân đó đưa tới nghiệp báo kia, chứ không phải ngẫu nhiên mà có quả báo hoặc do ai khác bày ra.

Hai là tập khí tham lam kết giao với so tính, phát ra sự thu hút lẫn nhau, thu hút buộc chặt không dừng, như thế nên ở trong đó chất chứa cái lạnh, biến thành băng cứng lạnh buốt. Như người dùng miệng hút hơi gió vào thì sanh cảm giác lạnh.

Do tham nên tính mưu kế, hai tập khí này thu hút nhau không dừng, kết thành những tảng băng cứng chắc.

Do hai tập khí lấn đoạt nhau, nên có các sự tra tra, ba ba, la la, hoa sen xanh, đỏ, trắng, băng lạnh v.v…

Chữ tra tra, ba ba, la la là những tiếng diễn tả khi bị lạnh quá răng đánh bò cạp, hoặc những tiếng rên hừ hừ khi bị rơi xuống hàn băng. Người phát ra tiếng thế này, người phát ra tiếng thế nọ.

Như vậy, dâm là lửa nóng, tham là nước lạnh.

Thế nên tất cả Như lai mười phương xem người tham cầu nhiều đồng gọi là nước tham. Bồ-tát trông thấy tham như tránh biển độc.

Tham cầu nhiều, muốn có được nhiều thứ, ở đời gọi là tham. Còn đối với trong chùa, khi làm người có trách nhiệm, ai tới mình cũng muốn người ta cúng nhiều để nuôi chúng, vậy muốn nhiều đó có phải là tham không? Vô tình mình cũng bị tham chi phối, rồi cũng rơi xuống chỗ lạnh cóng này. Vậy nên đừng ham muốn nhiều, thí chủ phát tâm thế nào cũng tùy hỷ. Đây là điều mọi người cần dè dặt.

Ba là tập khí ngã mạn giao kết với sự lấn hiếp, phát ra ỷ thế với nhau, giong ruổi không dừng. Như thế nên có phóng chạy ngược xuôi, chất chứa sóng thành nước. Như lưỡi trong miệng người tự kết với vị, nhân đó mà nước bọt chảy ra.

Mạn là ngã mạn. Người ngã mạn thì thấy ai cũng thua mình, ỷ mình hay chê người dở, khinh khi người khác. Chữ miên là cột, kết; lưỡi kết với vị. Vì khi lưỡi mình thích gì thì dính với cái đó, khi nhớ thèm cái đó, nước miếng chảy ra. Đằng dật bôn ba là phóng chạy ngược xuôi. Đằng là nhảy, dật là buông thả, bôn là chạy đuổi, ba là sóng, lượn sóng này đuổi lượn sóng kia, đuổi nhau hoài không ngừng.

Do hai tập khí này kích động nhau nên mới có các việc sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, rót nước đồng sôi. Thế nên tất cả Như Lai mười phương gọi ngã mạn là uống nước si. Bồ-tát trông thấy ngã mạn như tránh vực sâu.

Đó là hiện trạng của địa ngục, hoặc thấy bị xô xuống sông máu, sông tro, bơi lội khổ sở, hoặc bị cát nóng, hoặc bị rơi xuống biển độc, hoặc bị rót nước đồng sôi vô miệng bắt nuốt... Người ngã mạn khinh người, lấn lướt người khác là uống nước si, để rồi bị đau khổ. Bồ-tát tránh ngã mạn như tránh chỗ sông to biển lớn, vực thẳm, khiến dễ bị chết chìm.

Hãy thử kiểm tra lại xem trong ba thứ dâm, tham, mạn mình có thứ nào thì biết kết quả sẽ đưa tới đâu, phải liệu để tránh.

Bốn là tập khí nóng giận giao kết với xung đột, phát ra sự chống đối nhau, chống đối kết mãi không thôi, tâm nóng phát ra lửa, đúc khí ấy thành kim loại, thế nên có núi đao cọc sắt, cây kiếm, bánh xe kiếm, búa rìu thương cưa. Như người ôm lòng oán hận thì sát khí nổi lên. Do hai tập khí đó công kích nhau nên có những việc thiến cắt chém chặt, dùi đâm đập đánh. Thế nên tất cả Như Lai mười phương gọi nóng giận là dao kiếm bén. Bồ-tát trông thấy nóng giận như tránh họa chém giết.

Những kẻ nhiều sân giận thường chống đối người này người kia, lâu ngày kết thành thói quen chống đối. Trong tâm nóng bức, lửa sân dấy lên, nên mới có các thứ núi đao, cây kiếm... và các khổ chém chặt... rùng rợn ở địa ngục. Như vậy, do sân hận mình chống đối, hại người, rốt cuộc mình phải chịu khổ.

Năm là tập khí lường gạt giao kết với dụ dỗ, phát ra sự toan tính với nhau, dẫn khởi không ngừng.

Lường gạt là tìm cách này cách kia để gạt gẫm, lấy của người khác. Như người hiện chỉ có một ngàn đồng, muốn lấy của người khác mười ngàn, bèn nói: "Tôi có một trăm ngàn đang gửi ngân hàng, bây giờ lấy ra chưa được, chị cho tôi mượn mười ngàn, ít bữa tôi lấy ra trả lại." Đây gọi là nói gạt.

Như thế nên có dây, cây, thòng lọng, căng nọc. Như nước chảy vào ruộng, cỏ cây được sanh trưởng. Do hai tập khí này kéo dài với nhau, nên có các việc gông cùm xiềng xích, roi trượng hèo gậy. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi gian dối là giặc gièm pha. Bồ-tát thấy sự lường gạt như sợ sói beo.

Do dối gạt lẫn nhau, dẫn dắt không dừng, nên đọa xuống địa ngục, bị dây trói, gậy, trượng. Đó là gốc từ gian dối mà ra. Bồ-tát xem sự lừa dối như các loài thú dữ, không dám đến gần.

Sáu là tập khí lừa dối giao kết với dối gạt, phát ra lừa gạt nhau, lừa gạt không dừng, phóng tâm tạo các điều gian dối, như thế nên có bụi đất, phân, nước tiểu, dơ nhớp không sạch. Như bụi theo gió, đều không thể thấy. Hai tập khí này giúp nhau, nên có những sự chìm đắm, nhảy lên, ném xuống, bay lên, rơi xuống, trôi chìm. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi dối gạt là cướp giết. Bồ-tát thấy dối gạt như đạp phải rắn rít.

Đây là tạo nhân lừa gạt. Do lừa gạt nên tâm gian trá càng nhiều, đó là nhân địa ngục. Nơi đó chứa toàn đồ bất tịnh, ô uế... bắt người có tội phải lội trong đó. Vì vậy mà các Bồ-tát xem lừa dối như đạp phải rắn độc.

Thứ bảy là tập khí oán hận giao kết với thù hiềm, phát ra ôm lòng giận hờn, như thế nên có quăng đá, ném gạch, nhốt trong hộp, xe cũi, hũ đựng, túi đãy. Như người hiểm độc ngầm, ôm ấp chất chứa điều ác trong lòng.

Người ôm ấp chất chứa điều ác trong lòng thì sau bị chứa nhốt trong hộp, trong cũi, trong hũ, trong đãy… 

Do hai tập khí này nuốt nhau, nên mới có các việc ném quăng cầm giữ, đánh bắn tung chụp. Thế nên tất cả Như Lai mười phương gọi oán thù là quỷ vi hại. Bồ-tát thấy oán thù như uống rượu độc.

Do oán thù kết tập nhau mà sanh tâm ôm ấp hiềm hận. Hận là rơi vào chỗ bị quăng đá, ném gạch, nhốt trong hộp... ở địa ngục. Vì vậy các Bồ-tát xem sự oán hờn như uống rượu độc.

Tám là tập khí ác kiến giao kết với sáng, như thân kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, các nghiệp tà kiến, phát ra sự chống đối, sanh ra trái ngược nhau, như thế nên có vua, kẻ sứ, chủ, lại nắm giữ sổ bộ làm chứng. Như người đi đường qua lại gặp nhau.

Kiến là nhận định. Nhận định sai lầm hay nhận định chỉ đúng một phần mà chấp chặt thì gọi là kiến tập, là tập khí của kiến chấp. Nhận định thì lúc nào cũng là sáng, không phải tối, nhưng vì nhận định còn thiên về một bên hoặc lệch lạc không đúng mà chấp là đúng nên trở thành tà kiến hay ác kiến. Trong đó có các nghiệp thân kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến, phát ra sự chống trái nhau. Do đó hiện ra vua Diêm vương, sứ là người của nhà vua sai đi mời về, chủ là người sai khiến đánh đập, lại là người coi sổ bộ làm chứng... mọi việc hiện tiền không nghi ngờ.

Do hai tập khí giao kết với nhau nên có khám xét, mưu mẹo, tra khảo hạch hỏi, điều tra thẩm xét, vạch bày tra cứu cho sáng tỏ, có những đồng tử thiện ác tay cầm sổ bộ chứng từ biện bạch các việc. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi ác kiến là hầm kiến chấp. Bồ-tát thấy các thiên chấp hư dối như đi vào khe núi độc.

Do nghiệp chấp theo tà kiến, khi chết thấy bị sứ vua sai bắt, xuống địa ngục bị Diêm vương tra khảo hỏi cung. Nếu chối thì có người cầm bộ sổ đem đến minh chứng các việc để hết dám chối.

Chín là tập khí oan uổng giao kết với gia hại phát ra vu oan, chê bai người, như thế nên có núi ép đá ép lại, nghiền xay cày bừa. Như kẻ sàm tặc bức hiếp oan uổng người lương thiện. Do hai tập khí chống đối nhau, nên có các việc ép kẹp đánh đè, ép huyết, cân lường. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi sự oán ghét vu báng người là con cọp gian. Bồ-tát thấy sự oan uổng như gặp sấm sét.

Đọa xuống địa ngục, thấy mình đang ở giữa hai trái núi ép lại, hoặc là đi giữa hai khối đá ép lại, khiến bị nát thây, hoặc bị bỏ trong cối đâm hoặc trong cối xay. Kẻ gian bức bách, làm oan uổng người lương thiện khổ như thế nào thì khi chết thấy cảnh như vậy. Do ức hiếp người nên sanh vào địa ngục chịu các khổ như thế, nên Bồ-tát xem sự vu oan như sấm sét, không dám đến gần.

Thứ mười là tập khí thưa kiện giao kết với cãi vã, phát ra che giấu, như thế nên có gương soi đuốc chiếu. Như giữa ban ngày không thể giấu bóng được. Hai tập khí cùng phô bày nhau, nên có các việc bạn ác, gương nghiệp, hỏa châu, bày hiện nghiệp xưa để đối nghiệm. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi sự che giấu này là giặc ngầm. Bồ-tát xem che giấu như là đội núi cao mà lội trong biển lớn.

Do hơn thua nên có thưa kiện, khi thưa kiện thì lúc nào cũng đưa ra nhiều điều phải giấu điều quấy, tức là che giấu. Đến khi chết xuống địa ngục, những gì mình làm trên nhân gian, giấu giếm không nói ra thì lúc đó sẽ gặp những bạn ác, họ chỉ mặt nói "hồi đó anh làm những chuyện này, tôi làm chứng". Nếu không chịu, cãi nữa thì được dẫn lại cái gương để coi. Ví dụ hồi trước giết người, nay trên gương hiện ra cảnh đó, gọi là gương nghiệp. Hoặc hỏa châu sáng rỡ soi cho thấy hết các việc mình làm. Nghiệp trước bày hiện ra hết không giấu giếm được, cho nên mới có sự đối nghiệm. Bồ-tát xem che giấu như đội núi cao mà đi vào biển lớn, ắt bị chìm xuống tận đáy.

Trên đây là mười tập nhân đưa đến các quả khổ. Địa ngục có những cảnh hung dữ, tàn ác, đau khổ... như vậy là do ở thế gian chúng sanh có các tâm dâm, tham, ngã mạn, nóng giận, lường gạt, lừa dối, oán hận, tà kiến, oan uổng, thưa kiện. Người không biết tu cứ tạo nghiệp rồi chịu khổ, chẳng phải chỉ trả đời này mà không biết bao nhiêu đời mới trả hết. Chúng sanh mê muội ham vui nhỏ mà chuốc khổ dài. Bởi vậy nên Phật mới thương, dạy cho biết thức tỉnh để tránh các khổ. Như ngày nay giật được của người ta năm, bảy chục nghìn, xài chừng nửa tháng đã hết rồi, mà nghiệp báo sau này phải bị đọa đày bao nhiêu đời kiếp. Sự khờ dại của con người là họ không biết tội để tránh, không biết phước để làm, vì vậy mà cứ chuốc khổ, chẳng biết tìm con đường an vui. Đó là gốc của khổ đau.

Chúng ta kiểm lại trong mười tâm đó, coi mình có tâm nào thì tự liệu. Nếu mình chứa cái nào thì sau này gặp cái đó, vì có tập nhân thì cũng có quả theo cùng. Quả báo khổ đau ấy, không phải ai khác làm ra mà chính do nhân mình đã tạo. Chúng ta học đạo phải biết rõ tập nhân xấu để tránh thì quả khổ sẽ không đến. Nếu không tránh tập nhân thì quả khổ nhất định phải tới.

Phần kế, Phật nói sáu quả giao báo, tức là quả báo do kết hợp với nhau mà thành.

b. Thế nào là sáu báo?

Này A-nan, tất cả chúng sanh do sáu thức tạo nghiệp, chiêu cảm ác báo từ sáu căn mà ra.

Phật chỉ sáu quả báo này là do sáu thức nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý của chúng sanh tạo thành nghiệp, nên chuốc lấy quả báo từ sáu căn.

Thế nào là ác báo từ sáu căn ra? Một là giao báo về thấy chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp giao báo về thấy này là khi lâm chung, trước thấy lửa dữ đầy cả thế giới mười phương. Thần thức của người chết bay lên rồi rơi xuống, nương theo khói vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là thấy sáng, thấy khắp các vật dữ, sanh ra kinh hãi vô cùng; hai là thấy tối, lặng im không thấy gì hết, sanh ra sợ sệt vô lượng.

Ác báo về thấy, vời quả báo ác dẫn tới chỗ thọ khổ. Ai đầy người ta vào địa ngục Vô gián? Chính là do nghiệp đã tạo, đến khi chết thấy lửa cháy rần rần, không biết đâu mà chạy, hoảng quá bay lên, gặp khói cuộn đưa vào địa ngục Vô gián. Khi vào địa ngục Vô gián thì thấy hai tướng: thấy sáng là thấy toàn sự ác, thấy tối là không thấy gì hết, cả hai đều làm cho người kinh sợ.

Lửa thấy như thế, thiêu đốt cái nghe, hay làm thành chảo nước sôi, nước đồng chảy. Đốt hơi thở thì hay làm ra khói đen lửa đỏ. Thiêu cái nếm thì hay làm tro nóng than hừng. Đốt tâm ý thì hay sanh sao lửa xẹt tung tóe, thổi bùng khắp cõi hư không.

Vào địa ngục thấy toàn là lửa, lửa đốt cái thấy phát ra hai tướng thấy sáng và thấy tối. Thấy sáng là thấy toàn những chuyện ác rồi sanh ra kinh hoàng. Thấy tối thì tuy lặng im không thấy gì hết, nhưng cũng làm hoảng hốt sợ sệt. Đốt nghe thì sanh ra chảo nước sôi, nước đồng nóng chảy. Đốt ngửi thì hay làm ra khói đen, lửa đỏ. Thiêu vị thì hay làm ra cơm hay cháo sắt hoặc viên lửa cháy đỏ, tức là một khối sắt lửa đỏ hừng, giống như giường sắt, lưới sắt nóng. Đốt cảm xúc thì hay làm thành tro nóng, lửa than. Đốt về tâm ý thì hay sanh tinh hỏa bính lệ, tức là những đóm lửa bay lên tung tóe rồi rơi xuống, cũng như thợ rèn đập sắt thấy toàn là lửa văng xẹt tứ tung. Khi gió thổi sao lửa xẹt lên, hừng hực cả cõi hư không, dấy động khắp nơi toàn là lửa.

Hai là giao báo về nghe chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp nghe này giao báo thì khi lâm chung, trước thấy sóng dậy chìm ngập cả trời đất. Thần thức của người chết rơi trong sóng, theo dòng nước vào ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là nghe thông thì nghe tất cả tiếng ồn náo làm cho tinh thần rối loạn; hai là điếc đặc thì lặng lẽ không nghe gì, hồn phách chìm trong mù mịt u tối.

Sóng nghe như thế, rót vào nghe thì hay làm thành lời trách móc hỏi vặn. Rót vào thấy hơi độc đầy dẫy từ xa đến gần. Thần thức của người chết từ dưới đất vọt lên, vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là ngửi thông, bị các khí độc xông thẳng vào mũi làm cho tâm rối loạn; hai là ngạt mũi thì hơi nghẹt không thông, làm cho chết giấc dưới đất.

Hơi ngửi như thế, xông vào hơi thở thì hay làm chất ngại, làm giày xéo. Xông lên thấy thì hay làm lửa làm đuốc. Xông lên nghe thì hay làm chìm đắm, làm nước lớn, nước nóng. Xông lên nếm thì hay làm đói làm lầm. Xông lên xúc thì hay làm rách nát, làm núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt, bị vô lượng con vật cắn mổ ăn. Xông lên ý thì hay làm tro, chướng khí, gạch cát đá bay đáng nát thân thể.

Như vậy, tất cả những cảnh dữ đó, người làm ác khi vừa tắt thở đã thấy liền, thần thức hoảng loạn chạy trốn, rơi ngay vào địa ngục Vô gián, ai mà kéo ra cho kịp! Nếu có quý thầy quý cô đứng đó tụng kinh cũng không kéo lại nổi, người chết đâu kịp nghe kinh để xin về Cực lạc. Vì vậy, đừng có coi thường, nói chờ tới lúc chết có mấy vị tu hành đến cứu làm sao kịp!

Bốn là giao báo về vị chiêu dẫn tới quả dữ. Nghiệp nếm này giao báo thì khi lâm chung trước thấy lưới sắt lửa cháy hừng hực che khắp cả thế giới. Thần thức người chết rớt xuống mắc trong lưới, đầu bị treo ngược, liền vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là hít hơi vào, kết thành băng lạnh làm cho thân thể lạnh cóng da thịt nứt nẻ; hai là nhả hơi bay ra thành lửa mạnh thiêu rụi xương tủy.

Vị nếm như thế, qua nếm thì làm thành nhận chịu. Qua thấy thì hay đốt chảy vàng đá. Qua nghe thì hay làm các thứ đao binh bén. Qua mũi thì làm lồng sắt lớn che khắp cõi nước. Qua xúc thì hay làm cung tên nỏ bắn. Qua ý thì hay làm sắt nóng bay, từ trên không rơi xuống như mưa.

Năm là giao báo về xúc chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp xúc này giao báo thì khi lâm chung trước thấy núi lớn bốn phía áp lại không còn đường ra. Thần thức người chết thấy thành sắt lớn, rắn lửa chó lửa, cọp sói sư tử, ngục tốt đầu trâu, la-sát đầu ngựa, tay cầm thương mâu xua vào trong cửa thành, thẳng vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là hợp xúc thì thấy núi áp lại đè ép thân thể, xương thịt máu mủ tuôn chảy; hai là ly xúc thì thấy đao kiếm chạm vào thân, tim gan bị cắt nát.

Thần thức của người chết thấy các núi áp lại, có thành sắt lớn, trong ngoài đâu đâu cũng toàn là lửa, lại có mấy con thú lửa, ngưu đầu ngục tốt, mã đầu la-sát tay cầm thương, mâu xua vào trong cửa thành. Khi ấy do hoảng sợ, không còn có thời gian để suy nghĩ gì nữa, cùng đường rồi phải đi thẳng vào địa ngục Vô gián, chịu các cảnh thống khổ. Lúc đó, ở trên nhân gian con cháu dù có cúng gì, thần thức người chết cũng không thể hưởng.

Xúc hợp như thế, trải qua xúc thì hay làm ra đạo, quán, sảnh, án.

Đạo là thấy con đường tội nhân đi vào địa ngục. Quán là những tòa nhà cao lớn trong địa ngục. Sảnh là chỗ người ta tra hỏi. Án là cái bàn xét hỏi. Đây toàn là những cảnh của địa ngục.

Qua thấy thì hay làm thiêu đốt. Qua nghe thì hay làm đánh, đập, đâm, bắn. Qua hơi thở thì làm trùm bắt, đẫy nhốt, đánh khảo, cột trói. Qua nếm thì làm cày, làm kìm, chém, chặt. Qua ý thì hay làm rơi xuống, bay lên, nấu, nướng.

Phần này giao báo về xúc tức quả báo của thân, thần thức thấy toàn cảnh dữ, rồi rơi vào địa ngục, chịu bao nhiêu thứ khổ.

Sáu là giao báo về ý chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp ý này giao báo thì khi lâm chung trước thấy gió dữ thổi nát cõi nước. Thần thức người chết bị gió thổi lên hư không, xoay rơi theo gió mà vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là không biết, mê muội quá thành ra hoảng hốt, chạy đi không dừng; hai là không mê, hay biết thì khổ, bị thiêu đốt không cùng rất là đau đớn khó mà chịu nổi.

Như thế ý sai lầm kết với ý nghĩ thì hay làm ra nơi chốn. Kết nơi thấy thì hay làm gương soi, làm chứng cứ.

Nơi chốn là chỉ những chỗ hành hạ tra tấn. Khi người ta xét tội, nếu chối thì có người làm chứng như gương soi, cho biết là đang chối.

Kết nơi nghe thì hay làm đá lớn hợp lại, làm băng, sương, đất, mù. Kết nơi hơi thở thì hay làm ra những tiếng kêu to, làm hối hận, khóc lóc. Kết ở xúc thì hay làm ra lớn, nhỏ, làm cho trong một ngày mà muôn lần sống muôn lần chết, làm nghiêng làm ngửa.

Trong địa ngục khổ quá, muốn chết cũng không được. Chết rồi gió thổi sống lại, chịu khổ rồi chết, chết rồi sống lại nữa, muôn vạn lần trong một ngày, năm này qua tháng nọ hành hạ hoài không biết chừng nào ra. Chúng ta chết có một lần mà còn sợ, huống là chết quá nhiều lần. Đó là cảnh khổ của địa ngục Vô gián.

Người không lo tu lỡ rơi xuống đó rồi, dù kêu la cũng không ai cứu nổi, lúc đó chỉ riêng một mình chịu thôi. Khi còn sống ăn gian, trộm cướp mang tiền của về, có người này người kia ăn chia, tới chừng rơi xuống địa ngục không ai chia tội cùng mình. Bởi vậy người tu rồi mà còn tham lam của này vật kia, sau rơi xuống địa ngục chịu hình phạt thật là tủi, mới thấy đó là sự ngu si của mình. Ở ngoài thế gian vì không hiểu, tham lam, làm những điều tội lỗi để được tiền của, nhiều người cùng hưởng, khi chết phải một mình chịu khổ. Người tu nhiều khi không tỉnh giác, cũng có những lúc tham lam chen vào, tạo chút ít tội lỗi rồi phải đọa, thật khổ!

Cho nên biết rồi, chúng ta dè dặt từng hành động, từng lời nói, từng ý niệm, đừng để cho ba nghiệp tạo ác. Nếu tạo rồi thì sau này giả sử bị cùi bị mù... khổ sáu bảy chục năm là cùng, còn xuống đó chết đi sống lại khổ ngàn muôn năm, vậy mà người ta lại không sợ. Cứ tưởng rằng mình gian lận qua mắt thiên hạ được nên không sợ, không ngờ xuống đó có người làm chứng, có gương nghiệp soi, không thể chối được.

Sáu giao báo do sáu căn tạo ra. Một căn tạo nghiệp sẽ sanh ra các khổ qua những căn khác. Ví dụ như căn mũi thì có nghiệp của mũi, đồng thời có những nghiệp các căn khác phải chung chịu. Do nơi sáu căn chính là lục tặc dẫn đi xuống địa ngục chịu khổ đau. Vì vậy người tu phải biết dè dặt nơi mỗi căn, đừng để tạo nghiệp.

Này A-nan, ấy gọi là mười nhân sáu quả trong địa ngục, đều do chúng sanh mê vọng mà tạo ra. Nếu các chúng sanh đồng tạo nghiệp ác thì vào trong địa ngục A-tỳ chịu vô lượng khổ trải qua vô lượng kiếp.

Không phải có ai sắp đặt tạo sẵn chỗ đó, chỉ do mê vọng của chúng sanh tạo ra. Nếu nhiều người cùng mê vọng tạo nghiệp ác giống nhau thì liền có địa ngục A-tỳ, để họ đến chịu vô lượng khổ trong vô lượng kiếp. Thân đánh đập người, miệng chửi mắng người... gốc đều từ ý. Ý nổi giận nên miệng mới chửi, thân mới đánh, nhưng tới chừng hết giận, tìm cái nổi giận trước không thể thấy. Nó là hư vọng không thật nhưng một khi theo nó rồi thì tạo nghiệp không thể lường.

Ví dụ một người có sức mạnh lại biết võ, ra chợ mua hàng. Cô bán hàng phách lối, nghe người này nói câu gì đó không vừa ý liền chửi bừa vô mặt. Người đó ỷ có võ giơ tay đánh một cái, cô bán hàng té ngửa bất tỉnh, chết luôn. Như vậy, nổi giận đánh có một cái thôi mà người ta chết thì phải chịu ở tù bao lâu? Cái nổi giận đó không thật, chỉ một phút giây tạo nghiệp mà khổ kéo dài không biết bao lâu. Huống là cả đời tạo nghiệp ác thì khổ chừng bao nhiêu?

Do đó phải dè dặt, biết ý vốn không thật thì có nổi nóng gì cũng nhớ nó không thật, rồi buông bỏ đừng theo thì mọi việc an ổn. Trái lại theo nó tạo nghiệp thì phải chịu khổ, không biết ngày nào ra. Phật dạy quá rõ, bởi chúng sanh mê vọng tạo nghiệp chứ không phải thật, nhưng đã tạo rồi thì cảnh địa ngục A-tỳ liền có, phải đến để chịu quả khổ. Không phải Trời Phật ác ý muốn tạo địa ngục cho mình xuống; vì mình tạo nghiệp ác cho nên có cảnh khổ tương ưng với nghiệp của mình.

Cũng vậy nếu chúng ta không biết tu thì một phen tạo điều ác rồi, phải chịu khổ không biết bao lâu, thời gian không nhất định. Thế gian không thiếu những chuyện vì tham sân mà tạo nghiệp. Như mấy người tham, thấy có người cầm túi đồ quý, giật túi, bị công an bắt liền. Từ dấy lòng tham đến giật túi chỉ chừng năm mười phút, nhưng tới chừng bị bắt ở tù thì bao lâu? Như vậy mới thấy tham sân xảy ra thời gian rất ngắn nhưng quả báo của nó thật là dài.

Hiểu vậy mới thấy phiền não đáng sợ, còn không hiểu thì coi nó rất thường, nổi giận cứ làm, hoặc dấy lòng tham cứ làm, rồi chuốc lấy hậu quả không lường trước nổi. Vậy nên Phật dạy chúng ta phải buông bỏ tâm tham lam, nóng giận, si mê nơi mình, đừng để tạo nghiệp ác, như vậy là thoát khổ.

Nơi sáu căn, mỗi căn tạo và nghiệp đã tạo kia, gồm cả cảnh và căn, người ấy hẳn vào tám địa ngục Vô gián. Nếu cả ba thân khẩu ý tạo nghiệp giết trộm dâm thì người ấy hẳn vào mười tám địa ngục. Không gồm đủ ba nghiệp, trong đó hoặc giết hoặc trộm, người ấy hẳn vào ba mươi sáu địa ngục. Hiện thấy một căn riêng phạm một nghiệp, người ấy ắt hẳn vào một trăm lẻ tám địa ngục.

Do những chúng sanh ấy riêng làm riêng tạo mà chỗ đồng phần trong thế giới. Đó là do vọng tưởng phát sanh, không phải từ trước đến nay đã sẵn có.

Như vậy, khi tạo nghiệp thì tạo riêng, nhưng chịu quả lại đến chỗ chung, chỉ do vọng tưởng phát sanh chứ không phải địa ngục có sẵn từ trước. Như ở thế gian, những người tạo nghiệp trộm cướp là mỗi người tạo riêng, nhưng tới chừng vào tù thì ở tù chung. Chung gọi là đồng phần, còn riêng gọi là biệt nghiệp, nghiệp thì tạo riêng mà kết quả là tới chỗ chung.

Tuy địa ngục không phải sẵn có, nhưng nếu tạo nghiệp ác thì có. Lý này quá đúng, ở thế gian cũng vậy. Giả sử như trong một làng không có sẵn nhà tù, nhưng nếu có người nào ăn cướp, giết người, bị bắt đem nhốt, thì chỗ nhốt, đánh đập đó trở thành nhà tù. Nếu có nhiều người cùng tội thì phải có chỗ nhốt chung. Như vậy tất cả khổ trong địa ngục, phải có chỗ chung để cùng chịu, gốc từ hư vọng tạo ra chứ không thật có.

Nếu tất cả mọi người đều hiền lành, không ai phạm pháp luật nhà nước, thì các khám đường sẽ đổi thành trường học, nhà nuôi trẻ... Ở thế gian cũng như cảnh sau khi chết, nếu mình tạo nghiệp thì mới có cảnh dữ chứ không phải có sẵn cố định.

3. Dư báo

Lại nữa A-nan, những chúng sanh ấy chẳng phải phá hoại luật nghi, phạm giới Bồ-tát, hủy báng Niết-bàn của Phật, mà tạo các tạp nghiệp khác, nhiều kiếp phải bị thiêu đốt. Sau khi đền tội xong rồi, chịu các hình quỷ.

Sau khi đọa địa ngục rồi còn có nghiệp thừa, chiêu cảm quả báo đọa vào loài quỷ. Như vậy không phải ra khỏi địa ngục là trở lại làm người liền, mà còn nghiệp thừa, có khi phải làm quỷ. Ra khỏi loài quỷ còn có nghiệp thừa, phải làm súc sanh. Vậy là khi đi xuống thì đi một hơi từ người thẳng xuống địa ngục, không có thứ bậc, nhưng lúc trở lên phải đi từng chặng, từng bậc một để trả dư báo.

Nếu người kia do nhân trước tham đồ vật mà bị tội, người ấy đền tội xong, gặp vật thành hình, gọi là Quái quỷ.

Ví dụ do tham vàng hay tham ngọc mà thành tội, sau khi đọa địa ngục rồi lên kiếp quỷ, thấy vàng ngọc liền gá vô thành quỷ, gọi là Quái quỷ. Người ta thường nói đồ báu chôn giấu lâu ngày thành yêu, thành quỷ, là do các loài đó ảnh hưởng.

Nếu do tham sắc làm thành tội, người ấy đền tội xong rồi, gặp gió thành hình, gọi là Bạt quỷ. Nếu do tham mê làm thành tội, người ấy sau khi đền tội xong, gặp loài súc sanh thành hình, gọi là Mỵ quỷ.

Bạt quỷ là những con quỷ phiêu bạt. Còn Mỵ quỷ là những con thú sống lâu thành tinh, do thần thức người làm tội khi hết ở địa ngục rồi lên dựa.

Do tham hờn giận làm thành tội, người ấy đền tội xong rồi, gặp loài sâu trùng thành hình, gọi là Cổ độc quỷ. Do tham nhớ lỗi làm thành tội, người ấy đền tội xong rồi, gặp các loại suy thành hình, gọi là Lệ quỷ.

Nhớ đây là giận ai, buồn ai, nhớ đời đời không bỏ. Suy là các thứ sắp hoại, như nhà cũ sắp hoại, bỏ không, thì loài quỷ dựa vào.

Do tham kiêu ngạo làm thành tội, người ấy khi đền tội xong, gặp khí thành hình, gọi là Ngạ quỷ. Do tham lừa dối thành tội, người ấy sau khi đền tội rồi, gặp u tối thành hình, gọi là Yểm quỷ.

Do hơi nóng hơi lửa bị đói khát, thành ra Ngạ quỷ. Khi có người làm hình nhân rồi ếm, quỷ dựa vào đó để phá người, gọi là Yểm quỷ.

Do tham sự sáng (tham vẻ đẹp) làm thành tội, người ấy khi đền tội xong, gặp tinh hoa thành hình, gọi là Võng lượng quỷ. Do tham sự thành tựu mà làm thành tội, người ấy khi đền tội xong, gặp cái sáng thành hình, gọi là Dịch sử quỷ. Do tham bè đảng làm thành tội, người ấy khi đền tội xong, gặp con người thành hình, gọi là Truyền tống quỷ.

Có những người luyện thiên linh cái, lấy sọ người chết để luyện. Quỷ theo mấy người này và làm tay sai, người luyện sai quỷ làm các việc thay cho họ. Ví dụ có ai đến coi tay coi tướng gì đó, người luyện sai quỷ tới nhà người coi lấy tin tức về báo cho họ, nên gọi là Truyền tống quỷ, chuyên dựa vào người.

Này A-nan, những người ấy đều do thuần tình mà rơi xuống. Lửa nghiệp thiêu đốt khô, trở lên làm quỷ.

Như vậy mới thấy thuần tình là gốc rơi vào địa ngục, hết nghiệp dưới địa ngục thì trở lên làm quỷ.

Những loài này đều do nghiệp vọng tưởng chiêu cảm mà dẫn đến. Nếu ngộ được đạo Bồ-đề thì nơi tánh diệu viên minh vốn không có việc ấy.

Nếu giác ngộ được Bồ-đề rồi, thì nơi tánh mầu tròn sáng không có những cảnh địa ngục ngạ quỷ.

Như vậy, quả báo thừa là sau khi trả báo địa ngục xong, không phải ngang đó hết, mà còn trở lên làm quỷ. Hết làm quỷ, vẫn còn chút ít những nghiệp thừa thì làm súc sanh để đền trả, vì loài súc sanh đời sống ngắn, nên chỉ chịu khổ thời gian ngắn. Như thế, địa ngục tuổi thọ rất dài, tỷ dụ là một muôn năm, trả xong lên làm loài ngạ quỷ vài ngàn năm, làm súc sanh chừng ít năm. Vậy là từ nghiệp báo rất khổ thì tuổi thọ thật dài, tới nghiệp thừa chút ít, khổ kém hơn thì tuổi thọ cũng kém chút ít, sau đó nghiệp thừa còn rất ít, khổ ít hơn thì tuổi thọ cũng ít hơn. Nghiệp báo còn thừa nhiều thì khổ đậm, còn thừa ít thì nhẹ hơn.

Lại nữa, này A-nan, nghiệp quỷ đã hết thì cả hai tình và tưởng đều thành không, mới ở nơi thế gian cùng với những người mình thiếu nợ trước, oán thù gặp lại, thân làm súc sanh để trả nợ đời trước.

Tình và tưởng ngang đó xem như xóa hết, không phải nhờ tu mà là do thiêu đốt khô hết. Rồi trở lên nhân gian, cùng những người trước kia mình đã thiếu nợ, ân oán gặp lại nhau để trả, chứ chưa phải hết. Trả bằng cách làm thân súc sanh để đền đủ nợ cũ.

Loài Quái quỷ theo vật, khi vật đó tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm loài chim kiêu. Loài Bạt quỷ theo gió, gió tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài báo điềm dữ.

Vật quái là quỷ gá vào vật. Chim báo điềm dữ như chim ụt, chim cú, hễ nghe tiếng kêu là người ta thường chọi đuổi.

Loài Mỵ quỷ theo thú vật, khi con vật chết thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm loài chồn.

Loài này nương theo con vật mà thành quỷ. Con vật chết rồi sanh lên làm chồn, chồn này là loại thường chứ không phải là chồn tinh nữa.

Loài Cổ quỷ theo trùng bọ, khi trùng độc chết thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài độc. Loài Lệ quỷ theo sự suy hoại, khi suy dứt thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài giun sán.

Cổ quỷ khi hết quả báo, sanh lên làm các loài có nọc độc như rắn, rít v.v…

Lệ quỷ dựa vào những chỗ sắp tan hoại. Như khi chúng ta đi tới nhà nào đang hưng thịnh phát đạt thì thấy có vẻ quang đãng sáng sủa, còn tới nhà nào thấy u trệ hoang tàn biết là đang suy. Hồi xưa, thường các nhà giàu khi suy thì quỷ dậy. Đó là loại suy quỷ, thấy chỗ nào suy tàn thì dựa vào. Không ai bắt buộc nó tới đó, chỉ vì nghiệp của nó, thích dựa vào chỗ suy để phá thêm.

Ngạ quỷ theo khí, khi khí tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài cho người ăn thịt. Loài quỷ kết với u tối, khi u tối tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm loài cung cấp đồ mặc. Quỷ hòa với tinh hoa, khi tinh hoa tiêu thì quả báo hết, sanh lên thế gian phần nhiều làm các loài ứng.

Ứng tức là đáp ứng những gì người ta gọi hoặc kêu làm, thường nói "bên này hô, bên kia ứng". Những loài người ta nuôi, dạy nó làm theo lệnh chủ sắp đặt gọi là ứng, như con khỉ, chim, chó v.v... 

Quỷ minh linh khi sáng diệt thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm những loài báo điềm lành.

Hưu trưng là những loài báo điềm lành như bồ câu, chim khách, sáo, cưỡng v.v…

Quỷ nương nơi người, khi người chết thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài đi theo người.

Sanh lên làm các loài con người nuôi như chó hay mèo... cứ đi theo quanh quẩn bên người.

Này A-nan, những loài ấy đều do lửa nghiệp đốt khô, kế đó làm súc sanh đền trả nợ trước. Những loài này cũng đều từ nghiệp hư vọng chiêu cảm mà dẫn đến. Nếu ngộ được Bồ-đề thì vọng duyên này vốn không thật có.

Từ địa ngục rồi làm ngạ quỷ, còn một chút nghiệp, kế đó làm súc sanh. Chúng ta thấy làm con bò con heo, trâu chó cũng khổ quá rồi, vậy mà vẫn là nhẹ. Nghiệp chánh là địa ngục, phụ là ngạ quỷ, còn một chút bên cạnh đó là làm súc sanh.

Như ông đã nói nhóm Bảo Liên Hương, vua Lưu-ly, Tỳ-kheo Thiện Tinh, vốn tự mình tạo ta những nghiệp ác như thế, chẳng phải từ trời rơi xuống cũng không phải từ dưới đất vọt ra, cũng không phải người khác đem tới, chỉ do mình vọng gây ra, trở lại tự nhận chịu quả báo. Trong tâm Bồ-đề, đó đều là vọng tưởng hư dối nhưng kết lại.

Những nghiệp ác đó là do vọng tưởng hư dối ngưng kết lại trong tâm Bồ-đề, chứ không phải Bồ-đề có nghiệp ấy. Cũng giống như dưới biển có bọt có sóng, đối với mặt biển thì sóng không phải là mặt biển, bọt không phải là biển. Tuy nhiên, khi đã có nghiệp thì chỉ thấy sóng, thấy bọt mà không thấy biển. Quên biển là quên chỗ chân thật vậy.

Sau khi từ địa ngục qua ngạ quỷ đến súc sanh, bây giờ tới làm người, cũng còn một chút thừa nữa.

Lại nữa A-nan, từ loài súc sanh ấy đền trả nợ trước. Nếu lúc trả quá phần nợ cũ của họ, thì những chúng sanh này trở lại làm người đòi lại phần thừa kia.

Vậy nên đừng ỷ mình có phước, trong nhà nuôi bò trâu chó mèo, rồi nghĩ nó mang nghiệp xấu, nó thiếu nợ mình, tha hồ hành hạ quá mức. Đến chừng nó trở lại làm người, sẽ tìm người kia đòi lại nợ thừa đó.

Nếu như người kia có thế lực và có phước đức thì ở trong loài người, chưa bỏ thân người mà trả lại nợ dư đó. Nếu người không có phước, phải trở lại làm súc sanh để hoàn trả phần nợ dư đó.

Ví dụ như người nuôi bò hay trâu, bắt nó cày bừa. Nó là con vật giúp sức mà người ấy còn đánh đập, hành hạ nó quá mức, lẽ ra khi nó hết nghiệp, được sanh làm người, người chủ ấy phải sanh làm trâu bò để trả lại phần nợ dư. Nhưng nếu người chủ kia có phước đức thì khi con vật sanh làm người, người chủ ấy cũng vẫn làm người, nhưng lâu lâu lại bị nó làm khó làm dễ, làm khổ đôi chút để đòi nợ thừa. Nếu không có phước, lỡ lấy dư thì phải trở lại làm súc sanh trả đủ. Bởi vậy, phải tu cho có phước đức là điều thiết yếu.

A-nan! Phải biết nếu dùng tiền vật hoặc sai sử sức lực của chúng, trả đủ thì tự dừng. Nếu như trong khoảng giữa đó lại còn giết thân mạng hoặc ăn thịt chúng, như thế cho đến trải bao số kiếp như vi trần, ăn nhau giết nhau, giống như bánh xe lăn, xoay vần thay đổi trên dưới không có ngưng dứt. Trừ người được chánh định và gặp Phật ra đời, còn lại thì không thể dừng.

Con vật sanh ra trong nhà chủ để trả nợ, người chủ bắt làm gì đều phải làm, nó nợ tiền không nợ mạng, vậy mà còn ăn thịt nó tức là dư, dĩ nhiên phải nợ lại phần máu thịt đó, sau trở lại trả nợ máu thịt. Như thế mà xoay vần ăn nuốt lẫn nhau, như bánh xe lên rồi xuống, xuống rồi lên không dừng. Vòng luân hồi là vậy.

Nay ông nên biết loài chim kiêu kia, khi trả nợ đủ rồi, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng ngoan cố.

Ngoan cố hay ngoan cường là cứng đầu cứng cổ, làm điều quấy, người khác chỉ cho mà không chịu nghe không chịu nhận.

Loài chim báo điềm dữ kia trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng quái dị. Loài chồn kia khi đền trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng dung tục.

Các loài chim báo điềm xui xẻo như chim cú, sanh lên loài người, do nghiệp báo còn, nên làm người ngu ngốc, quái lạ. Các loài chồn thì gian xảo không lương thiện nên tầm thường.

Loài độc kia khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người, thích hợp với hạng tàn ác. Loài giun kia khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng nhỏ nhen.

Quả với nhân như nhau, loài giun, trùng, sùng, sên... khi trở lại được sanh cõi người thì hợp với hạng nhỏ nhoi ty tiện, ưa làm chuyện nhỏ nhít, chấp nê từng chút, bòn mót từng chút từ cây kim sợi chỉ.

Loài bị người ta ăn thịt, khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng nhu nhược.

Vì sanh trong loài bị người ăn thịt, bị đâm họng, lột da... trong lòng luôn sợ hãi, nên sanh ra nhu nhược.

Loài sanh ra để làm đồ mặc, khi trả hết nợ, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng lao nhọc.

Vì loài này luôn cần mẫn như tằm nhả tơ để cho người có đồ mặc, nên hợp với lao nhọc.

Loài ứng kia khi trả hết nợ, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng văn vẻ.

Loài ứng lanh lẹ, người ta kêu liền biết đáp ứng, nên khi làm người hợp với hạng văn vẻ.

Loài chim đem điềm lành, khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng sáng suốt. Các loài đi theo người, khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng thông suốt.

Các loài chim đem điều tốt này luôn mang niềm vui, lợi ích cho người nen hợp với hạng sáng suốt.

Này A-nan, những hạng đó do nợ đời trước đã trả xong, trở lại được thân trong cõi người, đều từ vô thủy đến nay nghiệp chấp điên đảo, sanh nhau giết hại nhau, không được gặp Như Lai, không được nghe chánh pháp, ở trong trần lao cứ thế mà luân hồi. Những bọn này gọi là đáng thương xót vậy.

Những chúng sanh trả xong nợ ở địa ngục ngạ quỷ súc sanh thì trở lại làm người. Khi làm người cũng còn chút báo thừa của đời trước nên tùy loài mà hợp, vì vậy trong nhân gian có kẻ không người dại, có kẻ nham hiểm người độc ác... Đó là tùy theo hạt giống đời trước còn lưu lại. 

II. MƯỜI THỨ TIÊN

Này A-nan, lại có chúng sanh từ loài người không y nơi chánh giác tu chánh định, riêng tu theo vọng niệm, giữ tư tưởng bảo vệ thân hình, dạo nơi rừng núi chỗ không có người đến, thành mười thứ tiên.

A-nan, những chúng sanh kia do kiên cố ăn thức bổ dưỡng không dừng nghỉ, khi đạo ăn được thành tựu gọi là Địa hành tiên. Kiên cố dùng cỏ cây không dừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành tựu gọi là Phi hành tiên. Kiên cố dùng vàng đá không dừng nghỉ, khi đạo biến hóa được thành tựu gọi là Du hành tiên.

Địa hành tiên vì còn ăn những thứ mà họ cho rằng sẽ làm cho thân họ sống lâu bền, nên còn đi dưới đất chưa bay lên được. Phi hành tiên chỉ dùng thuốc nên nhẹ hơn, bay được. Lại có các ông tiên luyện đá hóa thành vàng, hoặc chế luyện các thứ thuốc. Luyện theo cách biến hóa như vậy nên gọi là đạo hóa.

Kiên cố dùng cái động và dừng không dừng nghỉ, khi khí tinh thành tựu gọi là Không hành tiên.

Động là sự biến động, dừng là sự yên tịnh, những vị này lấy đó làm phương châm để luyện tập. Như khí công, các lối luyện tập hơi thở, hít vô tới đâu rồi dừng lại để cho nó đi ra chỗ nào... Dùng cái động và dừng mà luyện, chỉ chuyên về khí nên bay được trên không.

Kiên cố dùng nước miếng không dừng nghỉ, khi nhuận đức được thành tựu gọi là Thiên hành tiên.

Những vị này ngồi thiền, co cái lưỡi trên ổ gà để đón nước miếng chảy xuống rồi nuốt, cho là nước cam lồ.

Kiên cố hấp thụ tinh sắc không dừng nghỉ, khi hấp thụ tinh hoa được thành tựu gọi là Thông hành tiên. Kiên cố luyện phù chú không dừng nghỉ, khi pháp thuật được thành tựu gọi là Đạo hành tiên. Kiên cố suy tư không dừng nghỉ, khi sự nghĩ nhớ được thành tựu gọi là Chiếu hành tiên. Kiên cố giao cấu không dừng nghỉ, khi cảm ứng được viên thành gọi là Tinh hành tiên. Kiên cố về biến hóa không dừng nghỉ, khi giác ngộ được viên thành gọi là Tuyệt hành tiên.

Trong thân người có tứ đại, nhưng nổi hơn hết là nước và lửa. Những vị này vận dụng lửa với nước gặp nhau để chuyển hóa gọi là giao cấu. Lửa đốt nước, nước thành hơi tức là khí, là lối "chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần".

Này A-nan, những vị này đều ở trong loài người mà luyện tâm, không tu chánh giác, riêng được lẽ sống, thọ ngàn muôn tuổi, ẩn trong núi sâu hoặc ở trên đảo giữa biển lớn, xa cách chỗ người ở. Đây cũng là vọng tưởng lưu chuyển luân hồi. Vì không tu chánh định, khi quả báo hết, trở lại phân tán vào trong các đường.

Những vị này do công phu luyện tập, tuổi thọ tuy dài nhưng rồi cũng phải chết, cũng luân hồi trong lục đạo chứ chưa ra khỏi. Như vậy công phu rất cực mà kết quả không phải là viên mãn. 

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 05538
  • Online: 16