Kinh Pháp Bảo Đàn - Tào Khê Nguyên Bản giảng ký: Phẩm 01 - NGỘ PHÁP TRUYỀN Y

19/12/2019 | Lượt xem: 2814

Dịch giảng: TT.Thích Thông Phương

CHÁNH VĂN:

Bấy giờ Đại sư đến chùa Bảo Lâm, Thích sử Thiều Châu là Vi Cừ cùng quan liêu vào núi thỉnh Sư ra tại giảng đường chùa Đại Phạm vì chúng mở bày duyên pháp nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật.

Sư thăng tòa, Thích sử và quan liêu hơn 30 người, hàng học sĩ bên Nho hơn 30 người, hàng Tăng Ni và cư sĩ hơn 1000 người, đồng thời làm lễ nguyện nghe pháp yếu. Đại sư bảo chúng:

- Này thiện tri thức! Hết thảy hãy lắng lòng niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật.

Đại sư im lặng giây lâu, bảo chúng:

- Này thiện tri thức! Tự tánh Bồ-đề xưa nay thanh tịnh, chỉ dùng tâm này, thẳng ngay đây tỏ ngộ thành Phật. Này thiện tri thức! Hãy lắng nghe tóm tắt về nguồn gốc thân thế và việc đắc pháp của Huệ Năng. Cha của Năng quê quán tại Phạm Dương (Hà Bắc), bị giáng chức đày ra Lĩnh Nam, làm thường dân ở Tân Châu. Thân này chẳng may cha lại mất sớm, mẹ góa con côi, dời đến Nam Hải, gian khó nghèo khổ, thường ra phố bán củi. Một hôm có người khách mua củi bảo gánh đến tiệm của khách. Khách thu củi xong, Năng nhận tiền, rồi đi ra ngoài cửa, gặp một người khách tụng kinh “Nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”, Năng vừa nghe qua lời kinh, tâm liền tỏ ngộ, bèn hỏi người khách tụng kinh gì? Khách bảo: “Kinh Kim Cang”. Lại hỏi thêm: “Từ đâu đến mà trì kinh này?” Khách bảo: “Tôi từ chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, Kỳ Châu đến đây. Chùa ấy hiện do Ngũ Tổ Đại sư Nhẫn làm chủ giáo hóa, đệ tử Ngài có hơn ngàn người. Tôi đến trong đó lễ bái, nghe nhận kinh này. Đại sư thường khuyên trong hàng tăng, tục, chỉ trì kinh Kim Cang tức tự thấy tánh, thẳng ngay đây tỏ ngộ thành Phật”.

Năng nghe nói, nhờ có duyên từ đời trước, bèn được một người khách lấy mười lạng bạc cho Năng để giúp nuôi dưỡng mẹ già và bảo hãy qua Hoàng Mai gặp Ngũ Tổ.

Năng sắp đặt cho mẹ xong, liền từ giã ra đi, chẳng hơn ba mươi ngày thì tới Hoàng Mai, lễ Ngũ Tổ. Ngũ Tổ hỏi Năng:

- Ông là người phương nào? Muốn cầu vật gì? 

Năng đáp:

- Đệ tử là người dân thường ở Tân Châu, thuộc Lĩnh Nam, từ xa đến đây lễ thầy, chỉ cầu làm Phật, chẳng cầu cái gì khác.

Tổ bảo:

- Ông là người Lĩnh Nam, lại là mọi rợ, làm sao kham làm Phật?

Năng thưa:

- Người tuy có Nam có Bắc, Phật tánh vốn không Nam Bắc. Thân mọi rợ này chẳng đồng với Hòa thượng, song Phật tánh đâu có gì sai khác!

Ngũ Tổ còn muốn nói thêm, nhưng thấy đồ chúng thảy ở bên cạnh, mới bảo theo chúng làm việc. Tôi thưa:

- Huệ Năng kính bạch Hòa thượng, đệ tử tự tâm thường sanh trí tuệ, chẳng lìa tự tánh tức là phước điền, chưa biết Hòa thượng bảo làm việc gì?

Tổ bảo:

- Gã mọi này căn tánh rất lanh lợi, ngươi chớ nói nữa, hãy xuống nhà sau đi!

Huệ Năng lui xuống hậu viện. Có một hành giả sai Năng bửa củi, đạp chày giã gạo, hơn tám tháng. Một hôm Tổ chợt gặp Năng, bảo:

- Ta nghĩ cái thấy của ngươi đáng dùng được, song e có kẻ xấu hại ngươi, mới chẳng cho ngươi nói, ngươi có biết chăng?

Năng thưa:

- Đệ tử cũng biết ý Thầy, chẳng dám đi đến nhà trên để cho người chẳng biết.

Một hôm, Tổ gọi hết thảy trong hàng đệ tử đến bảo:

- Ta nói cho các ông rõ, đời người, sanh tử là việc lớn, các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử. Nếu tự tánh đã mê, phước điền đâu thể cứu! Mỗi người trong các ông hãy đi tự xem lại trí tuệ chính mình, nhận lấy tánh Bát-nhã nơi bản tâm chính mình, rồi tự làm một bài kệ đem đến trình ta xem. Nếu tỏ ngộ được đại ý, ta sẽ trao y, pháp cho người ấy làm Tổ đời thứ sáu. Hãy gấp rút, nhanh đi, chẳng được chậm trễ! Nghĩ ngợi tức chẳng trúng dùng. Người thấy tánh cần ngay lời nói liền thấy. Nếu người như thế, khi múa đao ra trận cũng thấy. 

Chúng được sai bảo rồi, liền lui về lần lượt bảo nhau:

- Mỗi người chúng ta chẳng cần lắng tâm dụng ý làm kệ đem trình Hòa thượng, đâu có ích gì! Thượng tọa Thần Tú hiện đang là thầy giáo thọ, chắc hẳn Ngài sẽ được, bọn ta có dối làm kệ tụng cũng uổng dụng tâm lực thôi. 

Mọi người nghe nói, thảy đều hết tưởng mong, đồng bảo: “Chúng ta sau này sẽ nương tựa với thầy Tú, đâu nhọc làm kệ cho mệt!”.

Thần Tú suy nghĩ: “Mọi người chẳng trình kệ, vì ta là thầy giáo thọ của họ, ta cần phải làm kệ đem trình Hòa thượng. Nếu chẳng trình kệ, Hòa thượng làm sao biết chỗ thấy hiểu trong tâm ta là cạn hay sâu. Ta trình kệ, ý trong đó vì cầu pháp là tốt, còn mong tìm làm Tổ là xấu, lại đồng với tâm phàm muốn đoạt ngôi Thánh kia đâu khác. Nếu ta chẳng trình kệ thì trọn chẳng được pháp. Rất khó! Rất khó!”.

Trước nhà của Ngũ Tổ có hành lang ba gian, Tổ định mời quan Cung phụng Lư Trân vẽ tranh “Lăng Già biến tướng” và “Ngũ Tổ huyết mạch đồ” để lưu truyền cúng dường. Thần Tú làm kệ xong, mấy lần muốn trình, vừa đi đến trước nhà trên, trong tâm hồi hộp, toàn thân xuất mồ hôi, toan trình mà chẳng được. Trước sau trải qua bốn ngày mà mười ba lần trình kệ chẳng được. Thần Tú bèn suy nghĩ: “Chi bằng chép ở phía dưới vách hành lang, tùy Hòa thượng có xem thấy, nếu chợt bảo là hay, ta bèn ra lễ bái, nói là của Tú làm; nếu nói chẳng kham thì uổng cho ta mấy năm ở trong núi chịu người lễ bái, trọn tu đạo gì?”.

Đêm ấy, vào canh ba Sư chẳng cho ai biết, tự cầm đèn chép bài kệ nơi vách hành lang phía nam để tỏ bày chỗ thấy trong tâm.

Bài kệ:

     Thân là cây Bồ-đề,

     Tâm như đài gương sáng.

     Luôn luôn siêng lau chùi,

     Chớ để dính bụi nhơ.

Âm:

       Thân thị Bồ-đề thọ,

       Tâm như minh cảnh đài.

       Thời thời cần phất thức,

       Vật sử nhạ trần ai.

Thần Tú viết bài kệ xong, liền trở về phòng, không ai biết. Sư lại suy nghĩ: “Sáng mai Ngũ Tổ thấy bài kệ mà vui mừng, tức ta có duyên với pháp. Nếu như chẳng kham tự là ta mê mờ, nghiệp chướng đời trước sâu nặng, chẳng khế hợp được pháp, Thánh ý khó nghĩ lường”.

Ở trong phòng, Sư cứ nghĩ tưởng, ngồi nằm chẳng yên, suốt tới canh năm.

Tổ đã biết Thần Tú chưa được vào cửa, chẳng thấy tự tánh. Sáng ngày, Tổ gọi quan Cung phụng họ Lư tới vẽ đồ tướng nơi vách hành lang phía nam. Tổ chợt thấy bài kệ ấy, bèn nói với quan Cung phụng:

- Thôi, chẳng cần vẽ, thực nhọc ngài từ xa tới. Kinh nói: “Hễ cái gì có tướng đều là hư dối”, chỉ giữ lại bài kệ này cho người tụng trì, nương theo bài kệ này tu hành sẽ chẳng rơi vào đường ác, nương theo bài kệ này tu hành sẽ được lợi ích lớn.

Tổ bảo môn nhân thắp hương lễ bái, trọn tụng bài kệ này tức sẽ được thấy tánh. Môn nhân tụng kệ đều khen: “Hay quá!”.

Canh ba, Tổ gọi Thần Tú vào phòng, hỏi:

- Có phải ông làm bài kệ ấy chăng?

Thần Tú thưa:

- Quả thật con làm, chẳng dám vọng cầu ngôi Tổ, chỉ mong Hòa thượng từ bi xem đệ tử có chút ít trí tuệ chăng?

Tổ bảo:

- Ông làm bài kệ này, chưa thấy bản tánh, chỉ đến ngoài cửa chưa vào trong cửa. Thấy hiểu như thế mà mong tìm Vô thượng Bồ-đề trọn không thể được. Vô thượng Bồ-đề cần ngay lời nói nhận biết bản tâm mình, thấy bản tánh mình chẳng sanh chẳng diệt, ở trong tất cả thời niệm niệm luôn tự thấy, muôn pháp không làm ngưng trệ. Một chân thì tất cả chân, muôn cảnh tự như như. Tâm như như tức là chân thật. Nếu thấy như thế tức là tự tánh Vô thượng Bồ-đề. Ông hãy đi về suy nghĩ một hai ngày, rồi làm một bài kệ khác đem đến đây cho ta xem. Nếu bài kệ của ông vào cửa được, ta sẽ trao phó y pháp cho ông.

Thần Tú làm lễ rồi lui ra. Trải qua mấy ngày, Sư làm kệ chẳng xong. Trong tâm hồi hộp, tinh thần không yên, giống như trong mộng, đi ngồi chẳng vui.

Thêm hai ngày nữa, có một chú bé đi qua chỗ giã gạo, xướng tụng bài kệ ấy. Năng vừa nghe, liền biết bài kệ này chưa thấy bản tánh, dù chưa được chỉ dạy mà đã sớm biết đại ý, liền hỏi chú bé:

- Tụng đó là bài kệ gì?

Chú bé đáp:

- Ông mọi này, chẳng biết Đại sư bảo: “Đời người, sanh tử là việc lớn, muốn được có người để truyền trao y pháp, mới bảo môn nhân làm kệ đến trình cho Ngài xem, nếu ngộ đại ý tức sẽ trao y pháp, làm Tổ thứ sáu”. Thượng tọa Thần Tú đã chép bài kệ này nơi vách hành lang phía nam. Đại sư bảo mọi người đều đọc thuộc, nương bài kệ này tu hành sẽ khỏi rơi vào đường ác.

Năng nói:

- Tôi cũng cần tụng bài kệ này để kết duyên đời sau đồng sanh nơi đất Phật. Thượng nhân! Tôi tới đây đạp cối giã gạo hơn tám tháng rồi, chưa từng đi lên nhà trên. Mong thượng nhân dẫn tôi đến trước bài kệ làm lễ.

Chú bé dẫn Huệ Năng đến trước bài kệ làm lễ. Năng nói:

- Năng chẳng biết chữ, xin thượng nhân đọc dùm.

Lúc đó, có quan Biệt giá ở Giang Châu là Trương Nhật Dụng liền đọc to lên. Năng nghe xong, bèn nói mình cũng có một bài kệ, mong quan Biệt giá chép dùm. Quan Biệt giá nói: 

- Người mọi, ông cũng làm kệ nữa à, việc ấy hiếm có.

Năng nói với quan Biệt giá:

- Người muốn học Vô thượng Bồ-đề chẳng thể khinh kẻ mới học. Người dưới thấp lại có trí bậc trên cao, người bậc trên cao lại chôn vùi ý trí, nếu khinh người tức có vô lượng vô biên tội.

Quan Biệt giá nói:

- Ông hãy đọc kệ, tôi chép cho ông. Nếu ông đắc pháp, phải độ tôi trước, chớ quên lời này nhé!

Năng đọc kệ:

     Bồ-đề vốn không cội,

     Gương sáng chẳng phải đài.

     Xưa nay không một vật,

     Chỗ nào dính bụi đây!

Âm:

     Bồ-đề bổn vô thọ,

     Minh cảnh diệc phi đài.

     Bản lai vô nhất vật,

     Hà sử nhạ trần ai!

Chép bài kệ xong, đồ chúng thảy giật mình, ai nấy cũng hít hà, cùng bảo nhau: “Lạ thay! Chẳng được lấy tướng mạo mà đoán người. Đâu ngờ lâu nay đã sai khiến nhục thân Bồ-tát!”. 

Tổ thấy mọi người kinh lạ, sợ có kẻ làm hại Năng, bèn lấy giày chà hết bài kệ, bảo:

- Cũng chưa thấy tánh.

Mọi người dừng hết nghi ngờ.

Ngày hôm sau, Tổ thầm đến nơi giã gạo gặp Năng lưng đeo đá giã gạo, Ngài nói:

- Người cầu đạo vì pháp quên thân, phải như thế sao!

Rồi hỏi:

- Gạo trắng chưa?

Năng thưa:

- Gạo trắng đã lâu, chỉ còn thiếu cái sàng.

Tổ lấy gậy gõ vào cối ba cái, rồi đi. Năng hiểu ý Tổ, trống canh ba liền đi vào thất. Tổ lấy cà-sa che chung quanh chẳng cho ai thấy, rồi nói kinh Kim Cang cho nghe. Đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia), Huệ Năng ngay lời nói liền đại ngộ: “Tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh”, bèn kính bạch Tổ:

   Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh!

   Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt!

   Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ!

   Đâu ngờ tự tánh vốn không lay động!

   Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp!

Tổ biết đã ngộ bản tánh, tức gọi Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật.

 

 

 

 

 

Canh ba đã nhận lĩnh Pháp, không ai biết, Tổ liền truyền đốn giáo và y bát, nói: “Ngươi là Tổ đời thứ sáu, hãy khéo tự giữ gìn, rộng độ chúng sanh, truyền khắp mãi về sau, chớ để đoạn dứt. Nghe ta nói kệ:

     Có tình đến gieo giống,

     Nhân đất quả lại sanh.

     Không tình đã không giống,

     Không tánh cũng không sanh.

Âm:

     Hữu tình lai hạ chủng,

     Nhân địa quả hoàn sanh.

     Vô tình ký vô chủng,

     Vô tánh diệc vô sanh.

Tổ nói thêm:

- Xưa Đại sư Đạt-ma mới đến cõi này, người chưa tin biết, vì vậy mới truyền y này để làm chỗ y cứ cho người tin (tín thể). Pháp đời đời truyền thừa nhau ắt lấy tâm truyền tâm, đều khiến tự ngộ, tự hiểu. Từ xưa Phật Phật chỉ truyền bản thể, thầy thầy thầm trao bản tâm. Y là đầu mối để tranh giành, hãy dừng nơi ngươi chớ truyền nữa. Nếu truyền y này thì mạng sống như tơ mành. Ngươi hãy đi nhanh, e có người sẽ hại ngươi.

Năng thưa:

- Con sẽ đi đâu?

Tổ bảo:

- Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn.

Huệ Năng vào canh ba nhận lãnh y bát rồi thưa:

- Năng vốn là người vùng Lĩnh Nam, đã lâu chẳng biết rõ đường đi của núi này, làm sao ra được bến sông?

Ngũ Tổ bảo:

- Ngươi không phải lo, ta sẽ tự đưa ngươi đi. 

Tổ đưa đến trạm Cửu Giang. Bên trạm có một chiếc thuyền, Ngũ Tổ cầm chèo tự chèo. Huệ Năng thưa:

- Thỉnh Hòa thượng ngồi, đệ tử nên chèo.

Ngũ Tổ bảo:

- Nên để ta độ ngươi.

Huệ Năng thưa:

- Khi mê thì thầy độ, ngộ rồi thì tự độ. Tuy tên “độ” là một, mà chỗ dụng chẳng đồng. Huệ Năng sanh ở vùng biên địa xa xôi, giọng nói chẳng chính. Được thầy trao pháp, nay đã được ngộ, chỉ nên tự tánh tự độ.

Tổ bảo:

- Đúng thế! Đúng thế! Về sau Phật pháp sẽ do ngươi mà được truyền rộng, ngươi đi ba năm ta sẽ qua đời. Nay ngươi hãy khéo đi, gắng sức về phương Nam, chẳng nên nói sớm, Phật pháp có nạn khởi.

 

 

 

 

Năng từ giã Tổ, cất bước đi về phương Nam. Khoảng hai tháng thì đến ngọn Đại Dữu.

Ngũ Tổ thì trở về, mấy ngày chẳng thượng đường, chúng nghi mới đến thăm hỏi:

- Hòa thượng có bệnh hoạn gì chăng?

Tổ đáp:

- Không có bệnh gì, chỉ y pháp đã về phương Nam rồi. 

Chúng hỏi:

- Ai được truyền trao?

Tổ bảo:

- Năng thì được.

Chúng mới biết. Có mấy trăm người đuổi theo sau muốn đoạt y bát. Một vị tăng tên là Trần Huệ Minh, trước kia là tướng quân tứ phẩm, tánh hạnh thô tháo, quyết lòng tìm kiếm, chạy trước mọi người, đuổi kịp Năng. Năng bỏ y bát trên tảng đá, nói:

- Y này là vật tiêu biểu để làm tin, có thể dùng sức để tranh sao?

Năng liền ẩn vào bụi cỏ rậm. Huệ Minh chạy đến kéo y bát lên chẳng nhúc nhích, mới gọi to: 

- Hành giả! Hành giả! Tôi vì pháp mà đến, chẳng phải vì y đến.

Năng bèn bước ra, ngồi trên tảng đá. Huệ Minh làm lễ, nói:

- Mong hành giả vì tôi mà nói pháp.

Huệ Năng bảo:

- Ông đã vì pháp mà đến, hãy dứt bặt các duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ nói cho ông nghe!

Im lặng giây lâu, Huệ Năng bảo Minh:

- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính khi ấy, cái gì là mặt mày xưa nay của Thượng tọa Minh?

Huệ Minh ngay câu nói đại ngộ, lại hỏi thêm:

- Ngoài lời mật, ý mật từ trước đến đây, còn có ý mật nào nữa chăng? 

Năng bảo:

- Đã nói với ông tức chẳng phải mật. Nếu ông soi ngược trở lại thì mật ở bên ông.

Minh nói:

- Huệ Minh tuy ở Hoàng Mai mà thật chưa tỉnh được mặt mày của chính mình. Nay được chỉ dạy, như người uống nước lạnh nóng tự biết. Giờ đây, hành giả chính là thầy của Huệ Minh vậy.

Năng bảo:

- Nếu ông như thế, tôi cùng ông đồng thờ Hoàng Mai làm thầy, hãy khéo tự giữ gìn.

Minh hỏi thêm:

- Từ nay về sau, Huệ Minh sẽ đi đâu?

Năng bảo:

- Gặp Viên thì dừng, gặp Mông thì ở.

Huệ Minh kính lễ rồi từ giã.

Huệ Minh trở xuống đến dưới núi, bảo với những người đuổi theo:

- Đã trèo lên chót vót, trọn không thấy dấu vết gì, hãy tìm theo lối khác!

Mọi người đều cho là phải. Về sau Huệ Minh đổi là Đạo Minh để tránh chữ trên của thầy. 

Sau đó Năng đến Tào Khê. Lại bị người ác đuổi tìm, bèn tránh nạn ở Tứ Hội, lẫn trong đám thợ săn, cả thảy 15 năm. Lúc đó, tùy nghi thuyết pháp cho thợ săn nghe. Thợ săn thường sai Năng giữ lưới, mỗi khi gặp con vật mắc lưới trọn đều thả hết. Đến giờ cơm thì lấy rau gởi luộc trong nồi thịt. Có ai hỏi thì đáp: 

- Chỉ ăn rau bên thịt.

Một hôm Năng suy nghĩ: “Đã đến thời hoằng pháp, chẳng thể ẩn mãi”, bèn ra chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu gặp Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn. Lúc đó có gió thổi phướn động, một vị tăng bảo gió động, một vị bảo phướn động. Bàn mãi không thôi. Năng tiến lên nói:

- Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm Ngài động.

Cả chúng kinh hãi. Ấn Tông mời lên trên gạn hỏi nghĩa sâu xa. Thấy Năng lời lẽ giản dị mà lý lại xác đáng, không theo văn tự, Ấn Tông nói:

- Hành giả nhất định chẳng phải người thường. Từ lâu đã nghe y pháp của Hoàng Mai về phương Nam, phải là hành giả chăng?

Năng nói:

- Chẳng dám.

Khi đó Ấn Tông làm lễ, xin đem y bát ra chỉ cho đại chúng xem. Ấn Tông hỏi thêm:

- Hoàng Mai phó chúc truyền dạy thế nào?

Năng đáp:

- Không có gì truyền dạy, chỉ luận về kiến tánh, chẳng bàn thiền định, giải thoát.

Ấn Tông hỏi:

- Sao chẳng luận thiền định, giải thoát?

Đáp:

- Vì đó là pháp có hai, chẳng phải Phật pháp, Phật pháp là pháp chẳng hai.

Ấn Tông lại hỏi:

- Thế nào Phật pháp là pháp chẳng hai?

Năng đáp:

- Pháp sư giảng kinh Niết Bàn đã rõ Phật tánh là pháp chẳng hai của Phật pháp. Như Bồ-tát Cao Quý Đức Vương trong kinh Niết Bàn bạch Phật: “Người phạm bốn giới trọng, tạo tội ngũ nghịch và nhất-xiển-đề... sẽ đoạn thiện căn Phật tánh chăng?”. Phật bảo: “Thiện căn có hai: Một là thường, hai là vô thường. Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, thế nên chẳng đoạn, đó gọi là chẳng hai. Một là thiện, hai là chẳng thiện, Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải chẳng thiện, đó gọi là chẳng hai. Uẩn và giới, phàm phu thấy hai, người trí rõ suốt tánh nó không hai, tánh không hai tức là Phật tánh”. 

Ấn Tông nghe nói, vui mừng chắp tay thưa:

- Tôi giảng kinh giống như ngói gạch, Ngài luận nghĩa ví tợ vàng ròng.

Sau đó Ấn Tông cạo tóc cho Năng, nguyện thờ làm thầy. Năng bèn ở dưới cội Bồ-đề khai pháp môn Đông Sơn. Năng từ khi đắc pháp ở Đông Sơn, chịu hết mọi sự gian nan khổ nhọc, mạng như tơ mành. Hôm nay được cùng Sử quân, quan liêu, Tăng Ni, xuất gia, tại gia đồng tụ hội nơi đây, phải đã có nhân duyên nhiều kiếp, cũng như trong đời quá khứ từng cúng dường chư Phật, đồng gieo trồng căn lành, mới được cái nhân nghe pháp Đốn giáo như trên. Giáo là do bậc Thánh từ trước đã truyền, chẳng phải từ trí riêng của Huệ Năng. Nguyện cho người nghe giáo của bậc Thánh trước, khiến mỗi người được lòng thanh tịnh, nghe xong đều tự trừ hết nghi ngờ, giống như bậc Thánh đời trước không khác.

***

 

Sư lại bảo chúng:

- Này thiện tri thức! Trí Bồ-đề Bát-nhã, người đời vốn tự sẵn có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ bậc đại thiện tri thức chỉ dẫn cho thấy tánh. Phải biết, người ngu người trí, Phật tánh vốn không sai khác, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng, do đó có ngu, có trí. Nay tôi sẽ nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho các ông mỗi người nhận được trí tuệ. Hãy hết lòng lắng nghe, tôi sẽ vì các ông mà nói.

Này thiện tri thức! Người đời trọn ngày miệng niệm Bát-nhã mà chẳng biết tự tánh Bát-nhã. Giống như nói ăn mà chẳng no, miệng chỉ nói “không”, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích gì.

Này thiện tri thức! Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tiếng Phạn, xứ này gọi là Đại Trí Tuệ Đáo Bỉ Ngạn. Trí này cần tâm thực hành chẳng ở miệng niệm. Miệng niệm mà tâm chẳng hành thì như huyễn, như hóa, như sương, như điện. Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng ứng hợp nhau, bản tánh chính là Phật, lìa tánh không riêng có Phật.

Sao gọi là Ma-ha? Ma-ha là Lớn. Tâm lượng rộng lớn giống như hư không, không có bờ mé, cũng không vuông tròn, lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng không trên dưới, dài ngắn, cũng không mừng giận, không phải quấy, không lành dữ, không đầu đuôi. Bao nhiêu cõi nước của chư Phật trọn đồng hư không. Diệu tánh của người đời vốn KHÔNG, không có một pháp có thể được, tự tánh chân không cũng lại như thế.

Này thiện tri thức! Chớ nghe tôi nói “không”, liền chấp trước vào “không”. Bậc nhất là chớ chấp trước “không”. Nếu để cho tâm trống trơn, ngồi yên lặng, tức kẹt vào cái “không vô ký”.

Này thiện tri thức! Thế giới hư không hay bao gồm muôn vật, hình sắc, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, núi sông, quả đất, suối nguồn, khe rạch, cỏ cây, rừng bụi, người lành, người dữ, pháp dữ, pháp lành, thiên đường, địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di thảy đều ở trong hư không. Tánh Không của người đời cũng lại hư thế.

Này thiện tri thức! Tự tánh hay bao gồm muôn pháp là lớn. Muôn pháp ở trong tánh mọi người, nếu thấy tất cả người: dữ và lành trọn chẳng lấy chẳng bỏ, cũng chẳng đắm nhiễm, tâm như hư không, gọi đó là Lớn, nên nói là Ma-ha.

Này thiện tri thức! Người mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có người mê để tâm trống trơn, ngồi yên lặng, trăm điều chẳng nghĩ, tự cho là Lớn. Một bọn người này chẳng thể nói với họ, vì là tà kiến.

Này thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn, trùm khắp pháp giới, dùng tức rõ ràng rành rẽ, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tức một, một tức tất cả, đi đến tự do, tâm thể không ngưng trệ, tức là Bát-nhã.

Này thiện tri thức! Tất cả trí Bát-nhã đều từ tự tánh mà sinh, chẳng từ ngoài vào, chớ lầm dụng ý, gọi là chân tánh tự dụng. Một chân thì tất cả chân, Tâm chứa đựng việc lớn, chẳng đi theo lối nhỏ. Miệng chớ trọn ngày nói “không” mà trong tâm chẳng tu hạnh này. Giống hệt người thường mà tự xưng là vua, trọn không thể được, chẳng phải đệ tử của tôi.

Này thiện tri thức! Sao gọi là Bát-nhã? Bát-nhã, Đường dịch là trí tuệ. Trong tất cả chỗ, tất cả thời, niệm niệm chẳng ngu, thường hành trí tuệ, tức là hạnh Bát-nhã. Một niệm ngu tức Bát-nhã dứt. Một niệm trí tức Bát-nhã sinh. Người đời ngu mê chẳng thấy Bát-nhã, miệng nói Bát-nhã mà trong tâm thường ngu. Thường tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói “không”, mà chẳng biết “chân không”. Bát-nhã không hình tướng, chính đó là tâm trí tuệ. Nếu khởi hiểu như thế, tức gọi trí Bát-nhã.

Sao gọi Ba-la-mật? Đây là tiếng Tây Quốc (Ấn Độ), Đường nói là đáo bỉ ngạn, giải nghĩa là lìa sinh diệt. Chấp trước cảnh thì sinh diệt khởi, như nước dậy sóng mòi, tức gọi là bờ này. Lìa cảnh thì không sinh diệt, như nước thường trôi chảy, tức gọi bờ kia. Vì vậy gọi Ba-la-mật.

Này thiện tri thức! Người mê miệng niệm, ngay khi niệm có vọng, có quấy. Nếu niệm niệm thực hành, đó gọi là chân tánh. Người ngộ pháp này, là pháp Bát-nhã. Người tu hạnh này, là hạnh Bát-nhã. Chẳng tu tức phàm, một niệm tu hành thì tự thân đồng với Phật.

Này thiện tri thức! Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề, niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật; niệm trước dính cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ-đề.

Này thiện tri thức! Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất (tôn quý hơn hết, trên hết, bậc nhất hơn hết), không trụ, không qua, không lại. Chư Phật ba đời từ trong đó mà hiện ra. Chính dùng Trí Tuệ Lớn mà phá tan phiền não trần lao nơi năm uẩn. Tu hành như thế nhất định sẽ thành Phật đạo, biến ba độc làm giới-định-tuệ.

Này thiện tri thức! Pháp môn của ta đây từ một Bát-nhã mà sinh tám muôn bốn ngàn trí tuệ. Tại sao? Vì người đời có tám muôn bốn ngàn trần lao, nếu không trần lao thì trí tuệ thường hiện, chẳng lìa tự tánh. Người ngộ pháp này tức là không niệm, không nhớ nghĩ, không dính mắc, chẳng khởi dối trá, dụng ngay tánh chân như của chính mình. Dùng trí tuệ soi sáng, đối tất cả pháp chẳng lấy, chẳng bỏ, tức là thấy tánh thành Phật đạo.

Này thiện tri thức! Nếu người muốn vào pháp giới sâu xa và Bát-nhã tam-muội, cần tu hạnh Bát-nhã, trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã tức sẽ được thấy tánh. Phải biết, kinh này có công đức vô lượng vô biên mà trong kinh đã khen ngợi rành rõ, không gì có thể nói đủ hết.

Pháp môn này là Tối thượng thừa, vì người đại trí mà nói, vì người thượng căn mà nói; người tiểu căn, tiểu trí nghe đến thì tâm sanh chẳng tin. Tại sao? Ví như rồng to làm mưa xuống, thì ở cõi Diêm-phù-đề, thành ấp, xóm làng thảy đều bị trôi giạt, như trôi lá táo.

Nếu mưa xuống biển cả thì chẳng thêm, chẳng bớt. Nếu người Đại thừa hoặc người Tối thượng thừa, nghe nói kinh Kim Cang thì tâm mở sáng tỏ ngộ nên biết bản tánh tự có trí Bát-nhã. Vì tự dụng trí tuệ thường soi sáng nên chẳng nhờ văn tự. Ví như nước mưa, chẳng từ trời có, vốn là rồng hay dấy lên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cỏ cây, hữu tình, vô tình, thảy đều được tươi nhuần; trăm sông, mọi dòng chảy vào biển cả lại họp thành một thể. Trí Bát-nhã nơi tự tánh của chúng sanh cũng lại như thế.

Này thiện tri thức! Người tiểu căn nghe pháp Đốn giáo này, giống như cỏ cây gốc rễ nhỏ nếu như gặp mưa to thảy đều bị ngã rạp, chẳng thể lớn lên. Người tiểu căn cũng lại như thế, vốn có trí Bát-nhã không sai khác gì với người đại trí, nhân đâu nghe pháp chẳng tự tỏ ngộ? Bởi do tà kiến chướng nặng, gốc rễ phiền não sâu dày, giống như mây to che phủ mặt trời, chẳng được gió thổi qua thì ánh sáng mặt trời chẳng hiện. Trí Bát-nhã cũng không có lớn nhỏ, vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng. Tâm mê thì thấy tu hành tìm Phật bên ngoài, chưa ngộ tự tánh tức là tiểu căn. Nếu người tỏ ngộ Đốn giáo, chẳng chấp tu bên ngoài, chỉ đối với tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường chẳng thể nhiễm tức là thấy tánh. 

Này thiện tri thức! Trong ngoài chẳng dừng trụ, đến đi tự do, hay trừ tâm chấp, thông suốt không ngăn ngại. Người hay tu hạnh này thì cùng với kinh Bát Nhã vốn không sai khác.

Này thiện tri thức! Tất cả khế kinh và mọi thứ văn tự Đại thừa, Tiểu thừa, mười hai bộ kinh đều nhân nơi người mà đặt thành, nhân tánh trí tuệ mới hay dựng lập. Vì nếu không có người đời thì tất cả muôn pháp vốn tự chẳng có. Cho nên biết, muôn pháp vốn từ nơi người mà dấy lên, tất cả kinh sách nhân nơi người mà có nói ra. Bởi trong người kia có ngu, có trí, ngu là tiểu nhân, trí là đại nhân. Người ngu hỏi với người trí, người trí nói pháp cho người ngu nghe, người ngu chợt tỏ ngộ, tâm mở sáng, thì không khác gì với người trí.

Này thiện tri thức! Chẳng ngộ tức Phật là chúng sanh, khi một niệm ngộ thì chúng sanh là Phật. Cho nên biết, muôn pháp trọn ở nơi tự tâm, sao chẳng ở trong tự tâm mà chóng thấy bản tánh chân như. Kinh Bồ Tát Giới nói: “Bản nguyên tự tánh của ta là thanh tịnh, nếu nhận biết tự tâm, thấy tánh thì đều thành Phật đạo”. Kinh Tịnh Danh nói: “Liền đó hoát nhiên trở lại được bản tâm”.

Này thiện tri thức! Tôi ở chỗ Hòa thượng Nhẫn, vừa nghe liền ngay lời nói tỏ ngộ, chóng thấy bản tánh chân như. Do đó tôi đem giáo pháp này truyền ra, khiến cho người học đạo chóng ngộ Bồ-đề. Mỗi người hãy tự xét rõ tâm mình, thấy bản tánh mình. Nếu tự chẳng ngộ, cần tìm bậc Đại thiện tri thức hiểu pháp Tối thượng thừa chỉ thẳng cho con đường chân chánh. Bậc thiện tri thức ấy có nhân duyên lớn, nghĩa là giáo hóa, dẫn dắt, khiến được thấy tánh, vì tất cả pháp lành nhân vị thiện tri thức mà hay phát khởi. Chư Phật ba đời, mười hai bộ kinh vốn tự có đủ trong tánh người. Chẳng thể tự ngộ, phải cầu bậc thiện tri thức chỉ bày cho mới thấy. Nếu người tự ngộ thì chẳng nhờ tìm cầu bên ngoài. Nếu một bề chấp cho là phải cần vị thiện tri thức ấy mới mong được giải thoát, không có lẽ ấy. Tại sao? Trong tự tâm có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà mê, vọng niệm điên đảo thì thiện tri thức bên ngoài dù có truyền dạy, trọn không thể cứu được. Nếu phát khởi trí Bát-nhã chánh chân soi sáng, thì khoảng một sát-na vọng niệm đều dứt. Nếu nhận biết tự tánh thì một phen ngộ liền đến Phật địa.

Này thiện tri thức! Trí tuệ soi xét, sáng suốt cả trong ngoài, nhận biết bản tâm mình. Nếu nhận biết bản tâm tức vốn giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát-nhã tam-muội. Bát-nhã tam-muội tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp, tâm chẳng nhiễm trước, đó là vô niệm. Dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng chẳng dính tất cả chỗ. Chỉ bản tâm thanh tịnh, sẽ khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần, không dính mắc, không lẫn lộn, đến đi tự do, ứng dụng thông suốt không ngưng trệ, tức là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là hạnh vô niệm. Nếu trăm vật chẳng nghĩ, sẽ khiến cho niệm dứt bặt tức là pháp trói, gọi là biên kiến.

Này thiện tri thức! Người ngộ pháp vô niệm thì trọn đều thông suốt muôn pháp. Người ngộ pháp vô niệm thì thấy cảnh giới chư Phật. Người ngộ pháp vô niệm thì đến địa vị Phật.

Này thiện tri thức! Đời sau có người nhận được pháp của tôi, hãy đem pháp môn Đốn giáo này đối với người đồng kiến, đồng hạnh, phát nguyện thọ trì như thờ Phật, nên trọn đời chẳng lui sụt, là nhất định sắp vào Thánh vị. Song cần truyền trao theo từ trước đến nay là thầm truyền trao phó, chẳng được ẩn giấu chánh pháp ấy. Nếu người chẳng đồng kiến, đồng hạnh, ở trong pháp khác thì chẳng truyền trao, sẽ làm tổn đến người trước kia, rốt ráo không ích gì. Sợ rằng người ngu chẳng hiểu mà chê bai pháp này, thì trăm kiếp ngàn đời đoạn dứt hạt giống Phật. 

Này thiện tri thức! Tôi có một bài tụng Vô Tướng, mỗi người cần tụng lấy. Tại gia hay xuất gia, hãy nương bài tụng này tu hành, nếu chẳng tự tu, chỉ ghi nhớ lời tôi, cũng không có ích gì. Hãy nghe tôi nói tụng:

     Thuyết thông và tâm thông,

     Như mặt trời trên không,

     Chỉ truyền pháp kiến tánh,

     Ra đời phá tà tông.

     Pháp tức không đốn tiệm,

     Mê ngộ có chậm mau,

     Chỉ môn kiến tánh này,

     Người ngu chẳng thể rành.

     Nói tuy có muôn thứ,

     Hợp lý trở về một,

     Trong nhà tối phiền não,

     Thường phải sanh trời tuệ.

     Tà đến phiền não tới,

     Chánh đến phiền não trừ,

     Chánh tà đều chẳng dụng,

     Thanh tịnh đến vô dư.

     Bồ-đề vốn tự tánh,

     Dấy tâm liền là vọng,

     Tâm tịnh ở trong vọng,

     Chỉ chánh, không ba chướng.

     Người đời nếu tu đạo,

     Tất cả trọn chẳng ngại,

     Thường tự thấy lỗi mình,

     Cùng đạo tức tương đương.

     Sắc loại tự có đạo,

     Đều chẳng não hại nhau,

     Lìa đạo riêng tìm đạo,

     Trọn đời chẳng thấy đạo.

     Lăng xăng qua một đời,

     Cuối cùng lại tự hận,

     Muốn được thấy chân đạo,

     Hành chánh tức là đạo.

     Nếu tự không đạo tâm,

     Hạnh tối chẳng thấy đạo,

     Nếu người thật tu đạo,

     Chẳng thấy lỗi thế gian.

     Nếu thấy lỗi người khác,

     Lỗi mình đến bên cạnh,

     Người lỗi ta chẳng lỗi,

     Ta chê, tự có lỗi.

     Chỉ tự bỏ tâm quấy,

     Phá tan hết phiền não,

     Yêu ghét chẳng bận lòng,

     Duỗi thẳng hai chân ngủ.

     Toan muốn giáo hóa người,

     Tự phải có phương tiện,

     Chớ để họ nghi ngờ,

     Tức là tự tánh hiện.

     Phật pháp ở trong đời,

     Chẳng lìa đời có giác.

     Lìa đời tìm Bồ-đề,

     Giống hệt tìm sừng thỏ.

     Chánh kiến gọi xuất thế,

     Tà kiến gọi thế gian,

     Chánh tà đều quét sạch,

     Tánh Bồ-đề sáng ngời.

     Tụng này là Đốn giáo,

     Cũng gọi đại pháp thuyền,

     Mê nghe trải nhiều kiếp,

     Ngộ ắt khoảng sát-na.

Sư lại nói:

- Nay ở chùa Đại Phạm nói pháp Đốn giáo này, nguyện khắp cho pháp giới chúng sanh, ngay lời nói thấy tánh thành Phật.

Lúc ấy, Vi Sử quân cùng với quan liêu, đạo tục nghe những điều Sư nói thảy đều tỉnh ngộ, đồng thời làm lễ và đều khen ngợi:

- Lành thay, đâu ngờ Lĩnh Nam có Phật ra đời!

 

GIẢNG:

Bấy giờ Đại sư (tức Lục Tổ) đến chùa Bảo Lâm. Thích (Thứ) sử Thiều Châu Vi Cừ, có chỗ ghi là Vi Cứ, cùng quan liêu vào núi thỉnh Sư ra ở tại nơi giảng đường chùa Đại Phạm, vì chúng mở bày duyên pháp, nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật. Sư thăng tòa, Thích sử và quan liêu hơn 30 người, hàng học sĩ bên Nho hơn 30 người, hàng Tăng Ni và cư sĩ cũng hơn 1000 người đồng thời làm lễ, nguyện nghe pháp yếu.

Vì sao vào núi thỉnh? Khi Lục Tổ gặp Ngài Ấn Tông cạo tóc xuất gia, thọ giới ở chùa Pháp Tánh, Quảng Châu. Mùa xuân năm sau, Lục Tổ mới về chùa Bảo Lâm, Thiều Châu. Khi đó có Ngài Ấn Tông và tăng tục hơn ngàn người tiễn đưa. Chùa Bảo Lâm ở Thiều Châu do Ngài Tam Tạng Trí Dược khởi xướng xây dựng vào đời Lương. Chùa này ở trong núi, tại phủ Thiều Châu, tỉnh Quảng Đông, ban đầu tên Bảo Lâm, đến đời Đường Trung Tông đổi tên thành Trung Hưng Tự, sau đổi thành Quảng Quả Tự, Pháp Tuyền Tự, qua nhiều lần đổi tên, đến đời Tống lại đổi thành Nam Hoa Tự, Hoa Quả Tự, ngày nay gọi là chùa Nam Hoa hoặc Nam Hoa Thiền Tự.

Lục Tổ ở nơi núi, Thích sử cùng với quan liêu ở trong thành nên vào núi thỉnh. Chùa Đại Phạm, theo bộ Quảng Đông Thông Chí tức là chùa Báo Ân Quang Hiếu ở Hà Tây huyện Khúc Giang phủ Thiều Châu. Đời Đường niên hiệu Khai Nguyên thứ hai (714) có vị tăng tên Tông Tích xây dựng, cũng gọi là chùa Đại Phạm. Nơi đây, Lục Tổ bắt đầu khai pháp giáo hóa tuyên dương pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật. Pháp hội này gồm có Thích sử Vi Cừ (vào thời Đường, Thích sử là người đứng đầu một châu), cùng quan liêu, Nho sĩ hơn 30 người, Tăng Ni, cư sĩ cộng lại hơn ngàn người, vậy là có tăng tục đầy đủ. Lục Tổ từ đây bắt đầu mở duyên pháp diễn bày pháp bảo.

Đại sư bảo với chúng:

- Này thiện tri thức! Hết thảy hãy lắng lòng niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật.

Khi chúng niệm xong. Đại sư im lặng giây lâu, bảo chúng:

- Này thiện tri thức! Tự tánh Bồ-đề xưa nay thanh tịnh, chỉ dùng tâm này thẳng ngay đây tỏ ngộ thành Phật.

Mở đầu trước khi nói pháp, Ngài bảo mọi người hãy lắng lòng niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, cho thấy Tổ rất đề cao tinh thần Bát-nhã nhất là kinh Kim Cang, bởi Tổ tỏ ngộ từ kinh Kim Cang.

Mở đầu, Lục Tổ Đại sư chỉ thẳng con đường đốn ngộ. Ngài nhấn mạnh tự tánh Bồ-đề xưa nay là thanh tịnh chỉ dùng tâm này thẳng ngay đây thành Phật, không phải tìm đâu xa. Đó là đánh thức mọi người phải tỏ ngộ lại tự tánh Bồ-đề, xưa nay vốn tự thanh tịnh, không phải tìm bên ngoài, cũng không phải làm cho thanh tịnh. Chúng ta tu không phải làm cho tâm thanh tịnh, tâm vốn tự thanh tịnh, tu là gạn lọc những lầm mê, phiền não, gạn lọc những cái hư vọng rồi thì tự tánh Bồ-đề hiển bày. Cho nên về sau trong bài kệ của Ngài có câu: “Xưa nay không một vật, Chỗ nào dính bụi đây!”. Làm chúng sanh cũng ngay đây, mà thành Phật cũng ngay đây, đó là tinh thần Đốn giáo. Làm Phật thì ngay đó là hiển nhiên, nhưng làm chúng sanh cũng ngay đó là vì sao? Không phải làm chúng sanh ngay tự tánh Bồ-đề mà do mê tự tánh Bồ-đề nên làm chúng sanh. Ngộ trở lại tự tánh Bồ-đề thì chuyển chúng sanh làm Phật, rất nhanh chóng, không phải qua thứ lớp nên gọi là Đốn ngộ hay Đốn giáo.

Thành Phật không phải thành ở trong kinh điển, không phải ở trong phân tích chữ nghĩa, cũng không phải thành ở cõi nào khác mà thành ở trong tự tánh Bồ-đề ngay trong tự tâm của chúng ta. Thiền Tông xiển dương “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” là như vậy, không phải Thiền Tông chê bai phá bỏ kinh điển, mà vì muốn người thấy rõ lẽ thật. Bởi người học Phật lâu đôi khi mắc kẹt trên kinh điển chữ nghĩa, chỉ học trên chữ nghĩa nên không thấy Phật. Nói Phật, giải thích Phật rất hay, hỏi Phật là gì thì giải thích rất lưu loát, nhưng Phật ở đâu lại không thấy, chỉ thấy Phật trên chữ nghĩa.

Lục Tổ chỉ thẳng ngay trong tự tánh Bồ-đề, sáng tỏ điều đó thì thấy Phật ngay, thành Phật cũng là thành ngay chỗ đó, không phải thành trong chữ nghĩa. Rời ngoài tâm cầu Phật là không thấy được Phật thật. Vậy thì ngộ trở lại tự tánh thanh tịnh của tâm là yếu chỉ. Tổ nói giản dị nhưng rất thiết thực.

Nhưng Tâm này ở đâu? Nói ngộ rõ tự tánh Bồ-đề ở ngay nơi tự tâm, nói vậy cũng chỉ là chữ nghĩa. Chỗ này là chỗ phải thực hành thật sự để sáng tỏ được tâm này ở đâu? Tại sao nhiều người không tỏ ngộ được?

Vậy hiện mọi người đang sống đây là đang sống với cái gì? Nếu nói ở ngay nơi mọi người, tại sao mọi người không tỏ ngộ? Đó là chỗ người học phải thấu tỏ chứ không thể hời hợt.

Thế nên ngay khi mở đầu, Lục Tổ bảo mọi người: “Tất cả phải nên lắng lòng niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật”, để không còn tạp niệm, mới thấy ngay trong “cái tâm đó”; còn suy nghĩ lăng xăng thì đâu thấy được gì!

Học Pháp Bảo Đàn cần phải học sâu vào “trong đó”, học đến “trong đó” thì giải tỏa được tất cả những tranh cãi chữ nghĩa. Hiện nay có nhiều tranh cãi chữ nghĩa, còn nói kinh Pháp Bảo Đàn không phải Lục Tổ nói. Nếu thấu được chỗ này thì những chuyện kia không dính dáng gì, chỉ là chữ nghĩa. Quan trọng là chúng ta phải thấu được lẽ thật, làm Phật làm Tổ là ở chỗ này, không phải trên chữ nghĩa kia. Đó là muốn nhắc cho tất cả khéo học cho kỹ. Tiếp đến Ngài nói:

Này thiện tri thức! Hãy lắng nghe tóm tắt về nguồn gốc thân thế và việc đắc pháp của Huệ Năng. Cha của Năng quê quán tại Phạm Dương (Hà Bắc), bị giáng chức đày ra Lĩnh Nam làm thường dân ở Tân Châu, thân này chẳng may cha lại mất sớm, mẹ góa con côi dời đến Nam Hải gian khó nghèo khổ thường ra phố bán củi.

Lục Tổ thuật lại thân thế của Ngài và việc đắc pháp cho mọi người biết, nếu Ngài không thuật lại chắc không ai biết. Quê quán của cha Ngài ở Phạm Dương (tên một quận thời Đường, hiện nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Ông làm quan, vào khoảng giữa niên hiệu Võ Đức đời Đường ông có tội, bị giáng chức, lưu đày ra vùng Lĩnh Nam làm thường dân ở Tân Châu, Lục Tổ được sanh ra ở đây.

Lĩnh Nam là vùng xa xôi, thuộc về vùng phía nam của Ngũ Lĩnh. Trước kia vùng này thuộc đất Việt nhưng thời này bị Bắc thuộc thời Đường, cho nên Việt Nam có bộ Lĩnh Nam Chích Quái. Gần đây có những nhà nghiên cứu cho rằng Lục Tổ là người Việt, tức sinh trên đất Việt, nhưng quê cha của Ngài ở Hà Bắc, Trung Hoa. Tân Châu hiện nay thuộc huyện Tân Hương cách phía nam phủ Triệu Khánh khoảng 130 dặm. Do cha mất sớm, mẹ con Ngài dời đến Nam Hải sinh sống, Nam Hải xưa cũng là một quận nay đổi thành huyện thuộc tỉnh Quảng Đông. Như vậy Lục Tổ được sinh ra ở vùng xa xôi phía nam Trung Hoa, dành cho những người có tội bị lưu đày, đây là vùng sơn lam chướng khí. Khi cha mất, Ngài cùng mẹ đến Nam Hải, rồi lên rừng đốn củi mang ra phố bán lấy tiền nuôi mẹ.

Một hôm có người khách mua củi bảo gánh đến tiệm của khách, khách thu củi xong, Năng nhận tiền rồi đi ra ngoài cửa, gặp một người khách tụng kinh Kim Cang đến đoạn: “Nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Năng vừa nghe qua lời kinh, tâm liền tỏ ngộ, bèn hỏi người khách:

- Tụng kinh gì?

Khách bảo:

- Kinh Kim Cang.

Lại hỏi thêm:

- Từ đâu đến mà trì kinh này?

Khách bảo:

- Tôi từ chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, Kỳ Châu đến đây. Chùa ấy hiện do Ngũ Tổ Đại sư Nhẫn làm chủ giáo hóa, đệ tử của Ngài có hơn 1000 người. Tôi đến trong đó lễ bái, nghe nhận kinh này. Đại sư thường khuyên trong hàng tăng tục, chỉ trì kinh Kim Cang tức tự thấy tánh, thẳng ngay đây tỏ ngộ thành Phật.

Đây là nhân duyên ban đầu của Ngài, nghe kinh Kim Cang được sáng tỏ đạo lý, tỏ ngộ ý kinh. Nhân đem củi đến tiệm của người khách, khách nhận xong, Ngài nhận tiền đi ra cửa, nghe người khách tụng kinh. Đây do Lục Tổ thuật lại nên Ngài xưng là Năng chứ không nói là tôi hay thầy. Đoạn kinh Kim Cang đầy đủ là: “Chẳng nên trụ sắc sanh tâm, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia.” Đây Ngài nghe đến đoạn: “Nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia” liền mở sáng.

Đó là trí vô sư không thầy mà tự phát. Một anh tiều phu nhà quê ở vùng xa xôi, vùng mà người Trung Hoa ngày xưa khinh miệt. Cho nên đoạn sau Ngũ Tổ gọi Ngài nguyên chữ Hán là Cát Lão (chỉ cho những người dân tộc thiểu số, sống còn hoang sơ, gọi như vậy có tính cách hơi khinh thường). Ngài lại không biết chữ, nhưng nghe qua đoạn kinh liền tỏ ngộ, hiểu được ý kinh, rõ ràng không người dạy mà tự sáng. Cho thấy tâm tánh của Lục Tổ rất bén nhạy, cũng để nói lên chân nghĩa của Phật pháp không nằm trong chữ nghĩa, bởi Lục Tổ đâu biết chữ nghĩa mà nghe liền tỏ ngộ.

Điểm này cảnh tỉnh cho những người học Phật lâu không nên có cái thấy xem thường người mới học. Đôi khi người mới học có chủng duyên sâu dày với Phật pháp, tuy chúng ta thấy mới nhưng họ đã từng huân sâu nên tu tiến nhanh hơn chúng ta, cũng như Lục Tổ đây.

Lục Tổ nghe kinh tỏ ngộ, Ngài hỏi thăm người khách, biết được đạo tràng của Ngũ Tổ đã truyền dạy kinh Kim Cang. Chùa của Ngũ Tổ gọi là chùa Đông Thiền ở Hoàng Mai, Kỳ Châu. Kỳ Châu là dịch theo văn Hán Việt. Đúng theo văn phạm tiếng Việt gọi là châu Kỳ, chữ “châu” là tên hành chánh địa phương như là tỉnh, quận, huyện, đây là một châu tên Kỳ. Châu Kỳ cách 180 dặm về phía đông của phủ Hoàng Châu, tỉnh Hồ Bắc. Chùa Đông Thiền cách huyện Hoàng Mai về hướng Tây Nam khoảng một dặm. Đây cũng là nơi Ngũ Tổ truyền y bát cho Lục Tổ về sau.

Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, tiền thân là Tài Tùng đạo giả ở núi Phá Đầu (tức đạo giả già trồng tùng ở núi Phá Đầu). Một hôm, Tổ Đạo Tín đi viếng núi Song Phong gặp một vị sư già trồng tùng, thời nhân gọi là Tài Tùng đạo giả. Vị sư ấy hỏi Tổ rằng:

- Đạo Pháp của Như Lai có thể cho tôi nghe được chăng?

Tổ đáp:

- Tuổi ông đã già, dù có nghe được cũng không hoằng hóa kịp. Nếu có sanh trở lại được thì ta cũng nán chờ.

Đạo giả nghe dạy rồi từ tạ đi xuống núi. Đến huyện Hoàng Mai, thấy một cô gái đang giặt áo ở bờ sông, ông chào và hỏi:

- Nhà cô ở gần hay xa, cô vui lòng cho tôi nghỉ nhờ được chăng?

Cô đáp:

- Tôi còn cha mẹ không dám tự quyền, mời Sư vào nhà hỏi cha mẹ tôi là hơn.

Ông bảo:

- Vậy cô có bằng lòng không cho tôi biết?

Cô đáp:

- Riêng tôi thì bằng lòng.

Đạo giả nghe cô hứa chịu, bèn trở về núi ngồi ngay thẳng viên tịch.

Cô gái kia là con út của nhà họ Châu, sau khi hứa lời với đạo giả rồi, không bao lâu có thai. Cha mẹ cô thấy chưa chồng mà có thai, làm ô nhục gia phong, quyết định đuổi cô đi. Cô đang tuổi trẻ mà mang phải cái nợ giữa đường, sống bơ vơ không chỗ nương đỡ, phải đi kéo chỉ mướn nuôi miệng qua ngày.

Đến ngày, cô sinh ra một đứa con trai xinh xắn, nhưng vì sự kỳ dị không chồng có con, nên cô đành đem thả xuống sông.

Sáng ngày, cô thấy đứa bé ngồi xếp bằng trên mặt nước, khí sắc tươi tỉnh lạ thường. Cô vừa lấy làm lạ vừa xót thương nên bồng về nuôi dưỡng. Đến bảy tuổi, đứa bé gặp Tổ Đạo Tín, đối đáp một cách phi thường, được Tổ xin về cho xuất gia đặt tên là Hoằng Nhẫn. Hoằng Nhẫn có nghĩa là mẹ nhẫn nhục nuôi con, cũng có nghĩa Tổ Đạo Tín nhẫn chờ đứa bé khôn lớn để truyền pháp. Theo đây, Tổ Hoằng Nhẫn là thân sau của Tài Tùng Đạo giả.

Tứ Tổ Đạo Tín vốn ở núi Phá Đầu cũng là núi Song Phong. Ngũ Tổ ở ngọn núi Phùng Mậu, cách không xa về phía đông của núi Song Phong. Người đương thời gọi thiền pháp của Ngũ Tổ là pháp môn Đông Sơn.

Lục Tổ nghe người khách thuật lại từ nơi đạo tràng của Ngũ Tổ mà nhận được kinh Kim Cang, chính Ngũ Tổ cũng thường khuyên tăng tục trì tụng kinh này, đó là con đường kiến tánh thành Phật. Ngài nói thêm:

Năng nghe nói, nhờ có duyên từ đời trước, bèn được một người khách lấy mười lạng bạc cho Năng để giúp nuôi dưỡng mẹ già và bảo hãy qua Hoàng Mai gặp Ngũ Tổ. Năng sắp đặt cho mẹ xong liền từ giã ra đi, chẳng hơn 30 ngày thì tới Hoàng Mai lễ Ngũ Tổ.

Lục Tổ nghe nói về Ngũ Tổ, do có duyên thầy trò đời trước nên có ý muốn đến, nhưng vì còn mẹ già đâu thể bỏ đi. Người khách thấy vậy, phát tâm ủng hộ cho mười lạng bạc, khuyên lấy tiền này nuôi dưỡng mẹ già, nên đến Hoàng Mai gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Người khách này không biết thuộc hạng nào? Có phải Bồ-tát hiện thân hay không mà ngay đó phát tâm quá mạnh mẽ, cho mười lạng bạc, khuyên đến nơi Ngũ Tổ?

Lục Tổ y theo, nhận số bạc về sắp đặt cho bà mẹ, xin phép bà rồi đi đến lễ Ngũ Tổ. Tâm cầu pháp của Ngài rất mạnh mẽ. Từ đó về sau không nghe thuật lại về bà mẹ nữa.

Ngũ Tổ hỏi Năng:

- Ông là người phương nào? Muốn cầu vật gì?

Năng đáp:

- Đệ tử là người dân thường ở Tân Châu thuộc Lĩnh Nam, từ xa đến đây lễ thầy, chỉ cầu làm Phật, chẳng cầu gì khác.

Tổ bảo:

- Ông là người Lĩnh Nam, lại là mọi rợ, làm sao kham làm Phật?

Năng thưa:

- Người tuy có Nam Bắc, Phật tánh vốn không có Nam Bắc. Thân mọi rợ này tuy chẳng đồng với Hòa thượng, song Phật tánh đâu có gì sai khác.

Ngũ Tổ còn muốn nói thêm, nhưng thấy đồ chúng thảy ở bên cạnh, mới bảo theo chúng làm việc, tôi lại thưa:

- Huệ Năng kính bạch Hòa thượng! Đệ tử tự tâm thường sanh trí tuệ, chẳng lìa tự tánh tức là phước điền, chưa biết Hòa thượng bảo làm việc gì?

Tổ bảo:

- Gã mọi này căn tánh rất lanh lợi, ngươi chớ có nói nữa, hãy xuống nhà sau đi!

Huệ Năng lui xuống hậu viện, có một hành giả sai Năng bửa củi, đạp chày giã gạo hơn tám tháng.

Đây là đoạn Lục Tổ gặp Ngũ Tổ. Ngũ Tổ hỏi: “Ông là người phương nào? Muốn cầu vật gì?” Đó là để thăm dò. Lục Tổ nói thẳng: “Đệ tử là người dân thường ở Tân Châu thuộc Lĩnh Nam, từ xa đến đây lễ thầy chỉ cầu làm Phật chẳng cầu gì khác”. Cho thấy căn tánh sâu dày của Ngài, nói thẳng vào việc chánh yếu chứ không quanh co. Người đến chùa học Phật thường cầu học này học kia, còn đây Ngài nói thẳng đến cầu làm Phật chứ không cầu gì khác. Một tiều phu nhà quê, mới ngoài hai mươi tuổi, đến gặp vị Hòa thượng lớn mà nói mạnh mẽ như vậy.

Ngũ Tổ gạn lại lần nữa: “Ông là người Lĩnh Nam, lại là mọi rợ thì làm sao kham làm Phật?” Nếu như chúng ta nghe lời này thì tự ái bỏ về, mới đến học đạo mà người thầy nói một câu có vẻ quá khinh miệt! Nhưng Ngũ Tổ không phải khinh miệt, mà là gạn hỏi xem căn tánh Lục Tổ thế nào? Đây là đánh thẳng vào bản ngã, nếu ngay đó tự ái bỏ về có lẽ khỏi làm Tổ.

Lục Tổ thưa rõ: “Người tuy có Nam Bắc, Phật tánh vốn không có Nam Bắc. Thân mọi rợ này tuy chẳng đồng với Hòa thượng, song Phật tánh đâu có gì sai khác. Chúng ta đọc nhiều nên nghe quen tai, không thấy lạ lắm. Nếu đặt hoàn cảnh ngay trong hiện tại này thì mới thấy đây là việc phi thường chứ không phải tầm thường. Hơn nữa thời xưa không giống thời nay, thời nay do tiếp xúc nhiều nên đến chùa gặp Hòa thượng lớn là thường. Thời xưa thì việc này không bình thường. Ngũ Tổ lại là vị Tổ của cả một dòng Thiền. Lục Tổ khi này chỉ là một anh tiều phu trẻ ở vùng quê xa xôi, bị người xem là người mọi, lại không biết chữ. Vậy mà khi gặp một vị Hòa thượng Tổ như vậy, không rụt rè, sợ sệt, đầy đủ lòng tự tin, nói một cách thẳng thắn mạnh mẽ, giống như ngang nhau.

Đó là điểm đặc biệt, để thấy rằng trong tự tâm Lục Tổ có cái thấy sáng tỏ, đầy đủ lòng tự tin, không mắc kẹt trong thân phận này. Ngũ Tổ nghe qua, biết được phần nào căn tánh của Lục Tổ, nhưng thấy bên cạnh có nhiều người, sợ đồ chúng đố kỵ, không tốt cho Lục Tổ. Vì thế Ngũ Tổ bảo Lục Tổ theo chúng làm việc, đừng nói nhiều, sợ mọi người chung quanh biết rồi đố kỵ.

Lục Tổ thưa thêm: “Huệ Năng kính bạch Hòa thượng! Đệ tử tự tâm thường sanh trí tuệ, chẳng lìa tự tánh tức là phước điền, chưa biết Hòa thượng bảo làm việc gì?” Lời nói xác quyết, chắc chắn đầy đủ niềm tự tin, trí tuệ là nơi tự tâm thường có, sẵn trong tự tâm chứ không cầu bên ngoài, phước điền cũng ngay nơi tự tánh, không lìa tự tánh cầu phước điền bên ngoài.

Ngũ Tổ bảo: “Gã mọi này căn tánh rất lanh lợi, ngươi chớ có nói nữa, hãy xuống nhà sau làm việc”. Ngài sợ nói thêm thì nhiều người biết, gây hại cho Lục Tổ. Đây cũng không có gì lạ, tuy ở trong chùa, nhưng đều là phàm phu, chưa phải thánh, nên phải phòng ngừa tâm chúng sanh. Ngũ Tổ sáng suốt nên phòng ngừa trước, mà quả thật sau này khi Ngũ Tổ truyền y, đồ chúng đã rượt đuổi theo Lục Tổ để lấy y. Ngài Huệ Năng xuống hậu viện, một hành giả sai bửa củi, giã gạo, làm những việc tầm thường, giống như giúp việc trong chúng, trải qua hơn tám tháng.

Một hôm Tổ chợt gặp Năng bảo:

- Ta nghĩ cái thấy của ngươi đáng dùng được, song e có kẻ xấu hại ngươi mới chẳng cho ngươi nói, ngươi có biết chăng?

Năng thưa:

- Đệ tử cũng biết ý thầy, chẳng dám đi đến nhà trên, để cho người chẳng biết.

Ngũ Tổ nhân lúc không ai để ý, xuống hậu viện gặp riêng Lục Tổ, Ngũ Tổ ý nói: “Ta cũng thấy, cũng biết ngươi có cái thấy dùng được, hôm trước không cho ngươi nói vì sợ những người xấu hại ngươi, không phải ta chê bai hay xua đuổi ngươi”. Lục Tổ thưa: “Con cũng biết ý thầy như vậy, nên lâu nay con không dám lên nhà trên để mọi người không để ý”. Thấy rằng thầy trò rất hiểu nhau.

Một hôm Tổ gọi hết thảy hàng đệ tử đến bảo:

- Ta nói cho các ông rõ: Đời người sanh tử là việc lớn, các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử, nếu tự tánh đã mê thì phước điền đâu thể cứu. Mỗi người trong các ông hãy đi, tự xem lại trí tuệ chính mình, nhận lấy tánh Bát-nhã nơi bản tâm chính mình, rồi tự làm một bài kệ đem đến trình cho ta xem. Nếu tỏ ngộ được đại ý, ta sẽ trao y pháp cho người ấy làm Tổ đời thứ sáu. Hãy gấp rút nhanh đi, chẳng được chậm trễ, hễ nghĩ ngợi tức chẳng trúng, người thấy tánh thì cần ngay lời nói liền thấy, nếu người như thế, khi múa đao ra trận cũng thấy.

Bấy giờ, Ngũ Tổ bảo mọi người trình kệ để truyền y bát làm Tổ kế thừa. Ngũ Tổ rất khéo, biết Lục Tổ đáng được truyền, nhưng phải có duyên sự, cũng để trong chúng biết được người đáng hay không đáng. Ngũ Tổ nhóm họp chúng, Ngài nhắc rõ đời người sanh tử là việc lớn, cần giải quyết ưu tiên hàng đầu.

Thường thì mọi người thấy sanh tử không phải việc lớn, mà việc lớn là tạo sự nghiệp, được danh dự, được chức vụ, theo thế gian thì có được những sự nghiệp mới là việc lớn. Với cái nhìn của Tổ chính sanh tử mới là việc lớn của đời người, làm thế nào để giải quyết được việc lớn sanh tử này mới là trọng yếu, nhất là đối với những người tu Phật. Mọi việc trên thế gian đều tạm thời phụ thuộc vào thân này, thân này chết rồi thì thôi, đâu có gì mà nói việc lớn. Còn việc lớn sanh tử nếu chưa giải quyết xong là còn tiếp tục sanh tử, là cái khổ lớn, cho nên đó mới là việc lớn trong đời người.

Ngay như người tu ở chùa, nhiều khi cũng chưa thấy sanh tử là việc lớn, chỉ thấy việc này việc nọ là việc lớn, đó là chưa thấy hết. Nên Ngũ Tổ nhắc: “Các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử” tức lo cầu phước điền, làm cho có phước mà không cầu ra khỏi sanh tử. Người tu ngày nay cũng vậy, ít có người cầu ra khỏi sanh tử, phần nhiều người đều cầu được phước để sanh trở lại tốt hơn hoặc sanh lên cõi trời.

Ngũ Tổ nhắc, quan trọng là cần phải sáng tỏ trở lại tự tánh để ra khỏi sanh tử “Nếu tự tánh đã mê thì phước điền đâu thể cứu. Mỗi người trong các ông hãy đi, tự xem lại trí tuệ chính mình, nhận lấy tánh Bát-nhã nơi bản tâm chính mình, rồi tự làm một bài kệ đem đến trình cho ta xem. Nếu tỏ ngộ được đại ý, ta sẽ trao y pháp cho người ấy làm Tổ đời thứ sáu”. Tự tánh mà mê thì có phước cũng không cứu được. Mỗi người cần phải soi sáng lại nơi chính mình, nhận lấy trí tuệ nơi bản tâm chính mình, đó mới là chỗ thấy chân thật chứ không phải suy nghĩ, tưởng tượng. Đôi khi học lâu nên huân chứa trong tàng thức, cũng có thể suy nghĩ làm kệ, nhưng suy nghĩ thì chưa phải thật, cũng do kiến thức vay mượn của người. Ngũ Tổ bảo phải từ trong trí tuệ chân thật nơi bản tâm chính mình, từ đó phát ra mới là cái thật.

Ngài nói: “Nghĩ ngợi tức chẳng trúng, người thấy tánh thì cần ngay lời nói liền thấy, nếu người như thế, khi múa đao ra trận cũng thấy”. Thật sự thấy tánh thì ngay lời nói liền thấy, tức vượt qua ngôn ngữ, không cần phải suy nghĩ. Như vậy mới thật thấy, còn suy nghĩ là đã qua trung gian. Nếu thấy tánh, dù múa đao ra trận cũng thấy, ở trong cảnh nghịch, cảnh bức bách cũng vẫn thấy chứ không mất. Đôi khi chúng ta suy nghĩ rồi hiểu, nhưng gặp chuyện bức bách thì quên mất, gặp chuyện nổi sân thì càng mê, như vậy là chưa phải thật thấy.

Chúng được sai bảo liền lui về, lần lượt bảo với nhau:

- Mỗi người chúng ta chẳng cần lắng tâm dụng ý làm kệ trình Hòa thượng, đâu có ích gì! Thượng tọa Thần Tú hiện đang là thầy giáo thọ, chắc hẳn Ngài sẽ được, bọn ta có dối làm kệ cũng uổng dụng tâm lực thôi.

Mọi người nghe nói thảy đều hết tưởng mong, đồng bảo:

- Chúng ta sau này sẽ nương tựa với thầy Tú, đâu nhọc làm kệ cho mệt!

Trong chúng đều an phận, chấp nhận nương tựa với người khác, không có tâm tin tưởng để vươn lên. Rốt cuộc không ai làm kệ.

Thần Tú suy nghĩ: “Mỗi người chẳng trình kệ vì ta là thầy giáo thọ của họ. Ta cần phải làm kệ đem trình Hòa thượng, nếu chẳng trình kệ thì Hòa thượng làm sao biết chỗ thấy hiểu trong tâm ta là cạn hay sâu. Ta trình kệ ý trong đó cầu pháp là tốt, còn mong tìm làm Tổ là xấu, lại đồng với tâm phàm mà muốn đoạt ngôi Thánh kia đâu khác. Nếu ta chẳng trình kệ thì trọn chẳng được. Rất khó! Rất khó!”.

Ngài Thần Tú ở vào cái thế “chẳng đặng đừng”, mọi người không ai chịu làm kệ, tất cả đều giao phó cho Ngài. Ngài lại nghĩ, trình kệ ý trong đó nếu vì cầu pháp thì tốt, nếu trình kệ để muốn làm Tổ thì không tốt. Như vậy tâm Ngài cũng rất tốt.

Trước nhà Ngũ Tổ có hành lang ba gian, Tổ định mời quan Cung phụng Lư Trân vẽ tranh “Lăng Già Biến Tướng” và “Ngũ Tổ Huyết Mạch Đồ” để lưu truyền cúng dường. Thần Tú làm kệ xong, mấy lần muốn trình, vừa đi đến trước nhà trên thì trong tâm hồi hộp, toàn thân xuất mồ hôi, toan trình mà chẳng được. Trước sau trải qua bốn ngày, mười ba lần trình kệ chẳng được, Thần Tú bèn suy nghĩ “Chi bằng chép ở phía dưới vách hành lang, tùy Hòa thượng có xem thấy, nếu chợt bảo là hay thì ta liền ra lễ bái, nói là của Tú làm. Còn nếu nói chẳng kham thì uổng cho ta mấy năm ở trong núi chịu người lễ bái, trọn tu cái đạo gì?”.

Quan Cung phụng là quan chuyên về văn học, nghệ thuật. Tranh Lăng Già Biến Tướng là vẽ cảnh tượng Đức Phật thuyết pháp trên hội Lăng Già. Ngũ Tổ Huyết Mạch Đồ là vẽ năm vị Tổ từ Tổ Bồ-đề-đạt-ma đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, những sự truyền thừa kế tục, những ý chỉ sâu xa trong truyền pháp.

Ngài Thần Tú làm kệ xong, trải qua bốn ngày, mười ba lần đến trình kệ mà trình không xong. Để thấy rằng tâm trạng của Ngài còn do dự, chưa đủ tự tin nên sợ, trong lòng chưa tin bài kệ hợp ý Ngũ Tổ, ngay đó đủ thấy chưa vào cửa Tổ. Trong khi Lục Tổ lúc mới đến gặp Ngũ Tổ đã nói mạnh mẽ, không do dự. Cuối cùng, Ngài nghĩ ra cách lén viết bài kệ lên vách, đây gọi là trình khéo.

Đêm ấy vào canh ba, Sư chẳng cho ai biết, tự cầm đèn chép bài kệ nơi vách hành lang phía nam để tỏ bày chỗ thấy trong tâm.

Bài kệ:

     Thân là cây Bồ-đề,

     Tâm như đài gương sáng.

     Luôn luôn siêng lau chùi,

     Chớ để dính bụi nhơ.

Âm:

     Thân thị Bồ-đề thọ,

     Tâm như minh cảnh đài.

     Thời thời cần phất thức,

     Vật sử nhạ trần ai.

Thần Tú viết bài kệ xong liền trở về phòng không ai biết, Sư lại suy nghĩ: “Sáng mai Ngũ Tổ thấy bài kệ mà vui mừng tức là ta có duyên với pháp, nếu như chẳng kham thì tự là ta mê mờ, nghiệp chướng đời trước sâu nặng chẳng khế hợp được pháp, thánh ý khó nghĩ lường”. Ở trong phòng, Sư cứ nghĩ tưởng ngồi nằm chẳng yên suốt tới canh năm.

Giữa đêm khuya, Ngài Thần Tú cầm đèn chép bài kệ trên vách hành lang. Chép kệ xong, Ngài về phòng suy nghĩ mãi ngủ không được, thức luôn tới sáng, rõ ràng là chưa vào cửa.

Tổ đã biết Thần Tú chưa được vào cửa, chẳng thấy tự tánh. Sáng ngày, Tổ gọi quan Cung phụng họ Lư tới vẽ Đồ Tướng nơi vách hành lang phía nam, Tổ chợt thấy bài kệ, bèn nói với quan Cung phụng:

- Thôi chẳng cần vẽ, thật là nhọc Ngài từ xa tới. Trong kinh có nói: “Hễ cái gì có tướng đều là hư dối”, chỉ giữ lại bài kệ này cho người tụng trì, nương theo bài kệ này tu hành sẽ chẳng rơi vào đường ác, nương theo bài kệ này tu hành sẽ được lợi ích lớn.

Tổ bảo môn nhân thắp hương lễ bái trọn tụng bài kệ này tức sẽ được thấy tánh. Môn nhân tụng kệ đều khen hay.

Sáng ra, Ngũ Tổ dẫn quan Cung phụng đến vách hành lang để vẽ bức tranh thì thấy bài kệ này. Ngài Thần Tú đoán ý cũng hay. Ngũ Tổ khéo léo chuyển lại, không vẽ tranh nữa mà bảo chúng kính lễ bài kệ này, nương theo đây tu hành. Mọi người nghe Ngũ Tổ bảo thắp hương kính lễ bài kệ cũng bèn khen theo. Mới thấy tâm chúng ở đây không có tự tin nơi chính mình, nương tựa vào bên ngoài, nghe người lớn khen thì khen theo, nếu nghe người lớn chê cũng chê theo, không có cái nhận định của chính mình mà bị lệ thuộc nơi người khác, nhất là người lớn có uy tín.

Ngũ Tổ lại rất khéo, nếu ngay đó Ngài chê thì mất hay, chính vì Ngài khen nên ai cũng kính lễ, vì vậy mới khơi dậy Lục Tổ lộ bày ý bài kệ của Lục Tổ.

Đến canh ba, Tổ mới gọi Thần Tú vào phòng hỏi:

- Có phải ông làm bài kệ ấy chăng?

Thần Tú thưa:

- Quả thật con làm, nhưng chẳng dám vọng cầu ngôi Tổ, chỉ mong Hòa thượng từ bi xem đệ tử có chút ít trí tuệ chăng?

Tổ bảo:

- Ông làm bài kệ này chưa thấy bản tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào trong cửa, thấy hiểu như thế mà mong tìm Vô thượng Bồ-đề trọn không thể được. Vô thượng Bồ-đề cần ngay lời nói nhận biết bản tâm mình, thấy bản tánh mình chẳng sanh chẳng diệt, trong tất cả thời niệm niệm luôn tự thấy, muôn pháp không làm ngưng trệ, một chân thì tất cả chân, muôn cảnh tự như như. Tâm như như tức là chân thật, nếu thấy như thế tức là tự tánh Vô thượng Bồ-đề. Ông hãy đi, về suy nghĩ một hai ngày rồi làm một bài kệ khác đem đến đây cho ta xem. Nếu bài kệ của ông vào cửa được, ta sẽ trao phó y bát cho ông.

Thần Tú làm lễ rồi lui ra, trải qua mấy ngày, Sư làm kệ chẳng xong, trong tâm hồi hộp, tinh thần không yên, giống như trong mộng đi ngồi chẳng vui.

Ngũ Tổ cũng khéo léo đợi đến tối gọi Ngài Thần Tú vào nói riêng chứ không chê ngoài chúng e làm Ngài mất mặt.

Tổ còn chỉ rõ Vô thượng Bồ-đề là cần phải ngay lời nói nhận biết bản tâm mình, thấy bản tánh mình chẳng sanh chẳng diệt không qua suy nghĩ phân biệt. Đã thấy thì lúc nào cũng thấy, ở chỗ nào cũng thấy, không có gì nghi ngờ, do dự. Tổ bảo Ngài Thần Tú về suy nghĩ kỹ rồi làm bài kệ khác đem đến trình.

Bởi cái thấy của chúng ta đã thật thì nhìn ra cái gì cũng thật, cũng như cái thấy của chúng ta sáng thì nhìn cái gì cũng sáng. Pháp không có lỗi, lỗi tại mắt chúng ta không sáng nên thấy các pháp có ngại, nếu mắt chúng ta thật sáng rồi nhìn ra đâu có gì ngại, mỗi mỗi đều tự sáng. Thấy tột như vậy đâu còn nghi ngờ, không nghi ngờ tức không do dự, vậy mới thật vào cửa. Còn do dự là biết còn ở ngoài chưa vào cửa.

Đây cũng là kinh nghiệm nhắc cho tất cả nhất là trong nhà Thiền, khi thấy đến chỗ chân thật không bắt chước được, cái thấy của ai thì người ấy dùng. Nếu không phải thật thấy thì bị lộ ra ngay, người thật thấy nói ra thì người mắt sáng liền nhận biết. Người không thật thấy, dù cố nói hay nói khéo, nhưng đã không phải thật thì cũng lộ ra lời nói vay mượn, hoặc thuộc ý thức suy nghĩ.

Hai ngày sau, có một chú bé đi qua chỗ giã gạo mới xướng tụng bài kệ ấy. Năng vừa nghe liền biết bài kệ này chưa thấy bản tánh, dù chưa được chỉ dạy mà đã sớm biết đại ý, liền hỏi chú bé:

- Tụng đó là kệ gì?

Chú bé đáp:

- Ông mọi này chẳng biết, Đại sư bảo đời người sanh tử là việc lớn, muốn truyền trao y pháp mới bảo môn nhân làm kệ đến trình cho Ngài xem, nếu người ngộ được đại ý sẽ trao y pháp làm Tổ thứ sáu. Thượng tọa Thần Tú đã chép bày kệ này nơi vách hành lang phía nam. Đại sư bảo mọi người đều học thuộc, nương bài kệ này tu hành khỏi rơi vào đường ác.

Năng nói:

- Tôi cũng cần tụng bài kệ này để kết duyên đời sau đồng sanh nơi đất Phật. Thượng nhân! Tôi tới đây đạp cối giã gạo hơn tám tháng chưa từng đi lên nhà trên, mong thượng nhân dẫn tôi đến trước bài kệ làm lễ.

Chính vì Ngũ Tổ bảo mọi người thắp hương đảnh lễ bài kệ này và y theo đó tu hành, cho nên mới có cơ duyên truyền đến chỗ Ngài Huệ Năng qua chú bé này.

Ở đây Ngài Huệ Năng khiêm tốn gọi chú bé là thượng nhân, nhưng chú bé cũng có ý khinh thường, gọi Ngài là ông mọi này. Tuy nhiên, Lục Tổ không tự ái, Ngài nhờ dẫn lên chỗ bài kệ. Cho thấy Lục Tổ khi ấy chỉ lo làm việc ở nhà sau, không biết những sinh hoạt ở trong chùa nên không biết bài kệ đó ở chỗ nào.

Chú bé dẫn Huệ Năng đến trước bài kệ làm lễ rồi nói:

- Năng chẳng biết chữ, xin thượng nhân đọc dùm.

Lúc đó có quan Biệt giá ở Giang Châu tên Trương Nhật Dụng liền đọc to lên, Năng nghe xong bèn nói mình cũng có một bài kệ mong quan Biệt giá chép dùm. Quan Biệt giá nói:

- Người mọi, ông cũng làm kệ nữa à? Việc ấy hiếm có!

Năng nói với quan Biệt giá:

- Người muốn học Vô thượng Bồ-đề chẳng thể khinh kẻ mới học, người ở dưới thấp lại có trí bậc trên cao, người bậc trên cao lại chôn vùi ý chí. Nếu khinh người tức có vô lượng vô biên tội.

Khi Lục Tổ được dẫn lên chỗ bài kệ, Ngài nói rõ là không biết chữ nên nhờ đọc dùm. Bởi cha Ngài mất sớm, phải lên rừng đốn củi bán nuôi mẹ thì đâu có thời gian học, lại ở vùng quê nên không biết chữ. Khi đó, quan Biệt giá ở Giang Châu tên Trương Nhật Dụng mới đọc to lên.

Ngài Huệ Năng nghe xong, liền nói Ngài cũng có bài kệ, nhờ quan chép dùm.

Quan Biệt giá này cũng có ý khinh thường, nói: “Người mọi, ông cũng có bài kệ nữa à?”. Cho nên Ngài Huệ Năng nhắc ông: “Người muốn học Vô thượng Bồ-đề chẳng thể khinh kẻ mới học, người ở dưới thấp lại có trí bậc trên cao, người bậc trên cao lại chôn vùi ý chí. Nếu khinh người tức có vô lượng vô biên tội”.

Đây là kinh nghiệm để nhắc nhở cho những người học đạo phải biết. Chúng ta học đạo, nếu nhìn theo tinh thần của trong Đại thừa hay trong Thiền Tông thì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nên không ai đáng khinh. Thân tướng bên ngoài do nghiệp riêng của mỗi người, nhưng cái thật bên trong thì không ai thua ai, không ai kém ai nên không dám khinh ai, đó là ngừa bệnh cũng là ngừa lỗi.

Quan Biệt giá nói:

- Ông hãy đọc kệ, tôi chép cho ông. Nếu ông đắc pháp phải độ tôi trước, chớ có quên lời này.

Năng mới đọc kệ:

     Bồ-đề vốn không cội,

     Gương sáng chẳng phải đài.

     Xưa nay không một vật,

     Chỗ nào dính bụi đây.

Âm:

     Bồ-đề bổn vô thọ,

     Minh cảnh diệc phi đài.

     Bản lai vô nhất vật,

     Hà xứ nhạ trần ai.

Chép bài kệ xong, đồ chúng thảy giật mình, ai nấy đều hít hà cùng bảo nhau:

- Lạ thay! Chẳng được lấy tướng mạo mà đoán người, đâu ngờ lâu nay đã sai khiến nhục thân Bồ-tát.

Tổ thấy mọi người kinh lạ, sợ có kẻ làm hại Năng, bèn lấy giày chà hết bài kệ bảo:

- Cũng chưa thấy tánh!

Mọi người dừng hết nghi ngờ.

Quan Biệt giá trước còn khinh Ngài Huệ Năng, khi được cảnh tỉnh, ông thấy ngay lỗi của mình nên lời nói khiêm tốn trở lại, cũng là người đáng quý.

Khi đó Ngài Huệ Năng đọc bài kệ, đối lại bài kệ của Ngài Thần Tú.

Kệ của Ngài Thần Tú:

     Thân là cây Bồ-đề.

     Tâm như đài gương sáng.

     Luôn luôn siêng lau chùi,

     Chớ để dính bụi nhơ.

Kệ của Ngài Huệ Năng:

     Bồ-đề vốn không cội,

     Gương sáng chẳng phải đài.

     Xưa nay không một vật,

     Chỗ nào dính bụi đây.

Nói Bồ-đề nhưng đó cũng chỉ là cái tên, tạm mượn dùng để gợi ý, chứ Bồ-đề chân thật vốn không có hình tướng thì đâu có cây, đâu có cội. Bồ-đề chân thật là tâm giác ngộ. Gương sáng là tự sáng, đâu phải sáng ở cái đài. Trong chỗ chân thật đó thì xưa nay vốn không một vật, không dính gì trong đó, vậy chỗ nào bụi dính được, đúng là thấy sâu trong tự tánh.

Bài kệ của Ngài Thần Tú cũng hay, nhưng còn ở trên công phu tu hành, gạn lọc từ từ, thường xuyên lau chùi mới hết bụi nhơ. Còn Ngài Huệ Năng thấy thẳng xưa nay không một vật, bụi không chỗ dính thì lau chùi cái gì!

Bài kệ được chép xong, trong đồ chúng đều giật mình, ngạc nhiên, hít hà khen hay. Ngũ Tổ thấy mọi người giật mình kinh lạ, sợ có người đố kỵ, tức là sợ có người suy nghĩ nếu Ngũ Tổ truyền Tổ vị cho Ngài Huệ Năng, ông cư sĩ mới hơn hai mươi tuổi, ở nhà quê gọi là người mọi, đến đây mới ít tháng mà làm Tổ, trong khi ta ở đây mấy năm rồi, nghĩ vậy thì dễ ganh tỵ, rồi tìm cách hại Ngài. Do đó Ngũ Tổ lấy giày chà bài kệ nói: “Bài kệ này cũng chưa thấy tánh”. Mọi người nghe theo, hết nghi ngờ, cũng đồng ý là chưa thấy tánh, thành ra đều lầm, chính vì vậy mà không ai để ý đến Lục Tổ nữa.

Vậy là nghe Tổ khen thì khen theo, Tổ chê cũng chê theo, không có nhận định của chính mình. Chúng ta học đạo phải sáng suốt, phải có trí tuệ, có nhận định rõ ràng, xem xét sự việc có hợp lý, đúng với đạo lý hay không! Không phải nghe thầy khen thì khen theo, nghe thầy chê thì chê theo.

Trong bản Đôn Hoàng, Lục Tổ đọc hai bài kệ.

Bài kệ thứ nhất:

    Bồ-đề vốn không cây,

    Gương sáng cũng không đài.

    Phật tánh thường thanh tịnh,

    Chỗ nào có bụi nhơ.

Bài kệ thứ hai:

    Tâm đó cây Bồ-đề,

    Thân là đài gương sáng.

    Gương sáng vốn thanh tịnh,

    Chỗ nào dính bụi nhơ.

Âm:

    Bồ-đề bổn vô thọ,

    Minh cảnh diệc vô đài.

    Phật tánh thường thanh tịnh,

    Hà xứ hữu trần ai.

                 ***

    Tâm thị Bồ-đề thọ,

    Thân vi minh cảnh đài.

    Minh cảnh bổn thanh tịnh,

    Hà xứ nhiễm trần ai.

Cũng nói lên ý nghĩa là Phật tánh thường thanh tịnh, không bụi nhơ nào có thể dính được.

Hôm sau, Tổ thầm đến nơi giã gạo, gặp Năng lưng đeo đá giã gạo. Ngài nói:

- Người cầu đạo vì pháp quên thân đến thế sao?

Rồi hỏi:

- Gạo trắng chưa?

Năng thưa:

- Gạo trắng đã lâu, chỉ còn thiếu cái sàng.

Tổ lấy gậy gõ vào cối ba cái rồi đi. Năng hiểu ý Tổ, trống canh ba liền đi vào thất, Tổ lấy cà-sa che chung quanh chẳng cho ai thấy, vì nói kinh Kim Cang, đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (tức là nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia), Huệ Năng ngay lời nói liền đại ngộ tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh, bèn kính bạch Tổ:

     Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh!

     Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt!

     Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ!

     Đâu ngờ tự tánh vốn không lay động!

     Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp!

Tổ biết đã ngộ bản tánh, tức gọi Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật.

Đây là đoạn kế tiếp, hôm sau Ngũ Tổ thầm đến nơi giã gạo gặp riêng Ngài Huệ Năng, thấy Ngài lúc đó lưng đeo đá đang giã gạo. Vì thân Ngài ốm gầy, không đủ nặng để cất cái chày, phải mang đá thêm cho đủ nặng để khi đạp thì cái chày mới cất lên được, thật khổ nhọc như vậy. Ngũ Tổ cũng có cảm mới nói rằng “Người cầu đạo vì pháp mà quên thân mình đến vậy hay sao?” tức phải chịu khổ nhọc vậy hay sao?

Đây muốn nhắc người cầu pháp hay cầu đạo, không nên quá trọng thân mà quên pháp, nên vì pháp quên thân. Người không khéo thì trọng thân mà quên pháp, nếu vậy không đạt đạo được.

Nhân đó Ngũ Tổ hỏi “Gạo trắng chưa?” Đây là mượn chuyện gạo để ngầm chỉ nơi tâm, hỏi đến tâm, tức hỏi tâm ông thật có tinh thuần hay chưa?

Ngài Huệ Năng thưa: “Gạo trắng đã lâu, nhưng chỉ còn thiếu cái sàng”. Tức chỉ chờ ấn chứng nữa là xong, không cần thêm gì khác. Tâm Ngài đã sẵn sàng.

Ngũ Tổ mới lấy cây gậy gõ vào cối ba cái rồi đi. Nếu là mọi người thấy việc đó thì cho là bình thường, không thấy gì khác. Nhưng với Ngài Huệ Năng, khi này tâm đã sáng nên rất bén nhạy, thấy vậy là hiểu ý Ngũ Tổ thầm bảo canh ba hãy đến thất, nên trống đổ canh ba, Ngài vào thất của Ngũ Tổ.

Ngũ Tổ lấy cà-sa che chung quanh thất để không ai thấy, rồi nói kinh Kim Cang cho Ngài Huệ Năng nghe, lúc này chỉ có hai thầy trò. Đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Câu này nói đầy đủ là “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Nghĩa là không trụ nơi sắc mà sanh tâm, không trụ nơi thanh hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Tức là không trụ nơi sáu trần, không bám vào bất cứ nơi đâu, thì chính ngay đó là gì?

Nếu tâm chúng ta cũng được vậy thì bảo đảm ngộ đạo. Tâm không trụ vào trần thì đâu có trần nào che mờ được, ngay đó là sáng tỏ. Nay tâm chúng ta trụ đủ thứ nên không sáng được. Chúng ta chỉ cần khéo tu ngay đó là xong, tâm không trụ vào bất cứ một cái gì, thì có cái gì che ngại mà không sáng!

Ngài Huệ Năng nghe đến đó liền đại ngộ, ngộ cái gì? Ngộ tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh, nơi tự tánh đã đầy đủ, đó gọi là thấy tánh, thấy đến tột nơi tự tánh, không có pháp nào ngoài tự tánh riêng có.

Ngài Huệ Năng căn tánh thật bén nhạy sáng tỏ, trước giờ chưa nghe giảng kinh, hơn tám tháng ở dưới nhà sau giã gạo, không được lên trên nghe giảng. Khi ấy lần đầu nghe Ngũ Tổ giảng liền tỏ ngộ.

Ở trước, khi gánh củi đến nhà khách, nghe người khách tụng kinh Kim Cang cũng có chỗ sáng tỏ, Ngài chỉ nói sáng tỏ mà không nói sáng tỏ thế nào. Đến đây, Ngài nói rõ ngộ được tự tánh, thấy rõ tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh, mới kính bạch với Tổ, thốt lên năm câu đâu ngờ:

    - Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, tự tánh đã sẵn thanh tịnh, không phải tu để làm cho nó thanh tịnh.

    - Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, xưa nay tự tánh không sanh diệt cũng không phải làm cho nó thành không sanh diệt.

    - Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, trong đó tự đầy đủ, không phải được thêm gì nữa.

    - Đâu ngờ tự tánh vốn không lay động, tự tánh sẵn lặng lẽ, không lay động được, không phải làm cho nó lặng lẽ nữa. Vậy thì không phải bỏ động cầu tịnh. Chúng ta thường tu là trừ cái động để được cái tịnh, thì cái tịnh đó chưa phải thật, tức cái tịnh này là đối với cái động kia, khi hết tịnh thì nó động lại. Tự tánh tịnh là không gì có thể làm cho nó động được.

    - Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp, không có pháp nào ngoài tự tánh riêng có, vậy đâu còn cầu cái gì khác.

Ngài bộc lộ chỗ thấy ngoài sức suy nghĩ, ngoài sức tưởng tượng, nên nói “đâu ngờ”, bất chợt sáng tỏ ra! Chính đó mới là thật ngộ, còn suy nghĩ là chưa phải.

Đây là Ngài xác quyết chỗ thấy trực tiếp, không qua trung gian của tình thức suy nghĩ. Chúng ta ngày nay có nhiều người cũng đã đọc kinh Pháp Bảo Đàn, đọc đến đây cũng có hiểu, nhưng ngộ thì chưa ngộ, vì sao? Tức là chưa thấy trực tiếp như Ngài Huệ Năng mà còn qua cái tưởng, qua tâm suy nghĩ, nói là hiểu chứ chưa phải thật hiểu. Đa số người học Phật lầm chỗ này rất nhiều, học được một ít rồi thấy như đã hiểu, tưởng ta hiểu, nhưng sự thật chưa phải thật hiểu. Cái hiểu đó là lượm lấy, lượm lấy cái hiểu của Phật của Tổ làm cái hiểu của ta, cho là ta hiểu, sự thật thì chưa phải cái thật hiểu của chính mình.

Trong kinh, Phật gọi cái hiểu biết đó là tưởng tri chứ chưa phải thắng tri. Thắng tri là cái biết thù thắng. Còn tưởng tri là cái biết thuộc về tưởng, chưa phải là chân tri, chưa phải là cái thật biết của chính mình; tức là cái biết còn qua trung gian ý thức. Thế nên tuy hiểu nhưng vẫn chưa vào được cửa Tổ, còn ở ngoài cửa Tổ. Phải có sự tu tập, thực hành, một phen “À, đâu ngờ!” như Ngài Huệ Năng thì mới cảm thông được chỗ này.

Đến đây Ngũ Tổ biết Ngài Huệ Năng đã ngộ được bản tánh, tức thấy tánh rồi, đạp được trên đất Phật, đáng là bậc Trượng Phu đầy đủ dũng khí để vượt lên trên đường giác ngộ, cũng là bậc Thiên Nhân Sư tức là bậc thầy của Trời người, là bậc giác ngộ thật sự.

Như vậy, trước kia Tổ Bồ-đề Đạt-ma truyền kinh Lăng Già, đến Ngũ Tổ chú trọng kinh Kim Cang, Ngài thường giảng kinh Kim Cang. Ngài Huệ Năng lại nghe kinh thì đại ngộ. Như vậy đúng với tinh thần Thiền Giáo đồng hành. Kinh và Thiền không ngăn ngại nhau, không phải trọng Thiền mà phá bỏ Kinh. Hòa thượng Tôn sư ngày nay cũng ứng dụng tinh thần này.

Canh ba, đã nhận lãnh pháp, không ai biết. Tổ liền truyền đốn giáo và y bát rồi nói:

- Ngươi là Tổ đời thứ sáu, hãy khéo tự giữ gìn, rộng độ chúng sanh, truyền khắp mãi về sau chớ để đoạn dứt. Hãy nghe ta nói kệ:

     Có tình đến gieo giống,

     Nhân đất quả lại sanh.

     Không tình đã không giống,

     Không tánh cũng không sanh.

Âm:

     Hữu tình lai hạ chủng,

     Nhân địa quả hoàn sanh.

     Vô tình ký vô chủng,

     Vô tánh diệc vô sanh.

Bài kệ này trong bản kinh khác có sai biệt chút ít.

Khi ấy, Lục Tổ vẫn còn cư sĩ, lại còn rất trẻ, chưa đến ba mươi tuổi, vậy mà được truyền y bát kế thừa Tổ vị, đó là một trường hợp đặc biệt! Phải nói rằng Ngũ Tổ cũng rất đặc biệt, dám đem cả một dòng Thiền truyền cho một anh cư sĩ trẻ, ít ai biết đến, chỉ hơn tám tháng ở nhà sau giã gạo, không có tiếng tăm, lại không biết chữ.

Chính vì sự đặc biệt của hai vị Tổ nên sự truyền trao cũng phải đặc biệt, vì nhiều người không thể chấp nhận được việc này, không tin nổi. Vì không tin nổi thì sẽ gây hại Lục Tổ, nên phải thầm truyền không cho người khác biết. Đó là trường hợp đặc biệt, do hoàn cảnh chứ không có gì bí mật. Về sau có người mượn cớ này, bày ra cách truyền tâm ấn đặc biệt, truyền trong bí mật, thật không phải.

Thiền sư Pháp Hội đến hỏi Mã Tổ:

- Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? (tức ý Tổ Bồ-đề Đạt-ma từ Ấn Độ sang)

Mã Tổ bảo:

- Ông hãy nói nhỏ nhỏ, lại gần đây ta nói nhỏ cho ông nghe.

Ngài Pháp Hội đến gần, Mã Tổ cho một tát tai, bảo:

- Chẳng thể cho người thứ ba biết, ông hãy đi, ngày mai đến.

Hôm sau, Ngài Pháp Hội một mình đi vào pháp đường thưa với Mã Tổ:

- Giờ thỉnh Hòa thượng nói!

Mã Tổ bảo:

- Ông hãy đi, đợi Lão Tăng thượng đường hãy ra hỏi, ta sẽ vì ông chứng minh.

Ngay đó Ngài Pháp Hội bỗng nhiên tỉnh ngộ, Ngài liền thưa:

- Lễ tạ đại chúng chứng minh.

Việc này rõ ràng, đâu có giấu giếm gì. Bảo đừng cho người thứ ba biết tức chỉ thầm biết, thầm nhận, đừng cho ý thức xen vào. Lẽ thật là như thế, là việc sẵn có nơi mọi người đều đầy đủ, không có bí mật gì. Tưởng có gì bí hiểm, đó là chỗ lầm lẫn của người. Nên Sư thưa: “Lễ tạ đại chúng chứng minh”.

Ở đây, cốt là thầy trò tâm tâm thầm hợp với nhau, chủ yếu là chỗ đó, gọi là truyền pháp. Ấn tâm là chỗ đó, điều này vượt ngoài ngôn ngữ, ngôn ngữ không thể đến, cho nên gọi là thầm hiểu thầm nhận.

Ngũ Tổ sau khi truyền y pháp thì nói kệ:

     Có tình đến gieo giống,

     Nhân đất quả lại sanh.

     Không tình đã không giống,

     Không tánh cũng không sanh.

Bài kệ này cô đọng nên có nhiều cách hiểu, mỗi người tùy theo trình độ hiểu theo một cách.

Có tình (hữu tình) cũng có nghĩa là hữu tình chúng sanh, là có tình thức, có nhận biết, có tâm. Có tình thức, đến gieo giống giác ngộ, cũng như có đất, gieo giống thì kết quả sẽ được thành tựu. Còn loài không tình tức loài vô tình như cây đá thì không có giống nên không gieo được, như không có căn tánh thì không sanh kết quả được.

Bài kệ cũng có ý nghĩa nữa, người có tình tức là có tâm, có đủ niềm tin, có căn tánh thích hợp. Có tình như vậy, đến gieo giống nhân đó thì quả giác sẽ thành tựu, nảy mầm sẽ kết thành quả. Ngược lại, người không có tình tức là không có tâm tin nhận, không gieo trồng căn lành với pháp, vậy là thiếu căn tánh thì kết quả bất thành.

Thế nên nói pháp phải biết căn cơ thích hợp mới được lợi ích lớn, không phải đụng đâu nói đó. Nhất là Thiền, gọi là Thiền đốn ngộ mà đụng đâu nói đó là nguy hiểm. Đi đâu, gặp người nào cũng nói Thiền tối thượng thừa, Thiền Tổ sư thì không có kết quả gì, đâu phải ai cũng nghe được, phải biết như vậy. Nhưng cũng có thể nói ngược lại, người có duyên lành nghe được pháp lành này mà có lòng tin, không sợ, không có nghi là đã có trồng sâu căn lành, thì càng củng cố niềm tin thêm để tiến bước.

Về sau, Lục Tổ cũng từng dặn dò hàng môn nhân: “Đời sau có người nhận được pháp của tôi, hãy đem pháp môn Đốn giáo này đối với người đồng kiến, đồng hạnh (là đồng chỗ thấy, đồng hạnh nguyện, chỗ tu hành), phát nguyện thọ trì như thờ Phật (tức có lòng kính nhận), nên trọn đời chẳng lui sụt, nhất định sắp vào Thánh vị. Song, cần phải truyền trao theo từ trước đến nay là thầm truyền trao phó, chẳng được ẩn giấu pháp ấy. Nếu người chẳng đồng kiến đồng hạnh ở trong pháp khác thì chẳng truyền trao, vì sẽ làm tổn đến người trước kia, rốt ráo không có ích gì. Sợ rằng người nghe chẳng hiểu mà chê bai pháp này thì trăm kiếp ngàn đời đoạn dứt hạt giống Phật”.

Lục Tổ dặn rõ, người phải đồng kiến đồng hạnh, nghĩa là có tâm tin nhận thích hợp thì truyền họ mới liền nhận. Người ở pháp khác không đủ lòng tin, nói ra họ nghe rồi sẽ chê bai không tin, sẽ đoạn mất hạt giống Phật, nên không nói thì hay hơn.

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa loại bỏ những người này. Không có lòng tin thì như vô tình nhưng khi họ phát khởi lòng tin thì có tình vì họ đều có tâm, có tâm thì họ cũng có thể phát khởi lòng tin trở lại. Khi đó, họ cũng có thể nhận lấy pháp này chứ không phải hoàn toàn như cây đá. Người truyền pháp phải có cái nhìn thấu đáo như vậy.

Ngũ Tổ nói thêm:

- Xưa, Đại sư Đạt-ma mới đến cõi này, người chưa tin biết, vì vậy mới truyền y này để làm chỗ y cứ cho người tin. Còn pháp, đời đời truyền thừa nhau ắt lấy tâm truyền tâm đều khiến tự ngộ, tự hiểu. Từ xưa, Phật Phật chỉ truyền bản thể, thầy thầy thầm trao bản tâm, y là đầu mối để tranh giành, hãy dừng nơi ngươi chớ truyền nữa. Nếu truyền y này thì mạng sống như tơ mành. Ngươi hãy đi nhanh, e có người sẽ hại ngươi.

Nói về truyền y, Ngũ Tổ nói y chỉ là chỗ y cứ, là phương tiện để người có thêm lòng tin, làm Tổ không phải ở cái y. Còn pháp, là lấy tâm truyền tâm khiến người tự ngộ, tự hiểu. Chính chỗ tâm truyền mới là chỗ trọng yếu, đừng có lầm mà lo đi tranh giành cái y!

Bởi hoàn cảnh thời Tổ Bồ-đề Đạt-ma sang Trung Hoa truyền pháp. Thứ nhất, Tổ là người Ấn Độ, người được pháp là Tổ Huệ Khả - người Trung Hoa, thế nên khi truyền pháp phải có y làm tin để người biết đây là được Tổ truyền trao. Thứ hai, thời gian đầu ít người biết, có khi các Ngài sống trong rừng, trong núi, thầy trò thầm truyền cho nhau, người ngoài ít biết, nên phải có y đó để làm tin. Về sau nhiều người biết, không cần y người cũng biết ai được truyền pháp.

Nên đến đây, Ngũ Tổ bảo dừng việc truyền y, chỉ truyền pháp, quan trọng chỗ tâm tâm truyền nhau. Nhưng bản thể hay bản tâm đó có hình tướng gì mà truyền? Tuy nói truyền trao nhưng đó cũng là lối nói phương tiện, không phải có cái gì để truyền trao, cũng không có cái gì được mà nhận. Chỉ tâm thầy với tâm đệ tử khế hợp nhau gọi là truyền, không phải thầy có gì đem cho đệ tử.

Hơn nữa, chỗ tâm truyền vốn không có hình tướng gì nên không ai giành giật được. Thế nên không sợ bắt chước, không sợ học lóm, nếu bắt chước học lóm thì biết ngay là thứ giả vì đâu thấy được chỗ đó. Tất cả nắm vững, hiểu được mấu chốt đó. Nhưng người vì còn mê, không biết, nghe truyền y bát được làm Tổ thì tưởng làm Tổ ở cái y cái bát cho nên giành nhau y bát, chính đó là mê lầm, khổ nạn.

Năng thưa:

- Con sẽ đi đâu?

Tổ bảo:

- Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn.

 Huệ Năng vào canh ba nhận lãnh y bát rồi thưa:

- Năng vốn là người vùng Lĩnh Nam, đã lâu chẳng biết rõ đường đi của núi này, làm sao ra được bến sông?

Ngũ Tổ bảo:

- Ngươi không phải lo, ta sẽ tự đưa ngươi đi.

Cái khó nữa, khi Lục Tổ nhận y bát, Ngài không biết phải đi đâu, và chỉ ở nhà sau giã gạo mấy tháng không đi đâu, nên giờ không biết đường đi ra khỏi núi, nên thưa: “Con là người vùng Lĩnh Nam, không biết rõ đường ra núi này thì làm sao ra được bến sông”. Ngũ Tổ bảo: “Ngươi không phải lo, ta sẽ đưa ngươi đi”. Mới thấy chân tình của Ngũ Tổ, tình cảnh của thầy trò lúc này thật cảm động.

Tổ đưa đến trạm Cửu Giang, bên trạm có chiếc thuyền, Ngũ Tổ cầm chèo tự chèo. Huệ Năng thưa:

- Thỉnh Hòa thượng ngồi, đệ tử nên chèo.

Ngũ Tổ bảo:

- Nên để ta độ ngươi.

Huệ Năng thưa:

- Khi mê thì thầy độ, ngộ rồi tự độ! Tuy cái tên độ là một mà chỗ dụng chẳng đồng. Huệ Năng sanh ở vùng biên địa xa xôi, giọng nói chẳng chính, được thầy trao pháp, nay đã được ngộ chỉ nên tự tánh tự độ.

Tổ bảo:

- Đúng thế! Đúng thế! Về sau Phật pháp sẽ do ngươi mà được truyền rộng. Ngươi đi ba năm ta sẽ qua đời. Nay ngươi hãy khéo đi, gắng sức về phương Nam, chẳng nên nói sớm, Phật pháp có nạn khởi.

Năng từ giã Tổ, cất bước đi về phương Nam, khoảng hai tháng thì đến ngọn Đại Dữu.

Ngay trong đêm, Ngũ Tổ đưa Lục Tổ đến trạm Cửu Giang. Cửu Giang hiện nay là huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây, bên bờ sông lớn. Trạm là nơi chuyển tiếp để truyền văn thư, ngày xưa dùng ngựa làm phương tiện đưa tin, đưa thư từ nơi này đến nơi kia. Khi đưa đến trạm, có thuyền sẵn bên bờ sông, Ngũ Tổ cầm chèo tự chèo, Lục Tổ nói: “Thỉnh Hòa thượng ngồi, đệ tử nên chèo”. Ngũ Tổ bảo: “Nên để ta độ ngươi”. Chữ độ đây có hai nghĩa: Độ là đưa qua sông, mà Độ cũng có nghĩa là cứu độ, độ thoát. Lục Tổ nhân đó mới thưa: “Khi mê nhờ thầy độ, ngộ rồi thì tự độ”. Độ này không có nghĩa đưa qua sông mà có nghĩa cứu độ.

Cho nên Lục Tổ nói: “Tuy tên độ là một mà chỗ dụng chẳng đồng, Huệ Năng sanh ở vùng biên địa xa xôi, giọng nói chẳng chính”. Ngài sanh ở vùng biên địa xa xôi, chữ Hán gọi là “Cát lạo”, chỉ cho người chưa có khai hóa, nói năng không chính, chữ độ nói lệch ra thành cứu độ. Mượn việc qua sông để nói lên chỗ sống nơi chính mình, không lệ thuộc bên ngoài, từ nơi tự tâm sáng tỏ mà bộc lộ ra. Tự tánh tự độ, là không ỷ lại, nương tựa bên ngoài, có đủ lòng tự tin nơi chính mình.

Ngũ Tổ nghe khẩu khí như vậy thì vui mừng, biết rằng gặp được bậc pháp khí có lợi ích lớn cho Phật pháp sau này. nên bảo: “Đúng thế! Đúng thế! Về sau Phật pháp sẽ do ngươi được truyền rộng”.

Ngũ Tổ cũng dặn dò thêm là không được nói pháp sớm vì Ngài biết trước sẽ có nạn, có nhiều người hại. Mới thấy rằng cái thấy của Ngũ Tổ rất sáng suốt, thấy cả tương lai, Ngài còn dự báo sau khi Lục Tổ đi, ba năm sau Ngài sẽ tịch.

Sau đó, Lục Tổ một mình đi về phương Nam, lúc này đi đơn độc một mình. Khoảng hai tháng đến ngọn Đại Dữu. Ngọn núi này, cũng gọi là ngọn Thai Lãnh là một trong Ngũ Lãnh. Chính nơi đây xảy ra chuyện giành y.

Ngũ Tổ trở về, mấy ngày chẳng thượng đường, chúng mới nghi đến thăm hỏi:

- Hòa thượng có bệnh hoạn gì chăng?

Tổ bảo:

- Không có bệnh gì, chỉ y pháp đã về phương Nam rồi!

Chúng hỏi:

- Ai được truyền trao?

Tổ bảo:

- Năng thì được.

Bấy giờ, chúng mới biết chuyện.

Ngũ Tổ lại nói khéo, không nói dối mà nói lời hai nghĩa, nói: “Năng thì được”. Nghĩa là người có khả năng thì được, nhưng cũng chỉ cho Lục Tổ tên Năng. Nhưng sau đó chúng cũng biết (nghe Ngũ Tổ nói vậy, lại thấy Huệ Năng vắng bất ngờ nên biết được). Đoạn này có thể do người sau nghe kể lại nên thêm vào, vì khi đó Lục Tổ đã âm thầm một mình đi lánh nạn.

Mấy trăm người đuổi theo sau muốn đoạt y bát. Một vị tăng tên Trần Huệ Minh, trước kia là tướng quân tứ phẩm, tánh hạnh thô tháo, quyết lòng tìm kiếm, chạy trước mọi người, đuổi kịp Năng. Năng bỏ y bát trên tảng đá rồi nói:

- Y này là vật tiêu biểu để làm tin, có thể dùng sức để tranh sao?

Năng liền ẩn vào bụi cỏ rậm, Huệ Minh chạy đến kéo y bát lên chẳng nhúc nhích, mới gọi to:

- Hành giả! Hành giả! Tôi vì pháp mà đến, chẳng phải vì y mà đến.

Năng bèn bước ra ngồi trên tảng đá, Huệ Minh làm lễ, nói:

- Mong hành giả vì tôi mà nói pháp.

Huệ Năng bảo:

- Ông đã vì pháp mà đến, hãy dứt bặt các duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ nói cho ông nghe.

Im lặng giây lâu, Huệ Năng bảo Minh:

- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính khi ấy, cái gì là mặt mày xưa nay của Thượng tọa Minh?

Huệ Minh ngay câu nói liền đại ngộ, rồi hỏi thêm:

- Ngoài lời mật, ý mật từ trước đến đây, còn có ý mật nào nữa chăng?

Năng bảo:

- Đã nói với ông thì tức là chẳng phải mật, nếu ông xoay ngược trở lại thì mật ở bên ông.

Minh mới nói:

- Huệ Minh tuy ở Hoàng Mai mà thật chưa tỉnh được mặt mày của chính mình. Nay được chỉ dạy, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Giờ đây hành giả chính là thầy của Huệ Minh vậy.

Năng bảo:

- Nếu ông như thế thì tôi cùng ông đồng thờ Hoàng Mai làm thầy, hãy khéo tự giữ gìn.

Minh hỏi thêm:

- Từ nay về sau Huệ Minh sẽ đi đâu?

Năng bảo:

- Gặp Viên thì dừng, gặp Mông thì ở.

Huệ Minh kính lễ rồi từ giã. Huệ Minh trở xuống, đến dưới núi, bảo với những người đuổi theo:

- Đã trèo lên chót vót, trọn không thấy dấu vết gì, thôi hãy tìm theo lối khác.

Mọi người đều cho là phải. Về sau, Huệ Minh đổi tên là Đạo Minh để tránh chữ trên của tên thầy.

Đúng như lời dự đoán của Ngũ Tổ, sau đó có mấy trăm người đuổi theo muốn đoạt y bát lại. Cho thấy rằng, tuy những vị này ở với Ngũ Tổ, học với Ngũ Tổ, tu với Ngũ Tổ nhưng chưa đủ lòng tin với Tổ, chỉ nghĩ theo cái nghĩ của mình, tức là nghĩ theo cái “ta vô minh” này. Cho nên không chấp nhận được việc làm của Ngũ Tổ, cùng nhau rượt theo đoạt y bát lại chứ không chịu thuận theo.

Những vị này nghĩ rằng, đáng lẽ Tổ truyền y bát cho Ngài Thần Tú thì đâu có chuyện gì, không biết Tổ nghĩ sao mà truyền y bát cho ông cư sĩ? Thành ra không chấp nhận được, rõ ràng chưa đủ lòng tin với Ngũ Tổ. Nếu đủ lòng tin thì biết Ngũ Tổ truyền là có ý của Ngũ Tổ, Ngài truyền cho người đáng được truyền, vậy đâu có chuyện gì.

Trong đó, có vị tăng tên Trần Huệ Minh trước khi đi tu là vị tướng võ nên có sức mạnh, chạy trước mọi người, đuổi kịp Lục Tổ. Lục Tổ để y bát trên đá rồi ẩn vào bụi cỏ rậm. Trần Huệ Minh chạy đến thấy y bát, kéo y bát lên không nhúc nhích. Chuyện này ngoài sức hiểu tầm thường, cũng ngoài cái sức hiểu của khoa học, y bát đâu thể nặng đến nỗi kéo không lên. Bây giờ nhiều người ỷ lại vào khoa học, nhưng khoa học cũng có giới hạn, có những cái khoa học không biết tới, nhưng khoa học không biết tới không phải là không có.

Huệ Minh biết rằng có sức mạnh đặc biệt nào đó ngoài sức tưởng tượng của con người. Ngay đó, ông chuyển ý trở lại, từ tâm ác muốn đoạt y bát, liền chuyển lại thành tâm thiện cầu pháp. Ông cũng còn có chủng tử tốt lành, ngay đó chuyển liền. Cũng để cho chúng ta thấy rằng, niệm thiện niệm ác cũng không cố định, không phải sẵn có trong tự tánh. Do đó chúng ta tu không phải quá mặc cảm, không phải quá sợ, người khéo liền chuyển niệm ác thành niệm thiện.

Huệ Minh gọi: “Hành giả! Hành giả! Tôi vì pháp đến, không phải vì y đến”. Gọi là hành giả vì Lục Tổ khi ấy chưa cạo tóc, còn hình thức cư sĩ. Lục Tổ mới bước ra, ngồi trên tảng đá. Huệ Minh đến làm lễ. Một ông tăng mà dám lễ ông cư sĩ, cho thấy rằng bấy giờ ông thực sự chuyển ý, đầy đủ lòng kính trọng, chân thành cầu pháp, vì pháp mà đến.

Lục Tổ bảo: “Ông đã vì pháp mà đến, hãy dứt bặt các duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ nói cho ông nghe”. Đây là chỗ trọng yếu, cũng là bài học cho chúng ta học khi nghe pháp, học pháp. Trước khi nói pháp, Lục Tổ gạn lại để ông thật sự tĩnh tâm, không nghĩ ngợi lăng xăng, phải dứt bặt các duyên, chớ sanh một niệm. Nghĩa là muốn nghe pháp thì sao? Phải chuyên tâm, nhất ý, sẵn sàng để đón nhận, vậy mới nghe nhận được chỗ sâu xa của pháp. Tâm còn nghĩ lăng xăng thì làm sao nhận được pháp! Đó là kinh nghiệm cho người học pháp.

Lục Tổ im lặng giây lâu cho ông lắng lòng chú tâm trở lại, rồi bảo: “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính khi ấy, cái gì là mặt mày xưa nay của Thượng tọa Minh?”. Ngay câu đó, ông đại ngộ. Theo pháp sư Diễn Bồi, trong nguyên bản không có câu “Huệ Minh ngay câu nói liền đại ngộ”. Câu này do người sau thêm vào cho đủ nghĩa, hoặc câu này là lời chú thích về sau được nhập vào chánh văn, nguyên bản không có câu này.

Đây chính là tâm truyền tâm. Chỉ câu nói nhẹ mà ngay đó Huệ Minh đại ngộ. Bởi trước khi nói, Lục Tổ bảo ông phải dứt bặt các duyên, chớ sanh một niệm, ngay đó mới nhận được. Thường thường người học chỉ chú ý chỗ “chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác”. Mà quên mất chỗ trọng tâm là “Chính khi ấy, cái gì là mặt mày xưa nay?”. Cái đó vượt qua cả thiện ác. Đó là đem tâm truyền tâm. “Chính khi ấy”, “ngay chỗ đó”, ông thấy được tâm ông như vậy thì ông thấy được tâm tôi như vậy, khế hợp nhau. Điều quan trọng là tâm trò phải thật sự sẵn sàng, nếu thật đã sẵn sàng thì ngay đó liền bật ra, tâm trò khế hợp với tâm thầy! Chỗ này, ngôn ngữ không thể nói đến được, gọi là tâm truyền tâm.

Khi tỏ ngộ rồi, Ngài Huệ Minh hỏi thêm: “Ngoài ý mật, lời mật từ trước đến đây, còn có ý mật nào nữa hay không?” Ông nghĩ còn có bí mật nào nữa. Lục Tổ bảo rõ, đã nói với ông thì đâu còn mật! Nếu nói ra thì hết mật rồi. Nhưng chủ yếu là ông khéo soi trở lại nơi chính mình thì cái mật ở ngay chính ông, tức ngay đó ông sẽ tự mình thầm nhận lấy. Mới thấy rằng còn tình mê thì thấy giống như có gì bí mật, Tổ không nói ra hết. Khi tâm sáng rồi, ngộ rồi thì thấy rõ ràng, đơn giản, không có gì xa xôi.

Ngài Huệ Minh tự bày chỗ hiểu của mình, giống như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Mình nhận ra tự mình biết, khó nói cho người. Chỗ đó, ngôn ngữ không diễn bày hết được, ai đến thì tự biết. Thế nên chỗ này không bắt chước được, học giả không thể học đến. Phải là hành giả, thực hành mới thể nghiệm được, chứng nghiệm được trong đó.

Ngài Huệ Minh cảm kích, xin nhận Lục Tổ làm thầy. Lục Tổ khéo léo, khiêm tốn nói “Ông cùng tôi thờ Ngũ Tổ làm thầy”. Huệ Minh đi xuống núi, đánh lạc hướng những người chạy đuổi theo, Lục Tổ thoát nạn.

Về sau, Huệ Minh đổi tên là Đạo Minh, tránh chữ Huệ trùng tên của Lục Tổ là Huệ Năng, Ngài kính trọng Lục Tổ như kính trọng thầy. Rồi ông qua ở nơi đài Bố Thủy tại Lô Sơn, ở đây trải qua ba năm, ông đi đến trụ ở Mông Sơn thuộc Viên Châu, đúng như Lục Tổ dự ký “gặp Viên thì dừng, gặp Mông thì ở”.

Đến đây, Lục Tổ thoát nạn bị người rượt đuổi theo giành y bát lại. Nhưng sau này Ngài cũng còn bị những người ác tìm theo hại nên phải ẩn tiếp 15 năm nữa.

Trong Tổ Đường Tập có đoạn ghi:

Ông Vi Trung Thừa (ông quan có học thiền), một hôm ông hỏi Ngài Ngưỡng Sơn:

- Ngũ Tổ vì sao lại phân phó y bát cho Huệ Năng mà chẳng phân phó cho Thần Tú? Sau khi đã phân phó, vì sao Huệ Minh lại từ nơi Ngũ Tổ đuổi theo đến ngọn Đại Dữu đoạt y bát kia? Rồi có ý gì chẳng được y mà quay về? Tôi từng hỏi chư Tăng trong thành, nhưng mỗi người nói mỗi khác, tôi thường nghi về việc này. Hòa thượng kế thừa có thầy, mong giải thích cho.

Tức ngay thời của Ngài Ngưỡng Sơn, việc này mỗi người giải thích có sai biệt. Ông Vi Trung Thừa nghe vậy thắc mắc, đem ra hỏi Ngài Ngưỡng Sơn.

Ngài Ngưỡng Sơn đáp:

- Đây là việc trong tông môn. Tôi từng ở chỗ tiên sư (chỗ Ngài Quy Sơn) có nghe nói: “Lúc ấy dưới Ngũ Tổ có 700 Tăng, Ngũ Tổ sắp thiên hóa (sắp tịch), Ngài muốn tìm người để truyền pháp và phân phó y bát. Trong chúng có vị Thượng tọa tên Thần Tú làm bài kệ trình Ngũ Tổ (bài kệ có chút ít sai biệt):

    Thân là cây Bồ-đề,

    Tâm như đài gương sáng.

    Luôn luôn siêng lau chùi,

    Chớ để có bụi bặm.

Sau đó, ở trong chỗ giã gạo, Lư hành giả (Ngài Huệ Năng họ Lư, khi ấy còn để tóc, chưa phải người xuất gia nên gọi Lư hành giả) nghe bài kệ này, bèn làm bài kệ trình lên Ngũ Tổ:

    Bồ-đề vốn không cội,

    Gương sáng chẳng phải đài.

    Xưa nay không một vật,

    Chỗ nào có bụi bặm?

Ngũ Tổ thấy bài kệ này, đồng thời Ngài cũng không nói gì. Đến trong đêm, Ngũ Tổ bảo một đồng tử đến chỗ giã gạo gọi hành giả đến (lâu nay trong kinh Pháp Bảo Đàn nói Ngũ Tổ tự đến chỗ giã gạo). Hành giả đi theo đồng tử đến chỗ Ngũ Tổ, Ngũ Tổ sau đó đuổi đồng tử đi, bèn đổi tên Lư hành giả là Huệ Năng (trong đây nói lúc này mới đổi tên thành Huệ Năng), trao y bát, truyền cho là Tổ đời thứ sáu. Ngũ Tổ nói với hành giả:

- Tú ở ngoài cửa, còn Năng thì được vào cửa, được ngồi mặc áo, về sau tự xem. Hai mươi năm chớ hoằng truyền giáo của ta, sẽ có nạn khởi. Sau khi qua khỏi thời gian này hãy khéo dẫn dạy cho người mê.

Huệ Năng hỏi:

- Phải đi nơi nào để tránh nạn?

Ngũ Tổ bảo:

- Gặp Hoài thì ẩn, gặp Hội thì tránh, đổi họ, đổi tên tức sẽ được an ổn.

Hành giả đã được phó chúc y bát, ngay nửa đêm liền ra đi hướng về Lãnh Nam. Sau năm ngày, Ngũ Tổ nhóm chúng bảo:

- Trong đây không có Phật pháp! (ngầm chỉ đã truyền pháp cho Lục Tổ)

Chúng Tăng hỏi Ngũ Tổ:

- Y bát phân phó cho người nào?

Ngũ Tổ bảo:

- Năng thì được.

Chúng Tăng bàn bạc với nhau về hành giả ở chỗ giã gạo (hành giả chỗ giã gạo đã vắng mặt, lại được đồng tử tiết lộ là Ngũ Tổ bảo dẫn hành giả lên phòng). Chúng Tăng biết Lư hành giả đem y bát về Lãnh Nam, chúng Tăng đuổi theo. Trong đó có vị tăng vốn từ quan là tướng quân tam phẩm tên Trần Huệ Minh đi vào đạo, vượt cả trong đêm đuổi theo đến ngọn Đại Dữu. Hành giả biết có người đuổi đến, bèn để y bát lại, vào trong rừng ngồi trên tảng đá để tránh. (ngày nay ở núi này còn viên đá tránh nạn gọi là Tỵ Nạn Thạch)

Huệ Minh đi lên ngọn núi, thấy y bát, tiến tới lấy tay kéo lên nhưng y bát không nhúc nhích, ông tự biết mình sức còn mỏng (đức còn mỏng). Ông đổi ý, bèn vào núi tìm hành giả. Trên núi cao, trong rừng, gặp hành giả ngồi trên tảng đá. Hành giả từ xa thấy Huệ Minh tới, mới bảo:

- Tổ của tôi phân phó y bát, tôi rất mực từ chối chẳng nhận, nhưng Tổ truyền. Tôi tuy đã đem đi nhưng hãy còn ở trên ngọn núi, Thượng tọa muốn cần thì xin mời hãy lấy đem đi!

Huệ Minh đáp:

- Tôi chẳng phải vì y bát đến mà vì pháp đến. Chẳng biết hành giả khi rời Ngũ Tổ có ý mật, lời mật gì, mong nói cho tôi được nghe!

Hành giả thấy ông tha thiết cầu nên bảo:

- Ông hãy ngồi ngay ngắn trên tảng đá, lặng hết những nghĩ ngợi.

Rồi bảo:

- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác! Chính khi chẳng sanh nghĩ ngợi như thế, hãy trả lại mặt mày của Thượng tọa Minh xưa nay xem!

Huệ Minh hỏi thêm:

- Từ trước, ý mật tức cái này phải chăng? Hay riêng còn có ý chỉ?

Hành giả bảo:

- Tôi hiện nay đã nói rõ cho ông rồi thì đã thành chẳng mật. Nếu ông tự nhận được mặt mày chính mình thì cái mật tức ở bên ông.

Huệ Minh nói với hành giả:

- Ngài ở bên thân Hòa thượng tại Hoàng Mai, ý chỉ lại thế nào?

Hành giả bảo:

- Hòa thượng xem tôi đối với kệ của Thượng tọa Tú liền biết ý vào cửa của tôi, liền ấn khả cho Huệ Năng mà bảo: “Tú ở ngoài cửa, còn Năng được vào cửa, được ngồi mặc áo về sau tự xem. Y, bát này từ trước đến nay trao truyền rất cần phải được người. Tôi nay trao cho ngươi, hãy gắng sức đem đi. Hai mươi năm chớ có hoằng truyền giáo của tôi, sẽ có nạn khởi. Sau khi qua khỏi thời gian này rồi, hãy khéo dẫn dạy cho người mê”. Huệ Năng hỏi: “Sẽ ở nơi nào có thể tránh nạn?”. Ngũ Tổ bảo: “Gặp Hoài thì ẩn, gặp Hội thì trốn. Đổi họ đổi tên sẽ được an ổn”.

Huệ Minh nói:

- Bấy giờ Huệ Minh tuy ở Hoàng Mai được cạo tóc, mà thật chẳng rõ biết mặt mày của Thiền Tông, nay nhờ được chỉ cho chỗ vào, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Từ nay về sau, hành giả tức là thầy của Huệ Minh, giờ đây xin đổi hiệu là Đạo Minh.

Hành giả nói:

- Ông nếu như thế, tôi cũng như thế, cùng ông đồng thờ Hoàng Mai làm thầy chẳng khác, hãy khéo tự giữ gìn.

Đạo Minh thưa:

- Hòa thượng hãy đi nhanh về phương Nam, ở phía sau có rất nhiều người đuổi theo Hòa thượng, đợi Đạo Minh tạm chỉ cho họ quay lại. Nay xin kính lễ từ giã Hòa thượng, sẽ đi về phương Bắc.

Đạo Minh ở trên núi chia tay xong, bèn tiến bước đi về phương Bắc. Đến Kiền Châu, quả nhiên ông gặp hơn 50 vị tăng đuổi đến tìm Lư hành giả. Đạo Minh nói với họ:

- Tôi ở trên ngọn Đại Dữu thuộc trấn Hoài Hóa năm sáu ngày đợi xem, tìm hỏi những nơi trọng yếu qua lại, đều chẳng thấy bóng dáng người này đi qua.

Mọi người lại đi về phương Bắc tìm kiếm, và nói: “Người ấy đã đeo đá giã gạo, lưng có bị tổn thương, trên đường đi e cũng gặp khó khăn”.

Sau khi chia tay với mọi người, Đạo Minh một mình đi qua Bố Thủy Đài ở Lô Sơn. Trải qua ba năm, lại trở về Mông Sơn tu hành. Sau này có đồ đệ, thảy đều chỉ dạy đến Lĩnh Nam lễ bái chỗ Lục Tổ. Đến nay, linh tháp ở Mông Sơn vẫn còn.

***

Sau đó, Năng đến Tào Khê lại bị người ác đuổi tìm, bèn tránh nạn ở Tứ Hội, lẫn ở trong đám thợ săn cả thảy 15 năm. Lúc đó, tùy nghi thuyết pháp cho thợ săn nghe. Thợ săn thường sai Năng giữ lưới, mỗi khi gặp con vật mắc lưới trọn đều thả hết. Đến giờ cơm thì lấy rau gởi luộc trong nồi thịt, có ai hỏi thì đáp:

- Chỉ ăn rau bên thịt.

Khi Ngài Huệ Minh xuống núi đánh lạc hướng nhóm người đuổi theo, Lục Tổ đi đến Tào Khê, lại bị một số người ác đuổi tìm nên phải ẩn tránh nơi huyện Tứ Hội (thuộc tỉnh Quảng Đông). Lúc này, Ngài sống chung trong nhóm thợ săn để không ai chú ý đến. Ngài cũng phương tiện thuyết pháp cho họ, thợ săn sai Ngài giữ lưới, Ngài thả hết những con vật mắc lưới, ăn uống cũng phải tùy phương tiện, tức ăn rau bên thịt. Đây là trường hợp bất đắc dĩ, tùy duyên nhưng không vướng mắc. Thời gian này là thời gian ẩn náu lánh nạn bặt tin tức ở bên ngoài.

Một hôm, Năng mới suy nghĩ: “Đã đến thời hoằng pháp, chẳng thể ẩn mãi”, bèn ra chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, gặp Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn. Lúc đó gió thổi phướn động, một vị tăng bảo:

- Gió động.

Một vị khác bảo:

- Phướn động.

Cứ bàn mãi không thôi. Năng tiến lên nói:

- Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, mà tâm của Ngài động.

Cả chúng kinh hãi, Ấn Tông mời lên trên, gạn hỏi nghĩa sâu xa. Thấy Năng lời lẽ giản dị, lý lại xác đáng, không theo văn tự, Ấn Tông nói:

- Hành giả nhất định chẳng phải người thường. Từ lâu đã nghe y pháp của Hoàng Mai về phương Nam, phải là hành giả chăng?

Năng nói:

- Chẳng dám!

Khi đó Ấn Tông làm lễ, xin đem y bát ra chỉ cho đại chúng xem.

Qua thời gian lánh nạn ẩn náu, Tổ thấy thời cơ hoằng pháp đã đến bèn đi ra, đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu. Lúc này gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn, rồi có câu chuyện gió động và phướn động, nhân đó mà lộ tung tích.

Ngài Ấn Tông ở huyện Ngô thuộc Giang Tô. Khoảng năm đầu niên hiệu Hàm Hanh đời Đường, Sư đến kinh sư, được sắc ở chùa Đại Kính Ái nhưng Sư cố từ chối. Sư đến Kỳ Châu gặp Tổ Hoằng Nhẫn, sau đó đến ở chùa Pháp Tánh trong thành Quảng Châu.

Khi này, Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn, trong hội giảng kinh nên bên ngoài có treo phướn. Nhân gió thổi, lá phướn bay phất phới. Hai vị tăng tranh luận, một vị bảo phướn động, một vị bảo gió động. Cứ thế, tranh luận không ra lẽ, bởi vì sao? Cả hai vị tăng đều chỉ thấy một bên.

Lục Tổ khi đó còn hình thức cư sĩ, thấy hai vị tăng luận mãi không ra lẽ nên xin đóng góp ý kiến. Ngài nói: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, chính tâm của Ngài động”. Chỉ câu nói đơn giản như thế thốt ra mà mọi người có mặt khi đó đều kinh ngạc vì thấy câu trả lời đặc biệt, chí lý. Không ngờ một ông cư sĩ nói ra lời đạo lý hay như thế, nên vào thuật lại với Ngài Ấn Tông. Ngài Ấn Tông mời lên phía trên tức tỏ vẻ trân trọng, gạn hỏi những ý nghĩa sâu xa của Phật pháp. Lục Tổ đối đáp lời lẽ xác đáng, nhưng bình dị, không kẹt về hình thức chữ nghĩa. Ngài Ấn Tông biết vị này có chỗ sáng tỏ từ nội tâm nói ra. Bởi Ngài Ấn Tông cũng đã từng gặp Ngũ Tổ, cho nên nghĩ rằng đây phải là người trong cửa Tổ mới được vậy, mà lâu nay nghe nói y bát về phương Nam, có lẽ là vị này. Ngài nghi như vậy nên gạn hỏi: “Hành giả nhất định không phải người thường, từ lâu nghe y pháp của Hoàng Mai về phương Nam, phải là hành giả chăng?” Lục Tổ bảo: “Chẳng dám!”, nghĩa là ngầm nhận, nói lời khiêm tốn.

Vì sao chỉ có một câu nói đơn giản “chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm nhân giả động” mà làm mọi người kinh ngạc, rồi Ngài Ấn Tông cũng thấy được mới mời lên.

Nói theo nhà Thiền thì hai vị tăng này quên mình theo vật, duyên theo tướng bên ngoài, theo tướng gió, theo tướng phướn, tức duyên theo trần, rồi mất mình lúc nào không hay. Phải thấy được lỗi đó, chỉ thấy một bên hoặc gió hoặc phướn mà quên mất chính mình, cứ bàn luận theo trần. Nhưng gió, phướn có biết động không? Nó là vật vô tri, đâu có biết động biết tịnh, nói nó động thì nó không cãi, nói nó tịnh nó cũng không cãi. Nếu thấy trở lại tâm thì hết tranh luận. Nói cho rõ, động là ở nơi tâm. Do không thấy được cái gốc nên tranh mãi. Người nói được như vậy, thấy được ý sâu xa trong đó thì đâu phải tầm thường.

Tuy nhiên, người ngày nay đọc kinh Pháp Bảo Đàn nhiều, rồi theo đó mà cũng nói là tâm ông động, nhưng nói đó chỉ là nói theo, bắt chước theo Lục Tổ nói lại chứ chưa phải thật sự chính mình thấy như vậy. Chỗ này, nhiều người vẫn còn mắc kẹt. Học kinh Pháp Bảo Đàn rồi nói cho hay nhưng cũng thuộc về kiến giải suông.

Như câu chuyện ni sư tên Diệu Tín là đệ tử Thiền sư Ngưỡng Sơn - Huệ Tịch. Nhân vị tri khách trong viện nghỉ việc, Ngài Ngưỡng Sơn sai ni sư Diệu Tín đảm trách tri khách để tiếp đãi khách. Một hôm, có 17 vị tăng hành cước từ Tứ Xuyên đến viện định gặp Thiền sư Ngưỡng Sơn hỏi đạo, nhưng chưa được gặp. Về chiều có thời gian rảnh, những vị tăng hành cước thảo luận về Phật pháp, nói một lúc, lại nói đến chuyện gió động phướn động. Nhưng luận mãi không ra lý, trở thành tranh cãi ồn ào.

Ni sư Diệu Tín nghe vậy, liền lớn tiếng quở:

- Mười bảy vị ở ngoài cửa, sáng mai ra đi phải tính tiền phòng cho tôi rõ ràng.

Những vị tăng hành cước thấy ni sư nói có vẻ nghiêm túc, im lặng nhìn nhau, chưa biết phải làm thế nào. Ni Diệu Tín nói tiếp:

- Các vị chẳng cần phải tranh cãi nữa, các vị hãy đến trước tôi, tôi sẽ vì nói.

Mười bảy vị tăng đến trước ni Diệu Tín. Ni sư nói:

- Đã chẳng phải là gió động, cũng chẳng phải là phướn động thì đâu thể cho là tâm động!

Cả mười bảy vị tăng nghe qua chợt sáng tỏ ý này, tâm cởi mở, cùng nhau bàn:

- Không cần phải đợi gặp Thiền sư Ngưỡng Sơn thượng đường khai pháp để hỏi gì nữa.

Ngày sau, họ bèn cáo biệt ra đi.

Những vị tăng này dùng thời gian rảnh rang bàn Phật pháp cũng là hay, có nhiều vị rảnh rang chỉ bàn chuyện tạp nhạp. Ngài Quy Sơn từng quở: “Tụm đầu bàn nói lăng xăng, toàn những chuyện tạp nhạp thế gian”. Ở đây, đề tài bàn luận về việc phướn động gió động nhưng giải quyết không xong.

Ni sư Diệu Tín đánh thức trở lại, gợi ý cho những vị tăng đi sâu vào vấn đề: Đã chẳng thành gió động, chẳng thành phướn động, vậy tâm nhân đâu mà động! Tâm động phải có cảnh động, cảnh không động làm sao tâm động được! Ni sư này sáng tỏ được chính mình không phải bắt chước nói theo, vậy mới là thật thấy, không phải theo lời mà sanh hiểu.

Ngày nay, nhiều người nghe rồi bắt chước nói: Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, mà tâm động. Nói như vậy nhưng không thật sự hiểu, không thấy được ý đó; chỉ nói theo một chiều tâm động mà không có cái thấy của chính mình, tức là gió không thành động, phướn không thành động, tâm bám vào chỗ nào để thành động. Thấy sâu đến như vậy mới thấy thấu vấn đề.

Trước, Lục Tổ vì cảnh tỉnh cho hai vị tăng nên nói do tâm động. Chúng ta phải thấy sâu vấn đề một cách đầy đủ chứ không phải bắt chước nói theo. Học thiền là không phải nhái lại, không phải nhai đi nhai lại lời đó mãi, gọi là chạy theo đuôi, mà phải tự mình mở sáng chỗ thấy chân thật nơi chính mình. Đó là bài học để ngăn ngừa người sau bắt chước nói theo.

Ấn Tông hỏi thêm:

- Hoàng Mai phó chúc, truyền dạy thế nào?

Năng đáp:

- Không có gì truyền dạy, chỉ luận về kiến tánh, chẳng bàn thiền định giải thoát.

Ấn Tông hỏi:

- Sao chẳng luận thiền định giải thoát?

Năng đáp:

- Vì đó là pháp có hai, chẳng phải Phật pháp, Phật pháp là pháp chẳng hai.

Ấn Tông lại hỏi thêm:

- Thế nào Phật pháp là pháp chẳng hai?

Năng đáp:

- Pháp sư giảng kinh Niết Bàn thì đã rõ Phật tánh là pháp chẳng hai của Phật pháp. Như Bồ-tát Cao Quý Đức Vương ở trong kinh Niết Bàn bạch Phật: “Người phạm bốn giới trọng, tạo tội ngũ nghịch và Nhất-xiển-đề sẽ đoạn thiện căn Phật tánh chăng?”. Phật bảo: “Thiện căn có hai: Một là thường, hai là vô thường. Còn Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, thế nên chẳng đoạn, đó gọi là chẳng hai. Một là thiện, hai là chẳng thiện, Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải chẳng thiện, đó gọi là chẳng hai. Uẩn và giới phàm phu thấy là hai, người trí rõ suốt tánh nó không hai, tánh không hai tức là Phật tánh”.

Ấn Tông nghe nói, vui mừng chắp tay thưa:

 - Tôi giảng kinh giống như ngói gạch, Ngài luận nghĩa ví tợ vàng ròng.

Ngài Ấn Tông hỏi về phó chúc, truyền dạy của Ngũ Tổ, Lục Tổ đáp không có truyền dạy gì khác, chỉ luận về kiến tánh, không bàn thiền định giải thoát. Người mới nghe qua sẽ thấy lạ, nên Ngài Ấn Tông hỏi: “Sao chẳng luận thiền định giải thoát?”. Lục Tổ đáp rõ: “Vì đó là pháp có hai, chẳng phải Phật pháp, Phật pháp là pháp chẳng hai”. Chỗ này ý sâu xa hơn, Lục Tổ trả lời thẳng thắn, không theo chữ nghĩa, không theo sự học bên ngoài.

Theo bên ngoài thì nói về thiền định, giải thoát. Lục Tổ ở đây nói thẳng không có pháp từ bên ngoài để được, chỉ nói kiến tánh, đánh thức cho người sáng tỏ trở lại tự tánh chính mình. Không bàn về thiền định giải thoát, không đi theo kiến giải phân biệt trên chữ nghĩa. Bàn thiền định giải thoát cũng là bàn trên chữ nghĩa, không thật sự giải thoát.

Tổ nói rõ thiền định giải thoát cũng là pháp có hai, mà có hai tức pháp phân biệt đối đãi. Đây là thiền định, kia là trí tuệ, đây đối với kia, đó là pháp đối đãi, là pháp phương tiện, chưa phải Phật pháp thật. Phật pháp thật phải vượt qua phân biệt đối đãi, nên nói là pháp chẳng hai.

Chẳng hai thì lấy gì phân biệt? Đây Lục Tổ dẫn kinh Niết Bàn. Tại sao Lục Tổ không biết chữ mà biết dẫn kinh Niết Bàn?

Trong một đoạn về nhân duyên, có dẫn: Khi Tổ tránh nạn ở chỗ bà ni Vô Tận Tạng, bà tụng kinh Niết Bàn. Tổ nghe qua liền biết được diệu nghĩa, vì bà ni giải nói. Bà ni cầm quyển kinh hỏi chữ.

Tổ bảo:

- Chữ thì không biết, nghĩa tức mời hỏi.

Bà nói:

- Chữ còn không biết, sao có thể hiểu nghĩa?

Tổ nói:

- Diệu lý của chư Phật không nằm trong chữ nghĩa.

Rồi bà ni đọc kinh, Tổ nghe rồi giải thích nghĩa.

Do vậy, Tổ biết mà dẫn kinh Niết Bàn.

Bồ-tát Cao Quý Đức Vương bạch Phật: “Người phạm bốn giới trọng, tạo tội ngũ nghịch và Nhất-xiển-đề sẽ đoạn thiện căn Phật tánh chăng?” Giới trọng là giới nặng như sát sanh, trộm cướp v.v... Tội ngũ nghịch là tội cực ác, giết cha, giết mẹ v.v... Nhất-xiển-đề là người đánh mất thiện căn, không tin nhân quả, bài bác nhân quả. Bồ-tát hỏi những người này có đoạn mất thiện căn Phật tánh hay không?

Phật không nói có hay không có, Ngài nói rõ: “Thiện căn có hai, một là thường, hai là vô thường. Còn Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, thế nên chẳng đoạn, đó gọi là chẳng hai”. Phật tánh không nằm trong đối đãi của thường, vô thường thì làm sao đoạn?

Một là thiện, hai là chẳng thiện, Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải chẳng thiện, đó gọi là chẳng hai”. Thiện, bất thiện là hai, tức đối đãi nhau, còn Phật tánh vượt qua thiện ác.

“Uẩn và giới phàm phu thấy là hai, người trí rõ suốt tánh nó không hai, tánh không hai tức là Phật tánh”. Uẩn là ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Giới là 18 giới: sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Nếu nhìn theo cái thấy phân biệt thì 18 giới khác với ngũ uẩn, tức là có hai. Nhưng có hai là do nhìn trên hình tướng, phân biệt trên tướng nên có sai biệt. Thấy hai tức có sanh diệt, đó là cái thấy phàm phu.

Người trí thấy suốt, uẩn hay giới đều là tánh không, không có thật tánh, tức không rời ngoài thể giác riêng có, cho nên thấu suốt uẩn và giới vốn không có hai thể, không có hai tánh, đó là trở về Phật tánh không hai, không bị uẩn giới làm che ngại. Ngộ được Phật tánh thì suốt qua cả uẩn và giới, tức lìa cái thấy phân biệt đối đãi hai bên. Chúng ta còn bị ngại bởi thấy có hai, thấy có hai thì không thấy Phật tánh.

Trong Thiền Tông, các Thiền sư thường phá cái chấp suy nghĩ phân biệt, đối đãi hai bên. Nếu muốn gạn xem người thật ngộ hay không, Thiền sư thường đưa ra cái bẫy hai bên. Người mắc kẹt hai bên thì biết chưa phải thật ngộ.

Thí dụ hỏi cái này phải hay không phải? Trả lời phải, không phải đều rơi vào hai bên, phải cũng không được mà không phải cũng không được. Như Ngài Địa Tạng - Quế Sâm gạn Ngài Pháp Nhãn - Văn Ích.

Ngài Quế Sâm hỏi:

- Bình thường Thượng tọa nói: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, vậy phiến đá dưới sân này, là ở trong tâm hay ở ngoài tâm?

Ngài Văn Ích thưa:

- Ở trong tâm.

Ngài Quế Sâm bảo:

- Người hành khước mắc cớ gì lại để phiến đá trên đầu tâm?

Ngài Văn Ích không có lời để đáp.

Ngài Quế Sâm dẫn trong luận Duy Thức nói “tam giới duy tâm”, hoặc Triệu Luận của Ngài Tăng Triệu nói: “Trời đất cùng ta đồng nguồn”. Như vậy, trời đất cùng ta đồng nguồn, tam giới cũng đều là duy tâm không ngoài tâm mà riêng có, vậy thì tảng đá hay bình hoa này là ở trong tâm hay ngoài tâm? Đây là cái bẫy trong-ngoài.

Ngài Văn Ích nói: “Trong tâm”. Ngay đó rơi bẫy, tức là mắc kẹt trong-ngoài. Nếu thấy vượt qua cả trong-ngoài mới là thật thấy.

Thế nên Lục Tổ nói Phật pháp là chẳng hai, còn thấy có hai chưa phải là Phật pháp thật. Nếu có, đó là Phật pháp gì? Phật pháp chữ nghĩa, Phật pháp trên văn tự. Ngài Ấn Tông nghe đến đây, liền chắp tay tán thán: “Tôi giảng kinh giống như ngói gạch, Ngài luận nghĩa ví tợ vàng ròng”.

Sau đó, Ấn Tông cạo tóc cho Năng, nguyện thờ làm thầy. Năng bèn ở dưới cội Bồ-đề khai pháp môn Đông Sơn.

Đến đây Lục Tổ mới cạo tóc, thọ giới làm Tăng, đầy đủ hình nghi của một người xuất gia. Trước giờ vẫn còn hình thức của người cư sĩ, nên gọi là hành giả. Phần cạo tóc xuất gia và thọ giới, như phần nhân duyên ở trước đã nói: Lễ xuất gia cạo tóc vào ngày rằm tháng giêng năm Bính Tý (676). Lễ truyền giới Cụ túc vào ngày mùng 8 tháng 2 cùng năm, Luật sư Trí Quang ở Tây Kinh làm thầy truyền giới. Giới đàn này cũng đặc biệt, do Ngài Tam Tạng Cầu-na-bạt-đà-la sáng lập vào thời Lưu Tống (khoảng 420-497). Khi lập giới đàn này, Ngài Cầu-na-bạt-đà-la có dự ký “Sau này có nhục thân Bồ-tát được trao giới ở đây”. Việc Lục Tổ thọ giới ở đây đã được dự ký vài trăm năm trước.

Nơi đây có cội Bồ-đề do Ngài Tam Tạng Trí Dược thời Tiêu Lương (502) từ Tây Trúc đem sang trồng. Ngài cũng dự ký “Khoảng 170 năm sau sẽ có nhục thân Bồ-tát ở dưới cây này diễn bày pháp Thượng thừa độ vô lượng chúng”. Hiện nay phía sau chùa Quang Hiếu ở Quảng Châu còn tháp thờ tóc của Lục Tổ. Phía sau tháp tóc vẫn còn di tích cây Bồ-đề.

Tư liệu khác có ghi: “Vào năm Gia Khánh thứ hai (1797), vào đêm 25 tháng 6 có trận bão lớn thổi ngã cây Bồ-đề. Ông Trung thừa Trần Đại Văn sai người bồi đắp giữ lại, nhưng trải qua hơn một năm thì khô héo (Vậy cây Bồ-đề chính gốc ở đó đã chết). Vị tăng trong chùa là Kiều Am và Ly Tướng đồng đến chùa Nam Hoa thỉnh một nhánh nhỏ đem về trồng lại trên nền đất cũ” (cây Bồ-đề ngày nay là cây được trồng lại). Lục Tổ ở cội Bồ-đề này khai diễn pháp môn Đông Sơn của Ngũ Tổ để truyền dạy cho người. Từ đây, Tổ mới ra giáo hóa. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và Tứ Tổ Đạo Tín đều ở Đông Sơn, nên gọi là pháp môn Đông Sơn.

Về sau, Lục Tổ từ chùa Pháp Tánh đi về chùa Bảo Lâm ở Tào Khê. Khi Lục Tổ từ chùa Pháp Tánh đi về chùa Bảo Lâm, có chỗ ghi thêm: “Lục Tổ từng trụ qua nơi chùa Pháp Tuyền, chùa Quảng Quả một thời gian ngắn, sau mới đến trụ ở chùa Bảo Lâm”.

Năng từ khi đắc pháp ở Đông Sơn, chịu hết mọi sự gian nan khổ nhọc, mạng như tơ mành. Hôm nay được cùng Sử quân, quan liêu, Tăng Ni, xuất gia, tại gia đồng tụ hội nơi đây, phải đã có nhân duyên nhiều kiếp, cũng như trong đời quá khứ từng cúng dường chư Phật, đồng gieo trồng căn lành, mới được cái nhân nghe pháp Đốn giáo như trên. Giáo là do bậc Thánh từ trước đã truyền, chẳng phải từ trí riêng của Huệ Năng. Nguyện cho người nghe giáo của bậc Thánh trước, khiến mỗi người được lòng thanh tịnh, nghe xong đều tự trừ hết nghi ngờ, giống như bậc Thánh đời trước không khác.

Lục Tổ nói với tất cả hội chúng trong chùa Đại Phạm. Tổ nhớ lại thời gian từ khi đắc pháp ở Ngũ Tổ, được truyền y bát, cho đến khi cạo tóc xuất gia, được gặp gỡ tứ chúng truyền bá Phật pháp, trải qua biết bao nhiêu gian nan, khổ nhọc, hiểm nguy, mạng như tơ mành, bị người đuổi theo hại, bị phóng hỏa, có lúc phải lánh nạn, cái chết cận kề, nhưng rồi Tổ cũng vượt qua tất cả. Tổ nói hôm nay được cùng tất cả tụ hội ở đạo tràng này là do nhờ có duyên lành nhiều đời với nhau được trồng căn lành với chư Phật, cho nên được nghe pháp Đốn giáo này. Pháp Đốn giáo là giáo lý chỉ thẳng tắt cho người được chóng giác ngộ. Đây không phải chuyện tầm thường, dễ dàng, nói như vậy để tất cả vững niềm tin tiến tu.

Đồng thời Lục Tổ cũng nói rõ, pháp này vốn từ chư Thánh từ trước truyền lại chứ không phải là ý riêng Ngài, không phải tự Ngài đặt ra, mọi người không phải nghi ngờ. Tổ cũng mong tất cả biết được những nhân duyên đó, rồi hết lòng lắng nghe và tin nhận để cùng cảm thông với chư Thánh từ trước. Nói vậy nhằm nhắc cho tất cả phải hết lòng chú tâm lắng nghe kỹ.

Sư lại bảo chúng:

- Này thiện tri thức! Trí Bồ-đề Bát-nhã, người đời vốn tự sẵn có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ bậc đại thiện tri thức chỉ dẫn cho thấy tánh. Phải biết, người ngu người trí, Phật tánh vốn không sai khác, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng, do đó có ngu, có trí. Nay tôi sẽ nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho các ông mỗi người nhận được trí tuệ. Hãy hết lòng lắng nghe, tôi sẽ vì các ông mà nói.

Đây là phần rất trọng yếu trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ giảng về Bát-nhã. Bát-nhã là trí tuệ, con đường chư Tổ đang đi và đang chỉ dạy cho mọi người. Chúng ta tu quan trọng phải mở sáng trí Bát-nhã.

Lục Tổ dạy khác hơn những người thường dạy. Thứ nhất, Tổ không biết chữ, nên Ngài dạy không nặng về chữ nghĩa. Thứ hai, Tổ đã tỏ ngộ tự tánh rõ ràng, những điều Ngài nói là từ chỗ chứng ngộ của Ngài, từ tâm sáng suốt của Ngài, không phải nói trên văn tự hoặc suy luận phân tích chữ nghĩa. Thế nên chỗ Ngài nói ra rất đặc biệt, dễ đi vào tâm người.

Bồ-đề là giác, Bát-nhã là trí tuệ. Nói trí Bồ-đề Bát-nhã để cho mọi người phân biệt không lầm với trí tuệ thông thường của người thế gian. Bát-nhã cũng là trí tuệ, nhưng nói trí tuệ thì người dễ lầm. Người thế gian thông minh cũng nói là trí tuệ, nhưng trí tuệ đó không phải Bát-nhã. Cho nên nói rõ trí Bồ-đề Bát-nhã, tức trí tuệ giác ngộ.

Tổ nói rõ: “Trí Bồ-đề Bát-nhã người đời vốn tự sẵn có”. Không phải cầu bên ngoài, cũng không phải do tu hành mới được. Trí Bồ-đề cũng không phải từ nơi chữ nghĩa phân tích mà thành. Chính vì vậy, Lục Tổ không biết chữ vẫn tỏ ngộ. Đó là chỗ đặc biệt Ngài muốn nhắc cho tất cả.

Trí này có sẵn ở đâu? Ở ngay trong tự tâm của mỗi người chứ không thể tìm đâu khác. Vì người đời tự mê, có mà không nhận biết thành ra có cũng như không, không dùng được, do đó phải chạy đi tìm thầy cầu chỉ dạy cho. Nhưng muốn cầu vị thầy chỉ cho chúng ta thấy được thì vị thầy cũng phải thấy, phải tự Ngài sáng tỏ mới chỉ rõ cho chúng ta được. Thầy chưa sáng mà chỉ cho chúng ta thì cũng đoán mò với nhau thôi. Thầy đã sáng, chính từ cái sáng đó chỉ dạy thì trực tiếp hơn. Cho nên phải là bậc thầy đã thấy tánh chỉ dạy mới đúng chỗ, xác thực, giúp người tự nhận lại, tự thấy tánh sáng suốt sẵn có nơi chính mình, không phải chỉ quanh co trên chữ nghĩa khiến người lầm thêm. Một lời của bậc thầy đã sáng nói ra, người nghe đỡ tốn công mười hoặc hai mươi năm. Thay vì chúng ta mày mò mãi trong mười hay hai mươi năm, vị thầy đã trải qua mấy mươi năm đó rồi chỉ lại thì chúng ta đỡ tốn công rất nhiều.

Tánh sáng suốt sẵn có hay gọi là Phật tánh đó vốn không hai, không phân ngu-trí, người ngu người trí Phật tánh cũng đồng như nhau, không có đây kia sai khác, chỉ vì người ngu lầm mê không nhận ra, người trí khéo biết nhận ra, khác ở chỗ đó. Nếu người ngu nhận ra thì hết ngu thành trí, tức cái ngu đó cũng là tạm thời. Như vậy, người đã tỏ ngộ cái thấy như nhau, thông cảm nhau, trong nhà Thiền gọi là thầy trò tâm tâm in nhau, ấn nhau, không hai không khác. Nói đây để tất cả hiểu, không bị cái tên mê-ngộ, ngu-trí làm ngăn cách.

Tổ nói: “Nay tôi sẽ nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho các ông mỗi người nhận được trí tuệ. Hãy hết lòng lắng nghe, tôi sẽ vì các ông nói”. Trước khi giảng về Bát-nhã, Lục Tổ nhắc trước mỗi người phải tự soi lại chính mình để nhận ra trí tánh sáng suốt sẵn có, đó mới gọi là thật học. Chưa được như vậy thì dù sự học cao siêu đến mấy cũng gọi là tương tợ học, chưa phải thật học. Nói “không ngoài tâm mà riêng có” là như vậy.

Ngài Hy Thiên - Thạch Đầu đến học với Lục Tổ cũng là lúc Tổ sắp tịch. Khi Lục Tổ tịch, Ngài vẫn chưa tỏ ngộ, sau đó đến tham vấn với Ngài Thanh Nguyên - Hành Tư là đệ tử nối pháp của Lục Tổ.

Thiền sư Hành Tư hỏi:

- Ông từ phương nào đến?

Hy Thiên thưa:

- Từ Tào Khê đến (từ nơi Lục Tổ).

Ngài Hành Tư hỏi:

- Đem được cái gì đến?

Sư thưa:

- Khi chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.

Ngài Hành Tư gạn lại:

- Nếu thế ấy, sao chẳng dùng đi, đến Tào Khê làm gì?

Hy Thiên thưa:

- Nếu không đến Tào Khê thì đâu biết chẳng mất.

Câu hỏi: “Đem được cái gì đến?” là ngầm dò xem ông này có sáng hay không? Có thấy tánh hay chưa? Người bình thường sẽ nói đem được cái y, cái bát hay vật gì đó. Nhưng Thiền sư không hỏi chuyện đó. Ngài Hy Thiên thầm hiểu được nên thưa: “Khi chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất”.

Nhiều người học lâu cũng nhớ, hoặc người ý thức lanh lợi cũng nói được câu này. Như mọi người học ở đây, ghi nhớ lại, khi nói chuyện với nhau cũng nói được. Cho nên Ngài Hành Tư gạn lại sâu hơn: “Nếu thế ấy, sao chẳng dùng đi, đến Tào Khê làm gì?” Ông biết không đến Tào Khê cũng chẳng mất thì đến Tào Khê làm gì? Người học lóm, thiền ở trên miệng có lẽ nói theo kiểu này. Bởi nó sẵn có, không đến Tào Khê cũng chẳng mất thì đến làm gì cho mất công, đó là thiền bắn bổng. Ở đây, Ngài Hy Thiên thưa rõ: “Nếu không đến Tào Khê thì đâu biết chẳng mất”. Tuy nó sẵn, không mất, nhưng nếu không đến Tào Khê để được Lục Tổ khai thị thì đâu biết được, nhờ thầy chỉ cho mới biết. Nhưng không phải nhờ thầy mới có được, mà thầy chỉ cho biết cái của chính mình vốn sẵn có vậy thôi. Rất đầy đủ ý nghĩa, có sự có lý. Cho thấy, đến tham học với thiện tri thức là để nhận ra cái chẳng mất nơi mình chứ không phải có thêm cái gì khác. Lục Tổ dạy tiếp:

Này thiện tri thức! Người đời trọn ngày miệng niệm Bát-nhã mà chẳng biết tự tánh Bát-nhã. Giống như nói ăn mà chẳng no, miệng chỉ nói “không”, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích gì.

Tổ chỉ rõ ra và cũng để quở trách người chỉ tu Bát-nhã trên miệng. Bát-nhã không ở nơi miệng niệm, miệng niệm mà tâm chẳng sáng thì chẳng biết Bát-nhã thật nơi chính mình, chỉ thấy văn tự chữ nghĩa. Ngày nay, nhiều người niệm Bát-nhã như thế, niệm mãi mà không thấy Bát-nhã.

Cho nên Ngài nói: “Giống như nói ăn mà chẳng no”. Như người kể toa thuốc, khen vị thuốc này tốt, vị thuốc này trị được bệnh, là số một, nhưng không chịu uống thuốc thì vẫn bệnh. Đó là bệnh của đa số người học Phật ngày nay. Tổ bảo: “Miệng chỉ nói “không”, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích gì”. Bát-nhã nói là “Không”, miệng lặp lại mãi chữ “Không”, giống như chúng ta tụng Tâm Kinh: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, mà tâm thấy “có”, do đó miệng nói Bát-nhã nhưng tâm vẫn thường mê, đó là cái lầm của người học Phật. Lục Tổ muốn thức tỉnh trở lại là phải đi vào thực tế, đi vào thực hành chứ không phải chỉ ở trên miệng.

Này thiện tri thức! Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tiếng Phạn, xứ này gọi là Đại Trí Tuệ Đáo Bỉ Ngạn. Trí này cần tâm thực hành chẳng ở miệng niệm. Miệng niệm mà tâm chẳng hành thì như huyễn, như hóa, như sương, như điện. Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng ứng hợp nhau, bản tánh chính là Phật, lìa tánh không riêng có Phật.

Trước, Tổ nói qua về chữ nghĩa: “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật dịch là đại trí tuệ đáo bỉ ngạn”. Nói theo chữ nghĩa, đây là trí tuệ rộng lớn đạt đến bờ kia. Song trí tuệ gì là trí tuệ lớn? Giải thích theo chữ nghĩa liền mắc kẹt, vì trí tuệ có lớn có nhỏ thì không phải Bát-nhã. Vậy, tại sao nói trí tuệ lớn? Do đó, Lục Tổ chỉ rõ: “Trí này, cần tâm thực hành chẳng ở miệng niệm, miệng niệm mà tâm chẳng hành thì như huyễn, như hóa, như sương, như điện”. Phải ứng dụng nơi tâm, soi sáng những lầm mê để thật sự sáng suốt, khế hợp với chỗ miệng niệm.

“Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng ứng hợp nhau, bản tánh chính mình là Phật, lìa tánh không riêng có Phật”. Miệng niệm mà tâm cũng hành để khế hợp. Tâm và miệng khế hợp nhau mới có sáng tỏ bản tánh, mới thật Bát-nhã. Chúng ta thường nói Bát-nhã, nhưng chữ “Bát-nhã” không dính dấp đến trí tuệ này, trí tuệ này không nằm trên cái tên đó. Tên “Bát-nhã” đâu có sáng, đâu có biết gì, nhưng người ta thường mắc kẹt trên cái tên, phân tích trên đó. Sự thật, trí tuệ Bát-nhã không nằm trên lời giải thích. Bát-nhã chân thật ở ngay nơi tự tâm, chẳng lìa tự tánh của người, phải ngay nơi tự tánh của mình tự sáng tỏ. Tổ giải thích:

Sao gọi là Ma-ha? Ma-ha là Lớn. Tâm lượng rộng lớn giống như hư không, không có bờ mé, cũng không vuông tròn, lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng không trên dưới, dài ngắn, cũng không mừng giận, không phải quấy, không lành dữ, không đầu đuôi. Bao nhiêu cõi nước của chư Phật trọn đồng hư không. Diệu tánh của người đời vốn “Không”, không có một pháp có thể được, tự tánh chân không cũng lại như thế.

Ma-ha Lớn là như vậy! Không phải lớn theo kiểu “lớn-nhỏ”. Lớn ở đây chính là tâm lượng rộng lớn không có bờ mé, không có gì so sánh được nên tạm gọi “lớn”, không phải theo kiểu lớn-nhỏ đối đãi. Tức vượt ngoài mọi hình tướng đối đãi phân biệt, thức tình không thể suy nghĩ đến được. Cho đến thấy suốt “Bao nhiêu cõi nước của chư Phật trọn đồng hư không”. Không có gì chướng ngại, không có gì dính mắc, không có một tướng thật để mắc kẹt, thấy suốt tất cả. Tức ngoài tâm không thấy riêng có một pháp thật để thành ngăn ngại. Vậy mới đúng là “Lớn”, cho nên cái “Lớn” này không có ranh giới để so sánh đây-kia.

Chữ nghĩa làm sao ghi được cái “Lớn” này? Dù cho những máy điện tử hay siêu điện tử cũng không ghi được cái “Lớn” này. Cho nên, dù phân tích từ kiếp này qua kiếp khác cũng không thể thấy được cái “Lớn” này. Muốn thấy được cái “Lớn” này phải tâm ngộ. Tâm ngộ mới thấy được, không thể phân tích, không thể ỷ lại vào máy móc điện tử khoa học, do đó Tổ nói phải tâm thực hành. Ngài nói nó vượt ngoài cả tướng lớn-nhỏ, vuông-tròn, dài-ngắn, cho đến bao nhiêu cõi nước của chư Phật cũng thấy trọn đồng hư không. Diệu tánh của người đời cũng vốn “Không” như vậy, quả là Lớn không thể nghĩ bàn.

Này thiện tri thức! Chớ nghe tôi nói “Không”, liền chấp trước vào “Không”. Bậc nhất là chớ chấp trước “Không”. Nếu để cho tâm trống trơn, ngồi yên lặng, tức kẹt vào cái “không vô ký”.

Đây là chỗ nhiều người học Bát-nhã vướng phải. Nghe nói Bát-nhã nói về tánh Không, cái gì cũng Không, không thật rồi chấp vào cái Không. Ngồi thiền thì buông hết cho nó không, nhưng buông hết cũng không thấy nó không mà nó ngủ. Buông một lúc, nó ngủ gục hoặc rơi vào vô ký. Buông hết mà không sáng suốt, còn Bát-nhã là sáng suốt, trí tuệ!

Tổ ngăn ngừa, không cho người chấp trên chữ nghĩa. Đừng nghe nói rộng lớn như hư không rồi chấp vào chữ “Không”, ngồi yên lặng để tâm trống trơn cho đó là cái “Không” rộng lớn của Bát-nhã, đó là lầm, là tưởng tượng. Tức rơi vào bỏ “có” lấy “không”, là cái không đối đãi, cái không của thức tình phân biệt, không phải cái “Không chân thật” của Bát-nhã. Tổ nói đó là kẹt vào cái không vô ký, cái không lờ mờ, thiếu sáng suốt.

Này thiện tri thức! Thế giới hư không hay bao gồm muôn vật, hình sắc, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, núi sông, quả đất, suối nguồn, khe rạch, cỏ cây, rừng bụi, người lành, người dữ, pháp dữ, pháp lành, thiên đường, địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di thảy đều ở trong hư không. Tánh Không của người đời cũng lại như thế.

Này thiện tri thức! Tự tánh hay bao gồm muôn pháp là lớn. Muôn pháp ở trong tánh mọi người, nếu thấy tất cả người: dữ và lành trọn chẳng lấy chẳng bỏ, cũng chẳng đắm nhiễm, tâm như hư không, gọi đó là Lớn, nên nói là Ma-ha.

Tổ giải thích Ma-ha là như vậy. Trước, Tổ thí dụ thế giới hư không bao gồm tất cả muôn vật hình sắc: Mặt trời, mặt trăng, rừng bụi, cho đến người lành, người dữ, cũng đều ở trong hư không. Tánh Không của người đời cũng vậy, bao gồm tất cả, không có gì ra ngoài nó, Lớn là như vậy. Không có gì ra ngoài tự tánh mà riêng có thì có gì để lấy-bỏ. Lấy cái gì và bỏ cái gì! Nếu quán đến chỗ đó thì đâu có gì để mê. Sở dĩ thấy có lấy có bỏ là sao? Vì thấy ngoài tâm có pháp thật, mới có lấy đem vào hoặc bỏ ra. Thấy không có gì ngoài tâm riêng có thì lấy để vào đâu? Bỏ đi đâu? Cho nên sạch được niệm lấy-bỏ.

Không còn có tâm lấy-bỏ thì tâm mới thật sự thênh thang rộng lớn, không có gì dính nhiễm, hay nói ngược lại, không dính nhiễm cái gì, Tâm mới thênh thang rộng lớn. Còn có dính nhiễm thì hết Lớn, vừa dính nhiễm là có giới hạn, dính cái gì thì giới hạn cái đó, đâu còn rộng lớn. Nghĩa Rộng Lớn là phải thấy thấu như vậy, người học trên chữ nghĩa không thể thấy được hết. Nghĩa Lớn của Bát-nhã như thế thì làm sao bàn luận đến được, bàn đến suốt kiếp cũng không đến được, chỉ có tâm ngộ mới thấy được.

Này thiện tri thức! Người mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có người mê để tâm trống trơn, ngồi yên lặng, trăm điều chẳng nghĩ, tự cho là Lớn. Một bọn người này chẳng thể nói với họ, vì là tà kiến.

Nên nhớ kỹ: “Người mê miệng nói, người trí tâm hành”. Người trí phải thực hành nơi tâm, không chỉ hành nơi miệng. Người mê chỉ nói ngoài miệng nên không sáng tỏ được nghĩa thật. Do đó, nghe nói “Lớn” thì tưởng để tâm trống trơn thành không, gọi là ngồi yên lặng, trăm điều chẳng nghĩ, tự cho đó là Lớn, Lục Tổ quở là tà kiến. Đây Tổ ngăn ngừa những người chấp vào chữ nghĩa thành đi lệch ra ngoài, trái với nghĩa chân thật.

Này thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn, trùm khắp pháp giới, dùng tức rõ ràng rành rẽ, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tức một, một tức tất cả, đi đến tự do, tâm thể không ngưng trệ, tức là Bát-nhã.

Tổ nói rõ về Tâm Lượng Rộng Lớn, nó trùm khắp pháp giới, không bỏ sót cái gì, nhưng không mê cái gì, đó mới thật Bát-nhã. Còn bỏ hết không nghĩ gì nhưng mê mờ thì không phải. Người tu thiền thường có cái lầm, lâu nay sống với vọng tưởng, sống với cái động nhiều nên khi ngồi thiền thì muốn tịnh, muốn buông hết cho yên thành ra nghiêng về một chiều. Đúng với tinh thần của Lục Tổ là phải Định Tuệ đồng đẳng.

Ngồi thiền không có trí tuệ sáng, dù có đạt được định thì cũng là si định, tức không rốt ráo, không giải quyết được vấn đề sanh tử. Muốn giải quyết vấn đề sanh tử phải có trí tuệ, chính trí tuệ mới nhổ gốc sanh tử. Thiền Tông gọi là Tối thượng thừa thiền, cho đến pháp Đại thừa hay pháp Thiền Nguyên thủy, các vị tu hành có chứng ngộ, các Ngài đều luôn ngăn ngừa người sau như thế.

Một Thiền sư Thái Lan nói: “Hiểm họa của định”. Định nhưng hiểm họa, định mà không sáng suốt, không có trí tuệ. Định đúng là khi tâm không bị vọng tưởng lăng xăng quấy rối, tâm được tạm yên, dùng cái tâm định đó để quán chiếu, như vậy mới phá được vô minh phiền não, phá được sanh tử. Định như đá đè cỏ, chỉ tạm dừng. Trí tuệ mới nhổ được gốc. Tu phải hiểu rõ như vậy, đừng mắc kẹt một bên.

Tổ nói rõ: “Dùng tức rõ ràng rành rẽ, ứng dụng liền biết tất cả, tất cả tức một, một tức tất cả, đi đến tự do, tâm thể không ngưng trệ”. Dùng thì biết hết rõ ràng tất cả, không lầm mê, không dính vào gì cả. Đúng tinh thần kinh Kim Cang gọi là vô trụ, biết tất cả mà không trụ vào cái gì hết thì tâm thênh thang rộng lớn. Còn có trụ tức có dính, dính tức có giới hạn. Được vậy, mới rõ được tâm thể tự do, không ngưng trệ ở một hình tướng nào, tức nghĩa Lớn của Bát-nhã. Tổ nói thêm:

Này thiện tri thức! Tất cả trí Bát-nhã đều từ tự tánh mà sinh, chẳng từ ngoài vào, chớ lầm dụng ý, gọi là chân tánh tự dụng. Một chân thì tất cả chân, Tâm chứa đựng việc lớn, chẳng đi theo lối nhỏ. Miệng chớ trọn ngày nói không mà trong tâm chẳng tu hạnh này. Giống hệt người thường mà tự xưng là vua, trọn không thể được, chẳng phải đệ tử của tôi.

Ngài nhắc phải nên nhớ rõ: “Tất cả trí Bát-nhã đều từ tự tánh sinh, chẳng từ ngoài vào, chớ lầm dụng ý”. Cầu bên ngoài là lầm. Tuy nhiên, chúng ta học nên khéo để không mắc kẹt trên chữ nghĩa. Nói trí Bát-nhã đều từ tự tánh sanh, hiểu theo chữ nghĩa dễ mắc kẹt, nghe nói “sanh” rồi hiểu theo chữ “sanh”, nếu có sanh phải có diệt, có sanh có diệt thì không phải chân Bát-nhã. Vậy hiểu sao đây? Chữ “sanh” ở đây, phải hiểu theo nhà Thiền đạt ý quên lời, hiểu theo ý chứ không hiểu theo lời. Sanh ở đây là trí Bát-nhã từ nơi tự tánh hiển bày ra chứ không thể tìm ở đâu khác để được, cho nên “gọi là chân tánh tự dụng”. Từ nơi chân tánh ứng dụng ra chứ không có “được”. Thấy có “được” tức từ bên ngoài vào, có được thì có mất. Thế nên Bát-nhã gọi là không trí không đắc, từ tự tánh hiện, đâu phải từ bên ngoài vào mà được. Người thường quen sống theo tình mê, làm gì cũng muốn có được, không được gì thì không muốn làm. Nhưng có được thì có mất, thuộc về cái tạm thời, cái có sanh diệt. Phải hiểu được ý đó, chớ lầm theo chữ nghĩa.

Ngài bảo: “Một chân thì tất cả chân, tâm chứa đựng việc lớn, chẳng đi theo lối nhỏ”. Cái gì là một chân? Tức là một tâm. Tâm đã chân thì nhìn ra cái gì cũng chân thật, không có gì lầm, nên nói một chân thì tất cả chân là vậy. Nói rộng ra, tâm chánh nhìn ra cái gì cũng chánh, tâm sáng nhìn ra cái gì cũng sáng, hoặc tâm giác nhìn ra cái gì cũng giác. Trong kinh nói: “Tình với vô tình đồng thành chủng trí” tức tình và vô tình đều thành Phật đạo. Người thường nghe câu này cũng rất khó hiểu, đôi khi lại hiểu lầm, nói cỏ cây cũng thành Phật. Cỏ cây làm sao thành Phật? Nhưng hiểu được ý này thì sáng tỏ. Tâm đã giác hoàn toàn rồi, nhìn ra cái gì cũng đều ở trong ánh sáng giác ngộ, đều là Phật, nên thấy cỏ cây cũng là Phật chứ không phải cỏ cây thành Phật. Hiểu rõ ràng vậy thì hết nghi.

Cho nên tu hành cần trang nghiêm tự tâm, chớ có một bề lo trang nghiêm ở bên ngoài. Kinh Kim Cang gọi là: “Trang nghiêm tịnh độ, tức chẳng phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm”. Trang nghiêm tịnh độ không phải chỉ lo làm đẹp cõi nước, trang hoàng đất đai, nhà cửa mà quan trọng phải trang nghiêm tự tâm, tâm trang nghiêm thì bên ngoài mới trang nghiêm theo. Nếu chỉ lo trang nghiêm bên ngoài mà tâm không trang nghiêm thì cũng không thấy sạch sẽ. Ví như chúng ta ở nhà lầu năm sao, nhưng tâm tham, sân, si còn đầy đủ thì cũng không sạch sẽ. Vào đó thấy toàn phiền não, đâu có trang nghiêm. Thế nên Tổ nói rõ một chân thì tất cả đều chân, tâm chân thật nhìn ra thấy cái gì cũng chân thật, sáng suốt, không lầm.

“Tâm chứa đựng việc lớn, chẳng đi theo lối nhỏ”. Chúng ta phải nhìn cho thấu đến chỗ chân thật, chỗ rộng lớn, vượt ngoài tình mê, không suy nghĩ theo lối thường tình để kẹt trong cái phân biệt có giới hạn.

“Miệng chớ trọn ngày nói Không, trong tâm chẳng tu hạnh này, giống hệt người thường mà tự xưng là vua, trọn không thể được, chẳng phải đệ tử của tôi”. Mỗi ngày nói Ma-ha nhưng không thấy Ma-ha, mà thấy ma thật, vì chỉ nói suông ngoài miệng. Niệm Ma-ha mà tâm so sánh đây kia, ganh ghét, ích kỷ, hẹp hòi thì không thể thấy Ma-ha, không thấy nghĩa của Lớn. Lại còn trên chữ nghĩa chê-khen, hơn-thua thì càng đi xa, càng không thấy Ma-ha mà thấy ma sự. Đây là chỗ cần phải sáng suốt để thấy chính xác trở lại. Chỉ một chữ Ma-ha theo Lục Tổ nếu người hiểu rõ, là đủ tu rồi. Kế giải về Bát-nhã:

Này thiện tri thức! Sao gọi là Bát-nhã? Bát-nhã, Đường dịch là trí tuệ. Trong tất cả chỗ, tất cả thời, niệm niệm chẳng ngu, thường hành trí tuệ, tức là hạnh Bát-nhã. Một niệm ngu tức Bát-nhã dứt. Một niệm trí tức Bát-nhã sinh. Người đời ngu mê chẳng thấy Bát-nhã, miệng nói Bát-nhã mà trong tâm thường ngu. Thường tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói Không, mà chẳng biết chân không. Bát-nhã không hình tướng, chính đó là tâm trí tuệ. Nếu khởi hiểu như thế, tức gọi trí Bát-nhã.

Bát-nhã, dịch là trí tuệ, nhưng “cái gì là trí tuệ”, đó mới là quan trọng, không thể nói suông. Trí tuệ này không nằm trên cái tên đó, trí tuệ này không có trong cái tên “Bát-nhã”. Ngài nói rõ: “Trong tất cả chỗ, tất cả thời, niệm niệm chẳng ngu, thường hành trí tuệ tức là hạnh Bát-nhã”. Người thường nói về Bát-nhã, phân tích về Bát-nhã, đôi khi giải từ trang này qua trang kia, nhưng xếp sách lại thì không thấy Bát-nhã đâu, chỉ thấy sách vở, đó là cái lầm của người học Bát-nhã. Phải là trong tất cả chỗ, tất cả thời, mỗi niệm mỗi niệm sáng suốt chẳng ngu mê, tức là luôn luôn sống được với trí tuệ thật sự, đó mới gọi là hạnh Bát-nhã chân thật, mới là Bát-nhã hiện bày.

“Một niệm ngu tức Bát-nhã dứt, một niệm trí tức Bát-nhã sinh”. Nếu một niệm ngu mê, ngay đó mất Bát-nhã. Dù cố giải Bát-nhã nhưng nếu ngay đó một niệm mê thì cũng mất Bát-nhã. Bát-nhã vốn ở trong tâm người mà thấy được chứ không phải ở trên miệng nói, không phải ở trên giấy mực chữ nghĩa. Miệng nói hay, nói lưu loát về Bát-nhã, nhưng tâm còn mê thì vẫn không thấy Bát-nhã, lẽ thật là như vậy. Dù cho nói: “Tôi tu Bát-nhã, cái gì cũng Không”, nhưng trong tâm lại thấy có, thấy gì cũng dính mắc, thì “Không” đó chỉ có tên mà không có nghĩa, Không ở trên miệng. Học Phật chúng ta phải hiểu kỹ chỗ này!

Lại nói: “Thường tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói Không mà chẳng biết chân không. Bát-nhã không hình tướng, chính đó là tâm trí tuệ, nếu khởi hiểu như thế tức gọi là trí Bát-nhã”. Tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói Không mà chẳng biết chân không thì rõ ràng chỉ là Bát-nhã ở trên miệng. Học Bát-nhã phải quay lại ngay tự tâm, bởi nó là tâm trí tuệ. Mở sáng tự tâm mới là thật học, Bát-nhã đó mới phá được phiền não, vô minh. Bát-nhã trên chữ nghĩa, sách vở thì không phá được vô minh, đôi khi còn thêm nữa, bởi học nhiều rồi thấy ta hiểu nhiều hơn người kia, đó là vô minh, cái ngã sanh. Thế nên phải thấy nơi tự tâm!

Sao gọi Ba-la-mật? Đây là tiếng Tây Quốc (Ấn Độ), Đường nói là đáo bỉ ngạn, giải nghĩa là lìa sinh diệt. Chấp trước cảnh thì sinh diệt khởi, như nước dậy sóng mòi, tức gọi là bờ này. Lìa cảnh thì không sinh diệt, như nước thường trôi chảy, tức gọi bờ kia. Vì vậy gọi Ba-la-mật.

Lục Tổ giải về Ba-la-mật cũng có chỗ đặc biệt. Thường thì giải Ba-la-mật tức là đến bờ kia. Nhưng bờ nào là bờ này? Bờ nào là bờ kia? Giải thích theo chữ nghĩa thì bờ này sanh tử, bờ kia Niết-bàn. Lìa bờ sanh tử này đến bờ Niết-bàn kia, nhưng còn thấy có bờ này bờ kia thì sao? Thì đâu còn là Bát-nhã. Giải theo chữ nghĩa là kẹt liền.

Đây  Lục Tổ nói, bờ kia tức là lìa sanh diệt, chứ không nói bờ này bờ kia. Lìa sanh diệt là sao? Tâm chấp trước cảnh thì sanh diệt khởi, tức bờ này, “Như nước dậy sóng mòi”. Nước đang yên tịnh mà dậy sóng gọi là bờ này. Ngay đó, tâm lìa cảnh, tức không có sanh diệt, đó là bờ kia, “Như nước thường trôi chảy”.

Như vậy, bờ này bờ kia cách bao nhiêu? Cũng chỉ ở nơi Tâm, Tâm dính cảnh là bờ này, Tâm lìa cảnh là bờ kia, ngay “Một Tâm” chứ không đâu khác. Như nước dậy sóng hay nước thường trôi chảy thì cũng chỉ là nước. Tức gợi ý cho người nhớ trở lại tự tâm của mình. Quên mất tự tâm, chạy theo cảnh, chấp vào cảnh thì đi vào sanh diệt, tức là bờ này, bờ sanh diệt. Nhớ trở lại tự tâm, lìa cảnh, tâm không dính theo cảnh, tức tâm không sanh, tâm không sanh thì đâu có diệt, không sanh không diệt thì Niết-bàn rồi, đó là bờ kia. Ý nghĩa rất sáng tỏ, rõ ràng. Thế nên, rốt ráo chỉ “Một Tâm” chứ không có bờ nào khác. Chúng ta phải khéo đạt ý quên lời. Nếu theo chữ nghĩa, thấy có bờ này bờ kia là thuộc về tâm sanh diệt, tức vẫn còn y nguyên ở bờ này, không thấy Bát-nhã.

Như vậy, ngay cái tên Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, Lục Tổ đã dạy chúng ta tu hành rất thực tế, rất sáng tỏ để sống trở lại với tâm trí tuệ sáng suốt sẵn có nơi mình, không cần tìm cầu trên chữ nghĩa, ở đâu khác. Ngay cái tên Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật đã đủ cho chúng ta tu suốt đời. Gọi là “Trí Tuệ Rộng Lớn Đến Bờ Kia”, nếu chúng ta chỉ dùng tâm sanh diệt thấy trên chữ nghĩa, phân tích, phân biệt theo duyên theo cảnh, thì trí tuệ Lớn ở chỗ nào? Ngay đó bị giới hạn tối mò rồi, còn trí tuệ lớn gì nữa!

Này thiện tri thức! Người mê miệng niệm, ngay khi niệm có vọng, có quấy. Nếu niệm niệm thực hành, đó gọi là chân tánh. Người ngộ pháp này, là pháp Bát-nhã. Người tu hạnh này, là hạnh Bát-nhã. Chẳng tu tức phàm, một niệm tu hành thì tự thân đồng với Phật.

Lục Tổ nhắc kỹ lại: “Người mê miệng niệm, ngay khi niệm có vọng có quấy”. Người mê chỉ niệm ở ngoài miệng, trong tâm không thực hành theo, không dùng Bát-nhã để soi sáng, do đó tuy niệm Bát-nhã nhưng lại nghĩ lăng xăng, nghĩ vọng nghĩ quấy, nghĩ tưởng điên đảo, thành ra niệm Bát-nhã mà không có Bát-nhã. Niệm Bát-nhã làu làu nhưng trong tâm nghĩ tưởng chuyện này chuyện kia, đôi khi miệng niệm Bát-nhã mà tâm đi chợ, hoặc suy nghĩ buồn phiền hờn trách người này người kia, tính toán này nọ. Niệm Bát-nhã với tâm không thanh tịnh, chỉ thấy là vọng là quấy, làm sao thấy Bát-nhã!

“Nếu niệm niệm thực hành, đó gọi là chân tánh”. Niệm niệm thực hành tức ứng dụng Bát-nhã thật sự, tâm luôn luôn soi sáng mới hiện bày tánh thật, đây gọi là chân tánh. Ngày nay, nhiều người niệm Bát-nhã theo kiểu niệm ngoài miệng mà tâm không hành, nên niệm Bát-nhã nhiều mà phiền não mãi. Nếu thực hành thì giảm bớt phiền não, vì thấy Bát-nhã thì đâu thấy phiền não. Còn thấy phiền não thì không thấy Bát-nhã.

“Người ngộ pháp này là pháp Bát-nhã, người tu hạnh này là hạnh Bát-nhã. Chẳng tu tức phàm, một niệm tu hành tự thân đồng với Phật”. Chẳng tu hạnh Bát-nhã tức sống trong mê, là phàm phu. Một niệm tu hành là chuyển mê thành giác, có trí tuệ, sáng suốt, tức có đủ nhân thành Phật, thầm hợp với Phật, nên gọi là tự thân đồng với Phật. Bởi Phật thành Phật là ở ngay nơi tâm giác ngộ chứ không phải thành ở nơi nào khác, không thành ở cõi này cõi kia. Hiểu vậy chúng ta thấy Phật gần gũi, không hiểu như thế thì thấy xa xôi. Nghe nói Phật thành Phật dưới cội Bồ-đề, hoặc thành ở cõi Phật, đó là hiểu theo chữ nghĩa. Ngồi ngay cội Bồ-đề mà tâm không giác ngộ có thành Phật không? Chính tâm giác ngộ mới là gốc. Đây là nhắc để ngăn ngừa người niệm Bát-nhã, niệm suông ngoài miệng.

Này thiện tri thức! Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề, niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật; niệm trước dính cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ-đề.

Mê-ngộ hay phiền não - Bồ-đề không có đâu xa, chỉ ngay nơi một niệm. Nghĩa là phàm phu và Phật hay phiền não và Bồ-đề trên dụng thấy có khác nhưng thể vốn không hai. Phật cũng từ nơi phàm phu mà thành, phàm phu tu hành giác ngộ thành Phật, thì cũng không phải ai khác vào trong đó thành. Cũng vậy, mê Bồ-đề thì vọng tưởng phiền não, giác phiền não thì thành Bồ-đề, không có hai cái thể riêng khác.

“Niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật”. Ngay một niệm! Niệm tuy có khác, niệm trước niệm sau dường như có trước, có sau, nhưng thể của niệm vẫn không hai. Thế nên, người tỏ ngộ không thấy riêng có được gì khác. Trong nhà Thiền, các vị tỏ ngộ gọi là vô sở đắc, tức không thấy có được.

Trong hội Ngài Quy Tông, một đêm có vị tăng tỏ ngộ, la to:

- Tôi ngộ rồi! Tôi ngộ rồi!

Sáng ngày sau, Ngài Quy Tông gọi vị tăng ra hỏi:

 - Ông nói ngộ là ngộ cái gì?

Tăng đáp:

- Sư cô là người nữ.

Ngộ sư cô là người nữ, không được cái gì khác, giống như đây nói niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Thể niệm không hai nhưng dụng có khác, do mê nên mang tên phàm phu, do ngộ nên mang tên giác, là Phật.

Mê-ngộ cũng ngay nơi tâm, phiền não - Bồ-đề cũng ngay nơi tâm, cho nên niệm trước dính cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ-đề. Vậy, con đường trở về ở ngay trước mắt chúng ta, không ở đâu xa. Khởi niệm là dính cảnh, có tham, sân, có lấy bỏ thì có phiền não. Ngay nơi niệm dính cảnh, chúng ta thức tỉnh trở lại thì sáng suốt là Bồ-đề, giải thoát, cũng ngay một niệm.

Như vậy, ngay một niệm dính cảnh liền tỉnh trở lại, tức chuyển phiền não thành Bồ-đề trong chớp mắt, nhưng đó chỉ là Bồ-đề trong chớp mắt. Quan trọng phải giữ cho niệm niệm được liên tục, không dính trở lại mới thường sống trong Bồ-đề. Nếu không, mới Bồ-đề trong chớp mắt rồi phiền não trở lại, mê trở lại.

Nhớ kỹ, “phàm phu” và “Phật” hay “phiền não” và “Bồ-đề” cũng chỉ là những cái tên, nó không có tánh thật, không cố định. Thế nên, đừng lầm chấp trên cái tên rồi vướng mắc. Tên “phàm phu”, tên “Phật” không có tự tánh, tùy theo tâm mà chuyển.

Cũng như câu chuyện vị tăng Huệ Minh đuổi theo Lục Tổ giành y bát. Đuổi theo giành y bát tức mê, nhưng vừa được Lục Tổ khai thị liền ngộ, mê-ngộ chỉ trong chớp mắt. Vậy thì, mê-ngộ chỉ cách trên danh từ, nơi tự tâm vẫn là không hai, đâu có ai khác chạy vào đó, thay vào đó. Chúng ta hiểu vậy để thấy được tinh thần của Lục Tổ chỉ dạy, gọi là tinh thần Đốn giáo, chóng tỏ ngộ trở lại ngay nơi chính mình, ngay nơi một niệm, ngay nơi tự tâm, không phải tìm đâu khác.

Này thiện tri thức! Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất, không trụ, không qua, không lại. Chư Phật ba đời từ trong đó mà hiện ra. Chính dùng Trí Tuệ Lớn mà phá tan phiền não trần lao nơi năm uẩn. Tu hành như thế nhất định sẽ thành Phật đạo, biến ba độc làm giới-định-tuệ.

Lục Tổ tán thán: “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất”. Không có gì hơn. Chúng ta mới nghe chưa thấy hết được ý nghĩa, nhưng nghiệm kỹ, học rõ, hiểu sâu thì thấy quả là như vậy. Bởi thành Phật cũng từ nơi Bát-nhã thì đâu có gì hơn. Người tu hành không thể thiếu Bát-nhã, có trí tuệ này mới có thể phá tan phiền não, chấp trước, mê lầm, mới phá vỡ được bản ngã lâu đời lâu kiếp. Thiếu Bát-nhã thì không thể phá vỡ, nhất là bản ngã lâu đời lâu kiếp là cái tình chấp sâu xa, cột trói chúng sanh trong vòng sanh tử luân hồi.

Trong Tâm Kinh nói rõ: “Khi hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Bồ-tát Quán Tự Tại soi thấy năm uẩn đều Không liền vượt qua hết thảy khổ ách”. Thực hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức không phải thực hành trên miệng mà thực hành ngay trong tâm. Luôn dùng Bát-nhã quán chiếu đến khi thuần thục, giống như chính mình là Bát-nhã, mới thấy được năm uẩn đều Không. Chỉ niệm trên miệng thì không thể thấy năm uẩn đều Không, phải một lòng niệm mới thấy năm uẩn đều Không, tức phá được bản ngã liền qua hết thảy khổ ách. Sở dĩ có khổ vì có ta, không ta thì ai khổ? Bao nhiêu tình chấp khi gặp Bát-nhã phải vỡ tan hết. Do đó, người tu hành phải một lòng kính trọng, phụng trì Bát-nhã không thể xem thường.

Trí Bát nhã này: “Không trụ, không qua, không lại”. Nghĩa là tất cả không trụ, không dính mắc, tự tại đi qua tất cả, không có gì chướng ngại, vượt ngoài sanh tử, không qua lại nữa. “Chư Phật ba đời từ trong đó mà hiện ra”. Chư Phật cũng từ trong trí Bát-nhã mà thành Phật, phá vỡ phiền não mê lầm. Không phải Phật thành Phật ở các tướng tốt, mà thành từ trong Bát-nhã.

“Chính dùng Trí Tuệ Lớn mà phá tan phiền não, trần lao nơi năm uẩn. Tu hành như thế nhất định sẽ thành Phật đạo, biến ba độc làm giới-định-tuệ”. Chúng sanh chấp chặt nơi năm uẩn nên chứa đầy phiền não, trần lao, do đó che mờ tánh giác. Trí Bát-nhã soi đến, các thứ phiền não trần lao phải tan hết, không chỗ bám, năm uẩn thành trống rỗng, không còn che mờ. Năm uẩn còn gọi là năm ấm. Uẩn là chứa nhóm, chứa nhóm những phiền não; Ấm là che mờ, che đậy. Năm uẩn trống rỗng là không còn che mờ, không còn chứa nhóm thì tánh giác hiện ra. Cho nên tu hành như thế nhất định sẽ thành Phật đạo không nghi ngờ, biến ba độc tham-sân-si làm thành giới-định-tuệ. Tức hóa giải ba độc, độc không còn hại nữa, thành giải thoát, tự tại, sống trong an lành. Người thực hành đúng trí Bát-nhã có công năng lớn lao như vậy. Do đó, Lục Tổ tán thán để tất cả thấy được ý nghĩa giá trị của Bát-nhã.

Này thiện tri thức! Pháp môn của ta đây từ một Bát-nhã mà sinh tám muôn bốn ngàn trí tuệ. Tại sao? Vì người đời có tám muôn bốn ngàn trần lao, nếu không trần lao thì trí tuệ thường hiện, chẳng lìa tự tánh. Người ngộ pháp này tức là không niệm, không nhớ nghĩ, không dính mắc, chẳng khởi dối trá, dụng ngay tánh chân như của chính mình. Dùng trí tuệ soi sáng, đối tất cả pháp chẳng lấy, chẳng bỏ, tức là thấy tánh thành Phật đạo.

Thường sống trong trí tuệ thì trái với trần lao. Tám muôn bốn ngàn là chỉ số lớn, số tượng trưng. Một trần lao chuyển thành một trí tuệ. Nếu thiếu trí tuệ thì trần lao hiện, tức là mê. Có trí tuệ thì trần lao mất, tức là giác. Tám muôn bốn ngàn trần lao chuyển thành tám muôn bốn ngàn trí tuệ, tức thường sống trong trí tuệ mà không có trần lao, đó là thường giác, sống không mất mình, không lìa tự tánh. Nếu tâm thường có trí tuệ thì làm mọi việc đều sáng tỏ, làm trong trí tuệ tức thấy Phật. Ngược lại, tâm chứa trần lao vừa khởi niệm là thấy chúng sanh. Thế nên, không trần lao thì trí tuệ thường hiện, chẳng lìa tự tánh.

“Người ngộ pháp này tức là không niệm, không nhớ nghĩ, không dính mắc, chẳng khởi dối trá, dụng ngay tánh chân như của chính mình, dùng trí tuệ soi sáng, đối với tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ tức là thấy tánh thành Phật đạo”. Người ngộ được pháp này thường tự thấy tánh sáng suốt, dụng ngay tánh chân như, từ chân như khởi dụng, không khởi gì khác, vừa động niệm là trái với cái thật.

Thiền sư Sư Nhan đến tham vấn Ngài Nham Đầu. Sư hỏi:

- Thế nào là lý bản thường?

Ngài Nham Đầu đáp:

- Động.

Sư thưa:

- Khi động thế nào?

Ngài Nham Đầu bảo:

- Chẳng phải lý bản thường.

Lý bản thường là lý thường sẵn vậy, khởi niệm tức động, động thì trái với bản thường. Nên đây nói người ngộ pháp này là không niệm, không nhớ nghĩ, không thêm cái gì khác, cũng không dính mắc, gọi là người vô trụ. Vì Bát-nhã là vượt qua tất cả, cũng không có gì so sánh, nên vừa khởi niệm so sánh là trái với Bát-nhã. Người học Bát-nhã đôi khi sợ vì nghe cái gì cũng Không. Nhưng Không ở đây không phải là diệt hết không có tất cả, mà tất cả đều không dính mắc, đầy đủ trí tuệ, công đức sáng ngời. Cũng chẳng khởi dối trá, có ánh sáng Bát-nhã thấy đúng như thật các pháp, không có bóng tối xen vào thì đâu có dối trá. Dùng ngay tánh chân như chính mình, từ tánh chân thật dùng ra tất cả đều chân thật, không hư dối. Sống được với tánh chân thật, đem cái thật sống với nhau thì thiên hạ thái bình. Hiện tại, mọi người đem cái vọng sống với nhau nên sanh đủ thứ chuyện rắc rối. Bởi buồn thương giận ghét đều ở trong cái vọng, trong cái thật đâu có những thứ đó. Bởi vậy, cần tu Bát-nhã để đem Bát-nhã vào cuộc sống, đó là rất trọng yếu.

“Dùng trí tuệ soi sáng, đối với tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ tức là thấy tánh thành Phật đạo”. Chúng ta thấy các pháp là thật, ta cũng thật nên có lấy có bỏ, mà có lấy bỏ thì có phiền não. Ở đây, sáng tỏ các pháp đều tánh Không, không thật, thì không còn lầm theo nó, tức là không bị các pháp chuyển, mà ngược lại chuyển các pháp, đó mới thật sự làm chủ trở lại. Thấy tánh thành Phật đạo là thành ngay trong tự tánh, không phải thành ở đâu khác.

Này thiện tri thức! Nếu người muốn vào pháp giới sâu xa và Bát-nhã tam-muội, cần tu hạnh Bát-nhã, trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã tức sẽ được thấy tánh. Phải biết, kinh này có công đức vô lượng vô biên mà trong kinh đã khen ngợi rành rõ, không gì có thể nói đủ hết.

Lục Tổ tán thán Bát-nhã và kinh Kim Cang. Vào pháp giới sâu xa tức là chứng ngộ chân tánh (tánh chân thật) không thể nghĩ bàn. Bát-nhã tam-muội, nói theo chữ nghĩa là chánh định Bát-nhã, ngầm chỉ Bát-nhã cứu cánh hay thực tướng Bát-nhã, không phải Bát-nhã văn tự. Người muốn vào chỗ thật chứng rõ ràng phải tu hạnh Bát-nhã, trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã.

Tu hạnh Bát-nhã là thường dùng trí tuệ soi sáng các pháp, thấy rõ các pháp đều không có thật tánh để không mê lầm theo nó, không trụ, không dính mắc, tức tâm thường sáng. Trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã sẽ thấy tánh, nhưng vì sao có người thường trì kinh Kim Cang Bát Nhã mà không thấy tánh? Chúng ta cần hiểu đúng về kinh Kim Cang Bát Nhã, không phải hiểu theo nghĩa quyển kinh để trên bàn, trì tụng quyển kinh để trên bàn không thể thấy tánh. Kinh Kim Cang Bát Nhã ngầm chỉ trí tuệ kim cang, trì tụng tức thường sống với trí tuệ kim cang, phá tan những tình chấp mê lầm, không dính mắc các cảnh các pháp, luôn giữ gìn như vậy sẽ thấy tánh không nghi.

Lục Tổ kế thừa Ngũ Tổ nên Ngài cũng khuyên người trì tụng kinh Kim Cang. Bởi kinh Kim Cang là bộ kinh phá chấp rất mạnh mẽ, phá chấp tam tâm tứ tướng, là tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai, tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, phá cái thấy chấp có thuyết pháp, cho đến trang nghiêm tịnh độ. Phá sạch, không cho chúng ta bám vào cái gì, phá cả cái chấp phước đức của Bồ-tát, “làm phước đức còn thấy có phước đức thì không phải Bồ-tát thật”.

Trong kinh Kim Cang, Đức Phật tán thán công đức của kinh này: “Nếu có người hay thọ trì, đọc tụng, rộng vì người nói, Như Lai hẳn biết người ấy, hẳn thấy người ấy đều được thành tựu công đức chẳng thể lường, chẳng thể cân, chẳng có bờ mé, chẳng nghĩ bàn”. Công đức không tính kể, vì công đức này là công đức của tự tánh, vượt hơn tất cả những công đức hữu vi, không thể dùng tâm phân biệt so sánh mà đến được.

Pháp môn này là Tối thượng thừa, vì người đại trí mà nói, vì người thượng căn mà nói; người tiểu căn, tiểu trí nghe đến thì tâm sanh chẳng tin. Tại sao? Ví như rồng to làm mưa xuống, thì ở cõi Diêm-phù-đề, thành ấp, xóm làng thảy đều bị trôi giạt, như trôi lá táo. Nếu mưa xuống biển cả thì chẳng thêm, chẳng bớt. Nếu người Đại thừa hoặc người Tối thượng thừa, nghe nói kinh Kim Cang thì tâm mở sáng tỏ ngộ nên biết bản tánh tự có trí Bát-nhã.

Lục Tổ xác định rõ: “Pháp môn này là pháp môn Tối thượng thừa”. Tức vượt hơn các thừa, nên Ngài nhắc, người nghe pháp này cần phải mở tâm rộng lớn tương xứng chứ đừng dùng cái tâm nhỏ hẹp so đo nghe nhận. “Nếu người đại thừa hoặc người tối thượng thừa nghe nói kinh Kim Cang tâm mở sáng, tỏ ngộ, biết bản tánh tự có trí Bát-nhã”.

Người có căn tánh đại thừa nghe kinh Kim Cang liền thấy vui thích, tâm mở sáng, tin biết nơi bản tánh tự có trí Bát-nhã, tức trí Bát-nhã tự có nơi chính mình chứ không phải tìm bên ngoài, đúng với tinh thần Thiền Tông, đó mới thật Bát-nhã. Bát-nhã học được từ kinh điển, từ bên ngoài là phương tiện Bát-nhã, chưa phải chân thật Bát-nhã. Học Bát-nhã phải học thấu đến như thế mới là thật học.

Vì tự dụng trí tuệ thường soi sáng nên chẳng nhờ văn tự. Ví như nước mưa, chẳng từ trời có, vốn là rồng hay dấy lên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cỏ cây, hữu tình, vô tình, thảy đều được tươi nhuần; trăm sông, mọi dòng chảy vào biển cả lại họp thành một thể. Trí Bát-nhã nơi tự tánh của chúng sanh cũng lại như thế.

Ngài nói rõ: “Tự dụng trí tuệ thường soi sáng nên chẳng nhờ văn tự”. Dùng trí tuệ nơi tự tánh của chính mình thường soi sáng mà không nhờ văn tự, không kẹt nơi văn tự, như vậy mới thật trí. Trí tuệ nhờ văn tự đến khi hết văn tự sẽ mất, do học mà được thì có lúc sẽ quên. Lục Tổ không biết chữ vẫn tỏ ngộ, rõ ràng không nhờ văn tự. Mỗi người phải soi trở lại nơi chính mình để phát huy trí tuệ của tự tánh, đừng mắc kẹt nơi văn tự chữ nghĩa, mắc kẹt nơi văn tự chữ nghĩa thì không thấy được cái thật.

“Ví như nước mưa chẳng từ trời có, vốn là rồng hay dấy lên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cỏ cây hữu tình vô tình thảy đều được tươi nhuần, trăm sông mọi dòng chảy vào biển cả hợp thành một thể, trí Bát-nhã nơi tự tánh của chúng sanh cũng lại như thế”. Chúng sanh tự có sẵn trí tuệ chân thật, không phải nương từ bên ngoài, khi ngộ được lẽ thật thấy đồng một thể khế hợp như nhau. Ngược lại, chúng ta vì còn sống trong tâm chúng sanh, thấy theo cái ngã riêng biệt nên cách biệt nhau.

Này thiện tri thức! Người tiểu căn nghe pháp Đốn giáo này, giống như cỏ cây gốc rễ nhỏ nếu như gặp mưa to thảy đều bị ngã rạp, chẳng thể lớn lên. Người tiểu căn cũng lại như thế, vốn có trí Bát-nhã không sai khác gì với người đại trí, nhân đâu nghe pháp chẳng tự tỏ ngộ? Bởi do tà kiến chướng nặng, gốc rễ phiền não sâu dày giống như mây to che phủ mặt trời, chẳng được gió thổi qua thì ánh sáng mặt trời chẳng hiện. Trí Bát-nhã cũng không có lớn nhỏ, vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng. Tâm mê thì thấy tu hành tìm Phật bên ngoài, chưa ngộ tự tánh tức là tiểu căn. Nếu người tỏ ngộ Đốn giáo, chẳng chấp tu bên ngoài, chỉ đối với tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường chẳng thể nhiễm tức là thấy tánh.

Người mê chấp theo tà kiến, tu hành hướng ra bên ngoài tìm cầu. Ngày nay, đa số người học đạo cũng hướng bên ngoài tìm cầu, ít ai tìm trở lại nơi chính mình, thành ra bị che mờ trí Bát-nhã. Có sẵn mà không tin, lại tin bên ngoài thì làm sao ngộ được! Thế nên tạm đặt tên là tiểu căn, nhưng cũng có trí Bát-nhã như người đại trí chỉ vì chưa tin nhận thôi.

Nếu người tỏ ngộ trở lại, không chấp tu bên ngoài, thường khởi chánh kiến nơi tự tâm, tức tự tin nơi tâm mình sẵn có trí Bát-nhã sáng suốt, trí đó, phiền não trần lao không thể nhiễm. Sáng tỏ được lẽ thật như thế thì thấy tánh, đổi lại thành đại trí, mất tên tiểu căn, chuyển tên tiểu thành đại.

Nói tiểu căn, đại căn hay đại trí cũng là cái tên tạm đặt, không nên mắc kẹt trên cái tên mà thành ngăn ngại. Người không khéo mắc kẹt trên cái tên rồi phiền não, chê khen với nhau: “tôi đại anh tiểu” thành ra càng thêm ngăn cách. Chúng ta biết lớn-nhỏ chỉ là cái tên tạm thời đặt ra, trí Bát-nhã vốn không lớn-nhỏ, đem cái tưởng lớn-nhỏ mà hiểu Bát-nhã thì trái với Bát-nhã.

Trong Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn của Thiền sư Huệ Hải, có người đến hỏi Sư:

 - Bát-nhã lớn chăng?

Sư đáp:

- Lớn.

Người hỏi:

- Lớn bằng chừng nào?

Sư đáp:

- Không có ngằn mé.

Người hỏi:

- Bát-nhã nhỏ chăng?

Sư đáp:

- Nhỏ.

Người hỏi:

- Nhỏ bằng chừng nào?

Sư đáp:

- Xem chẳng thấy!

Người hỏi:

- Chỗ nào là Bát-nhã?

Sư đáp:

- Chỗ nào chẳng phải Bát-nhã!

Vậy là hết tướng lớn-nhỏ, nói lớn-nhỏ là tạm nói. Nhưng người thường mắc kẹt nơi cái tên, nghe nói lớn thì tưởng lớn, nói nhỏ thì tưởng nhỏ, bị cái tưởng gạt. Bát-nhã không thuộc lớn-nhỏ, còn kẹt cái thấy lớn-nhỏ là chưa rõ được Bát-nhã.

Rõ được như vậy thì chỗ nào chẳng phải Bát-nhã! Có ở chỗ này, không có ở chỗ kia thì không phải Bát-nhã. Rõ được Bát-nhã, nhìn khắp nơi đều là Bát-nhã, không vướng mắc, nhìn chỗ nào cũng sáng suốt không mê lầm. Đây là chỗ người nghe đôi khi hiểu lầm, nghe nói nhìn chỗ nào cũng là Bát-nhã thì nghĩ tất cả đều là Bát-nhã, bàn ghế hay cây cỏ cũng là Bát-nhã. Trong nhà Thiền có câu: “Rỡ rỡ hoa vàng đều là Bát-nhã”. Như vậy hoa cũng là Bát-nhã, đó là hiểu lầm theo cái tưởng, bị văn tự gạt. Đúng theo đây, nói rằng chỗ nào cũng Bát-nhã là khi tâm đã sáng thì nhìn hoa, nhìn cây, nhìn cảnh vật, nhìn ra tất cả đều thấy sáng tỏ, không lầm mê, chứ không phải cái hoa, cái cây là Bát-nhã, phải hiểu rõ ràng, không lẫn lộn.

Này thiện tri thức! Trong ngoài chẳng dừng trụ, đến đi tự do, hay trừ tâm chấp, thông suốt không ngăn ngại. Người hay tu hạnh này thì cùng với kinh Bát Nhã vốn không sai khác.

Tu khế hợp với kinh Bát Nhã là phải xả trừ tâm chấp trước, nên nói trong ngoài không dừng trụ, trong tâm ngoài cảnh đều không dính mắc, đúng với tinh thần của Lục Tổ ngộ kinh Kim Cang: “Chẳng nên trụ sắc sanh tâm, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Không trụ vào cái gì cả, xả trừ tất cả tâm chấp trước, không dính kẹt, không ở một chỗ thì lúc nào cũng sáng suốt. Không dính vào cái gì thì đâu có gì che mờ.

Chúng ta bởi có trụ, dừng trụ vào cái gì đó thì bị cái đó làm ngăn ngại, ngay đó che lấp Bát-nhã cho nên không sáng. Tâm không dừng trụ thì luôn sáng tỏ, tâm thênh thang rộng lớn đi qua tất cả, không gì ngăn ngại. Rõ được chỗ này là thông được kinh Kim Cang, nên đây nói: “Người hay tu hạnh này cùng với kinh Bát Nhã vốn không sai khác”.

Này thiện tri thức! Tất cả khế kinh và mọi thứ văn tự Đại thừa, Tiểu thừa, mười hai bộ kinh đều nhân nơi người mà đặt thành, nhân tánh trí tuệ mới hay dựng lập. Vì nếu không có người đời thì tất cả muôn pháp vốn tự chẳng có. Cho nên biết, muôn pháp vốn từ nơi người mà dấy lên, tất cả kinh sách nhân nơi người mà có nói ra. Bởi trong người kia có ngu, có trí, ngu là tiểu nhân, trí là đại nhân. Người ngu hỏi với người trí, người trí nói pháp cho người ngu nghe, người ngu chợt tỏ ngộ, tâm mở sáng, thì không khác gì với người trí.

Tất cả kinh điển đều nhân nơi người mà lập thành, do có người mê nên Phật mới nói pháp để độ người hết mê. Pháp nhân nơi người mà có. “Vì nếu không có người đời thì tất cả muôn pháp vốn tự chẳng có”. Không có người mê thì Phật nói pháp làm gì? Nói pháp là nói với chúng ta, nhưng chúng ta lại đi tìm pháp ở đâu khác, là trái với ý Phật, đó là lầm.

Muôn pháp không rời ngoài nơi người mà riêng có, không phải tìm cầu bên ngoài. Nhưng người có căn cơ chẳng đồng nên pháp có sai biệt. Người thích này, người thích kia, người có căn cơ lớn, người có căn cơ nhỏ v.v... Thế nên Phật thuyết pháp nhiều thứ sai biệt. Tùy theo người, nhân nơi người mà pháp có sai biệt. Pháp sai biệt do nơi người, không phải ở nơi pháp. Nhưng người lại mắc kẹt nơi pháp, học pháp rồi chấp theo pháp thành ngại, đâu biết rằng gốc ở nơi người.

Bởi người có ngu có trí nên mới tạm lập có tiểu có đại, không phải pháp có tiểu có đại. Hiểu vậy thì ngu hay trí, tiểu hay đại cũng không cố định. Nên nói: “Bởi trong người kia có ngu, có trí, ngu là tiểu nhân, trí là đại nhân, người ngu hỏi nơi người trí, người trí nói pháp cho người ngu nghe, người ngu chợt tỏ ngộ, tâm mở sáng thì không khác gì với người trí”. Hiểu như vậy, chúng ta cởi mở rất nhiều, không kẹt trên cái tên, có bị nói ngu cũng không quá buồn, tạm ngu thôi. Vì nếu người ngu thưa hỏi với người trí, người trí chỉ bày khiến tỏ ngộ thì không còn tên “ngu”, chuyển thành “trí”.

Và hiểu vậy, chúng ta không tự khinh mình, cũng không dám khinh người. Bởi người kia tuy hiện giờ chưa sáng tỏ nhưng gốc của họ cũng có đầy đủ trí Bát-nhã, nếu gặp duyên khơi dậy trí Bát-nhã họ sẽ sáng tỏ, đôi khi sáng trước chúng ta, thành ra đâu dám khinh ai. Học đạo, chúng ta thấy rõ điều đó, có người tu thời gian lâu mà chưa sáng tỏ, có người mới vô tu chưa lâu lại sáng tỏ trước, nên không ai dám khinh ai. Mọi người đều vốn sẵn có trí thể Bát-nhã như nhau, chẳng qua là người đã phát hiện trước và người chưa phát hiện nên khác nhau, nếu đồng phát hiện thì thấy như nhau. Trên lý thật không sai khác. Đó là đem lại niềm tin cho mọi người tự tin vươn lên chứ không chấp nhận ngu mê mãi, đó cũng chính là nghĩa tánh Không của Bát-nhã. Ngu cũng tánh Không, trí cũng tánh Không, cho nên ngu mới chuyển thành trí, vì là tánh Không nên nó không có tánh cố định, khi hiểu ra thì ngu thành trí. Trí cũng vậy, có trí mà không biết thì ngu. Quán sâu chỗ này sẽ có chỗ sáng tỏ rõ ràng, hiểu rõ Bát-nhã một cách thực tế.

Này thiện tri thức! Chẳng ngộ tức Phật là chúng sanh, khi một niệm ngộ thì chúng sanh là Phật. Cho nên biết, muôn pháp trọn ở nơi tự tâm, sao chẳng ở trong tự tâm mà chóng thấy bản tánh chân như. Kinh Bồ Tát Giới nói: “Bản nguyên tự tánh của ta là thanh tịnh, nếu nhận biết tự tâm, thấy tánh thì đều thành Phật đạo”. Kinh Tịnh Danh nói: “Liền đó hoát nhiên trở lại được bản tâm”.

 “Chẳng ngộ tức Phật là chúng sanh, khi một niệm ngộ thì chúng sanh là Phật”. Phật và chúng sanh chỉ cách nhau ở một niệm mê với ngộ. Phật và chúng sanh chỉ là hai cái tên tạm đặt. Không ngoài chúng sanh riêng có Phật hay ngoài Phật riêng có chúng sanh vì thể vốn không hai. Thấy thể không hai, đó là thấy tánh. Vậy không phải tìm Phật ở đâu khác, muốn thấy Phật phải thấy ngay trong chúng sanh.

Cái gì chẳng ngộ? Cái gì ngộ? Chỉ là tâm. Chính Tâm mới biết chẳng ngộ, cũng chính Tâm mới biết ngộ, không ngoài tâm riêng có. Lục Tổ dạy: “Cho nên biết muôn pháp trọn ở nơi tự tâm, sao chẳng ở trong tự tâm mà chóng thấy bản tánh chân như”. Cần yếu là sáng tỏ trở lại nơi tự tâm, ngay trong tự tâm chóng thấy bản tánh chân thật bất động. Không cần tìm đâu khác, chìa khóa ngay nơi chính mình, muốn mở thì mở, không chịu mở thì làm chúng sanh mãi.

Vị tăng tên Huệ Siêu đến hỏi Thiền sư Tịnh Tuệ:

- Thế nào là Phật?

Thiền sư Tịnh Tuệ bảo:

- Ông là Huệ Siêu.

Ngay đó, Huệ Siêu sáng tỏ.

Thiền sư Tịnh Tuệ không giải thích Phật là thế này thế kia, chỉ bảo: “Ông là Huệ Siêu” thì biết ngay, cái gì là Phật! Thẳng tắt không phải dài dòng.

Lục Tổ dẫn kinh Bồ Tát Giới nói rằng: “Bản nguyên tự tánh của ta là thanh tịnh, nếu nhận biết tự tâm, thấy tánh đều thành Phật đạo”. Bản nguyên tự tánh, tức tự tánh sẵn có nơi chính mình, vốn tự thanh tịnh, không phải làm cho thanh tịnh nữa. Do chúng ta mê không thấy được, vọng khởi lăng xăng thành che lấp đi. Khéo nhận trở lại thì sẵn đủ, chính chỗ đó là chỗ thành Phật chứ không đâu khác. Thành Phật là thành ngay nơi tự tâm, nhưng là tâm sẵn có thanh tịnh chứ không phải tâm vọng tưởng lăng xăng.

Tổ dẫn thêm kinh Tịnh Danh tức kinh Duy Ma Cật: “Liền đó hoát nhiên trở lại được bản tâm”. Bản tâm cũng sẵn nơi chính mình, khi tỉnh ngộ thì ngay đó bỗng nhiên rỗng suốt liền trở lại “được” bản tâm, không phải tìm bản tâm ở đâu khác. Đó gọi là Đốn giáo, rất nhanh chóng. Nói “được” là tạm nói chứ không được cái gì khác, chỉ trở lại cái sẵn có nơi mình, chính là con đường thẳng tắt.

Tổ đi trước, đã có kinh nghiệm thấy rõ rồi chỉ dạy cho tất cả. Chúng ta nắm vững yếu chỉ này, tu tập theo sẽ bớt tốn công rất nhiều. Chạy quanh co rốt cuộc cũng trở về cái sẵn có, giờ đi thẳng vào đây sẽ bớt tốn công.

Này thiện tri thức! Tôi ở chỗ Hòa thượng Nhẫn, vừa nghe liền ngay lời nói tỏ ngộ, chóng thấy bản tánh chân như. Do đó tôi đem giáo pháp này truyền ra, khiến cho người học đạo chóng ngộ Bồ-đề.

Lục Tổ dẫn lại ngay bản thân của Ngài lúc ở nơi Ngũ Tổ: “vừa nghe thì ngay lời nói tỏ ngộ, chóng thấy bản tánh chân như”. Tức không kẹt nơi lời nói, mà ngay lời nói nhận lại bản tánh nơi chính mình.

Đa số người học đạo nghe pháp lâu mà không tỏ ngộ bởi duyên theo lời nói rồi phân tích, chạy theo tiếng nên không thấy được để trở lại với chính mình. Nghe như vậy là “pháp duyên” chứ chưa phải “pháp thật”, pháp thật ở ngay nơi chính mình. Cần yếu phải đạt ý quên lời, tức phải nhận được ý ngoài lời nói. Lục Tổ rất bén nhạy, nghe liền nhận được bản tánh chân như nơi chính mình. Chóng thấy tức ngay đó liền thấy. Nói lên rằng nó có sẵn, không cần trải qua thứ lớp.

Ngài nói: “Do đó tôi đem giáo pháp này truyền ra khiến cho người học đạo chóng ngộ Bồ-đề”. Tổ đã thấy được nên đem lẽ thật đó giúp cho mọi người cũng chóng thấy trở lại như Tổ. Những điều Ngài nói ra xuất phát từ kinh nghiệm chân thật của tự thân, không phải do suy luận mà nói, cũng không phải nghe người khác nói rồi nói lại. Đã trực tiếp từ chỗ chứng nghiệm nói ra, nên có sức sống rất lớn cho người học, để bảo chứng cho tất cả đầy đủ lòng tin.

Mỗi người hãy tự xét rõ tâm mình, thấy bản tánh mình. Nếu tự chẳng ngộ, cần tìm bậc Đại thiện tri thức hiểu pháp Tối thượng thừa chỉ thẳng cho con đường chân chánh. Bậc thiện tri thức ấy có nhân duyên lớn, nghĩa là giáo hóa, dẫn dắt, khiến được thấy tánh, vì tất cả pháp lành nhân vị thiện tri thức mà hay phát khởi. Chư Phật ba đời, mười hai bộ kinh vốn tự có đủ trong tánh người. Chẳng thể tự ngộ, phải cầu bậc thiện tri thức chỉ bày cho mới thấy. Nếu người tự ngộ thì chẳng nhờ tìm cầu bên ngoài. Nếu một bề chấp cho là phải cần vị thiện tri thức ấy mới mong được giải thoát, không có lẽ ấy.

Đây Lục Tổ chỉ dạy, mỗi người hãy tự xét rõ tâm mình, thấy trở lại bản tánh mình, đó là chủ yếu, ngoài tâm này không thêm gì khác. Nhưng nếu tự mình chẳng ngộ, cần phải tìm bậc đại thiện tri thức chỉ cho con đường vào. Đại thiện tri thức là người đã thấy rõ con đường chân thật Tối thượng thừa này mới có thể chỉ rõ ràng, chính xác.

Sao gọi là Tối thượng thừa? Vì không còn gì trên nữa, đây là lẽ thật rốt ráo không có gì che giấu, không còn gì khác. Tìm gặp được bậc thiện tri thức này là nhân duyên rất lớn nên phải trân trọng, chớ xem thường mà bỏ qua. Bởi tuy việc lớn này là cái tự nơi mỗi người chính mình sẵn có, nhưng vì còn mê không nhận ra, bị vọng tưởng điên đảo che, do đó phải nhờ thiện tri thức là những bậc đi trước thấy trước chỉ cho chúng ta để đi thẳng vào chỗ chân thật, thì còn gì quý bằng!

Tổ dạy, tất cả kinh điển có đủ trong tánh người, không phải tìm đâu xa. Phật ngộ trở lại tự tánh, Ngài sống trọn vẹn, hết những mê lầm, từ trong đó Ngài nói ra. Chúng ta cũng vậy, ngộ trở lại tự tánh thì trong đó phát ra đầy đủ, không thiếu.

Như vậy, chưa tỏ ngộ thì cần phải nhờ thiện tri thức chỉ cho để sáng tỏ trở lại việc lớn của chính mình, tuy nhiên không phải một bề ỷ lại vị thiện tri thức bên ngoài, cốt yếu phải tự ngộ. Thiện tri thức bên ngoài không thể đem cái ngộ đến, chỉ giúp khiến chúng ta tự ngộ, nên nói: “Nếu một bề chấp phải cần có thiện tri thức ấy mới mong giải thoát thì không có lẽ ấy”. Ngài Nam Viện từng khai thị: “Dưới gậy vô sanh nhẫn, gặp cơ chẳng thấy thầy”. Gặp cơ chẳng thấy thầy tức là đã tự khế hợp được thì vượt qua ông thầy, không còn mắc kẹt nơi thầy. Nói vậy không có nghĩa là bác bỏ thầy, mà nhờ thầy chỉ dạy rồi phải tự mình sáng lên vượt qua ông thầy ở bên ngoài.

Tại sao? Trong tự tâm có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà mê, vọng niệm điên đảo thì thiện tri thức bên ngoài dù có truyền dạy, trọn không thể cứu được. Nếu phát khởi trí Bát-nhã chánh chân soi sáng, thì khoảng một sát-na vọng niệm đều dứt. Nếu nhận biết tự tánh thì một phen ngộ liền đến Phật địa.

Lục Tổ giải thích rõ, nơi mỗi người đều có tri thức tự ngộ không thiếu. Nhưng nếu khởi tâm điên đảo tà mê mãi thì dù có thiện tri thức bên ngoài tận tâm truyền dạy cũng không cứu được. Quan trọng là phải biết dẹp những tà mê trong tâm thì thiện tri thức bên ngoài chỉ ra mới nhận được, mới sáng được. Giống như chúng ta dọn sẵn cõi lòng cho trống sạch thì thiện tri thức chỉ cho liền nhận rõ, trong tâm để đầy rác mãi thì dù thiện tri thức bên ngoài chỉ cho cái thật nhưng chúng ta đâu nhận được.

“Nếu phát khởi trí Bát-nhã chánh chân soi sáng thì khoảng ngay một sát-na vọng niệm đều dứt”. Nếu có trí Bát-nhã chánh chân soi sáng thì vọng niệm không chỗ bám. Vọng niệm khởi được là do thiếu Bát-nhã soi sáng, vì vọng niệm thích nghi với bóng tối, tức vô minh. Bát-nhã là ánh sáng, nên có Bát-nhã thì vọng niệm phải mất, phải tan. Cho nên chúng ta tu tập cần phải có trí tuệ.

Trong nhà Thiền thường có câu: “Chẳng sợ vọng khởi, chỉ sợ giác chậm”. Giác tức là trí, có trí, biết được nó thì nó hết, không chỗ bám. Thiếu giác, vọng liền có chỗ nương; có ánh sáng giác ngộ, vọng hết chỗ nương.

“Nếu nhận biết tự tánh một phen ngộ liền đến Phật địa”. Biết được tự tánh tức là đạp lên đất Phật, chỗ thấy cùng với Phật không khác, không phải tìm thêm cái gì khác, là đầy đủ chánh nhân thành Phật.

Này thiện tri thức! Trí tuệ soi xét, sáng suốt cả trong ngoài, nhận biết bản tâm mình. Nếu nhận biết bản tâm tức vốn giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát-nhã tam-muội. Bát-nhã tam-muội tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp, tâm chẳng nhiễm trước, đó là vô niệm. Dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng chẳng dính tất cả chỗ. Chỉ bản tâm thanh tịnh, sẽ khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần, không dính mắc, không lẫn lộn, đến đi tự do, ứng dụng thông suốt không ngưng trệ, tức là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là hạnh vô niệm. Nếu trăm vật chẳng nghĩ, sẽ khiến cho niệm dứt bặt tức là pháp trói, gọi là biên kiến.

Tinh thần tu tập theo Lục Tổ chỉ dạy là phải nhận biết bản tâm, muốn nhận biết bản tâm phải dùng trí tuệ để nhận biết. Trí tuệ nhận biết bản tâm phải thấu suốt cả trong ngoài. Trong là căn ngoài là trần, hay trong là tâm ngoài là pháp, không mắc kẹt trong ngoài thì soi suốt mới nhận rõ bản tâm, kẹt nơi căn vướng nơi trần liền bị che mờ.

“Nếu nhận biết bản tâm tức vốn giải thoát”. Tự tâm vốn giải thoát, vì mê mới tự trói mình vào trần, nói trói chỉ là “vọng trói”. Ví như chúng ta thấy thỏi vàng liền khởi tâm phân biệt thấy vàng là quý rồi tham luyến, là tự mình trói vào nó. Nếu tỏ ngộ trở lại, biết vàng chỉ là kim loại, là vật vô tri, không có tâm tham luyến, ngay đó là tự giải thoát.

“Nếu được giải thoát tức là Bát-nhã tam-muội, Bát-nhã tam-muội tức là vô niệm”. Bát-nhã tam-muội ở ngay nơi tự tâm, không phải ở trong chữ nghĩa. Phân tích Bát-nhã tam-muội là thế này thế kia gì đó là chữ nghĩa, chính ngay nơi tự tâm mới là Bát-nhã tam-muội chân thật. Bát-nhã tam-muội cũng tức là vô niệm. Nhưng vô niệm ở đây không phải là diệt niệm không cho nghĩ gì cả, mà chính thấy tất cả pháp nhưng tâm không nhiễm trước, không dính mắc. Như Sơ Tổ Trúc Lâm dạy: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”.

“Dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng chẳng dính tất cả chỗ, chỉ bản tâm thanh tịnh sẽ khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần, không dính mắc, không lẫn lộn, đến đi tự do, ứng dụng thông suốt không ngưng trệ tức là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là hạnh vô niệm”. Phải học thấu suốt chỗ vô niệm này, không khéo thành pháp trói kẹt một bên. Đây là tâm đối với tất cả pháp không nhiễm trước, không dính mắc, không trụ vào chỗ nào. Biết khắp hết không phải không biết, nhưng biết khắp mà không dính mắc, tức biết tất cả mà lìa tất cả nên đều vô ngại. Không dính thì đâu có ngại, chúng ta ngại là do bị dính. Cho nên không cấm chúng ta biết mà chỉ đừng dính, bởi tâm có dính có trụ liền đó có ngăn có ngại.

Sáu thức tuy đi ra sáu cửa (tức sáu căn), mắt thấy cũng biết, tai nghe cũng biết, có biết có phân biệt là ở trong sáu trần nhưng không lẫn lộn với sáu trần, tức là không dính với sáu trần nên tự do tự tại, ngay đó là chuyển thức thành trí, đều thành diệu dụng. Tu không phải bỏ cái gì, mà chuyển thành diệu dụng. Chúng ta vì dính mắc nên bị quở: “Sống theo thức tình, phân biệt yêu ghét hơn thua rồi sanh khởi phiền não”.

Như vậy không phải phá bỏ cái biết. Biết tất cả những trần cảnh bên ngoài mà không bị trần cảnh làm mê, không dính với trần cảnh nên không ngưng trệ, đây cũng chính là tinh thần vô trụ. Chánh định Bát-nhã là như thế. Tức là đối với sáu trần không bị mê, không dính, không loạn là chánh định. Và chánh định này sáng suốt có trí tuệ, nên gọi là chánh định Bát-nhã. Đây là chân nghĩa vô niệm mà Lục Tổ chỉ dạy, không đồng với vô niệm của người hiểu lầm một bên là dứt không cho niệm, không cho nghĩ.

“Nếu trăm vật chẳng nghĩ sẽ khiến cho niệm dứt bặt tức là pháp trói, gọi là biên kiến”. Chẳng cho nghĩ gì, niệm dứt bặt, tức bị pháp trói, không được tự tại. Còn biết tất cả nhưng không dính, là cái biết tự tại, không nghiêng một bên nên không rơi vào biên kiến.

Có vị tăng đến tham vấn Hòa thượng Mễ Hồ, trên đường đi gặp bà già. Vị tăng hỏi bà:

- Bà có quyến thuộc chăng?

Bà đáp:

- Có.

Vị tăng hỏi:

- Ở chỗ nào?

Bà đáp:

- Sơn hà đại địa, hoặc cỏ hoặc cây đều là quyến thuộc của tôi.

Vị tăng hỏi:

- Bà đã từng làm sư cô chăng?

Bà không đáp mà hỏi lại:

- Thầy thấy cái gì?

Vị tăng đáp:

- Là người thế tục.

Bà nói:

- Thầy đâu chẳng phải là tăng.

Vị tăng nói:

- Bà chớ có lẫn lộn Phật pháp.

Bà liền nói:

- Tôi chẳng làm lẫn lộn Phật pháp.

Vị tăng nói:

- Bà thế ấy thì đâu không lộn Phật pháp.

Bà nói:

- Thầy là nam tôi là nữ, lẫn lộn chỗ nào?

Bà già này tuy sống ngoài thế tục nhưng đã tham thiền nhiều năm, tâm đã sáng tỏ, có chỗ thấy rất rõ ràng. Sơn hà đại địa, cỏ cây đều là quyến thuộc của bà, tức không có gì tách rời riêng có, không bỏ một pháp. Tuy nhiên không phải nói vậy là cái thấy lộn xộn, không rõ ràng. Tăng tục, nam nữ, bà thấy rõ ràng, không lẫn lộn, không có mê trong đó. Không phải nghe nói tu đến rốt ráo là phải đạt đến vô phân biệt trí của Ngài Văn-thù-sư-lợi, rồi nghĩ vô phân biệt là không biết nam nữ, hiểu vậy là lầm. Phải hiểu kỹ, vô phân biệt mà là trí, tức nam biết nam, nữ biết nữ, tăng biết tăng, tục biết tục nhưng không lẫn lộn, không lầm mê trong đó, biết rõ mà không mê, đó mới là trí tuệ khế hợp với đạo. Lục Tổ dạy rất kỹ, rất rõ ràng.

Này thiện tri thức! Người ngộ pháp vô niệm thì trọn đều thông suốt muôn pháp. Người ngộ pháp vô niệm thì thấy cảnh giới chư Phật. Người ngộ pháp vô niệm thì đến địa vị Phật.

Ngài nhấn mạnh, ngộ pháp vô niệm thì thông suốt muôn pháp. Bởi vì sao? Vì không còn bị dính nhiễm, không bị pháp làm mê nên thông suốt tất cả. Chúng ta thấy có dính nên không thông suốt. Ngộ pháp vô niệm như thế thì thấy cảnh giới Phật đến địa vị Phật không nghi ngờ. Tức chính đó là nhân để thành Phật, gọi là chánh nhân thành Phật. Không thể đem tâm phàm phu, nghĩ ngợi lung tung theo tình mê mà khế hợp với Phật được, phải vượt lên những niệm kia-đây đối đãi.

Này thiện tri thức! Đời sau có người nhận được pháp của tôi, hãy đem pháp môn Đốn giáo này đối với người đồng kiến, đồng hạnh, phát nguyện thọ trì như thờ Phật, nên trọn đời chẳng lui sụt, là nhất định sắp vào Thánh vị. Song cần truyền trao theo từ trước đến nay là thầm truyền trao phó, chẳng được ẩn giấu chánh pháp ấy. Nếu người chẳng đồng kiến, đồng hạnh, ở trong pháp khác thì chẳng truyền trao, sẽ làm tổn đến người trước kia, rốt ráo không ích gì. Sợ rằng người ngu chẳng hiểu mà chê bai pháp này, thì trăm kiếp ngàn đời đoạn dứt hạt giống Phật.

Pháp này là pháp Đốn giáo, chỉ thẳng đến lẽ thật cứu cánh. Thế nên, với người đồng kiến đồng hạnh cùng nhau phát nguyện thọ trì, mới chỉ lại, mới thầm nhận với nhau. Nếu được khế hợp, tin nhận, thọ trì giống như thờ Phật, tức hết lòng trân trọng, cung kính, trọn đời không lui sụt, thì bảo đảm nhất định sắp vào Thánh vị, không còn nghi ngờ. Tức được tâm tin chắc, tâm kiên cố, không còn thối chuyển.

Nhưng pháp này phải thầm truyền trao phó là sao? Tức là tâm tâm thầm khế hợp với nhau, vượt ngoài ngôn ngữ chữ nghĩa, không phải trao trên chữ nghĩa, không phải phô trương hình thức bên ngoài. Đúng như vậy mới là chân thật chỉ nhau. Lẽ thật này không phải của riêng ai nên không được che giấu. Nếu có tâm che giấu thì chưa phải là người thật ngộ, tức thấy còn có ngã. Nếu người không đồng kiến đồng hạnh, ở trong pháp khác tức không đủ lòng tin, mà truyền trao, sợ rằng họ sanh tâm chê bai sẽ đoạn dứt hạt giống Phật. Như vậy, người nghe mà có lòng tin là đã trồng căn lành sâu dày.

Này thiện tri thức! Tôi có một bài tụng Vô Tướng, mỗi người cần tụng lấy. Tại gia hay xuất gia, hãy nương bài tụng này tu hành, nếu chẳng tự tu, chỉ ghi nhớ lời tôi, cũng không có ích gì. Hãy nghe tôi nói tụng:

Lục Tổ nói bài tụng Vô Tướng cho mọi người nhớ, ứng dụng tu hành, đây là chung cho cả hàng tại gia và xuất gia. Ngài nhắc phải nương đây tu hành mới đúng ý của Ngài, nếu chẳng tự tu, chỉ ghi nhớ lời nói thì không ích gì. Quan trọng là phải hiểu, rồi ứng dụng để thực hành.

     Thuyết thông và tâm thông,

     Như mặt trời trên không,

     Chỉ truyền pháp kiến tánh,

     Ra đời phá tà tông.

Nhiều người nghe nói Thiền Tông là giáo ngoại biệt truyền nên nghĩ tu thiền không cần giáo, là nghiêng chấp một bên, không thông. Lục Tổ dạy, cần phải thuyết thông, tâm cũng thông. Thuyết thông là thông giáo, nói năng không kẹt trên ngôn ngữ văn tự, không bị chữ nghĩa làm ngại. Tâm thông là sáng được tâm, thấu được cội nguồn chân thật. Vậy thì giáo cũng thông, tâm cũng thông. Khi nói, khéo dùng phương tiện ngôn ngữ nói ra từ chỗ tâm sáng, nên lời nói thấu lý, không mắc kẹt trên chữ nghĩa. Người tâm thông khi giảng kinh sẽ giảng thấu đáo những lý sâu xa, không vướng mắc chữ nghĩa, người nghe sẽ nghe được sâu hơn.

Đường lối của Lục Tổ là truyền pháp kiến tánh, chỉ cho người nhận ra bản tánh chân thật nơi chính mình, chỉ thẳng lẽ thật chứ không quanh co dài dòng. Đem pháp này ra đời để phá các tà tông, tức những tông chỉ còn nghiêng lệch bên này bên kia, trái với nghĩa thật kiến tánh.

     Pháp tức không đốn tiệm,

     Mê ngộ có chậm mau,

     Chỉ môn kiến tánh này,

     Người ngu chẳng thể rành.

Người không khéo sanh tâm cho ta tu theo pháp thượng thừa, pháp đốn giáo, còn người tu theo pháp tiệm, là kém hơn ta. Chính tâm đó là không tốt, nên Lục Tổ dạy pháp không có đốn tiệm, đừng có phân biệt. Bởi tùy theo căn cơ của người mà có chậm có mau, không phải ở nơi pháp. Người ngộ được pháp thấy như nhau, chớ đem tâm phân biệt chậm mau gán cho pháp mà thành ngại.

Môn kiến tánh này chỉ thẳng bản tánh chân thật xưa nay vốn không sanh diệt nơi tự tâm của mỗi người. Đây là pháp chân thật rốt ráo, vượt ngoài tình thức phân biệt hiểu biết đối đãi. Người ngu sống trong tâm sanh diệt, đem tình thức phân biệt của người mê để hiểu pháp này thì không thể hiểu được, đôi khi hiểu lệch lạc rồi thành chê bai, xuyên tạc. Không phải pháp không cho người hiểu, do người còn dùng tâm mê nên tự che ngại. Pháp vẫn bình đẳng. Nếu vượt qua tâm phân biệt này thì tự thầm hiểu, nhận ra rõ ràng nơi chính mình có đầy đủ không thiếu. Đây cũng để ngăn ngừa người học không thể đem tâm phân biệt theo tình mê để hiểu đến pháp này, đó là lầm.

     Nói tuy có muôn thứ,

     Hợp lý trở về một,

     Trong nhà tối phiền não,

     Thường phải sanh trời tuệ.

Nói ra tuy có muôn thứ, đó là do dùng phương tiện ngôn ngữ để nói theo căn cơ của mỗi người, thế nên lời nói có sai biệt, có đốn tiệm, có pháp này pháp nọ. Cũng như Phật nói pháp có tám mươi bốn ngàn pháp môn, nhưng hợp lý thì trở về chỉ một chứ không hai.

Pháp chân thật vượt ngoài lời nói. Có sai biệt, có nhiều thứ là chưa phải pháp thật, người học cần nhận rõ để không lầm. Đây nhắc cho người học chớ chấp theo những thứ sai biệt mà bỏ quên lý thật không hai. Tuy nhiên, nói “Hợp lý trở về một” nhưng đến chỗ rốt ráo cái “một” cũng phải quên. Bởi một đối với nhiều, còn vướng nơi một cũng còn dính mắc, còn ngại, quên luôn “một” thì cái thấy khi ấy mới tự tại, thấy một cũng được, thấy nhiều cũng được, thấy suốt tất cả.

Lục Tổ lại nhắc chúng ta chớ sống theo phiền não, nếu ở trong nhà tối phiền não thì phải thường khởi sanh mặt trời trí tuệ để soi sáng. Có trí tuệ soi sáng tức phiền não không có chỗ bám, bởi có trí tuệ thì không có phiền não, ngược lại, có phiền não thì không có trí tuệ.

Như vậy phiền não và trí tuệ vốn không có hai “thể”, thấu rõ chỗ này liền hiểu được nghĩa “phiền não tức Bồ-đề”. Không có cái thể riêng của phiền não, cái thể riêng của Bồ-đề. Bồ-đề là trí giác, giác phiền não tức là Bồ-đề, còn mê Bồ-đề tức là phiền não.

     Tà đến phiền não tới,

     Chánh đến phiền não trừ,

     Chánh tà đều chẳng dụng,

     Thanh tịnh đến Vô dư.

Tâm chứa tà tức trái với lý thật, là vọng tưởng điên đảo, nên chứa nó là mời phiền não đến. Tâm chứa chánh thì phiền não tự trừ, tâm không khởi vọng tưởng thì phiền não không chỗ sanh. Người khéo biết tu phải sáng suốt nhận rõ, không lầm chỗ này.

Trước, thấy “tà-chánh” để biết mà không theo “tà”, trở về “chánh”, giữ tâm chánh để tà không đến, thì phiền não không có chỗ sanh. Tiến lên bước nữa, đến cuối cùng phải vượt qua cả tà và chánh mới thật thanh tịnh, vô sanh. Bởi còn thấy có chánh có tà là còn trong phương tiện đối đãi, dùng chánh để đối với tà, nếu tà hết chánh cũng không còn dùng, nên buông cả chánh. Không thêm niệm tà-chánh, chỉ còn một tâm thanh tịnh là đến Vô dư Niết-bàn, đến đó liền hợp với tâm Tổ.

     Bồ-đề vốn tự tánh,

     Dấy tâm liền là vọng,

     Tâm tịnh ở trong vọng,

     Chỉ chánh, không ba chướng.

Bồ-đề chân thật vốn ngay tự tánh của chính mình, không phải tìm bên ngoài, vừa khởi tâm tìm Bồ-đề là thành vọng. Kinh Duy Ma Cật:

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi thiên nữ:

- Cô đến bao lâu nữa thì được Vô thượng Bồ-đề?

Thiên nữ đáp:

- Như Ngài Xá-lợi-phất trở lại làm phàm phu, tôi mới có thể thành Vô thượng Bồ-đề.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

- Tôi làm phàm phu, điều đó không thể có.

Thiên nữ nói:

- Tôi được Vô thượng Bồ-đề cũng không thể có. Bởi vì sao? Bồ-đề không có chỗ trụ, thế nên không có được.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

- Hiện tại chư Phật được Vô thượng Bồ-đề, đã được và sẽ được, nhiều như số cát sông Hằng, đều gọi đó là gì? (Hiện tại có vô lượng chư Phật đã chứng Bồ-đề, quá khứ có vô lượng chư Phật đã chứng Bồ-đề, vị lai sẽ có vô lượng chư Phật chứng Bồ-đề, vậy là sao?)

Thiên nữ nói:

- Đều do văn tự thế tục nói có ba đời, chẳng thể bảo Bồ-đề có quá khứ, hiện tại, vị lai.

Do văn tự thế tục tạm nói có quá khứ chư Phật đã được, hiện tại chư Phật đang được, vị lai chư Phật sẽ được. Đó là phương tiện văn tự, Bồ-đề chân thật không có quá khứ, hiện tại, vị lai. Bởi Bồ-đề còn có quá khứ, hiện tại, vị lai là Bồ-đề sanh diệt. Đây ngầm chỉ Bồ-đề chân thật vốn ở nơi tự tánh xưa nay, nên không thật thấy có được, ở nơi tự tánh thì còn được gì nữa! Ở trong đó mà dấy tâm lên có một cái Bồ-đề nữa liền là vọng, trái với Bồ-đề.

Tâm tịnh ngay trong vọng, không ngoài vọng riêng có. Tức ngay trong vọng mà lìa vọng, vọng không có chỗ bám thì tự lặng. Chỉ cần tâm chánh trở lại, không lầm theo vọng là vượt qua ba chướng, thông suốt tự tại (ba chướng tức phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng), vì ba chướng cũng từ tâm sanh, phiền não cũng từ tâm sanh. Nhà Thiền có câu: “Phiền não nhân tâm mà có, nếu tâm không thì phiền não ở chỗ nào?” Do tâm khởi vọng mới có phiền não, nếu tâm Không thì phiền não bám vào đâu? Cho nên phiền não cũng từ tâm sanh, rồi có tạo nghiệp, mà thành chướng.

Tâm chánh thì chuyển ba chướng, hết chướng liền tự tại vô ngại. Từ tâm thành chướng, cũng từ tâm thành giải thoát, không cần tìm đâu xa. Nên nhà Thiền gọi là Tâm Tông, nhấn mạnh nơi tự tâm, đi thẳng vào cái gốc, chính xác.

     Người đời nếu tu đạo,

     Tất cả trọn chẳng ngại.

     Thường tự thấy lỗi mình,

     Cùng đạo tức tương đương.

Người khéo biết tu hành đúng theo chánh đạo thì không có gì chướng ngại, bởi chướng ngại là ở nơi tâm chúng ta chứ không phải bên ngoài, do không khéo tu, tâm chấp trước, vướng mắc thành có ngại. Người không biết, theo cái tưởng chấp cho rằng bên ngoài làm ngại, đổ thừa do chướng duyên làm khó tu. Sự thật thì duyên không có chướng, tự ta chướng rồi đổ cho duyên chướng thành ra tu mãi vẫn không hết ngại.

Như người thường đổ thừa duyên nơi này ngại rồi đi nơi khác, nhưng nơi khác cũng có cái ngại khác, mỗi nơi đều có cái ngại riêng. Tâm chưa thông ở nơi nào cũng ngại. Người không biết cứ đổ thừa bên ngoài làm ngại, chỉ lo trừ bên ngoài không trừ bên trong, trừ mãi cũng không hết, bởi đó là trừ ngọn. Ví như chặt cây, chặt ngọn này thì ngọn khác mọc lên, chỉ cần đào gốc thì hết chỗ để mọc.

Lại khéo biết tu thì thường phải tự thấy trở lại lỗi nơi mình, thấy trở lại chính mình, rõ được chính mình tức cùng đạo tương đương. Đây cũng chính là tinh thần Phản Quan Tự Kỷ trong nhà Thiền, Soi Lại Chính Mình là quan trọng. Buông các duyên mà soi sáng lại chính mình, khi chính mình sáng thì nhìn ra tất cả đều sáng, tâm sáng nhìn cái gì cũng sáng. Tu hành đúng như thế sẽ ít thấy phiền não, vì phiền não vừa khởi lên là thấy, liền trừ, thành ra phiền não đâu có nhiều, ít phiền não thì ít xa với đạo. Ngược lại, lỗi mình không thấy mà chỉ thấy lỗi người thành đi xa với đạo.

     Sắc loại tự có đạo,

     Đều chẳng não hại nhau,

     Lìa đạo riêng tìm đạo,

     Trọn đời chẳng thấy đạo.

Sắc loại chỉ cho tất cả chúng sanh trong các loài. Ngay trong mỗi chúng sanh vốn tự có đạo, không phải tìm bên ngoài, ý này nhắc chúng ta soi lại chính mình. Nghĩa là mỗi chúng sanh đều có đủ tánh giác, là có đạo, đạo đó chân thật. Đã có đạo như nhau nên không não hại nhau cũng không ngăn cách nhau.

Nếu sống trở về với tánh giác thì không ai làm não hại ai, không ai chướng với ai, vì tánh giác đâu có chướng. Sở dĩ có não hại, có ngăn cách nhau là do quên mất đạo chân thật nơi mình mà chấp vào cái ngã hư dối. Luôn nhớ cái ngã này thì làm sao thấy đạo được! Thấy ta là cái này, người là cái kia, có ta có người thành ngăn cách. Nếu nhìn trên tánh giác thì đều như nhau, cho nên giây phút ngộ đạo là giây phút vắng bóng cái ngã này. Chúng ta tu tập phải nắm vững yếu chỉ này để tu hành sẽ không đi lạc.

Nơi chính mình vốn tự có đạo, cho nên tu hành muốn thấy đạo thì phải soi lại chính mình. Trái lại, hướng ra ngoài tìm thì trọn đời cũng không thấy đạo. Nếu có thấy thì đạo đó là đạo ở trong kinh điển, trong sách vở, chữ nghĩa. Nhưng đạo đó có giúp chúng ta hết phiền não, có giúp chúng ta giải thoát không? Không thể được. Chính đạo ngay trong tự tâm mới giúp chúng ta hết phiền não, giúp chúng ta giải thoát. Tìm ngay trong tự tâm mới là đạo chân thật, đó là nghĩa thiết thực.

     Lăng xăng qua một đời,

     Cuối cùng lại tự hận,

     Muốn được thấy chân đạo,

     Hành chánh tức là đạo.

Chạy ra bên ngoài lăng xăng tìm mãi, nhọc nhằn phí cả cuộc đời rốt cuộc rồi tự hận không có được gì. Đó gọi là bỏ của báu trong nhà chạy tìm ngói gạch bên ngoài. Ngói gạch thì không dùng được nên dù có được rồi cũng phải bỏ. Phải lấy của báu ngay trong nhà đem ra dùng mới có lợi ích thiết thực.

Cho nên muốn thấy được đạo chân thật, phải ngay nơi hạnh, thực hành cho chánh. Hành chánh tức chánh trở lại tâm của chúng ta, tâm chánh thì hợp đạo. Tâm không chánh dù tìm mãi cũng không thấy đạo. Tâm chánh là buông đi những niệm tà vạy, buông tâm nghiêng lệch bên này bên kia, tâm chạy đuổi tìm bên ngoài, buông những tâm niệm đó thì chánh lại tâm chúng ta. Theo những tâm niệm đó là theo tâm tà vạy là tâm nghiêng lệch, yêu người này, ghét người kia, dẫn chúng ta đi lệch ra ngoài, làm sao thấy được!

     Nếu tự không đạo tâm,

     Hạnh tối chẳng thấy đạo,

     Nếu người thật tu đạo,

     Chẳng thấy lỗi thế gian.

Tự mình không đạo tâm tức là quên tâm đạo của chính mình, không tin nhận tâm là đạo rồi hành theo hạnh tối, làm sao thấy được đạo! Hạnh tối tức thiếu trí tuệ, sống theo tình mê, trái bỏ tâm đạo. Vậy là tự mình trái bỏ chính mình, sống với vô minh.

Người thật biết tu hành theo chánh đạo chẳng thấy lỗi của thế gian, không thấy ra bên ngoài. Nếu chỉ thấy ra bên ngoài, tâm lo nhìn lỗi thế gian, thấy lỗi người này người nọ rồi theo đó mà chê khen càng sanh thêm phiền não, đâu thể thấy đạo. Thế nên Lục Tổ nhắc kỹ:

     Nếu thấy lỗi người khác,

     Lỗi mình đến bên cạnh,

     Người lỗi ta chẳng lỗi,

     Ta chê, tự có lỗi.

Thấy lỗi người khác tưởng mình hay, nhưng không ngờ mình đã có lỗi. Lỗi căn bản là lỗi quên mình, thêm nữa là lỗi xen vào việc người. Lỗi của người không liên hệ đến ta, ta vốn trong sạch thanh tịnh, nhưng khi nhìn thấy lỗi của người liền sanh tâm chê bai, hoặc chỉ trích thì ngay đó tự chuốc lấy lỗi. Thấy đau chưa? Lỗi của người, không dính đến ta, vậy mà ta lại nhảy vào đó cho dính theo. Người làm lỗi là phần của người, tại sao ta xen vào để mang lấy vạ, mang lỗi vào mình? Đó là cái lầm mê của chúng sanh!

Người thế gian nếu không học đạo, dễ mắc phải bệnh này. Nhờ học đạo, Đức Phật hoặc chư Tổ đem trí tuệ chỉ cho chúng ta sống theo con đường trí tuệ, mới thấy được những cái mê lầm đó. Thế gian có khi thấy nhiều lỗi của người khác rồi còn tự hào. Tự hào ta là người sành đời, ai có lỗi thì ta đều biết, không ai qua mắt ta. Nhưng như vậy là lỗi càng thêm nặng mà không hay biết. Lỗi nặng ở chỗ lớn thêm cái ngã, tức lớn thêm vô minh.

Mới thấy Lục Tổ chỉ dạy rất chí thiết “Người lỗi ta chẳng lỗi, Ta chê tự có lỗi”. Luôn nhớ vậy thì sống ngăn ngừa lỗi lầm, sống ít phiền não.

     Chỉ tự bỏ tâm quấy,

     Phá tan hết phiền não,

     Yêu ghét chẳng bận lòng,

     Duỗi thẳng hai chân ngủ.

Người khéo biết tu hành thường soi lại chính mình để tự bỏ đi những tâm quấy, là tâm lỗi lầm của chúng ta, những tâm tà vạy. Không khởi theo, không bám theo nó, đồng thời phá tan hết những phiền não nơi ta, được vậy mới quý. Ngược lại, chỉ thấy lỗi người trong khi lỗi ta lại mê. Việc người thì sáng nhưng việc mình lại mù quáng, từ đó mà lỗi sanh thêm lỗi. Thế nên chúng ta tu hành phải đi ngược chiều của thế gian.

Không bận lòng yêu-ghét thì duỗi thẳng chân ngủ, thật là khỏe! Chúng ta khởi yêu, khởi ghét làm sao ngủ yên? Bởi có yêu-ghét là có thiên lệch theo bản ngã, thuận theo ta thì yêu, nghịch theo ta thì ghét. Lấy cái tôi làm trung tâm để thành yêu-ghét. Ví như người đó quấy nhưng vuốt theo ta thì ta cũng yêu người đó, như vậy không phải thiên lệch sao? Thiên lệch theo bản ngã, thì không còn trong sáng. Từ đó có lấy-bỏ, có kia-đây, ngay đó là trái với tâm đạo.

Kiểm lại xem, người đời chỉ vì yêu-ghét mà gây ra biết bao sóng gió cuộc đời, tạo ra biết bao khổ đau trên thế gian, càng sống xa với đạo. Tu hành là phải sáng suốt để chuyển cái nhìn trở lại, nhìn đúng thấy đúng rồi làm đúng, cho nên quan trọng là chuyển cái nhìn.

     Toan muốn giáo hóa người,

     Tự phải có phương tiện,

     Chớ để họ nghi ngờ,

     Tức là tự tánh hiện.

Đây là nói về tinh thần lợi tha. Lục Tổ dạy muốn giáo hóa người thì tự mình phải có phương tiện, có những cách thức khéo léo để thích hợp với họ chứ không thể nói lý suông. Dù hiểu hay, nhưng nói lý mãi mà không hợp với người thì cũng không độ được. Thí dụ như chúng ta hiểu lý thiền cao, nhưng với người mới học đạo mà đem lý thiền cao nói thì họ không thể nghe. Nên phải có phương tiện để khế hợp với họ, họ nghe hiểu mới là khéo là hay. Cho nên giáo hóa không phải là phô bày cái hiểu biết của ta, mà biết cách dùng Phật pháp cho khế hợp với căn cơ, không cố chấp một chiều.

Phải có phương tiện khéo khiến cho họ thầm hợp, họ không có nghi ngờ, không do dự thì tự tánh mới hiện, mới sáng tỏ. Đây là giúp cho họ tự tin nhận trở lại nơi chính mình. Nhưng không phải bảo người làm mà chính mình lại không làm, chúng ta phải làm trước để xác quyết cho người có đủ lòng tin không nghi ngờ, như vậy người mới làm theo, mới sáng tỏ.

     Phật pháp ở trong đời,

     Chẳng lìa đời có giác.

     Lìa đời tìm Bồ-đề,

     Giống hệt tìm sừng thỏ.

Phật pháp ở ngay trong thế gian này, không phải lìa thế gian mà tìm giác ngộ. Bỏ thế gian mà tìm giác ngộ thì giác ngộ cái gì? Bởi thế gian có lầm mê nên mới có giác ngộ cái lầm mê đó. Như thế gian vô thường mà chúng ta tưởng thường, đó là mê, thấy rõ trở lại, đó là giác. Hoặc thế gian là khổ mà chúng ta tưởng vui, tham luyến theo đó, là mê. Giác ngộ trở lại cũng ngay nơi khổ đó mà giác, không phải tìm cái gì khác, tìm ở đâu xa xôi. Người không biết, nghĩ rằng giác ngộ phải tìm ở trong chùa, nghĩ trong chùa mới có giác ngộ, mà quên rằng giác ngộ không phải ở chùa, nếu vào chùa mà sanh phiền não mãi cũng không thể giác ngộ. Giác ngộ là ngay nơi phiền não, ngay thế gian lầm mê này. Hiểu vậy mới thấy Phật pháp ở khắp nơi, không riêng ở chỗ nào.

Trong nhà Thiền, có một vị ni tên Duy Cửu, tức Không Thất Đạo Nhân, tham thiền ngộ đạo. Bà cất nhà tắm ở Bảo Ninh. Để nhắc nhở, cảnh tỉnh mọi người khi vào nhà tắm, bên ngoài cửa phòng tắm, bà treo một tấm bảng đề:

    “Một vật cũng không, rửa cái gì?

    Mảy trần nếu có, từ đâu khởi?

    Nói lấy một câu Tử Huyền,

    Mới có thể đồng vào tắm.

    Cổ Linh chỉ biết kì lưng,

    Khai sĩ đâu từng sáng tâm.

    Muốn chứng quả Ly Cấu địa,

    Phải toàn thân toát mồ hôi.

    Trọn nói nước hay rửa bụi,

    Đâu biết nước cũng là bụi.

    Dù cho nước-bụi chóng trừ,

    Đến đây cũng phải rửa hết”.

Nghĩa là lý thật xưa nay vốn “không một vật” thì rửa là rửa cái gì? Rồi bụi tức là trần, trần từ đâu khởi? Chỉ là vọng khởi. Vậy thì tắm là tắm cái gì?

Tử Huyền chỉ cho Quách Tượng, ông có biện tài vô ngại, tức phải nói một câu thông suốt mới được vào tắm.

Cổ Linh tức Cổ Linh - Thần Tán. Trước, Sư tu ở chùa quê với thầy Bổn sư. Sau khi tham học với Tổ Bá Trượng được ngộ đạo, Sư về lại chùa ở quê hầu thầy.

Một hôm, Sư hầu thầy Bổn sư tắm, khi kì lưng thầy, Sư nói:

- Điện Phật này đẹp mà không có Thánh!

Thầy Bổn sư xoay đầu ngó lại, Sư nói tiếp:

- Tuy không Thánh nhưng vẫn thường phóng hào quang!

“Điện Phật này đẹp mà không có Thánh”. Tức nói thầy chưa ngộ. “Xoay đầu ngó lại” là trong đó còn có cái gì rồi, nên “thường phóng hào quang”. Nhà Thiền gọi sáu căn thường phóng hào quang. Khi xoay đầu ngó lại, ngay đó sáng tỏ là phóng hào quang. Đây nói “Cổ Linh chỉ biết kì lưng”, là nhắc cho người cần tự mình khéo thấy.

Khai sĩ tức nói đến Ngài Bạt-đà-bà-la và mười sáu vị Khai sĩ đồng bạn. Trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn: “Khi chư Tăng tắm gội, con theo thứ lớp vào nhà tắm, bỗng ngộ được chân tánh của nước, đã chẳng rửa bụi, cũng chẳng rửa thân, trong khoảng giữa yên lặng, được không có gì. Do cái túc tập chẳng quên, cho đến hôm nay theo Phật xuất gia, mới thành được quả Vô học. Đức Phật ấy gọi tên con là Bạt-đà-bà-la do phát minh được diệu tánh của xúc trần mà thành bậc Phật tử trụ”. Những vị Khai sĩ vào nhà tắm, khi dội nước tắm thì tỏ ngộ ngay nơi xúc trần. Nhưng đây nói: “Khai sĩ đâu từng sáng tâm”. Chuyện đó của Ngài nhưng ai biết! Đó là muốn nhắc phải soi lại chính mình, làm sao mà thấy biết được những vị Khai sĩ đó sáng tâm!

“Ly Cấu địa” là địa thứ hai trong thập địa, Ly Cấu là không còn nhơ nhớp. Chứng được chỗ không còn nhơ nhớp, toàn thân phải toát mồ hôi mới được, không thể nói lý suông.

“Trọn nói nước hay rửa bụi, Đâu biết nước cũng là bụi”. Thường chúng ta tắm, dùng nước để rửa bợn nhơ bụi bặm. Chữ Hán trần cũng có nghĩa là bụi. Nước là sắc trần. Vậy tắm là đem trần rửa trần, tức đem bụi rửa bụi làm sao rửa sạch hết được! Cho nên hôm nay tắm, ngày mai lại phải tắm tiếp, bởi chỉ rửa tạm, không thể rửa sạch.

Nên bà nói: “Trọn nói nước hay rửa bụi, Đâu biết nước cũng là bụi. Dù cho nước-bụi chóng trừ, Đến đây cũng phải rửa hết”. Đến chỗ rốt ráo, nước và bụi trừ sạch, rồi cũng phải quên luôn cái trừ mới là thật rửa, rửa đến tột cùng. Rửa được vậy thì thấy được Pháp thân. Vậy ngay trong nhà tắm cũng có Phật pháp, nên Lục Tổ nói “Phật pháp tại thế gian”, đó là lẽ thật. Người tâm sáng thấy đâu đâu cũng là Phật pháp, người tâm chưa sáng đôi khi Phật pháp lại thấy thành tà pháp hoặc thấy không phải Phật pháp.

Thí dụ ngồi thiền là Phật pháp, nhưng nếu tâm không thanh tịnh, không khéo tu, đang ngồi thiền mà nghe tiếng nói chuyện ồn ào liền khởi phiền não. Khi ấy, ngồi thiền không còn là Phật pháp. Thế nên, tâm chánh thì không phải Phật pháp cũng thấy thành Phật pháp, tâm không chánh thì Phật pháp lại thấy không phải Phật pháp, có khi chê bai Phật pháp. Người tâm không chánh, đôi khi tìm những lỗi trong kinh điển rồi chỉ trích, vậy có phải thành tà pháp không? Người tâm chánh, trong nhà tắm đâu phải là kinh điển mà cũng thấy thành Phật pháp. Phải thấy rõ chỗ này, hiểu cho chín chắn thì việc tu của chúng ta sẽ thông suốt, ít có chướng ngại.

Hãy nhớ, Phật pháp ở ngay tại thế gian, không lìa thế gian mà tìm giác ngộ được. Bởi giác ngộ là giác ngộ những mê lầm ở thế gian, giác ngộ những phiền não. Có phiền não mới có Bồ-đề, không phiền não thì Bồ-đề với cái gì? Giác cái gì? Cho nên, lìa đời tìm Bồ-đề hay tìm giác ngộ giống như tìm sừng thỏ.

     Chánh kiến gọi xuất thế,

     Tà kiến gọi thế gian,

     Chánh tà đều quét sạch,

     Tánh Bồ-đề sáng ngời.

Chánh kiến là thấy đúng như thật, đúng với chánh pháp, vượt ra khỏi cái thấy lầm mê điên đảo của thế gian tức xuất thế. Tu hành xuất thế thì chánh kiến rất trọng yếu, trong Bát chánh đạo mở đầu là Chánh kiến, trong Thiền Tông thì Lục Tổ dạy kiến tánh. Có thấy đúng mới nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng. Ngay buổi đầu phải thấy, nhận định đúng đắn, chính xác, sáng tỏ thì đường tu được thông suốt. Chưa có cái thấy đúng đắn, khi tu gặp những việc hơi khó khăn, hơi chướng thì dễ do dự, dễ sanh tâm khác.

Tà kiến là thấy theo chiều lầm mê, điên đảo, che mất trí tuệ sáng suốt, nên chìm theo thế gian, đóng bít con đường xuất thế.

Nói chánh nói tà cũng là đối đãi hai bên, là phương tiện đối với người mê mà nói, tạm nói đây là chánh đối với tà để chúng ta không lầm theo tà, trở về chánh. Tiến thêm bước nữa, phải sạch hết cái thấy hai bên chánh tà, bởi còn có chánh tức còn có tà. Chánh là chánh với tà, không có tà thì chánh với gì? Chính chúng ta quên tánh sáng suốt rồi khởi niệm tà, nên giờ mới khởi niệm chánh để bỏ niệm tà. Khi không còn niệm tà thì chánh cũng quên. Thế nên, còn “chánh-tà” là còn trong phân biệt đối đãi, còn dấu vết của tình mê. Phải sạch hết niệm chánh-tà, tâm mới rỗng rang sáng suốt, tánh Bồ-đề hiện tiền, bởi tánh Bồ-đề vốn sáng ngời thì đâu có chánh-tà trong đó.

     Tụng này là Đốn giáo,

     Cũng gọi đại pháp thuyền,

     Mê nghe trải nhiều kiếp,

     Ngộ ắt khoảng sát-na.

Lục Tổ chỉ rõ đây là pháp Đốn giáo, chỉ thẳng con đường giác ngộ nhanh chóng, vượt qua những thứ lớp phân biệt, cũng là thuyền đại pháp đưa người đến bờ giác ngộ thành Phật, gọi là “Kiến tánh thành Phật”. Bởi đây là pháp rộng lớn, người muốn nghe được pháp này cũng phải mở tâm rộng lớn để đón nhận. Nếu chấp theo tâm ý nhỏ hẹp làm sao nghe nhận được, là tự làm chướng ngại mình, bỏ mất cái lớn lao.

“Mê nghe trải nhiều kiếp, ngộ ắt khoảng sát-na.” Là nói theo tinh thần Đốn giáo. Bởi tánh giác hay tánh Bồ-đề vốn sẵn sáng suốt nơi chính mình, do chúng ta quên nó mới theo những tình mê trải qua nhiều kiếp, khi ngộ thì ngay đó đầy đủ.

Đó là bài Tụng Vô Tướng, Lục Tổ vừa nhắc người xuất gia cũng nhắc người tại gia.

Sư lại nói:

- Nay ở chùa Đại Phạm nói pháp Đốn giáo này, nguyện khắp cho pháp giới chúng sanh, ngay lời nói thấy tánh thành Phật.

Lúc ấy, Vi Sử quân cùng với quan liêu, đạo tục nghe những điều Sư nói thảy đều tỉnh ngộ, đồng thời làm lễ và đều khen ngợi:

- Lành thay, đâu ngờ Lĩnh Nam có Phật ra đời!

Lục Tổ nói pháp này tại chùa Đại Phạm, xác định rõ đây là pháp Đốn giáo, mở rộng tinh thần lợi tha nên “Nguyện khắp cho pháp giới chúng sanh ngay lời nói đều được thấy tánh thành Phật”. Ngay lời nguyện đó là ngầm nhắc cho tất cả nghe pháp này phải ngay lời nói liền thấy tánh, tức không kẹt trên ngôn ngữ. Học pháp này là học pháp thấy tánh thành Phật, do đó phải học thẳng vào lẽ thật để thấy được tự tánh chính mình chứ không phải học trên ngôn ngữ, chữ nghĩa. Cho nên một phen ngộ là vượt qua cả nhiều kiếp lầm mê.

Học được như vậy, thì lúc nào cũng thấy mới. Người học trên ngôn ngữ chữ nghĩa nghe giảng lại lần thứ hai là thấy chán, thấy tôi đã học qua rồi, đến lần thứ ba hết muốn học, bởi chỉ nhớ đến chữ nghĩa, bao nhiêu chữ nghĩa đó trước nghe rồi, giờ nghe lại nên thấy chán. Người học thẳng vào trong tự tánh thì lúc nào cũng thấy mới mẻ, mỗi lần nghe mỗi lần mới. Chính chỗ này là chỗ chúng ta cần phải học.

Có người nói những bài pháp đó đã cũ rồi, từ Đức Phật truyền đến nay đã trên hai mươi lăm thế kỹ, lâu quá thành cũ. Sự thật thì pháp có cũ không? Cũ là do gì? Do tâm chúng ta cũ chứ pháp không có cũ, tâm chúng ta nghĩ tưởng theo danh từ chữ nghĩa nên thấy cũ, chính cái cũ đó mà nghe thành cũ. Người có tâm thiết tha tu hành, nghe được pháp, sống đúng với pháp, thể nhập trong đó liền đạt được trí tuệ sáng suốt, thâm nhập được pháp, là chứng đạo, giống như thời Đức Phật, đâu có cũ. Thế nên, từ Đức Phật dạy cho đến ngày nay và mãi về sau pháp vẫn luôn mới, phải nên thấy rõ như thế để không lầm.

Chúng ta thường đổ thừa hiện nay thời mạt pháp, khó tu khó chứng đạo, tu cầm chừng cũng được rồi. Tâm niệm đó làm chúng ta dễ buông lung. Sự thật pháp không có mạt, mạt là do người. Pháp có mạt là pháp phương tiện bên ngoài. Pháp chân thật thì trước Phật, ngay thời Phật hay sau Phật thì pháp vẫn là pháp, người ngộ được cũng dứt phiền não được giải thoát, vậy thì đâu có mạt. Nhất là trong nhà Thiền, thấy được pháp tánh chân thật thì lúc nào cũng sáng ngời.

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phật nói Đức Phật vẫn thường ở núi Linh Thứu thuyết pháp, nhưng người mê không biết cho là Ngài nhập Niết-bàn. Người mở Tri kiến Phật thấy Phật vẫn thuyết pháp, vẫn luôn hiện hữu, tức là thấy Pháp. Trong kinh Nguyên Thủy, Phật nói: “Ai thấy Pháp là thấy Như Lai, ai thấy Như Lai là thấy Pháp”. Hiểu vậy thì sự học hiểu của chúng ta đi sâu, không dừng trên chữ nghĩa.

Lục Tổ là bậc đại ngộ, đây là những lời từ tâm sáng tỏ nói ra, nên những lời chỉ dạy không mắc kẹt trên chữ nghĩa. Cho nên, Vi Sử quân và mọi người nghe được những điều trước giờ chưa từng nghe, không ngờ Phật pháp thực tế, gần gũi như thế. Mọi người rất vui mừng, tán thán: “Lành thay! Đâu ngờ Lĩnh Nam có Phật ra đời”. Bởi khi ấy Lục Tổ ở vùng Lĩnh Nam. Nếu mỗi người chúng ta cảm sâu được những lời Lục Tổ dạy thì cũng thấy như vậy.

Chính vì Lục Tổ là người không biết chữ mà ngộ đạo nên Ngài giảng nói rất bình thường chân thật, không có văn chương bóng bẩy hay văn chương bác học. Tuy lời lẽ giản dị nhưng nghĩa lý sâu xa, sáng tỏ, thế nên ai nghe cũng được. Chúng ta cũng phải học điều đó, không phải lúc nào cũng lệ thuộc vào văn chương. Đôi khi cũng dùng văn chương bóng bẩy để độ tầng lớp trí thức, nhưng không phải mắc kẹt trong đó mãi. Khi nói về lẽ thật trong mỗi người cũng nói ngay văn chương bình dân cho mọi người đều nghe đều thấu, nhưng phải có nghĩa lý sâu xa, lột tả được đạo lý chân thật. Muốn được vậy, chính mình phải thật sự sống trong đó, tâm phải sáng, lời nói từ kinh nghiệm trong nội tâm, bằng sức sống chân thật, người nghe mới cảm sâu được. Thế nên, học, nghe, hiểu rồi phải thực hành mới cảm sâu được!

***

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 89192
  • Online: 48