Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 12 - ĐÁNH CHUÔNG NGHIỆM TÁNH THƯỜNG
12/07/2018 | Lượt xem: 3625
Dịch giả: HT.Thích Phước Hảo
Tác giả: TT.Thích Thông Phương
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Như Phật đã dạy, muốn cầu quả thường trụ, chỗ phát tâm tu nhân cần phải cân xứng với danh mục của quả vị. Bạch Thế Tôn! Như trong các quả vị Bồ-đề, Niết-bàn, Chân Như, Phật Tánh, Yêm-ma-la thức, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, bảy thứ danh hiệu ấy tuy có khác mà thể tánh đều thanh tịnh viên mãn, vững chắc như Kim cang vương, thường trụ không hoại diệt.
Nếu cái thấy nghe này ngoài những tướng tối sáng, động tịnh, thông bít, rốt ráo không có tự thể, cũng như tâm niệm rời tiền trần vốn không thật có, tại sao lại đem cái rốt ráo đoạn diệt đó dùng làm nhân tu hành mà muốn được bảy quả thường trụ của Như Lai. Bạch Thế Tôn! Nếu rời sáng tối rốt ráo là không, như không có tiền trần thì tự tánh của tâm niệm bị diệt mất, tới lui xoay vần suy xét cho chín chắn vốn không có tâm và tâm sở của con, vậy con đem cái gì mà lập thành nhân để cầu Vô thượng giác? Đức Như Lai trước đã dạy, tánh hay biết yên lặng, viên mãn thường trụ, thật là lời nói trái lẽ thường, rốt cuộc chỉ thành hý luận, làm sao nhận được lời nói của Như Lai là chân thật. Cúi mong Đức Như Lai mở lòng đại bi khai ngộ chỗ mê lầm cho chúng con”.
GIẢNG GIẢI:
Đoạn trên, Phật dạy ngay nơi các căn nhổ sạch cái hư vọng dính khằn, thì các phù trần và những tướng biến hóa sẽ chuyển thành tri giác Vô thượng, không gì làm mờ tối được nó. Tức ngay nơi căn chuyển lại, lấy chỗ đó làm chỗ tu hành. Nhưng Ngài A-nan chưa nhận ra ý chỉ của Phật, Ngài còn nghi căn tánh, tâm niệm rời tiền trần không có tự thể, tức thành đoạn diệt, làm sao lập thành cái nhân tu để cầu quả thường trụ Vô thượng giác. Vì ở trên nói cái nghe nếu rời tiếng không có tự thể, cái thấy rời sắc cũng không có tự thể, như vậy là nó thuộc sanh diệt; nếu lấy chỗ đó làm nhân tu cầu quả Vô thượng giác, tức quả thường trụ, là nhân trái với quả, nên Ngài mới khởi nghi.
Ở trước, Phật đã nói rõ căn trần đã tiêu thì tánh giác minh nhiệm mầu cùng khắp, hoặc nói nước nóng làm tiêu băng, băng trở về nước, chớ đâu trở thành đoạn diệt, nhưng Ngài A-nan còn chưa thấu rõ. Nói thấy nghe và những tâm niệm rời tiền trần không có tự thể, là ngầm chỉ nó nguyên là thể giác thôi, chớ không riêng có, khiến mỗi người ngộ ngay vọng tức là chân, đâu phải thành đoạn diệt, mà nghi là sanh diệt không hợp với quả thường trụ, rồi nghi lời Phật thành hý luận, đâu ngờ chính mình rơi vào hý luận mà không hay biết.
Bởi vì Ngài A-nan chưa thấy được ý chỉ của Phật, nên cầu Phật chỉ rõ thêm. Ngài hỏi đây cũng là hỏi chung cho nhiều người vì có nhiều người cũng nghi chỗ đó.
CHÁNH VĂN:
Phật bảo ông A-nan: “Ông tuy học rộng nghe nhiều, mà các mê lầm chưa hết, trong nhân chỉ biết suông cái nhân của điên đảo, mà cái điên đảo hiện tiền thật chưa hay biết, Tôi e cho tâm thành thật của ông vẫn chưa tin phục.
GIẢNG GIẢI:
Phật trách Ngài A-nan tâm chưa thật tin phục. Phật đã chỉ rõ ngay căn trần hư vọng là chỗ điên đảo, chỗ phát khởi phiền não. Ngài cũng chỉ rõ cái thấy rời tiền trần không có thật thể, khiến người không nhận theo trần rồi khởi cái thấy biết hư vọng. Tức muốn chúng ta đừng để trên đầu lại thêm đầu. Ngay đó thường thấy biết rõ ràng không mê, thì không bị căn trần làm mờ. Chính ngay đó là hợp với quả vị thường trụ rồi, còn nghi gì nữa? Phật đã ngầm chỉ mà Ngài A-nan không thấy, nên Phật mới quở trách: “Trong tâm ông chỉ biết suông cái nhân của điên đảo, mà cái điên đảo hiện tiền lại không hay biết”.
CHÁNH VĂN:
Nay Tôi thử đem các việc thế gian để trừ nghi cho ông”.
Liền khi ấy, Đức Như Lai bảo La-hầu-la đánh một tiếng chuông và hỏi A-nan rằng: “Nay ông có nghe chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ có nghe”.
Khi tiếng chuông hết ngân, Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ không nghe”.
Khi ấy La-hầu-la lại đánh một tiếng chuông nữa, Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ có nghe”.
Phật lại hỏi A-nan: “Thế nào là ông có nghe và thế nào là ông không nghe?”.
A-nan và đại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông nếu đánh lên thì chúng con được nghe, đánh lâu tiếng hết, âm vang đều dứt, thì gọi là không nghe”.
Đức Như Lai lại bảo La-hầu-la đánh một tiếng chuông nữa và hỏi A-nan rằng: “Theo ông thì nay có tiếng chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ có tiếng”.
Rồi giây lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi: “Theo ông nay lại có tiếng chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ không tiếng”.
Lát sau La-hầu-la lại đánh tiếng chuông nữa. Phật lại hỏi A-nan: “Nay đối với ông có tiếng chăng?”.
A-nan và đại chúng đều đáp: “Dạ có tiếng”.
Phật hỏi A-nan: “Thế nào mà ông gọi rằng có tiếng và thế nào gọi là không tiếng?”.
A-nan và đại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông đánh lên thì gọi là có tiếng, đánh lâu tiếng hết, âm vang không còn thì gọi là không tiếng”.
Phật bảo A-nan và đại chúng: “Hôm nay các ông sao nói trái ngược lộn xộn như thế!”.
A-nan và đại chúng đều bạch Phật: “Thế nào Thế Tôn bảo chúng con là nói trái ngược lộn xộn?”.
Phật bảo: “Tôi hỏi ông về nghe, thì ông nói là nghe. Hỏi ông về tiếng, thì ông nói là tiếng. Chỉ cái nghe và cái tiếng mà ông trả lời không nhất định, như thế làm sao không gọi là trái ngược lộn xộn? A-nan! Tiếng hết không còn âm vang, ông nói rằng không nghe, nếu thật không nghe, thì tánh nghe đã diệt đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên ông làm sao mà biết tiếng? Biết có biết không tự là thanh trần hoặc có hoặc không, chớ tánh nghe kia há lại vì ông mà thành có thành không. Nếu tánh nghe cho là thật không thì ai biết là không nghe?
Thế nên A-nan! Tiếng trong cái nghe tự có sanh diệt, chẳng phải vì ông nghe tiếng sanh tiếng diệt, khiến cho tánh nghe của ông là có hay là không. Ông còn điên đảo lầm cho cái tiếng làm cái nghe, thì đâu lạ gì không mê muội cho cái thường làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rời các tướng động tịnh, đóng mở, thông bít, thì cái nghe không có tánh”.
GIẢNG GIẢI:
Phật khai thị tánh nghe thường trụ rõ ràng, chứng thật cho thấy nó không phải đoạn diệt. Chỗ này phải lặng tâm, lắng lòng quán kỹ, đừng suy luận theo tình thức sẽ cảm nhận sâu được điều không thể nghĩ bàn ở ngay cái nghe này đây.
Phật bảo La-hầu-la đánh tiếng chuông rồi hỏi Ngài A-nan và đại chúng có nghe chăng, tất cả đều đáp có nghe. Đánh lâu tiếng chuông dứt, không còn ngân nữa, Phật lại hỏi có nghe chăng, tất cả đều đáp không nghe. Đây là chỗ lầm mà đa số người thế gian không thấy được. Tuy tiếng chuông dứt không còn ngân, nhưng còn tiếng Như Lai hỏi có nghe chăng, và mọi người cũng biết trả lời là không nghe, tức còn nghe tiếng Phật hỏi. Nghe tiếng Phật hỏi để đáp, như vậy đâu phải hoàn toàn không nghe, nếu thật không nghe làm sao biết trả lời Phật? Người đời đa số đều lầm, không thấy được chỗ này, rõ ràng là sống mê theo tiếng, đồng hóa mình với tiếng, mà quên mất cái hiện tiền!
Thêm nữa, khi Phật bảo La-hầu-la lại đánh chuông, hỏi đại chúng có nghe không, tất cả đều đáp có nghe. Mới đó nói không nghe, bây giờ nói có nghe, vậy cái nghe ở đâu chạy lại? Rõ ràng điên đảo là đó! Cho nên Phật mới gạn kỹ: “Thế nào là có nghe? Thế nào là không nghe?”. A-nan và đại chúng đều đáp: “Hễ có tiếng chuông ngân vang là có nghe, không có tiếng chuông hay tiếng chuông dứt là không nghe”. Ngay đó đã lộ ra cái lầm rồi, có tiếng chuông thì có nghe, không có tiếng chuông thì không nghe, vậy là đồng hóa cái nghe với cái tiếng.
Hỏi vậy mà A-nan và đại chúng vẫn chưa ngộ, nên Phật lại bảo La-hầu-la đánh chuông tiếp. Khi tiếng chuông vang lên, Phật hỏi có tiếng chăng, A-nan và đại chúng đều đáp có tiếng. Khi tiếng chuông ngưng, hết vang Phật lại hỏi có tiếng chăng, A-nan và đại chúng đều đáp không tiếng. Phật lại bảo La-hầu-la đánh tiếp tiếng chuông rồi hỏi có tiếng chăng, tất cả đều đáp có tiếng. Phật gạn: “Thế nào là có tiếng? Thế nào là không tiếng?”. A-nan và đại chúng đều đáp: “Tiếng chuông đánh lên là có tiếng, đánh lâu tiếng dứt là không tiếng”. Cũng đáp y như câu trước, trước hỏi nghe thì đáp nghe, bây giờ hỏi tiếng thì đáp tiếng, đồng hóa cái nghe với cái tiếng. Chỉ có bấy nhiêu đó thôi mà lộn xộn, nên Phật quở: “Tại sao các ông hôm nay điên đảo lộn xộn như vậy!”, trả lời không rõ ràng. Chỉ cái nghe với cái tiếng mà không phân biệt chính xác. A-nan và đại chúng vẫn chưa nhận ra, Phật mới khai thị thêm: “Tôi hỏi ông về nghe thì ông nói là nghe, hỏi ông về tiếng thì ông nói là tiếng, chỉ cái nghe và tiếng mà trả lời không nhất định, không phải điên đảo lộn xộn là sao?”. Phật dạy: “Tiếng hết không còn âm vang, ông nói không nghe, nếu thật không nghe thì tánh nghe đã diệt, đồng như cây khô. Khi tiếng chuông đánh trở lại, tại sao ông còn biết có tiếng? Cái nghe nếu thật diệt rồi thì đâu còn nghe nữa. Sự thật biết có biết không tự là thanh trần hoặc có hoặc không, chớ tánh nghe đâu phải vì đó mà thành có thành không”.
Đây là Phật còn chưa nói hết: “Nếu tiếng dứt hỏi ông có nghe không, ông đáp không nghe, không nghe tại sao ông nghe tôi hỏi mà trả lời?”. Như vậy ngay cái thứ nhất là đã lầm rồi.
Thứ hai là nếu quả thật không nghe, tức cái nghe đã theo cái tiếng diệt mất, thì khi tiếng chuông thứ ba đánh lên sẽ không còn nghe nữa, vậy mà vẫn nghe, thì cái nghe ở đâu chạy lại? Đây là cái lầm thứ hai.
Có và không là thuộc về tiếng, là thanh trần hoặc có hoặc không, đâu có dính dáng gì với tánh nghe. Tánh nghe vẫn luôn luôn có mặt, chưa từng thiếu vắng. Người mê đồng hóa cái nghe với cái tiếng. Đúng ra, có tiếng chuông nghe có tiếng chuông, không có tiếng chuông nghe không có tiếng chuông, rõ ràng như vậy. Nếu hoàn toàn không nghe thì cả tiếng nói, tiếng chim, tiếng đại chúng ai ho lên cũng đều không nghe, sự thật không phải vậy, chỉ không nghe tiếng chuông, còn những tiếng khác vẫn nghe. Cho nên trong cái nghe, thanh trần tự sanh tự diệt, chúng ta đừng đồng hóa cái nghe với cái tiếng.
Phật kết lại: “Ông không nên nói rời tướng động tịnh, đóng mở, thông bít thì cái nghe không có tánh”. Những cái đó thuộc về trần, còn tánh nghe thì không sanh diệt. Phật đã ngầm chỉ tánh không sanh diệt sẵn trong tánh nghe, do người tự mê, điên đảo nhận lấy cái sanh diệt, quên mất cái không sanh diệt. Nếu giác trở lại là đầy đủ cái nhân không sanh diệt, tức hợp với quả rồi, đâu còn gì nghi!
CHÁNH VĂN:
Như người ngủ say trên giường gối, trong lúc người kia đang ngủ, trong nhà có người giã gạo. Người ấy ở trong chiêm bao nghe tiếng chày giã gạo, lầm cho là tiếng gì khác, hoặc cho là tiếng trống, hoặc là gióng chuông. Tức ngay khi trong mộng, người ấy tự lấy làm lạ: “Sao tiếng chuông lại vang lên như là tiếng cây tiếng đá?”. Khi ấy chợt tỉnh dậy biết là tiếng chày giã gạo thì người ấy tự bảo người trong nhà: “Chính khi tôi chiêm bao lầm tiếng chày này cho là tiếng trống”. A-nan! Người ấy khi ở trong chiêm bao đâu có nhớ những việc động tịnh, mở đóng, thông bít; thân người tuy nằm ngủ nhưng tánh nghe không mờ tối; dẫu cho thân hình ông có tiêu tan, mạng căn có dời đổi diệt mất, làm sao tánh nghe ấy lại vì ông mà tiêu diệt được?
GIẢNG GIẢI:
Phật chỉ rõ tánh không sanh diệt ở sẵn trong đây. Như người nằm ngủ nghe tiếng chày giã gạo, vì khi ngủ không có thức phân biệt nên không phân biệt rõ là tiếng chày giã gạo mà nghe như tiếng trống tiếng chuông. Vậy ngay khi ngủ, tánh nghe cũng không mất, vẫn nghe nhưng không phân biệt rõ vì không có thức chen vào.
Tôi cũng có kinh nghiệm tương tự. Lúc còn ở chùa Bửu Minh, một hôm tôi nằm ngủ trưa, nghe mé bên kia chùa xay đậu nành. Ở quê, xây đậu nành làm đậu hủ, đậu nành còn nguyên hột phải bỏ vào cối xay cho bể thành hai, rồi đãi bỏ vỏ lấy hạt trong ruột, ngâm nước nở ra rồi mới xay vắt lấy nước làm đậu hủ. Vì xay khô nên có tiếng động lớn, tôi ngủ nghe như có tiếng nhạc vang vang, đến khi thức dậy mới biết bên kia đang xay đậu nành. Rõ ràng khi ngủ vẫn có nghe. Đó là tôi kinh nghiệm thực tế đàng hoàng, chứng minh điều Phật đã nói trong kinh.
Như vậy khi ngủ tánh nghe không mất, tuy không nhớ động tịnh, đóng mở, mà vẫn không thiếu. Chúng ta nghiệm kỹ, nghiệm sâu sẽ cảm thông được lời Phật dạy. Từ đó tin chắc rằng, dù thân hình này có tiêu tan, mạng căn có dời đổi diệt mất, nhưng làm sao tánh nghe hoại được mà thành đoạn diệt.
CHÁNH VĂN:
Do các chúng sanh từ vô thủy đến nay theo các thứ sắc thanh dong ruổi với vọng niệm mà lưu chuyển, chưa từng khai ngộ Bản Tánh Thanh Tịnh Diệu Thường; không theo cái thường chỉ theo các thứ sanh diệt, do đó mà đời đời bị tạp nhiễm phải chịu lưu chuyển. Nếu bỏ cái sanh diệt, giữ tánh chân thường, cái sáng suốt chân thường hiện tiền, các thứ tâm niệm căn, trần, thức đồng thời tiêu mất. Tướng của vọng tưởng là trần, tình phân biệt là cấu, cả hai đều xa lìa, thì pháp nhãn của ông liền được trong suốt, làm sao lại không thành bậc Vô thượng tri giác?”.
GIẢNG GIẢI:
Do các chúng sanh từ vô thủy đến nay sống với vọng niệm, đuổi theo các trần nên mới thành lưu chuyển, thành sanh diệt, mà chưa từng khai ngộ được bản tánh thanh tịnh diệu thường. Vì thấy theo chiều sanh diệt nên mới nghi có đoạn diệt. Đó là sống trái với cái chân, theo cái vọng, Phật gọi là đời đời bị tạp nhiễm, phải chịu lưu chuyển.
Nếu ngộ cái sanh diệt, không lầm theo nó nữa, nhận ra tánh chân thường sáng suốt rồi sống trở lại, không còn bị các thứ tâm niệm căn, trần, thức che ngại, gọi là đồng thời tiêu mất. Tiêu mất là như vậy, chớ không phải giống như đốt thành tro.
Như Đức Phật hay các vị Bồ-tát ngộ đạo rồi vẫn còn mắt tai đây chớ đâu có tiêu. Nhưng các Ngài thấy suốt tất cả, không có gì che ngại được. Bởi các Ngài chỉ là một tâm tánh sáng suốt xưa nay, không có cái thứ hai chen vào.
Đức Phật nói rõ: “Các tướng vọng tưởng là trần, tình phân biệt là cấu, cả hai đều xa lìa thì pháp nhãn của ông liền được trong suốt. Như vậy làm sao không thành bậc Vô thượng tri giác?”. Tướng vọng tưởng là trần, tình phân biệt là cấu, hai thứ đó che mờ tánh sáng suốt xưa nay. Sống theo tình phân biệt, đuổi theo tướng vọng tưởng, bị hai thứ đó che ngại, đâu còn nhớ tánh chân thật của mình. Bây giờ không lầm theo nó nữa, hết bị nó che mờ thì pháp nhãn trong suốt, tức chuyển thành tri giác Vô thượng chứ gì. Cái thấy biết sáng suốt chân thật này vượt lên cái sanh diệt, nó rõ biết sáng suốt không còn mê. Vậy là ngay vọng tức chân, chẳng cần tìm cái chân nào khác. Trước cũng là tri giác, nhưng là tri giác chúng sanh, tri giác mê; bây giờ chuyển thành Tri giác vô thượng, tri giác của Phật. Thấy rõ như vậy thì hết nghi ngờ.
Đức Phật khai thị để chúng ta thấy rõ ngay cái sanh diệt có cái không sanh diệt. Ngộ được chỗ này sẽ hết nghi thành đoạn diệt, cho cái nhân khác với quả, mà trái lại rõ biết nhân quả khế hợp nhau.
***
Các bài mới
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 11 CHỈ NGHĨA QUYẾT ĐỊNH - 06/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 10 LẠI BÁC NGHĨA NHÂN DUYÊN TỰ NHIÊN - 28/06/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 09- CHỈ MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NHÂN - 21/06/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký:MỤC 08 - CHỈ DIỆU MINH HỢP VỚI TẠNG TÁNH - 14/06/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 07 CHỈ RÕ VỌNG SANH TIẾP NỐI VÀ CÁC ĐẠI KHÔNG NGĂN NGẠI NHAU - 08/06/2018
Các bài đã đăng
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 06- TÓM THU BỐN KHOA BẢY ĐẠI VỀ NHƯ LAI TẠNG - E. THU BẢY ĐẠI - 27/05/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 06- TÓM THU BỐN KHOA BẢY ĐẠI VỀ NHƯ LAI TẠNG - D. THU MƯỜI TÁM GIỚI - 15/05/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 06- TÓM THU BỐN KHOA BẢY ĐẠI VỀ NHƯ LAI TẠNG - C. THU MƯỜI HAI XỨ - 08/05/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 06- TÓM THU BỐN KHOA BẢY ĐẠI VỀ NHƯ LAI TẠNG - PHẦN B: THU LỤC NHẬP - 30/04/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 06- TÓM THU BỐN KHOA BẢY ĐẠI VỀ NHƯ LAI TẠNG - PHẦN A: THU NĂM ẤM - 24/04/2018
Kinh - Luật - Luận
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 90119
- Online: 26