Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 18 - CHỈ BÀY BỐN LỜI DẠY BẢO RÕ RÀNG VÀ QUYẾT ĐỊNH
25/08/2018 | Lượt xem: 3829
Dịch giả: HT.Thích Phước Hảo
Tác giả: TT.Thích Thông Phương
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan sửa y phục chỉnh tề, ở trong đại chúng chắp tay đảnh lễ, tâm tích tròn sáng vừa mừng vừa tủi. Vì muốn làm lợi ích cho chúng sanh đời vị lai nên cúi đầu bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn đại bi! Nay con đã ngộ được pháp môn thành Phật, nên ở trong ấy tu hành không còn nghi lầm.
Con thường nghe Như Lai dạy như sau: “Tự mình chưa được độ, trước muốn độ người là chỗ phát tâm của các vị Bồ-tát; tự mình giác ngộ viên mãn, mà hay giác ngộ cho người khác là sự ứng thế của Đức Như Lai”. Con tuy chưa được độ, song nguyện độ cho tất cả chúng sanh đời mạt pháp. Bạch Đức Thế Tôn! Các chúng sanh đó cách Phật dần xa, những tà sư nói pháp như cát sông Hằng, muốn nhiếp tâm kia vào Tam-ma-địa thì nên khiến họ dựng lập đạo tràng thế nào để xa lìa các ma sự, đối với tâm Bồ-đề không lui sụt?”.
Khi ấy, Đức Thế Tôn ở trong đại chúng khen ngợi ông A-nan: “Lành thay! Lành thay! Như ông đã hỏi phương pháp kiến lập đạo tràng để cứu độ chúng sanh trầm luân trong đời mạt pháp. Nay ông hãy nghe kỹ, Tôi sẽ vì ông nói”.
Ông A-nan và đại chúng kính vâng nghe lời Phật dạy.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây, Ngài A-nan thưa hỏi việc dựng lập đạo tràng, nhiếp tâm tu chánh định. Ngài nói là vì giúp chúng sanh đời vị lai, là đời mạt pháp tránh không rơi vào ma sự.
Trong đây, “Ngài tâm tích tròn sáng, vừa mừng vừa tủi” là sao? Ngài Hàm Thị giải thích: “Nói “tâm” tức là tâm đã tỏ ngộ. Chữ “tích” tức là dấu vết xác chứng, tâm tỏ ngộ rồi xác chứng”. Ngài xác chứng nhưng vì Ngài vẫn ở trong hàng hữu học chưa chứng đạo, do đó còn phải tu để thật sự sống với đạo được trọn vẹn. Đó cũng là nhắc chúng ta, là người tu nhất là tu thiền, khi tâm tỏ ngộ thấy được rõ ràng đường đi, không còn nghi ngờ; nhưng cũng còn phải tiến tu để sống cho được trọn vẹn chứ không phải ngay đó là xong.
Còn “vừa mừng vừa tủi” là vì lẽ thật đã sẵn có mà từ xưa lại mê lầm rồi quên không nhớ đến nó, cho nên tủi; nhưng mà mừng vì hôm nay được tỏ ngộ thấy được lẽ thật đó. Như vậy, Ngài đã sáng tỏ được tâm tánh xưa nay, không còn nghi ngờ, không còn cầu gì thêm, chỉ còn có bước đi thôi. Tới đây là không còn thối chuyển. Ngài A-nan nghĩ mình được như thế, lại nhớ nghĩ đến chúng sanh. Tâm của Ngài đúng là tâm Bồ-tát, chúng ta không thể nhìn trên hình thức bên ngoài rồi phán đoán theo cái hiểu của mình.
Ngài dẫn lời Phật nói: “Nếu tự mình chưa được độ mà trước muốn độ người đó là tâm của vị Bồ-tát”. Ở đây, do nghĩ nhớ đến chúng sanh nên Ngài mới thưa hỏi cầu Phật chỉ dạy. Bởi vì Ngài được trực tiếp gặp Phật, có nhân duyên hy hữu hơn chúng ta ngày nay. Thứ hai nữa là trực tiếp nghe lời Phật dạy. Được sanh ra trực tiếp gặp Phật, rồi trực tiếp nghe lời Phật dạy, nhờ đối diện trước Phật nên Ngài sẵn có cơ hội thưa hỏi, còn chúng sanh đời sau như chúng ta hiện nay làm sao thưa hỏi Phật! Nghĩ vậy, nên Ngài mới thay chúng ta thưa hỏi. Đúng là tâm Bồ-tát của Ngài suy nghĩ xa về sau. Lòng từ bi của Ngài đáng quý đáng kính! Ngày nay, chúng ta được nghe những lời Phật dạy phải hết sức biết ơn Ngài A-nan. Chính nhờ Ngài thưa hỏi nên Phật mới dạy, nếu không là qua mất cơ hội rồi.
Kế đó, Đức Phật khen ngợi lời thưa hỏi của Ngài A-nan và Đức Phật hứa chỉ dạy.
CHÁNH VĂN:
Phật bảo A-nan: “Ông thường nghe, Tôi ở trong Tỳ-nại-da tuyên nói ba nghĩa quyết định của sự tu hành, đó là nhiếp tâm làm Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ, ấy gọi là ba pháp Vô lậu học.
GIẢNG GIẢI:
Tỳ-nại-da, được giải thích là điều phục. Tức là điều luyện ba nghiệp, chế phục lỗi lầm. Phật nhắc lại trong đó có ba nghĩa quyết định mà Ngài thường dạy là giới, định, tuệ, gọi là ba pháp Vô lậu học. Vô lậu học là ba pháp học giải thoát sanh tử không còn rơi rớt trở lại trong ba cõi. Đó là nghĩa quyết định chắc chắn của chư Phật chỉ dạy.
Đây nói về giới.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Thế nào là thu nhiếp tâm, Ta gọi là Giới?
Nếu các lục đạo chúng sanh trong thế giới, chẳng khởi dâm dục, thì không theo đó mà tiếp nối sanh tử.
GIẢNG GIẢI:
Trước nói về thu nhiếp tâm tu giới thì tâm dâm dục phải trừ sạch. Đây là nghĩa quyết định thứ nhất. Đó là căn bản tu hành ra khỏi sanh tử.
Nghĩa quyết định tức là tánh quyết định chắc chắn như vậy. Bởi vì cả lục đạo chúng sanh tiếp nối trong sanh tử là do khởi tâm dâm dục. Thế nên, muốn nhiếp tâm tu hành ra khỏi sanh tử thì phải dứt tâm dâm dục, đây gọi là pháp Vô lậu học, người quyết ra sanh tử cần phải học. Mà học là để tu, không phải học để phân tích chữ nghĩa thêm kiến thức. Như vậy, học pháp Vô lậu trước là phải dứt tâm dâm dục, điều này rất quan trọng. Phật dạy để chúng ta nắm vững khi tu tập không có sai lầm.
Rồi Phật bảo:
CHÁNH VĂN:
Ông tu Tam-muội vốn để ra khỏi trần lao, tâm dâm dục nếu không trừ bỏ, thì không thể ra khỏi được. Dẫu có được nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền, nếu không đoạn tâm dâm, hẳn rơi vào đường ma, hạng trên làm Ma vương, hạng giữa làm ma dân, hạng dưới làm ma nữ. Các loài ma kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều tự xưng là thành đạo Vô thượng.
GIẢNG GIẢI:
Đây Phật xác định rõ, người tu Tam-muội ra khỏi trần lao sanh tử mà không trừ bỏ tâm dâm dục thì không thể được. Muốn ra khỏi trần lao sanh tử thì phải dứt trừ tâm dâm dục, đó là nghĩa quyết định. Còn tâm dục là còn hạt giống dâm dục, tức còn phải đi trong sanh tử dù khi tu vào được thiền định đi nữa, nhưng thiền định đó không phải là chánh định, sẽ rơi vào trong hạng ma. Cho nên, Phật bảo hạng trên là Ma vương, giữa là ma dân, dưới là ma nữ tức quyến thuộc của ma.
Đó là điều chúng ta phải hết sức sáng suốt, cẩn thận chớ lầm chỗ này. Đây Phật nói những hạng ma này cũng có đồ chúng rồi mỗi mỗi tự xưng thành đạo Vô thượng, nhưng là tự xưng thôi chứ không phải thật, người dễ tin thì dễ bị lầm. Đúng là Phật ân cần nhắc nhở khiến người thật tâm tu hành muốn ra khỏi sanh tử phải nhớ cho kỹ, để không lầm theo đường ma.
CHÁNH VĂN:
Sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp có nhiều bọn ma này thịnh hành trong thế gian gây nhiều việc tham dâm, lại giả làm người thiện tri thức khiến cho chúng sanh rơi vào hầm ái kiến mất con đường Bồ-đề. Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, trước hết “phải đoạn tâm dâm”, ấy là lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh quyết định thứ nhất của các Đức Như Lai, Tiên Phật, Thế Tôn.
Thế nên, A-nan! Nếu người không đoạn tâm dâm mà tu thiền định, cũng như người nấu cát, đá mà muốn thành cơm, dù trải qua nhiều kiếp, chỉ gọi là cát nóng, đá nóng. Vì sao? Vì đó là giống cát, giống đá không phải là bản nhân của cơm vậy.
Ông đem thân dâm cầu diệu quả Phật, dẫu cho có được diệu ngộ cũng chỉ là gốc dâm, cội gốc đã dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ ắt không ra khỏi, quả Niết-bàn của Như Lai do con đường nào mà tu chứng?
GIẢNG GIẢI:
Phật dạy rõ là tu thiền định mà không đoạn tâm dâm là trái với nhân chân chánh. Ngài cũng nhắc kỹ, sau khi Phật diệt độ, trong đời mạt pháp có nhiều bọn ma này thịnh hành trong thế gian, làm việc tham dâm, giả làm thiện tri thức dạy bảo khiến người dễ rơi vào con đường ma, mất con đường Bồ-đề, cần phải tránh.
Chỗ Phật dạy là, người muốn dạy pháp Tam-ma-địa cho người sau phải nhớ kỹ, trước là “phải đoạn tâm dâm”, đó là “lời dạy rõ ràng thanh tịnh quyết định thứ nhất của Phật”. Phật ví dụ, như nấu cát đá mà muốn thành cơm làm sao thành cơm được! Muốn thành cơm là phải nấu gạo. Còn đem cát đá nấu thành cơm là nhân trái với quả, không thể có được!
Cũng vậy, người đem tâm dâm dục mà tu thiền định cầu quả Phật Bồ đề là chuyện không thể được, là nhân quả trái nhau. Do đó “phải đoạn tâm dâm” là nghĩa quyết định vậy. Đó là lời dạy chân thật chắc chắn của Như Lai, mà đây Ngài gọi là của các Đức Như Lai, Tiên Phật, Thế Tôn. Tức là của chư Phật chứ không phải riêng của Phật Thích Ca. Chúng ta phải nhớ kỹ điều này, để ngăn ngừa không cho rơi vào con đường tà.
CHÁNH VĂN:
Hẳn phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống dâm, tánh biết đoạn cũng không còn, thì mới có thể trông mong đến quả Bồ-đề của Phật. Như lời Tôi nói đây gọi là lời của Phật, chẳng như lời đó là lời nói của Ma Ba-tuần.
GIẢNG GIẢI:
Phải quyết định cho thân tâm đoạn hết gốc dâm, đó là con đường ra khỏi sanh tử. Nhớ là cả thân và tâm, không phải chỉ có thân. Quan trọng là tâm. Cả thân tâm đoạn hết gốc dâm là khó rồi, nhưng Phật còn nói là tánh biết đoạn đó cũng phải không luôn. Mới thấy, Phật dạy rất kỹ, sạch tận gốc chứ không dây dưa.
Tức là thân tâm đã đoạn hết rồi nhưng còn cái tánh biết đoạn cũng phải sạch luôn mới giác ngộ Phật tánh rốt ráo chưa từng sanh diệt. Phải giác ngộ đến Phật tánh rốt ráo chưa từng sanh diệt, thoát cả nhơ và sạch thì còn chỗ nào để mà đoạn nữa! Được vậy, mới là sạch hết tánh biết đoạn. Đó là con đường Vô thượng Bồ-đề. Phật xác định rõ, đây là lời chân thật của Phật nói, còn nói khác đi là lời của ma. Người tu hành đúng đắn, tu đúng lời Phật dạy, đâu còn sợ lạc vào đường tà, đường ma nữa.
Đó gọi là nghĩa quyết định thứ nhất.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Lại các chúng sanh sáu đường các thế giới, nếu không tâm sát hại thì chẳng theo dòng sanh tử tiếp nối. Ông tu pháp Tam-muội, muốn ra khỏi trần lao, nếu không từ bỏ tâm giết hại, thì không thể nào ra khỏi trần lao được. Dầu có được nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền, nếu không đoạn tâm giết hại, ắt phải rơi vào thần đạo; người bậc trên thì thành Đại lực quỷ, bậc giữa làm phi hành Dạ-xoa, các quỷ soái v.v..., bậc dưới thì thành địa hành la sát. Các loài quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều tự nói là thành đạo Vô thượng.
GIẢNG GIẢI:
Nghĩa quyết định thứ hai là phải đoạn tâm sát. Nếu không dứt tâm sát hại, dù tu thiền định cũng rơi vào thần đạo, con đường của quỷ thần. Bậc trên làm Đại lực quỷ, quỷ có thế lực lớn; bậc giữa làm phi hành Dạ-xoa, là loài quỷ bay rất nhanh; bậc dưới làm địa hành La-sát, là loài hay ăn thịt. Đều còn nằm trong lục đạo luân hồi. Những loài này cũng có đồ chúng, tự nói thành đạo Vô thượng, nhưng không phải thật. Đức Phật chỉ rõ để chúng ta ngăn ngừa, đừng lầm lẫn.
CHÁNH VĂN:
Sau khi Tôi diệt độ, trong đời mạt pháp các loài quỷ thần đó phần nhiều thịnh hành ở thế gian, tự nói ăn thịt được đạo Bồ-đề. A-nan! Tôi cho các thầy Tỳ-kheo ăn năm thứ thịt thanh tịnh. Thịt đó đều do thần lực của Tôi hóa sanh ra, vốn không có mạng sống. Xứ Bà-la-môn các ông phần nhiều đất đai nóng ướt lại thêm sỏi cát, rau cỏ không sanh được, Tôi dùng thần lực đại bi gia bị. Nhân sức đại từ bi giả gọi là thịt, và các ông cũng nhận được cái vị như thịt. Tại sao, sau khi Đức Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sanh mà gọi là Phật tử?
GIẢNG GIẢI:
Trong thời mạt pháp, người nói ăn thịt được đạo Bồ-đề, đây không phải lời Phật dạy, chớ có lầm lẫn. Bất đắc dĩ Phật mới phương tiện cho ăn thịt, vì xứ Bà-la-môn đất đai khó trồng trọt, không đủ rau cải thực vật để ăn. Thịt mà Phật cho ăn là thần lực của Phật hóa ra, không phải thật là thịt chúng sanh. Và Phật chỉ cho ăn ngũ tịnh nhục, tức năm thứ thịt thanh tịnh. Một là không thấy người ta giết cho mình ăn, hai là không nghe người ta giết con vật cúng cho mình, ba là không nghi người ta giết vật cúng cho mình, bốn là con vật đã chết sẵn, năm là thịt thú ăn còn dư. Như vậy thuở xưa Phật cho ăn thịt chỉ là bất đắc dĩ, khi có điều kiện thuận lợi là Phật ngăn ăn thịt. Như chúng ta ngày nay điều kiện ăn chay rất thuận lợi, nên chúng ta ăn chay là thích hợp.
CHÁNH VĂN:
Các ông phải biết những người ăn thịt ấy, dầu tâm được khai ngộ, giống như chứng Tam-ma-địa, nhưng đều là loài đại La-sát, quả báo hết ắt chìm đắm trong biển khổ sanh tử, không phải là đệ tử của Phật. Những người như thế sát hại ăn nuốt lẫn nhau chưa thôi dứt, thì làm sao lại được ra khỏi ba cõi? Ông dạy người đời tu Tam-ma-địa, kế dạy dứt tâm sát hại chúng sanh. Ấy gọi là lời dạy rành rõ thanh tịnh quyết định thứ hai của các Đức Như Lai, Tiên Phật, Thế Tôn.
GIẢNG GIẢI:
Còn tâm sát hại ăn nuốt là còn đi trong sanh tử, vì còn vay trả. Nhân quả theo nhau, giết hại phải đền nợ, đâu thể được giải thoát. Vì vậy tâm sát phải dứt cho tận gốc. Chúng ta tu hành phải luôn kiểm soát tập khí sát của mình. Tuy chúng ta đã ăn chay nhưng tập khí sát vẫn còn, nên mấy con chim thấy mình nó sợ bay tuốt. Còn chư Phật, Bồ-tát đã dứt sạch tập khí sát, nên chim yêu mến, thích gần. Như câu chuyện con chim bị thợ săn rượt bắn, nó bay tới chỗ bóng của Phật liền cảm thấy an ổn. Chúng ta thì khác, bị ruồi muỗi cắn đau, nổi giận muốn lấy tay đập; hoặc xem ti-vi thấy thợ săn bắn thú, bắn một phát liền trúng, chúng ta vỗ tay khen hay v.v… Đó là tập khí sát trong tâm lộ ra. Rất nhiều và rất vi tế, chúng ta phải cẩn thận ngăn ngừa.
CHÁNH VĂN:
Vậy nên A-nan! Nếu người không dứt hết tâm giết hại mà tu Thiền định, thí như có người tự bịt lỗ tai kín lại rồi la to lên, mà muốn cho người khác không nghe, việc này gọi là muốn giấu thì càng lộ ra vậy.
GIẢNG GIẢI:
Bịt tai kín la to ra muốn cho người ta đừng nghe, đúng là trái ngược, gọi là nhân quả trái ngược nhau. Không dứt tâm sát hại mà tu thiền định cũng vậy. Cho nên muốn cầu chánh quả Vô thượng là không thể được.
CHÁNH VĂN:
Hàng Tỳ-kheo thanh tịnh và các vị Bồ-tát đi trên đường tẽ không đạp cỏ tươi, huống là lấy tay nhổ cỏ, vì lòng đại bi sao lại lấy máu thịt của chúng sanh để cho ăn ngon.
Nếu các hàng Tỳ-kheo không mặc những tơ lụa, nhiễu gấm phương đông và không dùng những giày dép, áo lông cừu, áo len, hay các thứ sữa, phó-mát, đề-hồ cõi này, thì những Tỳ-kheo như thế đối với thế gian thật là giải thoát, đền trả nợ cũ xong không vào trong ba cõi nữa. Vì sao? Vì dùng những bộ phận thân thể của chúng sanh thì đều bị ảnh hưởng của chúng sanh, cũng như con người ăn giống bách cốc trong đất, thì chân không rời khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm đối với thân thể hay bộ phận thân thể của chúng sanh đều không ăn không mặc, những người như thế Tôi mới gọi là thật giải thoát.
Như lời Tôi nói đây gọi là Phật nói, chẳng như lời Tôi nói đây gọi là lời nói của Ma Ba-tuần.
GIẢNG GIẢI:
Hàng Tỳ-kheo thanh tịnh và các vị Bồ-tát đi trên đường tẽ không đạp cỏ tươi, huống là giết hại chúng sanh. Tỳ-kheo không mặc tơ lụa vì tơ lụa phải giết hại những con tằm; không dùng những giày dép, áo lông làm từ thân phần chúng sanh. Ở những xứ lạnh tuy Phật có phương tiện cho, nhưng cũng rất hạn chế. Các vị Tỳ-kheo thanh tịnh, giữ giới trang nghiêm, sẽ không dùng những vật dụng làm từ thân phần chúng sanh, vì có ảnh hưởng đến chúng sanh, nghĩ đến chúng sanh bị giết lấy da làm dép cho mình mang, đâu có vui sướng gì mà ưa thích.
Ngài Hàm Thị dẫn trong kinh Ương Quật Ma La, Bồ-tát Văn-thù bạch Phật: “Như ngọc kha, sáp mật ong, da thuộc, lụa vẽ v.v... không phải có từ trong địa phương này thì có thể dùng không?”.
Phật bảo: “Nếu tập gần gũi vật thế gian thì đó là pháp phương tiện, nếu vật gián tiếp đưa đến, rời khỏi bàn tay giết hại, có thể tạm dùng”.
Ngài Văn-thù thưa: “Hôm nay trong thành này có ông thợ thuộc da làm giày bằng da thú. Hoặc con trâu bị chết, người chủ trâu giao cho nhà hàng thịt lấy da, giao lại cho thợ thuộc da đóng giày, đem giày ấy cúng dường cho người trì giới, thì đây là vật gián tiếp đưa đến, con nên nhận chăng?”.
Phật dạy: “Nên chẳng nhận là đúng pháp Tỳ-kheo, còn nếu nhận thì mất lòng từ bi, song không phải phá giới”.
Nhận tuy không phải phá giới, nhưng mất lòng từ bi, tức Phật không hoàn toàn ngăn, nhưng không nhận thì đúng pháp Tỳ-kheo hơn. Chúng ta đọc đến đây phải hiểu được ý của Phật. Hãy nhớ, sát hại là tạo sự vay trả nhau đời này đời kia, làm sao giải thoát được? Như câu chuyện tiền thân của Quốc sư Ngộ Đạt là Viên Án, vì giết oan Triệu Thố nên suốt mười kiếp Triệu Thố đều đi theo tìm cách báo thù, nhưng vì Viên Án mấy đời đều làm vị cao tăng giữ giới thanh tịnh nên Triệu Thố không có cơ hội. Đến đời này Ngài là Quốc sư được Vua quý kính, ban tòa trầm hương ngồi giảng kinh, Ngài sanh khởi niệm danh lợi nên Triệu Thố mới có cơ hội nhập vào thân Ngài làm thành mụt ghẻ mặt người khiến Ngài đau đớn khổ sở.
Hay như câu chuyện Hòa thượng Hàm Huy ở đời Thanh, Ngài tu hành miên mật, giữ giới kỹ lưỡng. Một hôm đi ngang hàng thịt chó, Ngài bỗng khởi niệm ngon, thế là oan gia liền đến làm thành mụt ghẻ mặt người, hành Ngài đau đớn, không thuốc gì trị hết. Ngài bèn chuyên tâm trì tụng kinh Kim Cang, sám hối tội nghiệp đời trước. Một buổi trưa Ngài đang mơ màng bỗng thấy 18 tên lính không đầu hiện ra bảo: “Thuở xưa, Ngài nguyên là vị tướng thống lãnh một toán quân đóng ở chân núi. Có hai tên lính xuống núi hãm hiếp cô gái nhà lành, người nhà cô thưa với Ngài, Ngài đem chém cả tiểu đội 20 người, 18 người vô tội cũng bị giết”. Những người bị chết oan đó theo đòi nợ Ngài, họ nói: “Do ông tu hành kỹ, siêng năng tụng kinh, chúng ta hoãn lại ba năm sau sẽ đến đòi”. Sau đó, mụt ghẻ không còn hành Ngài suốt ba năm, nhưng sau ba năm đó nó phát trở lại và Ngài qua đời.
Chúng ta thấy nhân quả của tâm sát hại rất đáng sợ. Đại sư Nguyện Vân đời Minh có làm bài kệ khuyên nhắc mọi người:
Thiên bách niên lai oản lý canh
Oán thâm tự hải hận nan bình
Dục tri thế thượng đao binh kiếp
Thả thính đồ môn dạ bán thanh
Dịch:
Trăm ngàn năm đấy trong bát canh!
Oán sâu tợ biển hận khó lành.
Muốn biết chiến tranh sao còn mãi,
Nửa đêm lò thịt đó nghe chăng?
Từ trăm ngàn năm nay ở trong một bát canh thôi, oán sâu như biển, cái hận đó khó mà yên, mà lành được. Muốn biết tại sao trên đời chiến tranh còn hoài không hết, thì hãy nghe nửa đêm tiếng con vật bị giết kêu la thảm thiết từ nhà hàng thịt thì biết.
Hãy nhìn trong một bát canh thôi sẽ cảm được bao nhiêu oán hận chất chứa trong đó sâu như biển, vì con vật bị giết oán hận. Do đó, trên thế giới này, hễ còn nghiệp sát là còn chiến tranh, cho nên muốn biết vì sao có chiến tranh, thì cứ lắng nghe tiếng con vật kêu la bị giết vào nửa đêm nơi nhà hàng thịt thì biết ngay. Ngài làm bài kệ này để nhắc nhở mọi người ngăn ngừa tâm mình, dứt hẳn tâm sát.
Thế nên, Phật dạy nếu tu thiền định mà còn giữ tâm sát thì làm sao giải thoát được?
CHÁNH VĂN:
A-nan! Lại sáu đường chúng sanh trong thế giới, tâm nếu không trộm cắp, thì không theo sanh tử tiếp nối. Ông tu pháp môn Tam-muội cốt ra khỏi trần lao, tâm trộm cắp nếu không diệt trừ thì không thể ra khỏi trần lao. Dẫu có nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền, nếu không dứt bỏ tâm trộm cắp, hẳn phải rơi vào đạo tà, hạng trên làm loài tinh linh, hạng giữa làm loài yêu mị, hạng dưới làm người tà, bị các quỷ mị nhập vào. Các bọn tà kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều tự nói là thành đạo Vô thượng.
GIẢNG GIẢI:
Ở trên là ma đạo, thần đạo, ở đây là tà đạo, tức đường tà. Hạng trên làm loài tinh linh, là những loài tinh dựa vào các loài cây cổ thụ lâu năm; hạng giữa làm loài yêu mị; hạng dưới làm người tà, bị quỷ mị nhập vào. Ngài Hàm Thị dạy: “Từ tâm danh lợi sanh ra cong vạy đều là tâm trộm cắp”. Tâm trộm cắp vi tế như vậy, không phải chỉ lấy đồ người ta mới là trộm cắp, tâm danh lợi sanh ra cong vạy, không ngay thẳng cũng thuộc về trộm cắp. Trộm cắp có nhiều hình thức, chúng ta phải biết để ngăn ngừa nội tâm mình. Như không phải dùng tay lấy đồ người, nhưng có tâm khéo léo nói thế này thế kia để lấy được vật của người, cũng là tâm trộm cắp.
CHÁNH VĂN:
Sau khi Tôi diệt độ, trong đời mạt pháp phần nhiều những hạng yêu mị, tà đạo thịnh hành trong thế gian, chúng ẩn núp dối gian, tự xưng là thiện hữu tri thức, mỗi người đều tự nói đã được pháp thượng nhân, lừa gạt người không biết, dọa dẫm khiến cho mất lòng chánh tín, chúng đi qua đến đâu, nhà người đều bị hao tổn tan nát.
GIẢNG GIẢI:
Trong thời mạt pháp, tà đạo thịnh hành, chúng ẩn núp trong Phật pháp, tự xưng là thiện hữu tri thức, cũng nói được pháp thượng nhân, lừa gạt người nhẹ dạ cả tin, hoặc dọa dẫm cho người sợ, làm họ mất lòng chánh tín. Chúng đi đến đâu là làm cho người nhà tan cửa nát. Thế nên người sáng suốt phải cẩn thận nhận định, chớ có làm theo chúng. Sở dĩ có người theo chúng là do lòng tham xui khiến. Chúng hứa ban cho cái này cái kia, ban cho chứng đạo v.v…, vì tham nên chạy theo rồi bị gạt. Chúng ta tu hành chân chánh thì phải cẩn thận, nhận định kỹ, đừng để bị lừa.
CHÁNH VĂN:
Tôi dạy các vị Tỳ-kheo, theo thứ lớp khất thực, khiến cho xả bỏ lòng tham để thành tựu đạo Bồ-đề. Các vị Tỳ-kheo không tự nấu ăn, gởi cái sống thừa ghé tạm bợ trong ba cõi, thị hiện chỉ đi về một phen, đã đi rồi không trở lại nữa. Tại sao làm kẻ giặc, mượn y phục của ta để mua bán Như Lai, tạo các thứ nghiệp đều nói là Phật pháp; lại còn chê bai các vị Tỳ-kheo đầy đủ giới luật xuất gia là đạo Tiểu thừa. Do đó làm cho vô lượng chúng sanh mắc phải nghi lầm, nên sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián.
GIẢNG GIẢI:
Pháp của Tỳ-kheo là khất thực theo thứ lớp, không chọn lựa nhà giàu nhà nghèo. Làm như vậy để Tỳ-kheo không đòi hỏi món ngon, không chê món dở, xả bỏ lòng tham mà yên tâm tu hành, đâu có để cho tâm trộm xen vào. Các vị Tỳ-kheo không tự nấu ăn, chỉ gởi cái sống thừa ghé tạm trong ba cõi, chỉ thị hiện một lần, đi qua rồi không trở lại nữa.
Tỳ-kheo thời Phật không tự nấu ăn, chỉ đi khất thực. Chúng ta tu ở Việt Nam điều kiện khác với Ấn Độ, Tăng Ni sống ở chùa tự nấu ăn, đó là chúng ta đã dùng pháp phương tiện, nên phải biết dừng lại bớt. Nếu để lòng tham tự do khởi, đòi hỏi ngon dở, chứa chấp riêng tư v.v… Như thế là càng đi xa thêm, tâm tham sanh khởi không dừng. Chúng ta phải luôn nhớ đúng ra làm Tỳ-kheo là phải đi khất thực, khi gặp món ăn không ngon thì nghĩ như mình khất thực, ai cho gì ăn nấy, đừng phân biệt kia đây. Thứ hai là phải luôn nhớ chúng ta chỉ sống ghé tạm trong ba cõi thôi, đi qua không trở lại nữa, tham làm gì cho nhọc. Tâm tham không có thì đâu có sanh tâm trộm.
Phật lại quở: “Tại sao làm kẻ giặc mua bán Như Lai?”. Chúng ta quán trở lại sẽ thấy thật đau lòng. Phật nói: “Mượn y phục của Ta để mua bán Như Lai”. Mặc áo cà-sa của Phật rồi mua bán Phật, tạo các sự nghiệp, sống trái với đạo rồi nói là Phật pháp. Người xuất gia là tu giải thoát, đã cởi được trói rồi, bây giờ vào chùa lại tạo những sự nghiệp thế gian trở lại, đó là mở trói rồi tự cột trở lại, và còn nói đó là Phật pháp, càng đi xa thêm. Lại còn chê bai các Tỳ-kheo giữ giới là đạo Tiểu thừa, cho mình tu cao tu Đại thừa, như vậy là làm nghi lầm người, tránh sao khỏi nhân quả sai lầm phải bị đọa lạc!
Đây Phật răn trách những hạng Tỳ-kheo tự làm việc có lỗi, còn mượn pháp Đại thừa để biện hộ cho mình, chê bai các Tỳ-kheo giữ giới là đạo Tiểu thừa, đó là điều cần phải ngừa tránh.
CHÁNH VĂN:
Sau khi Ta diệt độ, nếu có Tỳ-kheo phát tâm quyết định tu Tam-ma-địa, có thể đối trước hình tượng Đức Như Lai. Chính mình đốt một cây đèn, đốt một lóng tay, hay ở trên thân đốt một liều hương, Tôi nói người ấy những nợ đã vay từ vô thủy một lúc đã trả xong, xá dài thế gian, hằng giải thoát các lậu. Người ấy tuy chưa phát minh được con đường giác ngộ Vô thượng, nhưng đối với Phật pháp đã có tâm quyết định.
Nếu không vì nhân duyên xả thân chút ít này, dẫu thành tựu được pháp vô vi, hẳn cũng phải trở lại sanh làm người để đền trả nợ cũ, như quả báo mã mạch của Tôi, thật không sai khác. Ông dạy người tu pháp Tam-ma-địa, sau nữa phải đoạn tâm trộm cắp. Ấy gọi là lời dạy rành rõ thanh tịnh quyết định thứ ba của các Đức Như Lai, Tiên Phật, Thế Tôn.
GIẢNG GIẢI:
Ý chỉ tu thiền định là phải dám xả thân vì pháp. Vì pháp dám xả thân thì đâu còn có tâm tham để sanh trộm cắp. Đốt một cây đèn, một lóng tay hay ở trên thân đốt một liều hương là để biểu lộ tâm thí xả của mình, thân còn dám đốt, dám xả, thì tham cái gì nữa. Tuy nhiên, xả là xả ở tâm chớ không phải ở thân, đừng nghĩ đốt liều hương là xả được hết nợ. Thật ra, đốt thân mà tâm còn tham là chưa hiểu được ý của Phật. Phải xả tâm tham, tâm tham không còn thì đâu có trộm cắp.
Ngài Hàm Thị giải: “Đốt lóng tay, đốt hương thì nhân duyên xả chút ít thân phần liền trả hết nợ trước, đây là luận về tâm chớ chẳng phải luận về việc làm”. Phải hiểu được ý của Phật, quan trọng là phần tâm, đừng hiểu lầm tưởng đốt một chút thân phần liền trả được hết nợ.
Nếu không vì nhân duyên xả thân chút ít này, dẫu thành tựu được pháp vô vi, hẳn cũng phải trở lại sanh làm người để đền trả nợ cũ. Tức là tâm trộm, tâm tham còn thì vẫn còn trở lại. Phật dẫn câu chuyện quả báo mã mạch, trong kinh Hưng Khởi Hạnh viết: “Ở nước Kỳ Lan có Vua Bà-la-môn tên A-kỳ-đà thỉnh Phật và 500 vị Tỳ-kheo cúng dường ba tháng an cư, Phật nhận lời. Sau đó bị thiên ma làm mê hoặc khiến Vua về cung đam mê ngũ dục, vui chơi với cung nữ, chỉ cúng dường sáu ngày rồi không cúng nữa. Phật và các vị Tỳ-kheo không có thức ăn. Một vị mã sĩ nuôi 500 con ngựa, ngựa thường mỗi ngày ăn hai thăng, ngựa tốt mỗi ngày ăn bốn thăng, ông trích một nửa lúa ngựa cúng dường Phật và chúng Tăng. Vì Phật và chư Tỳ-kheo chia phần ăn của ngựa nên gọi là quả báo mã mạch.
Phật kể thuở quá khứ thời Phật Tỳ Bà Diệp, Ngài là một Bà-la-môn tên Nhân-địa-kỳ-lợi thông suốt bốn bộ Tứ Vi, có 500 đồng tử làm học trò. Một hôm Vua kết hội thỉnh Phật cúng dường, một Tỳ-kheo bị bệnh không đi được, chúng Tăng mới xin phần ăn đem về, khi đi ngang núi của Bà-la-môn này, ông ta nghe mùi thức ăn thơm ngon, khởi tâm đố kỵ, quát lên rằng: “Sa-môn trọc đầu! Ông nên ăn lúa ngựa chớ không nên ăn cơm này”. Các học trò cũng nói theo: “Sư chủ của bọn này cũng nên ăn lúa ngựa”.
Vị Bà-la-môn đó là tiền thân Phật, còn 500 học trò là 500 vị A-la-hán cùng ăn lúa ngựa với Phật, vị Tỳ-kheo bị bệnh là Bồ-tát Di-lặc. Do nhân duyên đó nên trải vô số kiếp phải chịu quả báo khổ. Ngày nay tuy chứng đạo nhưng cũng còn cái duyên dư thừa nên ở ấp Tỳ-niên chịu 90 ngày ăn lúa ngựa”.
Phật nói những điều này để chúng ta biết mà ngăn ngừa tội lỗi, ráng trừ tâm trộm cắp thì tu thiền định mới được rốt ráo, mới được quả chân chánh. Phật kết lại, người tu Tam-ma-địa phải đoạn tâm trộm cắp.
Đây là lời dạy rõ ràng thanh tịnh quyết định thứ ba.
CHÁNH VĂN:
Thế nên, A-nan! Nếu không đoạn tâm trộm cắp mà tu thiền định, thí như có người rót nước vào chén lủng mà muốn nước đầy, dù trải qua nhiều kiếp cũng không đầy được.
GIẢNG GIẢI:
Rót nước vào chén lủng mà muốn cho đầy, làm sao đầy được? Vì nhân quả trái nhau. Cũng vậy, tu thiền định muốn được quả Vô thượng Bồ-đề mà còn tâm trộm cắp là chuyện khó có được.
CHÁNH VĂN:
Nếu các hàng Tỳ-kheo ngoài y bát có dư ra, mảy may không tích trữ. Xin ăn có dư, thì bố thí cho chúng sanh đói, ở chỗ chúng Tăng hội họp đông người chắp tay lễ chúng, có người đánh mắng tưởng đồng như khen ngợi, quyết định rời bỏ cả thân và tâm, coi cả thân, thịt, xương, máu thành sở hữu chung của chúng sanh. Không đem lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai làm chỗ hiểu của mình, khiến cho kẻ sơ học lầm lạc, Phật ấn chứng cho người ấy được Tam-muội chân thật. Như lời Tôi nói đây gọi là lời của Phật nói, nếu không như lời nói đó tức là lời nói của Ma Ba-tuần.
GIẢNG GIẢI:
Các Tỳ-kheo ngoài y bát có dư thì phải cho, chớ không được tích trữ, tích trữ là phạm xả đọa. Xin ăn có dư thì bố thí cho chúng sanh đói để diệt trừ tâm tham chứa. Ở chỗ chúng Tăng nhóm họp thì chắp tay lễ bái, thấp mình tỏ lòng cung kính với chúng để xả bớt cái ngã của mình. Có người đánh mắng tưởng đồng như khen ngợi. Quyết định rời bỏ thân tâm, coi cả thân, thịt, xương, máu của mình thành sở hữu chung của chúng sanh, không còn là của riêng mình. Ý Phật muốn dạy chúng ta ngay cả thân tâm cũng xả bỏ, còn chỗ nào để sanh tâm tham, tâm trộm.
Chúng ta xét lại tâm mình, biết chỗ tu hành của mình có khế hợp hay chưa để tự tỉnh ngộ, tu tập kỹ hơn, không sanh lòng tự mãn. Nhiều khi ở chùa lâu rồi quên, tâm tham trộm sanh khởi lúc nào không hay, nó tế nhị và nhiều hình thức vi tế lắm, chớ không phải đợi tay lấy mới thành trộm. Nên nhớ, tâm tham trộm làm chúng ta mất đi chánh định, dần dần đi xa con đường giác ngộ của mình mà không hay, phải cẩn thận ngăn ngừa.
Phật lại dạy chúng ta cần thấu nghĩa chân thật, đừng chấp vào lời dạy chẳng liễu nghĩa mà làm ngại mình ngại người, đó chỉ là phương tiện Phật tạm dùng đối cơ trong một lúc mà thôi. Vậy nghĩa quyết định thứ ba là phải trừ tâm trộm cắp, thì tu thiền mới được chánh định.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Như chúng sanh sáu đường trong thế giới, tuy thân tâm không sát sanh, trộm cắp, dâm dục, ba hạnh đã tròn, nếu còn mắc phải đại vọng ngữ, thì Tam-ma-đề không được thanh tịnh, thành ma ái kiến, mất giống Như Lai. Nghĩa là chưa được nói đã được, chưa chứng nói đã chứng, hoặc cầu thế gian tôn trọng tột bậc, bảo người ở trước rằng: “Nay tôi đã được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, đạo A-la-hán, thừa Bích-chi Phật, hoặc các vị Bồ-tát trong Thập địa hay trước Thập địa”, trông mong người kia lễ sám, tham sự cúng dường.
Ấy là những kẻ nhất-điên-ca, tự tiêu diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây đa-la. Phật ấn chứng người ấy mất hẳn căn lành, không còn chánh tri kiến, chìm đắm trong ba biển khổ, không thành tựu pháp Tam-muội.
GIẢNG GIẢI:
Đây là một trong bốn tội của giới căn bản. Phật nói: “Vì tham danh lợi mong người lễ bái, cúng dường, chưa được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm v.v… mà nói đã được, đó là những kẻ nhất-điên-ca (tức người ngu si nhất-xiển-đề), tự tiêu diệt giống Phật. Như người lấy dao chặt ngọn cây đa-la”. Cây đa-la là một loại cây ở Ấn Độ, giống cây cau ở nước ta, bị chặt ngọn là chết luôn, chớ không thể nhảy mầm như những giống cây khác. Thế nên, tội đại vọng ngữ rất nặng, người thật tâm tu hành phải biết mà trừ, nếu không sẽ thành ma ái kiến, diệt mất căn lành, chìm trong khổ não.
CHÁNH VĂN:
Tôi bảo các Bồ-tát và A-la-hán, sau khi Tôi diệt độ ứng hiện thân sanh trong đời mạt pháp, hiện các hình tướng khác nhau, để độ những chúng sanh còn trong vòng luân hồi. Hoặc hiện làm Sa-môn, bạch y cư sĩ, vua chúa, quan lại, đồng nam, đồng nữ, như vậy cho đến người dâm nữ, người quả phụ, kẻ gian dối, trộm cắp, người hàng thịt, buôn bán, cùng làm một việc với họ để tán thán Phật thừa, khiến cho thân tâm của họ được vào Tam-ma-địa. Nhưng trọn không nói ta thật là Bồ-tát, A-la-hán, làm tiết lộ mật nhân của Phật, khinh thường nói với người chưa học; chỉ trừ khi lâm chung âm thầm có những lời di chúc. Làm sao người ấy lại còn có lừa gạt chúng sanh để thành tội đại vọng ngữ?
GIẢNG GIẢI:
Phật dạy cho chúng ta biết chỗ thật giả của Bồ-tát, Thánh nhân khi ứng hiện độ sanh. Các Ngài thị hiện đồng sự với chúng sanh để hóa độ họ, hoặc hiện làm Sa-môn, vua chúa, cho đến hiện làm dâm nữ, kẻ gian dối, trộm cắp, người hàng thịt v.v… Các Ngài thị hiện vào những cảnh nghịch, nhưng không tán thán hạnh nghịch, mà khen ngợi chánh pháp khiến họ bỏ nghề, không để họ tham đắm những nghề bất thiện.
Khác với những kẻ vọng ngữ để dối gạt người, chư vị Bồ-tát, Thánh nhân ứng hiện đồng sự mà thường tán thán Phật thừa, khiến những người kia được vào Tam-ma-địa, chuyển hóa nghiệp ác của họ. Hiện làm những việc lỗi lầm để khuyên răn người bỏ, chớ không phải tán thán việc làm đó. Còn những kẻ thông đồng với những người đó, hoặc làm lỗi lầm rồi biện hộ cho mình, như tự xưng là Bồ-tát v.v… là không phải thứ thiệt. Lại các Ngài khi thị hiện không tự xưng mình là Bồ-tát, Thánh nhân, không cần người cung kính. Chỉ trừ khi lâm chung, sắp tịch mới nói những lời di chúc cho người biết. Phật dạy rõ ràng để chúng ta phân biệt kỹ, đừng bị lầm lẫn.
Như hai vị Hàn Sơn, Thập Đắc, là hiện thân của Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền ở chùa Quốc Thanh, nhưng không ai biết. Các Ngài hiện thân sống trong chùa, gàn gàn dở dở, nói lời lạ nhưng rất đạo lý, thường nhân đó cảnh tỉnh chúng Tăng. Sau mỗi thời ăn của chúng Tăng, các Ngài đến chỗ rửa chén, gạn lọc lại những đồ cặn của chúng, đem rửa sạch rồi ăn, nhìn như điên điên gàn gàn. Sau ông Lư Khâu Dận nhân bệnh nặng, nằm mộng được Bồ-tát báo cho biết thuốc điều trị, và bảo muốn báo ân thì đến chùa Quốc Thanh lễ hai Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền đang thị hiện là Hàn Sơn, Thập Đắc. Ông đến chùa hỏi mới hay là hai ông tăng gàn gàn dở dở dưới bếp. Khi ông chắp tay làm lễ thì hai Ngài nắm tay nhau đi tuốt ra khỏi chùa, vào núi mất luôn, không còn trở lại chùa nữa, vì đã bị lộ.
Hay Bồ-tát Di Lặc thị hiện ở Trung Quốc, đương thời không ai biết, chỉ khi tịch Ngài để lại bài kệ “Di Lặc chân Di Lặc v.v…” thì người mới biết.
Hòa thượng Tuyên Hóa có kể câu chuyện về Hòa thượng Đỗ Thuận là Tổ tông Hoa Nghiêm. Ngài thường giảng kinh, thuyết pháp, dạy người tham thiền, niệm Phật v.v… Có một đệ tử xuất gia tu học với Ngài hơn mười năm, vị này luôn luôn để tâm đến những công hạnh, việc làm của thầy để cố tìm hiểu xem thầy mình là ai, có phải là Bồ-tát hay A-la-hán thị hiện không. Tìm hiểu kỹ lưỡng hơn mười năm, cuối cùng chú kết luận thầy mình chỉ là người thường thôi, không có gì khác lạ với người khác, hàng ngày cũng ăn mặc ngủ nghỉ như mọi người, cũng không có thần thông, phóng quang chi hết. Chú bèn đến lễ tạ thầy xin rời đi. Ngài Đỗ Thuận hỏi: “Ý định của chú là đi đâu?”.
Chú đáp: “Con định lên núi Ngũ Đài, con ở với thầy lâu quá mà không phát triển trí tuệ gì được, chắc con cũng thuộc loại ngu đần, cho nên con quyết định đi lễ bái Bồ-tát Văn Thù, hy vọng con sẽ được trí tuệ như Ngài”.
Ngài Đỗ Thuận bảo: “Được rồi! Con muốn đi Ngũ Đài lễ bái cũng được, nhưng thầy có hai phong thư, trên đường đi nhờ con trao giúp, một phong trao cho cô Thanh Lương, một phong trao cho Trư lão mẫu”.
Chú đệ tử đến Ngũ Đài, trước tìm đến địa chỉ nhà cô Thanh Lương, té ra đó là cô gái điếm. Chú đệ tử ngạc nhiên quá không hiểu vì sao thầy mình lại viết thư cho cô gái điếm, tuy thắc mắc nghi ngờ nhưng chú cũng đưa thư. Cô Thanh Lương đọc xong thư, nói: “Tốt! Ổng đi thì ta cũng đi”. Nói xong cô thị tịch ngay tại chỗ ngồi. Chú đệ tử thấy lạ cầm thư lên đọc mới hay cô Thanh Lương là Bồ-tát Quán Thế Âm thị hiện, vì trong thư ghi: “Quán Thế Âm! Tôi đã xong việc ở đây, giờ tôi sẽ đi, Ngài nên đi với tôi”. Chú đệ tử biết ra là Đức Quán Thế Âm thì đã muộn vì Ngài đã thị tịch, không biết hỏi ai.
Chú lại tìm đến chỗ Trư lão mẫu theo địa chỉ lá thư còn lại, đến nơi không thấy ai hết, nhưng khi đi ngang chuồng heo, bỗng có con heo nái già cất tiếng hỏi: “Chú tìm Trư lão mẫu có việc gì?”. Chú ngạc nhiên không biết mình gặp quái vật gì, nhưng cũng nói: “Thầy tôi bảo trao thư cho Trư lão mẫu”. Con heo nái nói: “Tốt lắm! Ta là Trư lão mẫu đây, chú có thể đưa cho ta”. Heo nái đọc thư xong, nói: “Ờ! Việc ông ấy xong thì ta cũng sẽ đi”. Rồi heo nái chết. Chú đệ tử lấy thư xem mới biết là Bồ-tát Phổ Hiền thị hiện.
Đến khi chú lên núi Ngũ Đài thì gặp một Lão Tăng hỏi: “Chú đến đây làm gì?”. Chú đáp: “Tôi đến lễ bái Bồ-tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi cầu mong được trí tuệ giác ngộ”. Lão Tăng bảo: “Chú này! Chú lên đây để lễ bái Bồ-tát Văn Thù, nhưng lễ bái thầy chú còn tốt hơn gấp ngàn lần”. Chú hỏi: “Tại sao?”. Lão Tăng bảo: “Thầy chú là Đức Phật A Di Đà thị hiện nơi cõi nhân gian để giáo hóa chúng sanh, chú là đệ tử Ngài hơn mười năm, sao không nhận ra?”. Chú đệ tử ngạc nhiên, nhìn lại thì vị Lão Tăng đã biến mất. Chú quay về để lễ thầy thì Ngài đã viên tịch mấy ngày trước.
Qua đó chúng ta thấy, chư vị Bồ-tát khi bị lộ rồi là đi, chớ không khoe khoang thế này thế kia, đó mới là thứ thiệt.
Có chỗ ghi câu chuyện này hơi khác một chút: Trước khi Hòa thượng Đỗ Thuận tịch, một đệ tử xin từ giã đi, Ngài hỏi: “Đi đâu?”. Đệ tử thưa: “Con muốn qua núi Ngũ Đài lễ Bồ-tát Văn Thù”. Ngài mỉm cười nói: “Ông muốn đi, ta có một bài kệ có thể giúp ông đi đường sẽ có tin tức”. Ngài bèn nói kệ:
Du tử mạn bôn ba
Đài Sơn lễ đỗ pha.
Văn Thù chỉ giả thị
Hà xứ mích Di Đà?
Nghĩa là:
Du tử chạy lăng xăng
Đài Sơn lễ vách núi
Văn Thù chỉ thế ấy
Chỗ nào tìm Di Đà?
Chú đệ tử nghe nhưng không hiểu ý bài kệ. Đến Ngũ Đài gặp một ông già hỏi: “Chú đi đâu?”. Chú đáp: “Đến lễ Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi”. Ông già bảo: “Văn Thù hôm nay đi vắng, chẳng có ở núi, ông đến đây có gì không, tôi sẽ nhắn lời”. Chú hỏi: “Ngài Văn Thù hôm nay ở đâu?”. Ông già đáp: “Ngài đi giáo hóa chúng sanh ở Trường An”. Chú hỏi: “Là vị nào ở Trường An?”. Ông già đáp: “Hòa thượng Đỗ Thuận chính là Văn Thù”. Chú phát la lên: “A! Hòa thượng Đỗ Thuận là thầy tôi”.
Ngay đó ông già biến mất. Chú đệ tử lật đật quay trở về chùa định gặp thầy lễ rồi hỏi lâu nay sao thầy không nói cho con biết. Nhưng về đến nơi thì thầy đã tịch.
Chúng ta thấy chư vị Bồ-tát, Thánh nhân khi ứng hiện độ sanh không nói mình là Bồ-tát, Thánh nhân, chỉ khi sắp tịch để di chúc lại mới biết. Cho nên ở đây Phật kết lại: “Những bậc như vậy sao có thể lừa gạt chúng sanh để thành tội đại vọng ngữ?”.
CHÁNH VĂN:
Ông dạy người đời tu Tam-ma-địa, sau nữa phải đoạn trừ các đại vọng ngữ. Ấy gọi là lời dạy rành rõ thanh tịnh quyết định thứ tư của các Đức Như Lai, Tiên Phật, Thế Tôn.
GIẢNG GIẢI:
Tu chánh định phải giữ gìn sự chân thật, đừng rơi vào tội đại vọng ngữ. Tội đại vọng ngữ rất nặng, khiến người tu hành không thành tựu được chánh định. Bình thường nói dối là đã bị ảnh hưởng, tâm luôn bất an, sợ người biết v.v... Khi ngồi thiền mà nhớ nghĩ mình phạm tội nói dối thì làm sao định được. Cho nên phải cẩn thận!
CHÁNH VĂN:
Thế nên, A-nan! Nếu người không đoạn trừ lòng đại vọng ngữ, thì cũng như khắc phân người làm thành hình cây chiên-đàn mà muốn cầu được hương thơm, thật không có lý vậy.
GIẢNG GIẢI:
Không đoạn trừ tâm đại vọng ngữ mà muốn thành tựu chánh định là chuyện khó có được. Vì nhân trái với quả. Như khắc phân người mà muốn thành hương chiên-đàn là không thể có, vì nhân quả trái nhau.
CHÁNH VĂN:
Tôi dạy các vị Tỳ-kheo lấy tâm ngay thẳng làm đạo tràng, tất cả mọi hành động trong bốn oai nghi còn không giả dối, làm sao có kẻ tự xưng là đã được pháp thượng nhân! Thí như người dân đen mà tự xưng là Đế Vương, thì tự chuốc lấy tội tru diệt, huống là vị Pháp Vương làm sao lại dám xưng càn! Nhân đã không chân chánh, thì phải chuốc lấy quả cong vạy; thế mà mong cầu quả Bồ-đề của Phật, như người muốn cắn cái rốn của mình, làm sao thành tựu cắn được. Nếu các Tỳ-kheo tâm như dây đờn thẳng, tất cả chân thật mà vào Tam-ma-địa, thì hẳn không có các ma sự, Tôi ấn chứng người ấy thành tựu quả Vô thượng Tri giác của các hàng Bồ-tát.
Như lời Tôi nói đây gọi là lời nói của Phật, chẳng như lời nói đó, tức là lời nói của Ma Ba-tuần.
GIẢNG GIẢI:
Như dân đen tự xưng Đế vương sẽ tự chuốc lấy quả khổ lớn. Người tu hành chân chánh luôn luôn phải giữ gìn tâm mình ngay thẳng chân thật, gọi là chân tâm. Thân tâm ngay thẳng là đạo tràng, thẳng là từ tâm ban đầu cho đến tâm rốt sau, được vậy bảo đảm con đường tu hành của mình sẽ đến nơi. Nghĩa là ban đầu có tâm như thế nào thì giữ vững cho đến rốt sau, khoảng giữa không cong queo, không quanh co. Ai ban đầu phát tâm tu cũng tốt, bỏ tất cả sự nghiệp thế gian để tu hành, cầu đi theo con đường xuất thế, con đường giải thoát. Điều đó rất quý báu. Nhưng do không khéo giữ gìn, khoảng giữa bị những tập khí thế gian cũ lôi kéo trở lại thành cong queo. Thế nên phải hết sức cẩn thận!
Lại, tâm thẳng như dây đờn, bốn oai nghi cũng không dối trá, đi đứng nằm ngồi luôn luôn giữ gìn đàng hoàng chân thật không dối, không làm dáng, làm bộ, nhìn giống như tu nhưng không phải tu. Tâm ngay thẳng chân thật như vậy thì bảo đảm không lạc đường tà, các ma không chen vào được. Chúng ta tu mà có ma sự là do có tâm tà, khởi tâm tà, tà mới chen vào được. Như Ngài Ngộ Đạt v.v…, lỡ có chút động niệm là ma chướng chen vào liền. Thế nên phải hết sức giữ gìn tâm mình!
Phật dạy: “Người tu được vậy thì Phật ấn chứng cho người đó sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Tri giác của Bồ-tát. Nói những lời như đây là Phật nói, nói khác đi là Ma nói”.
Trên đây là bốn lời dạy thanh tịnh quyết định sáng suốt. Tỳ-kheo tu hành muốn dựng lập đạo tràng, nhiếp tâm tu thiền định, phải lấy đó làm nghĩa quyết định, gìn giữ không trái, không để ma sự chen vào làm chướng ngại. Bốn giới này là bốn giới căn bản, cũng gọi là tánh giới. Giữ được tánh giới thì tâm chánh, tâm chánh tức quả chánh.
Đây không phải chỉ giữ bên ngoài mà phải trừ tận vào trong tâm. Phật từng bảo: “Dâm tâm bất trừ, trần bất khả xuất”, còn một chút niệm dâm dục là chưa giải thoát được. Cũng vậy, còn một chút niệm sát, niệm trộm, niệm đại vọng ngữ thì cũng không thành tựu được, cho nên phải trừ tận gốc. Chúng ta phải nhớ rõ, giữ kỹ trên đường tu hành của mình, tránh không rơi vào đường tà làm uổng công phu tu tập thì rất đáng tiếc.
Lời Phật dạy có lý có sự đầy đủ. Trước Phật khai thị tánh thấy, tánh nghe để chúng ta ngộ được chân tâm thường trụ không sanh diệt, đó là lý thật. Ngộ được chân tâm thường trụ sẵn có nơi mình, vốn là thanh tịnh, nhưng như thế không có nghĩa là không cần phải tu. Phật lại dạy giữ giới đàng hoàng, tức dạy phương pháp nhiếp tâm tu hành, chuyển hóa những tập khí mê lầm, tập khí sanh tử. Nhờ vậy, người sơ tâm nắm vững, tu hành kỹ, không bị lầm lạc. Nếu không khéo, chỉ khen ngợi lý Tối thượng thừa, cho rằng không cần giữ giới tu hành, nghĩ mình tu Tối thượng thừa rồi coi thường, vỗ ngực xưng ta, sống tội lỗi lúc nào không hay, tạo nhân đọa đường dữ cũng không biết. Do đó, chúng ta phải học cho kỹ, tu cho đàng hoàng, có căn bản vững vàng mới được.
***
Các bài mới
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 17 - CHỈ CHÍNH CHỖ VIÊN TU - 14/08/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 16 GẠN HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ CHỖ VIÊN THÔNG - 06/08/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 15 CHỈ MỞ GÚT TRƯỚC SAU - 30/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 14 - CỘT KHĂN ĐỂ CHỈ ĐẦU GÚT - 19/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 13 NÊU RA CĂN ĐỂ CHỈ CHỖ MÊ - 16/07/2018
Các bài đã đăng
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 12 - ĐÁNH CHUÔNG NGHIỆM TÁNH THƯỜNG - 12/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 11 CHỈ NGHĨA QUYẾT ĐỊNH - 06/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 10 LẠI BÁC NGHĨA NHÂN DUYÊN TỰ NHIÊN - 28/06/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 09- CHỈ MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NHÂN - 21/06/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký:MỤC 08 - CHỈ DIỆU MINH HỢP VỚI TẠNG TÁNH - 14/06/2018
Kinh - Luật - Luận
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 04757
- Online: 52