Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 26 - PHÂN BIỆT CÁC ẤM MA

14/10/2018 | Lượt xem: 3657

Dịch giả: HT.Thích Phước Hảo

Tác giả: TT.Thích Thông Phương

CHÁNH VĂN:

Khi bấy giờ gần chấm dứt thời thuyết pháp, từ nơi tòa sư tử, Đức Như Lai vịn ghế thất bảo, chuyển thân sắp rời tòa, rồi lại dựa nơi ghế, bảo khắp đại chúng và ông A-nan rằng:

GIẢNG GIẢI:

Phật thuyết pháp sắp xong, Ngài từ tòa sư tử vịn ghế thất bảo rồi chuyển thân sắp rời tòa. Nguyên văn “Tử Kim Sơn”, là chỉ cho thân Phật. Rồi dựa ghế bảo khắp đại chúng về những ma sự để biết mà ngăn ngừa, khiến không bị chướng ngại con đường Bồ-đề.

Những ma sự rất vi tế, là chỗ chúng sanh khó biết, khó nhận. Do đó, tuy không ai hỏi mà Phật tự nói. Đây gọi là vô vấn tự thuyết. Qua đó, chúng ta đủ thấy lòng từ vô biên của Đức Phật, thấy việc nào cần là nói cho chúng sanh biết mà tu tập để ngăn ngừa mê lầm, khiến trở về với ánh sáng giác ngộ chân thật.

 

CHÁNH VĂN:

“Các ông là hàng Thanh Văn, Duyên Giác hữu học hôm nay hồi tâm hướng về Vô thượng Diệu Giác Đại Bồ-đề, và tôi cũng đã chỉ dạy pháp tu chân chánh, nhưng ông còn chưa biết những ma sự nhỏ nhiệm trong lúc tu chỉ, tu quán. Nếu cảnh ma hiện ra, ông không biết được, thì sẽ tu tâm không đúng, và lạc vào tà kiến; hoặc là ma ngũ ấm của ông, hoặc bị Thiên ma, hoặc mắc quỷ thần, hoặc gặp loài ly mị, mà trong tâm không rõ, nhận giặc làm con.

GIẢNG GIẢI:

Trong lúc tu hành cũng có những ma sự vi tế, nếu không biết ngăn ngừa lầm tham đắm mắc kẹt trong đó là bị gạt. Bởi vì khi tu chỉ quán có chuyển biến nội tâm và chuyển biến sanh lý, nên cũng có những cảnh tượng lạ hiện ra, người không biết chấp vào thành ra ma sự. Chữ “ma” vừa chỉ cho ma quỷ, cũng vừa chỉ cho những việc làm chướng ngại con đường Bồ-đề, làm hại đến tuệ mạng của người tu nên gọi là ma sự.

Người dùng tâm chân chánh tu hành thì ma không có chỗ thuận tiện vào. Trái lại, do dụng tâm không đúng chánh pháp nên mới có kẽ hở cho ma thuận tiện phá hại. Nói cho rõ hơn, do có tâm tà thì tà mới vào. Cũng vậy, người tu hành mà có tâm tà, khởi vọng tưởng lung tung thì ma thấy tâm nên mới vào được. Như tu mà muốn có thần thông, muốn mau đắc đạo v.v... Ở đây, Phật chỉ cho người tu biết rõ những ma sự để ngăn ngừa không khởi những tà niệm rồi theo những cảnh ma lạc mất con đường Bồ-đề, đó thật đáng tiếc!

Bởi có những ma sự rất là nhỏ nhiệm, rất là khó biết. Những cái thô còn dễ thấy, dễ biết, đến những việc vi tế như chấp trước cảnh giới của thiền định; hoặc là Thiên ma khéo léo hiện ra tướng này tướng kia mà không biết cũng lầm theo nó. Nên đây Phật dạy kỹ cho biết để tránh. Như có câu: “Nếu không khéo thì nhận giặc làm con”. Cần phải hết sức cẩn thận!

 

CHÁNH VĂN:

Lại nữa, trong đó được chút ít cho là đã đủ, như Tỳ-kheo Vô Văn chứng Đệ tứ thiền dốt nát nói là chứng Thánh, khi phước báo cõi trời hết, tướng suy hiện ra, liền phỉ báng quả A-la-hán, còn phải thọ sanh đọa vào ngục A-tỳ. Nay các ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì các ông phân biệt chín chắn”.

Ông A-nan đứng dậy cùng những hàng hữu học trong hội, vui mừng đảnh lễ kính vâng nghe lời từ bi chỉ dạy của Phật.

GIẢNG GIẢI:

Đây Phật nhắc người tu hành phải cẩn thận chớ được chút ít cho là đủ, điều này là việc thường mắc kẹt. Tức là cố chấp vào cái thấy của mình, điều này rất nguy hiểm. Phật mới dẫn chuyện của Tỳ-kheo Vô Văn tu chứng Tứ thiền.

Vô Văn có nghĩa là dốt nát về trí tuệ chân chánh, chớ không phải hoàn toàn dốt nát không biết gì. Vì Vô Văn nên không chịu học hỏi cho kỹ, khi chứng Tứ thiền thì tưởng rằng mình chứng A-la-hán. Nghĩ mình chứng A-la-hán nên đâu còn nghe ai nói nữa. Khi ấy, Tỳ-kheo Vô Văn lúc sắp mạng chung, tướng trung ấm của cõi Tứ thiền hiện ra, ông mới nghĩ rằng: “Phật nói dối! Người chứng A-la-hán không còn sanh tử, tại sao tôi chứng A-la-hán mà còn sanh tử?”, nên khởi tâm phỉ báng: “Không có Niết-bàn, không có quả A-la-hán v.v...”, rốt cuộc phải đọa vào địa ngục. Đây Phật gọi là thiếu trí tuệ chân chánh.

Chúng ta học rồi lấy đây làm tấm gương soi lại mình để ngăn ngừa cái thấy tự mãn được chút ít cho là đủ, rất là nguy hiểm. Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện:

    Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,

    Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Nguyện học hết những pháp môn vô lượng, không phải là học chút ít cho đủ. Phật đạo chưa thành còn phải tu cho thành Phật, chứ không phải chưa gì thấy đủ. Gọi là chấp vào một chút thấy biết rồi tưởng đâu mình hiểu hết, hoặc hiểu cao lại sanh khinh mạn người khác rồi lại tạo nghiệp, thành cái nhân sa đọa không hay biết.

Đó cũng là do bản ngã mê hoặc, nên người tu phải hết sức cẩn thận, đừng để bản ngã vi tế mê hoặc. Người vượt qua được là giải thoát, chắc chắn. Còn bị nó mê hoặc thì rớt trở lại trong sanh tử luân hồi nằm trong vòng vây của nó. Sở dĩ bị cái bản ngã mê hoặc là vì thiếu trí tuệ chân thật sáng suốt, cho nên trên đường tu hành, trí tuệ rất quan trọng. Định mà không có tuệ là dễ bị nó gạt đi lạc vào đường tẽ. Đây Phật mới chỉ ra để ngăn ngừa.

 

CHÁNH VĂN:

Phật bảo ông A-nan và cả đại chúng: “Các ông nên biết, mười hai loại chúng sanh trong thế giới hữu lậu, tâm thể giác viên bản giác diệu minh, cùng thập phương Phật không hai không khác, do ông vọng tưởng mê chân lý thành ra lỗi lầm, si ái phát sanh, sanh mê cùng khắp nên có hư không; hóa mãi cái mê không thôi nên có thế giới sanh ra; các cõi nước như số vi trần trong mười phương trừ cõi vô lậu đều do vọng tưởng mê lầm mà kiến lập.

GIẢNG GIẢI:

Phật dạy bao nhiêu cõi nước như vi trần đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập.

Tóm lại, ở đây Phật khai thị cho tất cả thấy rõ, chúng sanh trong mười hai loại đều vốn ở trong thể-chân-thật-không-hai cùng với Phật không khác. Do mê vọng khởi ra các thứ sai biệt thành có kia đây, rồi có hư không cõi nước vọng sanh, theo đó mà quên mất tâm thể bản giác sáng suốt diệu minh, đành sống mãi trong mê. Nếu ngay đó khéo giác ngộ trở lại thì rõ được cái thể-không-hai này. Như vậy, chúng ta vốn có đủ cái thể-không-hai cùng với Phật không khác, rất là quý báu mà không nhận ra lại đi nhận cái ngã hư dối này, rồi bị nó gạt. Muốn trở về cái thể-không-hai đó thì nó sợ mất phần cho nên nó tìm đủ cách để mê hoặc trở lại, vì giác ngộ rồi thì nó sống với ai?

Do vậy, trên đường tu hành chúng ta phải hết sức cương quyết nhận rõ, đừng để cái bản ngã mê hoặc mà quyết phải dứt khoát để vượt qua, sống trở về với cái thể-không-hai cùng Phật không khác, đó mới là cái trọng yếu. Gốc cũng là do cái niệm bất giác ban đầu, rồi mê theo nó lâu đời thành ra thói quen mê lầm. Khi tu là chuyển tập khí mê lầm đó thành tập khí vô lậu, giải thoát. Chúng ta được ưu điểm là nhờ có ánh sáng của Phật soi đến, vậy mà không chịu tỉnh trở lại thì không biết sao! Đây là chỗ phải thấy được để biết vươn lên tu tập cho kỹ.

 

CHÁNH VĂN:

Biết hư không sanh trong tâm ông, ví như mảnh mây điểm trong bầu trời xanh, huống nữa các thế giới sanh trong hư không. Một người các ông phát minh chân lý trở về bản tánh, thì mười phương hư không đó thảy đều tiêu mất, làm sao các cõi nước trong hư không kia lại không rúng động và tan nát.

GIẢNG GIẢI:

Phật nói: “Khi người tu giác ngộ thì rõ cả hư không mười phương sanh trong tâm giống như mảnh mây điểm trong bầu trời xanh” chứ chẳng có nghĩa lý gì. Sở dĩ tâm sanh là vì thấy có hư không thật, có thế giới thật v.v..., có chỗ để cho nó sanh; tức là chỗ cho nó duyên.

Phật dạy: “Nếu người phát tâm chân thật trở về nguồn thì mười phương thảy đều tiêu mất”. Hiện tại, chúng ta bám vào những cái không đáng mà quên mất tâm thể thênh thang rộng lớn kia thì có trí tuệ hay không? Chúng ta cần phải quán cho thấu chỗ đó, thấu được chỗ này đâu còn cái gì để mình tham luyến nữa.

Nhiều người cũng còn nghi chỗ này! Như hiện thấy rõ các cảnh đầy dẫy đây mà nói là một người trở về nguồn chân thì nó đều tiêu hết, đúng là chuyện khó hiểu. “Tiêu hết rồi sống ở đâu?”. Người hỏi câu đó rõ ràng lộ ra chỗ mê của mình, sợ mình không có chỗ để sống tức là còn bám vào cái ngã này; sợ cái ngã này không có chỗ sống là hiển thị cái bản ngã mê hoặc nữa, lẩn quẩn mãi bị nó mê hoặc.

Còn đây thấu suốt được bản ngã không thật, thì còn có gì mà lo không chỗ nó sống, không chỗ cho nó sống thì càng tốt. Còn có chỗ cho nó sống là còn nuôi dưỡng nó. Hiểu kỹ thêm chút nữa, nói tiêu mất đây không phải là tiêu mất theo chỗ hiểu của thế gian. Thế gian hiểu tiêu mất là lấy cái này phá cái kia, là phá cái có thành cái không, gọi là tiêu mất. Nghĩa là có-không đối đãi, đây không phải vậy. Phật nói tiêu mất đây là tiêu mất ở trong cái thấy của người giác ngộ, chứ không phải tiêu mất là làm cho nó thành không.

Ngay nơi có mà thấy suốt không chướng ngại, không có cái gì ngăn che cả, thành tiêu mất thôi. Tiêu mất mà không có phá hoại cái gì cả. Như có ông tăng hỏi Thiền sư Quy Tỉnh về cây bách của Triệu Châu, Ngài Quy Tỉnh hỏi:

- Ta cũng không có tiếc gì nói với ông, nhưng mà ông có tin hay không?

Ông tăng thưa:

- Lời nói của Hòa thượng rất là quý trọng, con đâu dám không tin.

Ngài Quy Tỉnh bảo:

- Vậy ông có nghe giọt mưa rơi trước thềm chăng? (khi đó trời đang mưa)

Ông tăng ngay đó hoát nhiên tỏ ngộ liền thốt lên:

- Chao ôi! (tức bất ngờ mà sáng tỏ được)

Thiền sư Quy Tỉnh hỏi:

- Ông thấy đạo lý gì?

Ông tăng làm bài tụng đáp lại:

       Thiềm đầu thủy đích,

       Minh minh lịch lịch.

       Đả phá càn khôn,

       Đương hạ tâm tức.

Tức là:

       Giọt mưa trước thềm,

       Từng giọt rõ ràng,

       Đập nát càn khôn,

       Liền đó tâm dứt.

Qua bài kệ của vị tăng, mới thấy hư không tiêu mất ngay khi ngộ. Đập nát càn khôn, coi như hư không tiêu mất, không còn thấy có trời đất vũ trụ để bám. Ông tăng nói nghe từng giọt mưa rõ ràng mà cả càn khôn đều đập nát hết, như vậy là sao? Tức là cả càn khôn sạch hết không còn có chỗ nào để tâm chen vào sanh được. Cho nên nói ngay đó tâm dứt. Là ngay cái có mà thấy là không, chứ không phá hoại cái có. Thấy được ý đó thì mới thấy được ý sâu của Bát-nhã.

 

CHÁNH VĂN:

Các ông tu thiền trao dồi pháp Tam-ma-địa, tâm được thông suốt ám hợp với các vị Bồ-tát và những vị Vô lậu Đại A-la-hán nơi mười phương, ngay đó vắng lặng, tất cả Ma vương và các quỷ thần, Trời, phàm phu đều thấy cung điện mình không cớ gì đổ vỡ, đất liền rung động, những loài thủy lục bay nhảy thảy đều kinh sợ, hàng phàm phu tối tăm thì không biết có sự dời đổi. Còn các loài kia đều được năm thứ thần thông trừ lậu tận thông, đương luyến tiếc cảnh trần lao, làm sao lại để cho ông phá hoại chỗ ở? Vậy nên các loài quỷ thần, Thiên ma, vọng lượng, yêu tinh, trong lúc ông tu pháp Tam-muội đều đến khuấy phá ông.

GIẢNG GIẢI:

Đây Phật nói người tu hành pháp Tam-ma-địa, ngay đó vắng lặng, tâm được thông suốt, thầm hợp với các vị Bồ-tát và những vị Vô lậu Đại A-la-hán khắp mười phương, cho nên những cung điện của Ma vương liền rúng động, chúng sợ mất, nên đến phá. Những loài này đều có thần thông nên mới cảm được, còn phàm phu thì không biết. Trong kinh kể rõ khi Đức Phật thành đạo, chư Thiên truyền nhau tán thán từ các cõi trời Dục giới, Sắc giới vang động, nhưng chúng sanh ở thế gian đâu có ai nghe biết gì.

Nhưng Phật trước sau đều có dạy kỹ nên chúng ta cũng không phải sợ. Người tu hành chân chánh được định chánh rồi thì nó không làm gì được, chỉ có người tâm tà thì mới sợ. Nếu tu được tâm định rồi ma đến phá cũng không sợ. Tâm định mà! Định chánh thì không có sợ. Nên nói chánh không có sợ tà, chỉ sợ người tu có tâm tà thì mới nguy hiểm! Cho nên, đây Phật mới dạy kỹ để chúng ta ngừa không cho những niệm tà khởi lên trong lúc tu. Phật dạy kỹ thêm.

 

CHÁNH VĂN:

Song các loài ma kia tuy có giận dữ, nhưng bọn chúng ở trong trần lao, các ông lại ở trong Diệu Giác thì cũng như gió thổi ánh sáng, như dao chém nước, hẳn không đụng chạm nhau được. Ông như nước sôi, bọn kia như băng cứng, tạm gần hơi nóng thì không bao lâu sẽ tiêu tan, chúng nó luống ỷ nơi thần lực, nhưng chỉ làm người khách, nếu chúng có thể phá rối được, là do người chủ ngũ ấm trong tâm ông, nếu người chủ mê lầm, thì khách mới được dịp khuấy phá.

GIẢNG GIẢI:

Như vậy, những loài ma kia đều ở trong hư vọng, thuộc về khách. Còn người tu trở về tánh Diệu Giác chân thật bất động là gốc của các thứ kia, những cái kia làm sao động được nó.

Chủ yếu là chủ phải sáng đừng có mê thì khách không làm gì được. Biết nó là ma thì không lầm theo, nó không làm gì được. Còn không biết rồi tưởng đó là chỗ chứng được của mình mà khởi tâm theo, nó mới phá được. Đây là chỗ người tu thiền định cần phải nắm rõ để không lầm.

Xưa Phật tu chứng đạo, Ma đến phá, Phật chỉ ra “Ngươi là cái thây thúi, ta không cần ngươi, hãy đi!”. Chỉ mặt như vậy tức nó biết Phật biết nó rồi, liền đi.

Hoặc đọc trong truyện Thiền sư Hương Hải qua ở đảo Tiêm Bút La, có ma đến phá, Ngài quán tất cả không, mình không, cảnh không, không có chỗ nào để thấy nên ma không có chỗ để vào.

Cũng như câu chuyện Thiền sư Huệ Ngôi tu hành trong núi, có con quỷ hiện đến phá. Lúc mới hiện đến có thân mà không có đầu, Ngài vẫn thản nhiên quở: “Ngươi không có đầu thì tốt! Không có đầu thì khỏi bị bệnh đau đầu, khỏi nhức đầu, vậy sướng quá rồi!”. Ma mới ẩn, sau nó hiện hình có tay chân không có bụng. Thiền sư Huệ Ngôi cũng quở: “Ngươi không có bụng thì khỏi phải lo về ngũ tạng, khỏi phải đau bụng như vậy thì sướng quá!”. Khi nó hiện cái gì thì Ngài cũng tùy chỗ nó hiện mà đuổi đi, không hề lay động. Do vậy, ma cũng không làm gì được.

Cuối cùng, nó lại hiện ra hình cô gái đẹp tự xưng là Thiên nữ trên trời xuống để hầu hạ Ngài. Thiền sư Huệ Ngôi vẫn giữ vững ý chí không hề lay động, bảo nó rằng: “Lòng ta như tro nguội, ngươi đừng có đem cái túi da đó đến thử ta làm gì, thôi đi đi!”. Rốt cuộc, cô gái đó liền cởi mây bay đi và còn tán thán Ngài bằng bài kệ:

       Nước biển cạn được

       Tu-di nghiêng được.

       Bậc Thượng nhân kia

       Kiên trinh vượt bực.

Qua kinh nghiệm tu của các Ngài, chúng ta cũng phải giữ tâm vững vàng chân chánh, lúc nào cũng phải chánh niệm là quan trọng, đừng để tà niệm sanh khởi. Rốt cuộc, ma cũng không ngoài tâm mà riêng có. Phật dạy tiếp.

 

CHÁNH VĂN:

Đương lúc tu thiền, giác ngộ không lầm, thì các ma sự kia không làm gì ông được. Khi năm ấm đã tiêu trừ vào tánh sáng suốt, thì bọn tà ma kia là kẻ tối tăm, sáng phá được tối, đến gần tự phải tiêu mất, làm sao còn dám ở lại khuấy phá thiền định. Nếu chẳng tỏ ngộ bị ngũ ấm làm mê lầm, thì chính ông A-nan ắt phải làm con của ma và thành người ma. Như nàng Ma-đăng-già sức còn hèn kém chỉ dùng chú thuật bắt ông phá luật nghi của Phật, trong tâm muôn hạnh chỉ hủy phạm một giới; nhưng vì tâm ông thanh tịnh nên vẫn chưa bị trầm luân. Bọn ma này thì phá hoại toàn thân bảo giác của ông. Như quan tể thần bỗng nhiên bị tước hết, tịch hết, linh đinh quanh lộn không thể thương cứu.

GIẢNG GIẢI:

Đây Phật dạy những ma sự kia cũng thuộc về khách, thuộc trong bóng tối. Còn người tu vào trong tánh sáng suốt, sáng thì hay phá được tối, tối đâu có phá được sáng, do đó phải giữ tâm chánh niệm, trí tuệ lúc nào cũng sáng suốt thì nó không vào được.

Đây mới nói: “Nếu chẳng tỏ ngộ, bị ngũ ấm làm mê lầm, thì chính ông A-nan ắt phải làm con của ma và thành người ma”. Tức bị ngũ ấm che. Rồi Phật mới dẫn: “Như nàng Ma-đăng-già sức còn hèn kém chỉ dùng chú thuật bắt ông phá luật nghi của Phật, còn những loại ma này nguy hiểm hơn, nó phá hoại khiến không còn giác tâm”, do đó mà phải hết sức cẩn thận!

Phải nhớ câu Phật dạy căn bản là “Giác ngộ không lầm thì các ma sự kia không làm gì ông được”. Nhớ kỹ, giác ngộ không lầm nó, biết nó là ma sự không lầm theo, không khởi tâm vui mừng hay sợ hãi, luôn giữ tâm chánh niệm, sáng suốt biết rõ, không có bóng tối ở trong tâm làm chỗ thuận lợi cho nó vào. Công đức giới định tuệ rất cần giữ vững. Trên đường tu nhất là tu Thiền định, đây là phần quan trọng. Phải học kỹ những điều này để khi gặp những tướng trạng giống vậy, liền biết ngăn ngừa tránh không thành bệnh.

Đây Phật nói về phạm vi của sắc ấm:

 

CHÁNH VĂN:

A-nan nên biết, ông ngồi đạo tràng tiêu hết các niệm, niệm đó nếu hết, thì tâm ly niệm được sáng tỏ tất cả, động tịnh không dời, nhớ quên như một. Đương khi an trụ chỗ đó mà vào Tam-ma-địa, như người sáng mắt ở chỗ rất tối tăm, tánh biết được diệu tịnh, nhưng tâm chưa phát trí sáng suốt, như thế thì gọi là phạm vi của sắc ấm.

GIẢNG GIẢI:

Đây là còn nằm trong phạm vi của sắc ấm, ngồi đạo tràng mà tiêu hết các niệm, niệm hết tâm ly niệm được sáng tỏ tất cả. Tức là nó không chìm theo chỗ niệm hết mà còn có tâm ly niệm được sáng tỏ tất cả. Chỗ đó phải để ý. Vậy là không phải một bề cứ chìm theo chỗ niệm hết.

Động tịnh không dời, nhớ quên như một, là tâm được chuyên nhất, không mất nên nói dù động hay tịnh nó cũng không dời, nhớ hay quên nó cũng giống như một.

Đang khi an trụ chỗ đó mà vào Tam-ma-địa, tức là tâm luôn chuyên nhất, nhớ quên như một, là được dễ an trụ vào Tam-ma-địa. Chuyện vào định, đến đây không còn khó khăn như trước. Nhưng đây giống như người sáng mắt mà ở chỗ tối tăm không thấy được rõ ràng khắp hết. Tánh biết thì được diệu tịnh nhưng tâm chưa phát trí sáng suốt cho nên vẫn còn nằm trong phạm vi của sắc ấm. Là còn bị cảnh ngại, chỉ nghiêng về định, còn thiếu tuệ, nên chưa phát được trí sáng suốt, chưa thể tự biết thấu suốt hết.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu con mắt sáng tỏ, mười phương rộng mở không còn tối tăm nữa, gọi là hết sắc ấm. Người ấy có thể vượt ra khỏi kiếp trược, xét lại nguyên do, thì cội gốc là vọng tưởng kiên cố.

GIẢNG GIẢI:

Nếu mắt được sáng tỏ, mười phương rộng mở không còn tối tăm, là thấy rõ hết mười phương. Đến đây tâm mở, trí sáng, không còn bị cảnh làm ngại là sắc ấm không còn che. Đó là vượt qua sắc ấm, tức vượt qua kiếp trược, là thấu qua sự đan dệt của cái thấy và hư không. Trước là bị cái thấy và hư không đan dệt nhau làm mờ nên còn bị kiếp trược che. Đây thấu qua sự đan dệt của cái thấy và hư không, không còn bị hư không làm mờ, là phá vọng tưởng kiên cố lâu đời chôn kín. Do cái vọng tưởng kiên cố lâu đời chôn kín nên chúng ta mắc kẹt nơi sắc ấm.

Xét cho tột lại sắc ấm, nó chỉ là cái vọng tưởng chấp cứng, lâu dần thành ngăn ngại, chớ không có thật thể gì hết. Nhưng người mê vì không biết lầm ở trong đó thành ra bị nó làm ngại. Là do tâm tưởng mà thành ngại chớ không gì hết. Chỗ mê lầm của chúng sanh là ở đó, thấu tỏ rồi vượt qua lầm mê.

 

1. CÁC TƯỚNG TRẠNG CỦA MA SẮC ẤM

CHÁNH VĂN:

A-nan! Chính ở trong đây xét tánh diệu minh, tứ đại không kết hợp, thì trong một thời gian ngắn thân có thể ra khỏi các ngăn ngại, ấy gọi là tinh minh trào ra tiền cảnh; đó chỉ là do dụng công tạm được như thế, không phải là chứng bậc Thánh; không khởi tâm chứng Thánh gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh; thì liền mắc các tà kiến.

GIẢNG GIẢI:

Khi chuyên tâm xét kỹ về tánh sáng suốt nhiệm mầu, tứ đại không kết hợp. Trong một thời gian ngắn, thân có thể ra khỏi các ngăn ngại, giống như không còn thấy có thân. Đây gọi là cái tinh minh trào ra tiền cảnh, chớ chưa phải thật. Không phải là bản tánh chân thật, chỉ do dụng công tạm được. Nếu biết thì không sao, nhưng không biết chấp cho là mình chứng Thánh, có sở đắc gì đó, là bệnh.

Như vậy bốn đại vốn là không, do cái tưởng chấp mà thành ngại, ở trước gọi là vọng tưởng kiên cố. Giờ đây do một lòng chuyên tâm xét sâu vào tánh diệu minh lâu ngày, không bám vào tứ đại; nhờ công phu chuyên nhất đó, tạm quên tướng ngại của tứ đại hay của thân này, tạm thấy thân mình không còn bị ngăn ngại. Đó là do chỗ dụng công mà tinh minh trào ra tiền cảnh, được một lúc vậy thôi. Thí dụ trong khi chúng ta ngồi thiền, do công phu tu tập tạm thấy, nhưng khi xả là mất. Biết rồi không chấp là tốt, vượt qua thì càng tiến sâu thêm. Còn không biết chấp vào đó cho là mình chứng Thánh, được sở đắc thế này thế kia là rơi vào đường tà. Chỗ quan trọng là biết để không lầm chấp thành sở đắc. Đây nói là ma nhưng mà chưa bị ma ở bên ngoài nhập vào tâm.

Cái thứ hai:

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Lại đem tâm ấy chính xét tánh diệu minh, trong thân trở nên rỗng suốt, người đó bỗng nhiên từ trong thân lượm ra những con giun con sán mà thân vẫn y nguyên không bị tổn thương, ấy gọi là tinh minh trào vào hình thể. Đây chỉ do tu hành tinh tiến tạm thấy được như vậy, không phải là chứng bậc Thánh. Nếu không khởi tâm chứng Thánh gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh, liền mắc các tà kiến.

GIẢNG GIẢI:

Đây cũng thuộc về tướng hiện chưa phải là thật. Trong lúc công phu ngồi thiền, tâm được yên tĩnh, chuyên nhất mới hiện ra tướng thấy suốt ở trong thân, rồi thấy con giun con sán trong thân lượm ra, mà thân thể vẫn y nguyên không bị tổn thương, là do dụng công tạm hiện cũng thuộc về vô thường, một lúc rồi cũng mất, chớ không phải thật. Nhớ! Đây gọi là cái tinh minh trào vào hình thể, tạm thấy vậy thôi; chớ có lầm chấp cho là sở đắc của mình mà thành bệnh; còn biết rõ thì nó cũng là cảnh giới tốt, vượt qua đó rồi sẽ tiến sâu hơn.

Cái thứ ba:

 

CHÁNH VĂN:

Lại do tâm chánh xét trong ngoài, khi ấy hồn phách, ý chí, tinh thần trừ ngoài việc chấp giữ thân, sẽ xen vào nhau đắp đổi làm chủ làm khách. Người ấy bỗng dưng ở giữa hư không nghe tiếng thuyết pháp, hoặc nghe mười phương đồng diễn bày nghĩa thâm mật. Đây gọi là tinh thần đắp đổi khi ly khi hợp thành tựu hạt giống lành tạm được như thế, không phải là chứng bậc Thánh; không khởi tâm chứng Thánh là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh liền mắc vào các tà kiến.

GIẢNG GIẢI:

Đây cũng do tâm tinh xét, tức lâu ngày chuyên tâm tu tập nên hồn phách, ý chí, tinh thần, trừ ngoài cái chấp thọ nơi thân lại đắp đổi làm khách, làm chủ. Là có khi nó làm khách, khi làm chủ đắp đổi với nhau nhưng cũng còn trong cái chấp thọ nơi thân, không ra khỏi thân. Như vậy, bỗng ở giữa hư không nghe tiếng thuyết pháp hoặc là nghe mười phương đồng diễn bày những nghĩa lý sâu xa.

Ở hai phần trước hoặc nó hướng ra ngoài, muốn thoát ra khỏi thân nên gọi tinh minh nó trào ra ngoài, lúc đó thấy giống như mình đi ra ngoài thân, không còn bị cái thân này làm chướng ngại; hoặc soi lại bên trong thông vào trong, thấy ở trong thân rỗng suốt, thấy giun thấy sán. Còn ở đây thì tinh xét cả trong ngoài nên thông cả hai hiện ra tướng lạ. Người không biết tưởng đâu như vậy là đã chứng được gì rồi, tưởng đâu mình được nghe Phật thuyết pháp cũng gần bậc Thánh nên chấp vào đó, thành ra cái ngã sanh rồi thành bệnh không hay.

Cho nên khi công phu phải nhớ, đây là tướng trạng do dụng công chuyên nhất lâu ngày tạm hiện ra vậy thôi, một lúc rồi cũng mất chứ không phải thật, cũng thuộc về tướng vô thường. Đây gọi là tinh thần đắp đổi khi ly khi hợp mà thành tựu hạt giống lành. Tức nó biểu hiện cho thấy là từ trước chúng ta cũng có một chút hạt giống lành. Chẳng hạn như đời trước mình từng nghe giảng nhiều kinh pháp, nên cảm đến hiện lại. Biết được vậy mà không chấp thì tốt, còn chấp vào là thành bệnh. Đó là chỗ chúng ta phải biết trước để không lầm.

Cái thứ tư:

 

CHÁNH VĂN:

Lại dùng tâm ấy đứng lặng hiện ra sáng suốt. Tâm quang phát minh khắp cả mười phương thành sắc Diêm-phù-đàn, tất cả các loài hóa làm Như Lai; khi ấy bỗng thấy Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài thiên quang, ngàn Đức Phật vây quanh, trăm ức cõi nước cùng với hoa sen đồng thời hiện ra. Đây là ý thức được thấm nhiễm bởi sự linh ngộ, do ánh sáng từ trong tâm sáng ra soi các thế giới mà tạm thời được như thế, không phải là chứng bậc Thánh; chẳng khởi tâm cho là chứng Thánh gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là chứng bậc Thánh thì mắc vào tà kiến.

GIẢNG GIẢI:

Khi tu tập thời gian lâu, có công phu tâm được đứng lặng, những vọng niệm cũng tạm yên, không bị quấy rầy nên nó mới hiện ra những cảnh giới gọi là tâm quang phát sáng, thấy khắp mười phương đều hiện thành sắc vàng ròng, rồi thấy tất cả đều hóa thành ra thân Phật, thấy Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài thiên quang, ngàn Đức Phật vây quanh, những hoa sen đồng thời hiện ra khắp nơi. Như vậy tức là nhìn đâu đâu cũng thấy Phật, thấy hoa sen. Đây nếu không biết tưởng là mình chứng Thánh, sẽ thành bệnh.

Đây gọi là do ý thức thấm nhiễm bởi sự linh ngộ, do ngày thường huân tập công phu, học hỏi, nghe kinh nói rằng: “Cảnh giới Hoa Nghiêm hiện khắp nơi, tất cả sắc đều là sắc Phật” nên ảnh hưởng nghĩa lý đó, giờ đây cảm hiện ra. Nếu biết mà không chấp vào đó là tốt, còn nếu khởi tâm cho là mình có chứng đắc là thành bệnh.

Kế, thứ năm:

 

CHÁNH VĂN:

Lại dùng tâm ấy, chính xét tánh diệu minh, quán sát không dừng, đè nén uốn dẹp, dứt trừ thái quá; bấy giờ bỗng nhiên mười phương hư không thành sắc bảy báu, hoặc sắc tăm báu, đồng thời đầy khắp không ngăn ngại lẫn nhau; các sắc, xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi thứ thuần hiện ra. Đây gọi là sức công phu đè nén quá phần nên tạm được như thế, chẳng phải là chứng bậc Thánh; chẳng khởi tâm chứng Thánh thì gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ chứng bậc Thánh, liền mắc vào các tà kiến.

GIẢNG GIẢI:

Tới đây do công phu đè nén, uốn dẹp, dứt trừ thái quá, bỗng nhiên thấy như mười phương hư không thành sắc bảy báu, hiện đầy khắp không ngăn ngại lẫn nhau. Những màu xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi mỗi thứ đều thuần hiện ra, cảnh giới trang nghiêm tốt đẹp, khác hẳn với cảnh giới bình thường. Vì vậy, nếu hành giả không rõ biết dễ chấp là mình chứng đắc, rồi tham đắm, mắc kẹt vào đó không tiến được, thành bệnh. Nếu biết là do dụng công mạnh đè nén thái quá, nó tạm hiện chưa phải là thật, không chấp vào đó thì vượt qua, nhờ vậy càng tiến sâu hơn.

Tiếp, thứ sáu:

 

CHÁNH VĂN:

Lại dùng tâm ấy lặng suốt, chính xét trong sáng không tán loạn, bỗng ở giữa đêm thấy các thứ vật trong nhà tối không khác gì ban ngày, mà những đồ vật trong thất tối đó cũng không diệt mất. Ấy gọi là tâm thầm kín lặng đứng cái thấy nhìn suốt chỗ tối tăm tạm được như thế, không phải chứng bậc Thánh; không khởi tâm chứng Thánh, gọi là cảnh giới lành, nếu nghĩ chứng bậc Thánh thì mắc tà kiến.

GIẢNG GIẢI:

Đây do dụng công chuyên tâm lâu ngày, tâm đứng lặng, vọng tưởng không còn xao động, chi phối. Là tạm thời chứ chưa phải là hết vọng tưởng, do công phu chuyên nhất lâu ngày đó phát sáng nên soi thấu cả ban đêm, thấy hết đồ vật trong phòng tối, nhưng chỉ là tạm được. Thế nên, chúng ta không nên chấp cho là mình chứng Thánh, có sở đắc thế này thế kia rồi thành bệnh.

Kế, thứ bảy:

 

CHÁNH VĂN:

Lại dùng tâm ấy khắp vào tánh hư dung, toàn thân bỗng nhiên đồng như cỏ cây, lửa đốt, dao cắt cũng không hay biết, khi thì lửa không thể đốt cháy, dù cắt thịt cũng như chẻ cây. Đây gọi là tiêu bỏ tướng trần, bài trừ tánh bốn đại, thẳng vào chỗ thuần nhất, tạm được như vậy, không phải chứng bậc Thánh; nếu không khởi tâm chứng Thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh thì mắc vào tà kiến.

GIẢNG GIẢI:

Thứ bảy là do dụng tâm phá bốn đại nên nó hiện vào tánh hư dung, tức là tan vào tánh rỗng không thuần nhất rồi bỗng nhiên thân mất cảm giác. Khi ấy, cảm thấy lửa đốt không cháy, cắt thịt mà giống như chẻ cây không đau đớn gì. Cũng chỉ được một chút trong lúc thiền định vậy thôi, là cảnh giới tạm thời không phải thật. Người không biết, thấy vậy tưởng đâu mình chứng Thánh, được thần thông rồi chấp vào đó thành bệnh. Vì hiện tướng này chỉ tạm có một lúc, khi qua là trở lại bình thường lửa đốt cũng cháy vậy thôi.

Thứ tám:

 

CHÁNH VĂN:

Lại dùng tâm ấy thành tựu tánh thanh tịnh, công dụng tịnh tâm đã cùng tột, bỗng thấy đất liền, núi sông, trong mười phương đều thành cõi Phật, đầy đủ bảy báu sáng suốt đầy khắp; lại thấy hằng sa chư Phật Như Lai đầy khắp cõi hư không, lâu đài hoa lệ. Dưới thấy đến địa ngục, trên xem đến Thiên cung được không ngăn ngại. Đây gọi là tư tưởng ưa chán ngưng lắng ngày một sâu, tưởng lâu mà thành như thế, không phải là chứng bậc Thánh; không khởi tâm chứng Thánh gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh, tức là mắc các tà kiến.

GIẢNG GIẢI:

Đây do dụng công tịnh tâm lâu ngày, bỗng thấy khắp nơi hiện thành cõi Phật, rồi chư Phật hiện khắp nơi, thấy suốt trên đến thiên đường, dưới là địa ngục. Người tu nếu không khéo biết chỗ này thì dễ lầm chấp. Nhìn thấy vậy rồi thích quá, cứ bám vào đó lo nhìn địa ngục, thiên đường nên tâm mãi lo nhìn ra ngoài, mất bản tánh lúc nào không hay. Đây gọi là do tư tưởng ưa thích cảnh trên, chán cảnh dưới lâu ngày ngưng lắng mà thành, không phải là chứng Thánh, chớ có lầm chấp trong đó.

Kế, thứ chín:

 

CHÁNH VĂN:

Lại dùng tâm ấy nghiên cứu sâu xa, bỗng ở giữa đêm thấy rõ chợ búa, làng mạc, bà con quyến thuộc phương xa, hoặc nghe lời họ nói. Đây gọi là do dằn ép tâm cùng tột mà nó phóng hiện ra, nên thấy được cách xa như thế, không phải là chứng bậc Thánh; nếu không khởi tâm chứng Thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh, tức là mắc các tà kiến.

GIẢNG GIẢI:

Do tâm dằn ép lâu ngày cùng tột mà phóng hiện ra bên ngoài, thấy suốt phương xa, tưởng chừng như vượt qua sắc thân vậy. Có những vị tu thiền định cũng cảm như vậy. Trước, có một vị đang ngồi thiền ngay trong Thiền đường đây mà thấy suốt bên Tăng đường. Hoặc ngồi thiền ngó mặt vào vách nhưng bỗng thấy ngược lại phía sau khắp chung quanh, ai ngồi ở đâu biết hết; vị nào đi giám thiền biết hết. Đây cũng là do dụng công quá mạnh cảnh giới tạm hiện, chớ không phải thật, chớ có lầm chấp vào đó mà thành bệnh.

Thứ mười:

 

CHÁNH VĂN:

Lại dùng tâm ấy nghiên cứu cùng tột, thấy hình thể vị thiện tri thức biến đổi, trong giây lát bỗng nhiên thay đổi nhiều thứ. Đây gọi là tâm tà, bị loài ly mị và Thiên ma nhập vào tâm thức, tự nhiên lại biết thuyết pháp, thông suốt các diệu nghĩa, chẳng phải là chứng bậc Thánh; nếu không khởi tâm chứng Thánh thì ma sự tiêu diệt, nếu nghĩ là chứng bậc Thánh, tức là mắc các tà kiến.

GIẢNG GIẢI:

Những trường hợp đã kể ở trước là cảnh giới tự thấy, còn cảnh giới này là bị ma nhập. Bỗng nhiên thấy hình thể những vị thiện tri thức hiện, biến đổi không lường, khi hiện thế này, khi hiện thế khác. Rồi thấy mình biết thuyết pháp thông suốt rất hay, xưa giờ không biết những nghĩa lý như thế sao giờ lại thông hết! Thấy vậy liền biết đây là tướng trạng trong khi dụng công tu tạm hiện, không lầm chấp, không khởi tâm chứng Thánh, ma không nhập vào được thì vượt qua. Ngược lại, tưởng là mình chứng được cái gì rồi nên chấp vào đó, rồi khởi tâm chứng Thánh liền bị ma thấy tâm càng khuấy rối thêm. Đây là bị loài ly mị hoặc là Thiên ma nhập tâm. Phải nhớ kỹ!

Chúng ta cần nhớ, tu thiền là phải rất cẩn thận, không để sanh tâm động niệm! Nhiều vị ngồi tu mà sanh tâm động niệm thế này thế kia, tưởng về ngũ dục thì bị ma ngũ dục xen vào, có khi mong mình chứng được cái này, cái kia hoặc mau chứng ngộ, đều là không tốt. Chính tâm khởi muốn đó, ma thấy được liền xen vào.

Đây Phật kết lại:

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Mười thứ cảnh hiện ra trong thiền định như thế, đều do sắc ấm và tâm công dụng giao xen nhau, nên hiện ra những việc ấy. Chúng sanh mê muội không tự xét lường, gặp nhân duyên này, mê không tự biết cho là chứng bậc Thánh, thành tội đại vọng ngữ, phải đọa vào địa ngục vô gián. Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp, các ông nương theo lời dạy mà tuyên nói nghĩa này, không để cho Thiên ma được dịp khuấy phá, gìn giữ che chở cho chúng sanh thành đạo Vô thượng.

GIẢNG GIẢI:

Phật kết lại khuyên nhắc tất cả, khi dụng công tu thấy mười thứ cảnh hiện ra, tuy không phải y hệt nhưng đại khái giống như trên đã kể phải biết để dè dặt. Đây là cảnh trong lúc thiền định hiện ra chớ không phải thật. Do sắc ấm và tâm dụng công giao xen với nhau nên hiện, mê muội không biết chấp vào là thành bệnh, còn biết không lầm chấp nó thì càng tiến sâu.

Như thế cũng cho thấy rằng sắc ấm vốn không kiên cố. Khi thì thấy sắc tan ra hoặc thấy vượt ra khỏi thân, thấy thấu suốt cả bên trong thân hoặc là ngồi đây mà thấy suốt ra cả phương xa. Như vậy cái sắc này đâu có thật, do cái tưởng của người lâu ngày bám chấp vào đó rồi cho là thật, thành bị nó ngăn ngại.

Ngài Hám Sơn có kể một tướng trạng khi ở trên đỉnh Thiên Tượng Dục của ngọn Bàn Sơn. Ngài gặp vị tăng lạ nơi hang động, cùng tham thiền với vị tăng ấy. Vị tăng này cũng là vị tăng tu hành có chỗ tỏ ngộ nhưng sống ẩn không tiếp khách. Ngài Hám Sơn đến gặp, cả hai không nói chuyện với nhau. Tuy nhiên, qua những cử chỉ hành động lạ, Ngài nghi là vị tăng này có công phu đắc lực nên mới ở lại.

Sáng, vị tăng nấu cơm. Cơm chín, vị tăng tự bới cơm ăn không mời gì hết. Ngài Hám Sơn thấy không mời liền đến lấy bát múc ăn, cũng không cần mời. Liên tục mấy ngày, cùng ra ngoài làm công tác, cùng ngồi thiền chung nhưng không nói chuyện gì với nhau. Bấy giờ, vị tăng thấy Ngài Hám Sơn như thế nghĩ là người khác thường nên hỏi chuyện, mới biết cùng là người có tâm tha thiết tu hành, nên mới mời Ngài ở lại một thời gian.

Một hôm, Ngài Hám Sơn theo vị tăng đó đi thiền hành bên ngoài hang. Đột nhiên, Ngài cảm thấy trong đầu có tiếng như sấm sét nổ vang rồi tự nhiên núi sông, cây cỏ, trời đất, trăng sao v.v... cho đến thân thể của mình đều tan biến trong một trạng thái thật tịch tĩnh kỳ lạ khác thường, xưa giờ không có. Trạng thái kéo dài thời gian khoảng năm cây nhang. Sau đó, dần dần Ngài mới thấy núi sông, đất đá, cảnh vật chung quanh trở lại như cũ. Khi đó, thân tâm Ngài rất là khinh an, nhẹ nhàng, sung sướng khó tả. Ngài mới vào trong hang gặp vị tăng kia. Vị tăng do có kinh nghiệm nên thấy vẻ mặt của Ngài liền biết, hỏi:

- Hôm nay thầy ngộ được cái gì mà vào sớm vậy? Nhưng hãy coi chừng kẻo lạc đường đó!

Ngài Hám Sơn mới thuật lại cảnh giới vừa qua của mình. Vị tăng nghe xong liền nói:

- Đó chỉ là một trạng thái của sắc ấm, chớ không phải là bản tánh chân thật. Tôi trú ở núi này hơn 30 năm, trừ những khi gió mưa, bão tuyết, mỗi tối khi đi kinh hành, tôi đều nhập vào cảnh giới đó. Nếu thầy không đắm chấp vào, nó sẽ không che lấp bản tánh.

Đó là nói qua về sắc ấm ma. Đa số các loại sắc ấm là từ ở trong người hiện cảnh giới, chỉ có sắc ấm thứ mười mới có ngoại ma nhập vào. Đến thọ ấm, ngoại ma nhập nhiều hơn nữa nên phải hết sức cẩn thận.

 

2. CÁC TƯỚNG TRẠNG CỦA MA THỌ ẤM

CHÁNH VĂN:

A-nan! Thiện nam tử kia tu pháp Tam-ma-đề, ở trong Xa-ma-tha (chỉ) khi sắc ấm diệt hết, thấy tâm chư Phật như bóng hiện ra trong gương sáng, hình như có chỗ được mà chưa có thể dùng, cũng như người bị bóng mộc đè, tay chân y nguyên, thấy nghe không lầm, nhưng tâm bị khách tà mà không cử động được; ấy gọi là phạm vi của thọ ấm.

GIẢNG GIẢI:

Khi sắc ấm hết thì vượt qua sắc ngại, mắt như rộng mở thấy khắp mười phương. Xa-ma-tha (sức chỉ) càng sâu thì ở trong đó phát ra thấy tâm chư Phật ở ngay nơi tâm mình, như bóng hiện trong gương sáng, nhưng không dùng được, tức chưa có sức diệu dụng. Thấy thì thấy nhưng không dùng được. Giống như người nằm ngủ bị bóng mộc đè, tay chân vẫn y nguyên nhưng không cử động được. Tức là có mà chưa có sức thọ dụng. Đó là còn trong phạm vi của thọ ấm, bị thọ ấm che.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu bóng mộc đè hết, thì tâm rời khỏi thân, trở lại xem được cái mặt, đi ở tự do, không bị ngăn ngại, gọi là hết thọ ấm. Người ấy mới có thể vượt khỏi kiến trược, xét lại nguyên do thì cội gốc là vọng tưởng hư minh.

GIẢNG GIẢI:

Tâm rời khỏi thân, trở lại xem được cái mặt, không còn bị cảm thọ nơi thân làm ngại, là có sức tự tại với cái thọ. Vậy là vượt qua được thọ ấm, tức vượt khỏi lớp kiến trược. Xét rõ thọ ấm chỉ thuộc về vọng tưởng hư minh. Thọ ấm là những cảm thọ, cảm giác nơi thân, gồm thọ vui, thọ khổ, thọ không khổ không vui, chúng thuộc về vọng tưởng hư minh, tức vọng chấp vào cái rỗng sáng không có thật thể (minh mà hư). Do cái hiểu biết dính vào bốn đại, thấy giống như thân có cảm giác, sự thật thân đâu có cảm giác, khi chết rồi nó nằm cứng đơ đâu có cảm giác gì, vốn chỉ là vọng tưởng hư minh vậy thôi.

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Thiện nam tử kia chính khi ở trong đó, tâm rất sáng suốt, do bên trong đè nén quá phần, bỗng nhiên phát sanh thương xót vô hạn; như thế cho đến xem thấy muỗi mòng như là con đỏ, tâm sanh thương xót, bất giác rơi lệ. Đây gọi là dụng công đè nén thái quá; nhận biết như thế thì không có lỗi, không phải chứng bậc Thánh, hiểu biết không còn lầm lẫn nữa, lâu rồi tự tiêu hết. Nếu nghĩ là chứng ngộ, thì bị giống “ma sầu bi” nhập vào tim gan, thấy người thì thương xót kêu khóc không thôi, mất hết chánh định, sẽ bị trầm luân.

GIẢNG GIẢI:

Tu không khéo bị ma sầu bi nhập vào tâm, thấy ai cũng buồn khóc, làm sao định được? Chỗ này là do có sức định rồi tâm sáng, nhưng do công phu đè nén quá phần phát sanh tâm thương xót vô hạn, nên thường cảm xúc rơi lệ. Nếu chấp cho là sở đắc, nghĩ mình có tâm từ bi lớn là thành bệnh mà không biết, bị ma bi nhập tâm khiến tổn thất chánh định, vì cảm xúc hoài đâu có an định được.

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Lại các thiện nam tử kia khi ở trong định, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, cảnh tốt hiện ra trước, cảm khích quá phần, bỗng nhiên ở trong ấy tâm sanh dũng mãnh vô hạn. Tâm mạnh mẽ chí bằng với chư Phật, bảo là một niệm có thể vượt khỏi ba a-tăng-kỳ kiếp. Đây gọi là dụng công lấn lướt thái quá. Nhận biết thì không có lỗi, không phải chứng bậc Thánh, biết rõ không lầm, lâu sẽ tự tiêu hết. Nếu nghĩ là chứng ngộ thì bị giống “ma ngông cuồng” nhập vào tim gan, thấy người thì khoe khoang, tâm ngã mạn vô kể, cho đến trên không thấy có Phật, dưới không thấy có người, mất hết chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

GIẢNG GIẢI:

Cảnh thứ hai là do công phu lấn lướt thái quá, tâm cảm kích mạnh mẽ, thấy mình đồng với chư Phật, cho rằng một niệm có thể vượt ba a-tăng-kỳ kiếp. Đó là sức phấn khởi tự tin quá mạnh, nghĩ không cần tu hành lâu xa. Khi chúng ta học trên lý thì rõ ràng tất cả chúng sanh đều đồng với chư Phật, nhưng sự thật mình vẫn còn là chúng sanh, chỗ đó chỉ thuộc về kiến giải, chớ tập khí chúng sanh vẫn còn. Do trí tuệ chưa kịp với sức định của mình nên gọi là lấn lướt. Nếu lầm chấp cho là có sở đắc liền bị ma ngông cuồng nhập vào tâm, sanh ngã mạn, thấy mình trên hết, đã giống Phật rồi thì không cần kính Phật nữa, là thành thiền bệnh. Người tu thiền thông thường dễ bị bệnh này. Bởi Thiền nhấn mạnh lòng tự tin, tin tâm mình là Phật, không nương tựa bên ngoài. Chúng ta phải khéo biết để ngăn ngừa.

Có câu chuyện, một ông tăng trong pháp hội của Thiền sư Bạch Ẩn tu một thời gian thấy mình cùng Phật không hai. Ông lấy kinh sách xé làm giấy vệ sinh đi cầu. Huynh đệ thấy nhắc nhở, bảo ông sám hối, ông bào chữa: “Có lỗi gì khi tôi dùng kinh Phật để chùi đít Phật?”.

Cho đít ông là đít Phật, ngông cuồng đến vậy đó.

Thiền sư Bạch Ẩn nghe được, gọi ông đến hỏi: “Nghe nói ông dùng giấy kinh để đi cầu phải không?”. Ông đáp: “Dạ đúng vậy. Bởi tôi chính là Phật rồi, có lỗi gì khi dùng kinh Phật lau đít Phật?”. Thiền sư bảo: “Ông lầm rồi. Đã là đít Phật sao lại lấy giấy cũ đã viết rồi ra lau? Ông phải chùi bằng giấy trắng sạch mới đúng chớ!”. Ông nghe vậy xấu hổ xin sám hối.

Ông bị tự ngã mê hoặc mà không hay, có lỗi không tự thấy, tưởng mình là Phật. Nhờ Ngài Bạch Ẩn khơi dậy cho ông thấy, ông này cũng còn lanh lẹ, biết lỗi xấu hổ sám hối, nếu không là nguy rồi!

 

CHÁNH VĂN:

Lại các thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, tiến tới trước không có chỗ chứng mới, lui về thì mất chỗ cũ, trí lực suy kém, vào trong chỗ hụt hẫng, bặt không nhận thấy gì; trong tâm bỗng nhiên sanh rất khô khao, đối với trong tất cả thời thầm nhớ không thôi, rồi cho như thế là tướng tinh tấn. Đây gọi là tu hành mà không có trí tuệ, nên tự sanh lầm lạc. Nhận biết thì không lỗi, không phải là chứng bậc Thánh, nếu nghĩ là chứng ngộ, thì bị giống “ma nhớ” nhập vào tim gan, ngày đêm như nắm cái tâm treo ở một chỗ, mất hết chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

GIẢNG GIẢI:

Khi sắc ấm hết, nhớ lui về không còn chỗ bám, nhưng thọ ấm chưa hết nên hướng tới trước chưa có chỗ chứng mới vì chưa qua được thọ ấm. Tâm không có chỗ nương gá, sanh tâm thầm nhớ mà không biết nhớ cái gì, tâm lưng chừng, sanh ra cảm giác rất khô khao, khô khát, giống như buồn man mác không biết lý do. Đây là tu hành có sức định mà thiếu trí tuệ cân bằng, bị “ma nhớ” nhập tâm thành bệnh. Thế nên chúng ta tu hành phải cẩn thận.

 

CHÁNH VĂN:

Lại các thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, sức tuệ nhiều hơn định, bị cái lỗi quá mạnh mẽ sắc bén; đem cái thắng tánh ôm nhớ trong tâm, tự nghĩ mình là Lô-xá-na, được chút ít cho là đã đủ. Đấy gọi là dụng công quên mất suy xét thường xuyên nên chìm nơi tri kiến. Nhận biết thì không lỗi, chẳng phải là chứng bậc Thánh. Nếu nghĩ là chứng ngộ, thì có giống “ma hạ liệt dễ thấy là đủ” vào trong tim gan, thấy người thì tự xưng là đã được Vô thượng Đệ Nhất Nghĩa Đế, mất hết chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

GIẢNG GIẢI:

Những cảnh trước là do định nhiều tuệ ít; còn cảnh này là tuệ nhiều định ít. Chưa được gì mà thấy mình là Phật Lô-xá-na trùm khắp, thấy quá chỗ được của mình, rốt cuộc chỉ là kiến giải suông, không có thật nghĩa, tưởng được vậy chớ không phải vậy. Chúng ta phải biết để ngăn ngừa, đừng sanh tâm sở đắc, cho mình chứng Thánh là thành bệnh.

 

CHÁNH VĂN:

Lại các thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, chỗ chứng mới chưa được, còn tâm cũ đã mất, xem qua hai mé tự cho là nguy hiểm, tâm bỗng nhiên sanh ra buồn vô tận, như ngồi trên giường sắt, như uống thuốc độc, tâm không muốn sống, thường cầu người khác hại thân mình để sớm được giải thoát. Đây gọi là tu hành sai mất phương tiện; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc Thánh. Nếu nghĩ là chứng Thánh, thì có một phần giống “ma thường lo rầu” vào trong tim gan, tay cầm dao gươm tự cắt thịt mình, thích được bỏ mạng, hoặc thường lo rầu, chạy vào trong núi rừng, không thích thấy người, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

GIẢNG GIẢI:

Phần này là tu hành thiếu phương tiện, dính vào chỗ được mất, kẹt hai bên, tiến thối không có chỗ y cứ, sanh ra buồn chán, bất an. Thọ ấm đã qua, chỗ chứng mới lại chưa được, xem qua hai mé tự cho là nguy hiểm, không có chỗ bám, sanh tâm buồn vô tận cứ muốn chết cho giải thoát. Hoặc muốn vào sâu trong rừng để không thấy ai. Cho nên tu một thời gian mà muốn vào rừng ở, không thích gặp ai hết là coi chừng bị thọ ấm ma mà không hay. Hoặc tu thấy khổ, chỉ muốn chết để được giải thoát. Giải thoát là tâm mình, tu sạch hết nhân phiền não thì được giải thoát, đâu phải chết thân này là thành giải thoát. Thân chết nhưng nhân phiền não còn cũng sanh trở lại, chớ đâu giải thoát được.

 

CHÁNH VĂN:

Lại các thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, ở trong chỗ vắng vẻ tâm được an ổn, bỗng nhiên sanh ra vui mừng vô hạn. Trong tâm mừng rỡ không thể tự dừng. Đây gọi là tâm khinh an, nhưng không có trí tuệ tự kiềm chế; ngộ thì không lỗi, không phải chứng bậc Thánh. Nếu nghĩ là chứng bậc Thánh thì có một phần giống “ma thích vui mừng” vào trong tim gan, thấy người thì cười, ở bên đường cái tự ca, tự múa, tự xưng đã được vô ngại giải thoát, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

GIẢNG GIẢI:

Đây là bị ma vui mừng. Khi tu được khinh an, nhẹ nhàng rồi sanh tâm vui mừng quá mức thành động niệm, mất tự chủ. Đúng là khi chúng ta tu có những niềm vui dừng không được, nếu không khéo cũng bị ma vui chế ngự. Chúng ta phải biết để tự kiềm chế, không theo nó, vì vui quá cũng loạn tâm. Tâm khinh an mà thiếu trí tuệ tự kiềm chế nên thành bệnh. Nếu sáng suốt tự kiềm chế thì không có lỗi. Có lỗi là do chấp vào đó, đồng hóa với nó, chạy theo nó nên mất định tâm, có khi phát cuồng ở ngoài đường lớn tự ca, tự múa, cho là tự tại vô ngại, đó là thành bệnh.

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, tự cho là đã đủ; bỗng khởi đại ngã mạn. Như thế cho đến lòng mạn và mạn quá mạn, hoặc lòng tăng thượng mạn, ty liệt mạn một lúc đều phát ra; trong tâm khinh cả mười phương Như Lai, huống là những quả vị dưới như Thanh Văn, Duyên Giác. Đấy gọi là thắng giải quá cao, không có trí tuệ tự cứu; ngộ thì không lỗi, không phải chứng bậc Thánh. Nếu nhận là chứng bậc Thánh, thì có một phần giống “ma đại ngã mạn” vào trong tim gan, không lễ chùa tháp, phá hủy kinh tượng, bảo đàn-việt rằng: “Đó là vàng đồng, hoặc là cây đất, kinh là lá cây, hoặc là giấy lụa; thân xác thịt là chân thường mà không tự cung kính, trở lại sùng bái cây đất, thật là điên đảo!”. Những người quá tin theo lời dạy đó rồi phá phách hoặc chôn bỏ trong đất, do gây nghi ngờ lầm lạc cho chúng sanh, phải đọa vào địa ngục vô gián, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

GIẢNG GIẢI:

Đây là bệnh tự mãn, rất nguy hiểm, sanh tâm đại ngã mạn khinh thường tất cả, đến Phật cũng khinh luôn. Như tu thiền, nhất là Thiền tông, khi có được lý giải theo lý rốt ráo là không Phật không chúng sanh. Tuy nhiên, thấy lý giống như đúng, nhưng hiểu thì lệch một bên, cho mình là trên tất cả, trên cả Phật, rồi khinh Phật, khinh Thanh Văn, Duyên Giác, thành ra đại ngã mạn, là bệnh mà không hay. Cho nên chúng ta tu phải hết sức cẩn thận, nhất là tu thiền, thấy được, hiểu được cái lý rốt ráo rồi thích quá, nhưng thắng giải quá cao mà không có trí tuệ tự cứu, chỉ là kiến giải thôi. Chúng ta phải biết bồi dưỡng công đức, tụng kinh sám hối đều đặn, đừng khinh thường mà thành ngã mạn. Tập khí chủng tử ngã mạn vẫn ngủ ngầm trong tàng thức chớ chưa mất, còn chưa chứng Thánh là nó còn đó, nó tiềm ẩn ở đó, lâu lâu sống dậy mà mình không hay. Khi ngã mạn sanh khởi, tự nhiên làm biếng tụng kinh, làm biếng lễ Phật, khinh những người trên, khinh cả những bậc thiện tri thức, thấy mình là trên hết. Chỗ đó là rơi vào địa ngục nhanh như tên bắn. Vì mình chưa tới đâu mà khinh Phật - Thánh, kinh không tụng, Phật không lạy, mà ai nói đụng tới thì chịu không nổi. Rõ ràng là ngã mạn, bị tự ngã mê hoặc không hay. Thế nên chúng ta phải biết để ngăn ngừa.

Lại bảo đàn-việt: “Kinh tượng thuộc vàng đồng, xi măng, cây đất v.v…; thân thịt này mới là chân thường. Cây đất vô tri không biết, thân thịt này mới là thật, sao không cung kính lại cung kính mấy cái kia?”. Người yếu tinh thần nghe nói có lý rồi tin theo, cũng phá bỏ hết kinh tượng, thành ra bị đọa. Những người này bị bảy tâm mạn (thất mạn) sanh lúc nào không hay, đó là: mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ty liệt mạn, tà mạn. Nhưng ở đây không nói đến tà mạn.

Mạn là đối với người kém hơn mình, cho là mình tốt đẹp hơn. Tuy người kia thật sự kém hơn mình, nhưng tâm cho mình hơn người là tâm mạn. Quá mạn là đối với người bằng mình mà ngang ngược cho là mình hơn, đối với người hơn mình lại nói là bằng mình, lúc nào cũng đưa cái ngã của mình lên. Mạn quá mạn là đối với người hơn mình lại nói là mình hơn người ta. Ngã mạn là căn bản trong bảy thứ mạn, thân ngũ uẩn hòa hợp giả tạm nhưng lại chấp trước có ngã, ngã sở, chấp thân ngũ uẩn là ta, dựa vào cái ngã này mà khởi thành mạn, cho rằng tất cả mọi người chẳng bằng mình, chỉ ta là trên hết. Bên ngoài thì chấp ngã sở, phàm cái gì của ta là tốt đẹp hơn hết, là số một, của người khác đều là kém. Đó gọi là ngã mạn. Tăng thượng mạn là chưa chứng được quả vị hoặc chưa có đức thù thắng mà tự cho mình đã chứng. Ty liệt mạn là đối với người quá siêu xuất, mình thua xa, nhưng lại cho là mình chỉ thua chút ít. Hoặc tuy chấp nhận người giỏi hơn mình nhiều, nhưng chấp ngã chẳng chịu thật tâm theo học tập, đó cũng thuộc ty liệt mạn. Tà mạn là không có đức mà tự xưng có đức.

Chúng ta tu phải cẩn thận, luôn tự kiểm lại mình, mỗi khi thấy cái ngã lộ ra phải tỉnh liền, ngăn ngừa không để nó sanh, không nên nuôi dưỡng nó để lâu ngày thành bệnh.

 

CHÁNH VĂN:

Lại các thiện nam tử ở trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, chỗ tinh minh viên ngộ tinh lý, được pháp đại tùy thuận, tâm bỗng sanh khinh an không lường, bảo mình đã thành bậc Thánh được đại tự tại. Đây gọi là nhân trí tuệ mà được các sự trong sáng nhẹ nhàng; ngộ thì không lỗi, không phải là chứng bậc Thánh. Nếu nhận là chứng bậc Thánh, thì có một phần giống “ma thích trong sáng nhẹ nhàng” vào trong tim gan, tự bảo là đầy đủ, lại không cầu tiến lên nữa, những người này phần nhiều là như Tỳ-kheo Vô Văn, gây nghi ngờ lầm lạc cho chúng sanh, đọa vào địa ngục A-tỳ, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

GIẢNG GIẢI:

Khi tâm khinh an nhẹ nhàng quá rồi sanh tâm ưa thích, cho là đã chứng Thánh, được đại tự tại, không cầu gì nữa, cũng là thành bệnh. Trong cái tinh minh viên ngộ được tinh lý phần nào giống pháp đại tùy thuận, nhưng đây cũng do tuệ giải mà thấy vậy, chớ chưa phải thật chứng, nếu chấp vào đó là thành bệnh tự mãn, không tiến lên được. Tâm sanh khinh an nhẹ nhàng cũng thuộc về cảm thọ, tức còn ở trong sanh diệt, nếu không chấp thì dần dần vượt qua rồi tiến lên, vẫn tăng tiến để thành tựu định tuệ đầy đủ, chớ không có dừng lại. Nếu không biết, chấp cho mình có sở đắc, có chứng ngộ là thành bệnh. Đây cũng thuộc về bệnh định nhiều tuệ ít, chưa được gì mà đã tự mãn.

 

CHÁNH VĂN:

Lại các thiện nam tử trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, trong chỗ tỏ ngộ được tánh hư minh, lúc ấy bỗng xoay lại hướng về tánh đoạn diệt, bác không nhân quả, một mực hướng về rỗng không, tâm rỗng không hiện tiền, cho đến phát sanh nhận định là đoạn diệt mãi mãi; ngộ thì không có lỗi, không phải chứng bậc Thánh. Nếu nhận là chứng Thánh, thì có giống “ma rỗng không” vào trong tim gan, bèn chê bai người giữ giới là Tiểu thừa, Bồ-tát ngộ tánh không thì có gì là trì là phạm. Người ấy ở nhà thiện tín đàn-việt uống rượu, ăn thịt, làm nhiều điều dâm uế; nhân có sức ma nhiếp phục người ta không sanh lòng nghi báng, tâm ma thâm nhập lâu ngày, hoặc ăn đại tiện, tiểu tiện và ăn thịt, uống rượu v.v... vì cho tất cả đều không, phá hoại luật nghi của Phật, làm cho người khác lầm lạc mắc tội, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

GIẢNG GIẢI:

Bệnh này nghiêng về tánh đoạn diệt, một mực hướng về chỗ rỗng không, thấy cái gì cũng không, nên chê bai những người giữ giới là tu theo Tiểu thừa, cho mình là tu theo Bồ-tát, tự tại, không có trì không có phạm gì hết. Không biết cái chấp của mình còn nặng hơn người ta, vì chấp mà biết mình chấp còn dễ trị, chấp mà không biết mình chấp mới khó trị. Tại sao? Vì chấp cái không chấp mà thành chấp, cái chấp đó mới nguy hiểm, tưởng không chấp mà thành chấp. Cho mình tự tại, tha hồ ăn thịt, uống rượu, cho cái gì cũng không rồi phá hoại luật nghi của Phật, lầm bệnh mà không hay. Tuy Bồ-tát có hiện nghịch hạnh làm những chuyện trái nghịch, nhưng thường chê trách những việc đó để người không lầm, chớ không khen chuyện đó mà phá hoại luật nghi. Chúng ta phải hiểu kỹ, không khéo lầm thành bệnh, cũng khiến người khác lầm theo, để rồi cuối cùng phải bị đọa lạc.

Bệnh này cũng thuộc lỗi tuệ nhiều định ít, chỉ có tuệ giải suông, thấy suông một bên chớ chưa thật chứng.

 

CHÁNH VĂN:

Lại các thiện nam tử trong định kia, thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm tỏ rõ, nghiền ngẫm cái hư minh, ghi sâu vào tim cốt, trong tâm bỗng sanh yêu thích vô hạn; yêu thích quá độ mà phát điên, bèn làm việc dâm dục. Đây gọi là cảnh trong định an thuận vào tâm, không có trí tuệ tự giữ mình, mê lầm vào trong ngũ dục; ngộ thì không có lỗi, không phải chứng bậc Thánh. Nếu nhận là chứng bậc Thánh, thì có giống “ma tham dục” vào trong tim gan, một bề nói tham dục là đạo Bồ-đề, dạy hàng cư sĩ bình đẳng hành dâm dục, những người hành dâm gọi là giữ gìn pháp tử. Do sức của tà ma nhiếp phục kẻ phàm phu trong đời mạt pháp, số đến cả trăm. Như thế cho đến một trăm, hai trăm, hoặc năm trăm, sáu trăm, nhiều đến ngàn vạn. Khi ma sanh chán, rời bỏ thân thể người kia, oai đức đã hết, liền sa vào lưới pháp luật. Do gây nghi lầm cho chúng sanh, nên vào ngục vô gián, sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm.

GIẢNG GIẢI:

Khi tu ở trong định, tâm phát sanh yêu thích quá mức thành ra cuồng. Yêu thích thuộc về tập khí tham, phát ra quá mức mà do thiếu tuệ nên thành cuồng, nghiêng về việc dâm dục. Do không biết rồi chấp, cho tham dục là đạo Bồ-đề, dạy cư sĩ bình đẳng hành dâm dục, cho đó là giữ gìn pháp tử, truyền giống. Người mê lầm không biết, do có sức ma giúp nên tin theo rồi bị gạt. Trong đời mạt pháp có rất nhiều, từ hàng trăm cho đến ngàn vạn.

Bệnh này cũng thuộc lỗi định nhiều tuệ ít, bị tập khí tham dục ngủ ngầm mê hoặc, thành trái với chánh định. Thế nên người tu định cần phải sáng suốt, chớ lầm chấp cho là mình chứng Thánh, chấp có sở đắc, có chứng ngộ rồi thành bệnh. Còn biết ngăn ngừa thì đó là cảnh giới tốt, có thêm niềm tin để tiến tới.

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Mười thứ cảnh hiện ra trong thiền định như thế, đều do thọ ấm và tâm dụng công giao xen nên hiện ra như vậy. Chúng sanh ngu mê, không biết lượng xét, gặp nhân duyên đó, mê không tự biết, bảo là chứng bậc Thánh, thành tội đại vọng ngữ, phải sa vào địa ngục vô gián. Sau khi tôi diệt độ, các ông nên đem lời nói này truyền dạy trong đời mạt pháp, khiến cho chúng sanh đều tỏ ngộ nghĩa này, không để cho Thiên ma có dịp tiện khuấy phá; giữ gìn che chở cho chúng sanh, khiến thành tựu đạo Vô thượng.

GIẢNG GIẢI:

Đức Phật kết lại mười cảnh hiện ra trong định kể trên là do dụng công mà thành, tâm dụng công giao xen với thọ ấm mà hiện ra, chớ không phải thật chứng. Nó còn nằm trong pháp sanh diệt, hiện ra một lúc rồi sẽ mất. Nếu biết mà không lầm chấp vào đó là tốt, không bị ngăn ngại, còn chấp là thành ngại. Cho nên Phật ân cần dặn dò: “Đời mạt pháp chúng sanh ngu mê không biết chấp vào đó thành bệnh, các ông phải biết, phải đem những lời đó truyền dạy để người tu biết ngăn ngừa, không lầm rơi vào đường ma”.

 

3. CÁC TƯỚNG TRẠNG CỦA MA TƯỞNG ẤM

CHÁNH VĂN:

A-nan! Thiện nam tử kia tu pháp Tam-ma-địa, khi thọ ấm đã hết, tuy chưa sạch mê lầm, nhưng tâm đã rời khỏi hình hài, như chim ra khỏi lồng. Điều ấy đã thành tựu, thì từ thân phàm đó tiến lên trải qua sáu mươi thánh vị Bồ-tát, được ý sanh thân, tùy ý đi ở, không bị ngăn ngại. Thí như có người ngủ say nói mớ, người ấy tuy không hay biết gì, nhưng lời nói kia vẫn có âm vận thứ tự, khiến cho người không ngủ đều hiểu biết, ấy gọi là phạm vi của tưởng ấm.

GIẢNG GIẢI:

Còn thọ ấm là còn kẹt nơi căn, vì do xúc chạm với các căn trên thân mới có thọ: thọ ở mắt, ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân. Cho nên nó còn kẹt nơi căn, còn bám vào hình thể. Nay thọ ấm hết, giống như chim ra khỏi lồng, tức tâm rời khỏi hình hài, thoát được cái ngại của thân hình, nên cảm nghiệm được cái thể lìa căn. Tuy vậy vẫn chưa hết mê lầm vì còn tưởng ấm, chưa được lậu tận. Có thể từ thân phàm mà tiến lên, trải qua sáu mươi Thánh vị Bồ-tát, được ý sanh thân, tức tùy ý hiện thân không ngại, nhưng vẫn chưa thật chứng, vì còn bị tưởng ấm che. Như người ngủ say nói mớ, lời nói có âm vận rõ ràng khiến người thức hiểu được người nói gì, nhưng người ngủ thì không hay biết.

Ngài Trường Thủy có giải thích chỗ này: “Người chưa phá được tưởng ấm nên như người ngủ say nói mớ. Có phần thành Thánh vị, nên như âm vận thứ lớp rõ ràng khiến người chẳng ngủ đều rõ biết lời ấy, là như người chứng Thánh thì biết người kia có phần Thánh vị. Như kinh Bát Nhã nói: “Như Lai thảy biết, thảy thấy người ấy đều được thành tựu A-nậu-bồ-đề”.” Vậy người đó còn bị tưởng ấm che, chưa phải được hoàn toàn tự tại.

CHÁNH VĂN:

Nếu hết động niệm, tư tưởng hư vọng thô phù tiêu trừ, thì nơi Tâm Giác Minh như bỏ bụi nhơ, một dòng sanh tử đầu đuôi soi khắp, gọi là hết tưởng ấm. Người ấy mới có thể vượt khỏi phiền não trược, xét lại nguyên do, cội gốc là vọng tưởng dung thông.

GIẢNG GIẢI:

Vì tưởng thuộc về niệm nhớ nghĩ những cảnh giới quá khứ, hiện tại, vị lai. Nó duyên theo cảnh nghĩ nhớ nên quên mất tâm giác minh hiện tiền, như gương sáng bị bụi nhơ che. Bây giờ tướng tưởng ấm hết, những niệm tưởng thô phù tiêu trừ, tâm giác minh được sáng, như gương sáng bỏ bụi nhơ thì được sáng trở lại, soi khắp một dòng sanh tử trước sau. Đây là qua tưởng ấm nhưng hành ấm còn, nên thấy một dòng sanh tử. Tuy sanh tử chưa hết, mà thấy rõ sanh tử không bị mê hoặc, vượt qua khỏi phiền não trược. Do tưởng mà có phiền não, nay tưởng hết, phiền não không chỗ bám, gọi là vượt phiền não trược. Tưởng ấm, gốc là vọng tưởng dung thông tức dung thông tâm với cảnh, tưởng gạt tâm, dẫn tâm duyên theo cảnh. Ví dụ ngồi đây mà tưởng kia, gạt tâm chạy ra kia để duyên cảnh. Như vậy tưởng là hư vọng, không có thật thể, giác ngộ thì nó hết. Dưới đây là những cảnh giới của tưởng ấm, gọi là tưởng ấm ma.

Thứ nhất là tham cầu thiện xảo:

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Thiện nam tử kia thọ ấm đã hư diệu không còn mắc các thứ tà lự, viên định phát minh; trong Tam-ma-địa, tâm lại ưa được viên minh, thúc dục tư tưởng tham cầu những việc thiện xảo. Khi ấy Thiên ma được dịp thuận tiện cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp, người ấy thật không biết là bị ma gá vào, tự nói là được Niết-bàn Vô thượng; đến chỗ người thiện nam cầu thiện xảo kia, trải tòa thuyết pháp; thân hình người đó giây lát, hoặc biến làm Tỳ-kheo cho người kia thấy, hoặc làm Đế-thích, hoặc làm phụ nữ, hoặc là Tỳ-kheo-ni, hoặc nằm trong nhà tối, thân có hào quang chói sáng; người tu hành ngu mê, lầm cho là Bồ-tát, tin sự giáo hóa của họ, tâm bị lay chuyển, phá hủy luật nghi của Phật, lén làm việc dâm dục. Miệng ma ưa nói những việc may rủi, biến đổi, hoặc nói Như Lai ra đời ở chỗ ấy, hoặc nói có kiếp hỏa, hoặc nói có đao binh làm khủng bố người, khiến gia sản vô cớ bị hao mất. Đây gọi là giống Quái quỷ tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành, khi ma khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông phải biết trước thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết thì đọa vào địa ngục vô gián.

GIẢNG GIẢI:

Tưởng ấm thì bị ngoại ma nhập, vì là tưởng nên ma bên ngoài thấy nó nhập vào nhiều, còn sắc ấm và thọ ấm, ngoại ma ít nhập. Chúng ta tu hành phải cẩn thận với tưởng, tưởng nhiều thì tà ma thấy nó nhập vào thành bệnh. Khi tu hành mà khởi tâm tham cầu thiện xảo, niệm động rồi bị ma thấy tâm, nó được dịp thuận tiện mê hoặc, tinh thần gá vào người khác rồi hiện tướng khác thường để nói pháp. Ban đầu cũng thuyết pháp, tự nói được Niết-bàn Vô thượng, người nghe tưởng là thiện tri thức, nghe được một lúc nó sẽ dẫn vào đường tà. Ban đầu nói pháp, sau chuyển qua khen chê chuyện dâm dục, nói họa phước, dẫn người đi lạc. Do ban đầu đã tin thì sau cũng nghe theo luôn, lúc đó bị lậm sâu nên khó cứu.

Thế nên chúng ta phải biết để cẩn thận khi tu hành, ngăn ngừa tâm tham cầu, động niệm khiến mất chánh niệm, bị ma thấy chen vào. Nhất là khi tu thiền hoặc khi nhập thất, tâm hơi yên thì sức mạnh lớn, nghĩ gì sẽ nghiêng về chiều đó, hễ động niệm liền bị ma thấy, nên phải cẩn thận.

Thứ hai là tham cầu dạo chơi:

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Thiện nam tử thọ ấm đã hư diệu, không bị các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam-ma-địa, tâm thích đi dạo chơi, cho tư tưởng bay đi tham cầu trải qua nhiều nơi. Khi ấy Thiên ma được dịp thuận tiện cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết-bàn, và đến chỗ thiện nam tử muốn đi dạo chơi kia, trải tòa thuyết pháp. Tự thân hình người đó không thay đổi, song những người nghe pháp bỗng dưng tự thấy thân mình ngồi trên đài sen báu, toàn thân hóa thành đống vàng chói sáng, cả chúng nghe pháp mỗi người đều như thế, được việc chưa từng có. Người tu hành ngu mê lầm là Bồ-tát, tâm buông lung theo việc dâm dục, phá hủy luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục. Miệng ma ưa nói, chư Phật ứng hóa ra đời ở chỗ ấy, người ấy chính là vị Phật ấy, hóa thân đến đây, người ấy tức là vị Bồ-tát ấy (v.v...) đến giáo hóa thế gian; vì người tu hành thấy thế tâm sanh hâm mộ, tà kiến thầm thầm nổi lên, chủng trí tiêu diệt. Đây gọi là giống Bạt quỷ tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành, khi tâm ma đã nhàm chán, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên giác ngộ trước thì không bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.

GIẢNG GIẢI:

Đây là khi tu hành lại khởi tâm thích dạo chơi. Thí dụ ngồi thiền yên một chút, khởi tâm muốn xuất thần, vì nghe người ta nói xuất thần có thể dạo đi nơi này nơi kia, nên động niệm muốn đi chơi cho biết, là dịp thuận tiện để ma xen vào. Đó cũng là tập khí tham cầu.

Ma gá vào người khác đến nói pháp, biến nhiều thứ kỳ lạ cho tin, như làm cho người nghe pháp bỗng thấy thân mình ngồi trên đài sen rồi hóa thành vàng chói, thấy vậy thích rồi đi theo nó, dần dần nó dẫn làm chuyện dâm dục, phá giới. Nghiệp tà tuy đã lộ ra, nhưng lúc đó mê rồi đâu có biết, nó nói gì cũng nghe. Nó thích nói chư Phật ứng hóa ra nơi ấy nơi ấy v.v…, người đó vốn là Phật đó, Bồ-tát đó v.v… đến đây giáo hóa. Điều này cũng ứng với tâm niệm của người này thích dạo chơi đây kia, nó nói theo Phật đó mai mốt sẽ qua nước đó v.v…, chìu theo chỗ thích của người đó, gợi đúng lòng tham cầu để dễ mê hoặc. Thế nên chúng ta tu phải cẩn thận, luôn luôn ngăn ngừa tâm tham cầu. Vì tu mà còn tham muốn là còn tập khí tham, có mang vô minh trong đó, bị ma gạt đi vào đường tà. Mà tà thì không bền, cuối cùng thầy trò đều sa lưới pháp luật, uổng mất một đời.

Thứ ba là tham cầu khế hợp:

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không bị các tà lự, viên định được phát minh; trong Tam-ma-địa, tâm lại ưa thầm hợp, tư tưởng đứng lặng, tham cầu khế hợp. Khi bấy giờ Thiên ma được dịp thuận tiện, cho tinh thần bay gá vào người khác, miệng nói kinh pháp; người ấy thật không biết bị ma gá vào, cũng tự nói được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu hợp kia, trải tòa nói pháp. Thân hình người đó và những người nghe pháp, bề ngoài không có thay đổi, nhưng lại khiến cho các thính giả trước khi nghe pháp, tâm tự khai ngộ, niệm niệm đổi dời, hoặc được túc mạng thông, hoặc có tha tâm thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết các việc hay dở trong nhân gian, hoặc trong miệng nói kệ, hoặc tự tụng kinh, mỗi mỗi đều vui vẻ, được việc chưa từng có. Người ngu mê lầm cho là Bồ-tát, tâm sanh luôn yêu thích, nên phá hủy luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục. Miệng ma ưa nói Phật có Phật lớn Phật nhỏ; Đức Phật ấy là Phật trước, Đức Phật ấy là Phật sau, trong đó cũng có Phật thật Phật giả, Phật nam Phật nữ, Bồ-tát cũng như thế. Vì người tu hành kia thấy vậy nên tẩy xóa sạch các tâm trước, dễ vào tà ngộ. Đây gọi là giống Mỵ quỷ tuổi già thành ma, khuấy phá người tu hành, khi tâm ma khuấy phá chán rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.

GIẢNG GIẢI:

Chỗ này là tu mà khởi tâm mong cầu khế hợp chân lý. Tu hành muốn khế hợp chân lý thì không sai, nhưng vì công phu mình chưa tương ứng mà lại muốn khế hợp, tức muốn đi trước, như vậy là có tâm tham cầu, sai là sai chỗ đó. Do động niệm muốn cầu khế hợp, nên ma được dịp thuận tiện đến mê hoặc. Nó gá vào người khác đến thuyết pháp, khiến người chưa nghe pháp mà tâm tự khai ngộ, hoặc được túc mạng, tha tâm thông v.v…, người nhẹ dạ dễ tin theo. Chúng ta xét kỹ sẽ thấy, chưa nghe pháp mà tâm tỏ ngộ là ngộ cái gì? Đây là do tâm tham cầu nên chấp vào đó mà không hay, ma gợi đúng lòng tham, gãi đúng chỗ ngứa thì dính liền. Nó khiến được thần thông, biết chuyện địa ngục v.v…, những việc chưa từng có, rồi mê lầm bị dẫn, dần dần phá luật phá giới, hành việc dâm dục, rơi vào đường tà. Ma hay nói có Phật lớn Phật nhỏ, Phật nam Phật nữ, Phật giả Phật thật v.v… Ngay đó đã thấy đi lạc rồi. Nhưng lúc này người đó đã mê, ma nói gì cũng nghe theo, đâu còn phân biệt được chánh tà, bị ma gạt, thấy nó làm những việc khác thường nên tin theo, rồi xóa sạch tâm ngày trước, tức bổn tâm chân chánh trước kia, đi theo nghiệp tà. Đây là giống Mỵ quỷ tuổi già thành ma khuấy phá, cuối cùng thầy trò đều rơi vào pháp luật. Đó là chỗ nguy hiểm, người tu phải cẩn thận.

Ngài Tư Trung nói: “Quên cơ tịch chiếu thì lý tự huyền hội. Nếu mong cầu khế hợp, vừa có tâm nghĩ liền sai, khi ấy thì ma được thuận tiện”. Bệnh là ở chỗ đó, hiểu được lý chúng ta sẽ tu đúng. Khi tâm quên cơ, được chỗ lặng lẽ chiếu soi rõ ràng thì nó tự thầm hợp, khỏi cần cầu cũng hợp. Còn công phu chưa đến mà muốn mau hợp là đi trước. Đây là bệnh làm biếng của người tu, tu ít mà muốn mau được, là tham cầu. Đó là chỗ người tu chúng ta phải cẩn thận.

Thứ tư là ưa biết cội gốc:

 

CHÁNH VĂN:

Lại nữa thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không bị các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa, tâm ưa biết cội gốc, nơi sự vật chuyển hóa, muốn xét biết cùng tột gốc ngọn trước sau, thúc đẩy cái tâm sáng suốt thêm, tham cầu nhận biết chia chẻ. Khi bấy giờ Thiên ma chờ được dịp, cho tinh thần bay gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu cội gốc kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó thân có oai thần làm cho những người cầu pháp kính phục, khiến cho thính chúng dưới pháp tòa, tuy chưa nghe pháp, tự nhiên tâm đã kính phục. Tất cả bọn ấy đều cho rằng Niết-bàn, Bồ-đề, Pháp thân của Phật, tức là cái xác thân thịt hiện tiền của ta đây, cha con sanh nhau đời này đến đời khác, tức là pháp thân thường trụ không diệt mất, họ đều chỉ hiện tại tức là cõi Phật, không riêng có cõi tịnh cư và thân kim sắc nào khác. Người tu hành tin nhận những điều đó, bỏ mất tâm trước, đem hết thân mạng mà quy y, cho là được việc chưa từng có. Người đó ngu mê lầm cho là Bồ-tát, suy xét cái tâm như thế, phá hủy luật nghi của Phật; lén làm việc tham dục. Miệng ma thường nói: “Mắt, tai, mũi, lưỡi đều là Tịnh độ, hai căn của nam nữ là chỗ chân thật Bồ-đề Niết-bàn!”. Bọn người không biết kia đều tin lời nói nhơ bẩn đó. Đây gọi là giống Cổ độc ác thắng quỷ tuổi già thành ma, phá khuấy người tu hành. Khi tâm ma nhàm chán, rời bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nếu giác ngộ trước thì không bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.

GIẢNG GIẢI:

Đây là tu thiền được định tâm lại mong cầu muốn phân tích cùng tột gốc ngọn của sự vật biến hóa. Người tu chúng ta hay có tâm niệm này, muốn biết tột nguồn gốc thế giới từ đâu mà có. Ma thấy tâm thừa dịp đến mê hoặc. Điều quan trọng của người tu chúng ta là phải xét thấu cội gốc phiền não mê lầm, làm sao cho sạch phiền não, sạch vô minh chấp ngã, chớ biết chuyện bên ngoài làm chi trong khi chuyện bên trong lại không biết. Những phiền não vô minh của mình không tự biết, lại khởi tâm động niệm cho ma thấy mà thừa dịp đến mê hoặc. Nó gá vào người khác, chưa nói pháp đã làm cho người nghe kính phục để nghe theo. Ban đầu nó nói giống như lý không hai, nói Bồ-đề Niết-bàn, Pháp thân Phật là xác thân thịt hiện tiền đây thôi. Người nghe thiếu trí tuệ suy xét nên tin lầm. Nếu xác thân là Pháp thân thì khi xác thân chết đem ra nghĩa địa, chẳng lẽ Pháp thân Phật cũng chết luôn sao? Ma nói cha sanh con, rồi tới con sanh con nữa, cứ tiếp nhau đời này đến đời khác gọi là Pháp thân thường trụ không mất. Nói như vậy mà người ta cũng tin nổi! Vì có sức ma giúp nên người ta cứ tin theo.

Lại nói cõi Phật là ngay đây chớ không có chỗ nào khác, tức ngay các căn mắt, tai, mũi, lưỡi này là Tịnh độ, các căn nam nữ là Bồ-đề Niết-bàn. Nghe theo nó rồi làm việc dâm dục, phá giới đi vào đường tà. Điều này rất nguy hiểm, vì ma làm mất hết chánh định. Nhưng gốc cũng do tập khí tham cầu, muốn biết gốc ngọn trước sau biến hóa của sự vật mới bị ma gạt. Cuối cùng thầy trò rơi vào lưới pháp luật, không được gì còn uổng cả một đời tu. Người tu hành phải cẩn thận!

Phật biết trước, dạy cho chúng ta hiểu để đừng lầm, cũng để nhắc nhở truyền dạy cho những người tu kế tiếp không bị lầm lẫn, làm uổng mất đời tu của mình. Ban đầu phát tâm tu hành vì việc giải thoát sanh tử giác ngộ, đó là tâm tu chân chánh cao quý. Nhưng nửa chừng do khởi tâm động niệm, chạy theo tập khí tham cầu, thiếu trí tuệ bị lạc vào đường ma, bỏ mất tâm trước, thật đáng tiếc!

Thứ năm là tham cầu thầm cảm:

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa tâm ưa biết các việc trước sau, chính xét cùng khắp, tham cầu thầm cảm. Khi ấy Thiên ma chờ có dịp cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết ma gá vào, cũng nói tự được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu cảm ứng kia, trải tòa thuyết pháp, có thể khiến cho thính chúng tạm thấy thân mình như đã trăm ngàn tuổi, tâm sanh ái nhiễm, không thể xả lìa; đem thân làm nô bộc, bốn việc cúng dường không biết mỏi mệt. Ma lại khiến cho mỗi người dưới pháp tòa, tâm biết đó là vị tiên sư, là vị thiện tri thức, riêng sanh lòng pháp ái dính như keo sơn, được cái chưa từng có. Người tu hành ngu mê, lầm cho là Bồ-tát, gần gũi tâm ma, phá hủy luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục. Miệng ma ưa nói, ta ở kiếp trước trong đời nọ, trước độ người nọ, lúc đó là thê thiếp anh em của ta, nên nay lại đến độ nhau, ta sẽ cùng các người theo nhau về cảnh giới nọ, cúng dường Đức Phật nọ; hoặc nói có cõi trời Đại Quang Minh riêng biệt, Phật ở trong ấy và là chỗ nghỉ ngơi của tất cả các Đức Như Lai. Người tu hành kia không hiểu biết đều tin những lời phỉnh gạt đó, bỏ mất tâm trước. Đây gọi là giống Lệ quỷ tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành. Khi tâm ma khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá vào nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nếu giác ngộ trước, thì không bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.

GIẢNG GIẢI:

Đây cũng do tu thiền định, khởi tâm muốn biết những việc trước sau, cầu sự thầm cảm ứng, ma thấy tâm nên có dịp thuận tiện, nó gá vào người khác rồi dẫn vào đường tà. Ma gá vào người khác đến chỗ người đó trải tòa thuyết pháp, khiến thính chúng thấy người đó giống như sống cả trăm ngàn tuổi, thấy lạ nên sanh tâm ái nhiễm, sẵn sàng xả hết đem thân hầu hạ, cúng dường không biết mỏi. Nó khiến mỗi người biết đây là vị tiên sư, vị thiện tri thức, giống như có duyên nhiều đời, do đó càng dính chặt. Ban đầu cũng nói pháp, sau nói qua chuyện tà, khiến người phá giới, phạm luật nghi làm việc dâm dục.

Do tập khí của người là thích sống lâu, thích biết những việc xa xưa, ma gợi đúng chỗ tâm tham của người đó, nên vừa thấy là thích liền, rồi bị mắc kẹt. Ma nói kiếp trước cùng liên hệ anh em thê thiếp với nhau nên đời này gặp lại, đều là duyên đời trước. Người nghe tưởng thiệt sanh tâm ưa thích, dính nhau, rồi dần dần nó dẫn làm việc tham dục cũng không biết là lầm. Vì sức ma sai khiến, nên lúc này nó nói gì cũng nghe, đi theo nó phá giới, phạm luật, dần dần bị đọa.

Nó còn nói cõi trời Đại Quang Minh là chỗ nghỉ ngơi của chư Phật, vì người kia thích thầm cảm ứng những chuyện sâu xa trước sau, nó gợi vào tâm tham đó. Người nghe thấy lạ, hợp với tâm hiếu kỳ của mình nên tin theo. Thật ra, người hiểu đạo nghe nó nói là biết bậy liền, cõi trời nào mà lại là chỗ nghỉ ngơi của chư Phật? Nhưng vì sức ma sai khiến, người kia đã bị mê hoặc nên vẫn tin theo, bỏ mất tâm chân chánh ban đầu của mình. Ban đầu ham tu thiền định để xa lìa phiền não tham sân si, mà vì còn tập khí tham nhiễm mới móng tâm tham cầu, bị ma gợi rồi theo nó bỏ mất tâm ban đầu của mình, rơi vào đường tà, lưới ma. Người tu thiền định cần phải nhận biết rõ ràng để không lầm, ngăn ngừa đừng để tâm động niệm, phải cẩn thận đừng khởi niệm lung tung, ma thấy tâm thì rất nguy hiểm.

Thứ sáu là tham cầu tĩnh lặng:

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không bị các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa, tâm ưa thích đi sâu vào khắc khổ, siêng năng, thích ở chỗ vắng vẻ tham cầu sự yên lặng. Khi ấy Thiên ma chờ được dịp cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy thật không biết bị ma gá vào, cũng tự nói được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu chỗ vắng vẻ kia, trải tòa thuyết pháp, khiến người nghe, mỗi người đều biết nghiệp cũ của mình, hoặc ở nơi đó, bảo một người rằng: “Ngươi nay chưa chết đã làm súc sanh”, rồi bảo một người ở sau đạp lên đuôi, tức liền làm cho người kia đứng dậy không được. Lúc bấy giờ cả chúng đều hết lòng kính phục, có một người móng tâm lên thì nó đã biết ý; ngoài luật nghi của Phật, nó lại càng thêm khắc khổ, chê bai Tỳ-kheo, mắng nhiếc đồ chúng, phơi bày việc riêng của người, không sợ chê trách. Miệng ma ưa nói việc họa phước khi chưa đến và khi đã đến rồi thì mảy may không sai. Đây là giống Đại lực quỷ tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành, khi ma khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nếu giác ngộ trước thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.

GIẢNG GIẢI:

Đây là tâm ưa thích khắc khổ, mong vắng vẻ yên lặng, nên ma có dịp thuận tiện. Chúng ta tu hành khắc khổ là không sai. Nhưng ở đây do khởi tâm động niệm mong cầu nên nghiêng lệch, vì có tâm tham nên bị ma thấy.

Ma gá vào người khác, đến chỗ người đó trải tòa thuyết pháp, khiến những người nghe mỗi người tự biết nghiệp cũ của mình, thấy vậy là hay quá nên tin. Hoặc ma chỉ một người bảo rằng: “Ông nay chưa chết nhưng đã làm súc sanh.” Rồi bảo người khác đạp sau đuôi người đó, người đó liền đứng dậy không được. Thế nên ai cũng kính phục. Hoặc vừa khởi niệm nó liền biết mình nghĩ gì, thuận theo ý thích của mình mà gãi đúng chỗ ngứa, mình tin theo rồi dần dần bị gạt, nó dẫn làm những chuyện tà vạy, càng đi càng lạc.

Hoặc nó mắng nhiếc đồ chúng, phơi bày chuyện sâu kín của người mà không sợ sự chê trách. Mọi người nghĩ nó thẳng thắn, trực tâm, có lỗi gì đều bày ra hết, không có che giấu. Hoặc nó hay nói việc họa phước, việc chưa đến nó đã biết trước, những tai họa nó nói ít lâu sau liền xảy ra đúng như vậy. Những người nhẹ dạ, hay những người hiếu kỳ thích chuyện lạ, thấy vậy là tin liền, rồi bị gạt. Ban đầu nó cũng nói pháp, dần dần bày chuyện lạ cho tin, sau nói chuyện tà cũng nghe theo, rồi phá giới phá luật, cuối cùng lạc vào đường ma, bị đọa. Gốc cũng từ chỗ khởi tâm động niệm mà ra, vì vậy tu hành phải cẩn thận sáng suốt, đừng để bị lầm.

Thứ bảy là tham cầu biết túc mạng:

 

CHÁNH VĂN:

Thiện nam tử ấy thọ ấm hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa, tâm lại ưa hiểu biết, siêng năng, khó nhọc, tìm xét, tham cầu biết túc mạng. Khi ấy Thiên ma chờ dịp tiện cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo ta được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu hiểu biết kia, trải pháp tòa thuyết pháp. Người tu hành bỗng nhiên nơi chỗ nói pháp, được hạt châu lớn, hoặc khi ma hóa làm súc sanh, trong miệng ngậm hạt châu và những vật kỳ lạ, như đồ trân bảo giản sách phù độc, đến trao trước cho người tu hành, rồi sau đeo vào thân thể; hoặc khi ma bảo người nghe pháp có hạt châu minh nguyệt chôn ở dưới đất đương soi sáng chỗ đó, làm cho các thính giả được điều chưa từng có. Ma thường ăn cây thuốc chứ không ăn cơm, hoặc mỗi ngày chỉ ăn một bữa với một ít mè, một ít mạch, do sức của ma giữ gìn, nên thân thể vẫn mập tốt, ma lại chê bai Tỳ-kheo, mắng nhiếc đồ chúng, không tránh sự chê trách; trong miệng ma ưa nói, kho báu phương khác và chỗ ẩn cư của mười phương các bậc Thánh hiền; thường thấy có người kỳ lạ đi theo sau nó. Đấy gọi là giống quỷ thần núi rừng, thổ địa, thành hoàng, sông núi tuổi già thành ma; hoặc có khi kêu gọi làm điều dâm dục, phá giới luật của Phật, cùng với những kẻ thừa sự lén hành ngũ dục; hoặc lại tinh tấn ăn toàn cỏ cây, việc làm không nhất định, cốt khuấy rối người tu hành. Khi ma khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá vào nữa, thì đệ tử và thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên giác ngộ trước thì không bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.

GIẢNG GIẢI:

Đây là tâm ưa thích hiểu biết, khởi tâm tham cầu biết túc mạng. Do tâm tham cầu đó mà ma có dịp thuận tiện, gá vào người khác để mê hoặc. Nó khiến cho bỗng nhiên nơi chỗ nói pháp được hạt châu lớn, hoặc hóa làm súc sanh trong miệng ngậm hạt châu hay những vật kỳ lạ như đồ trân bảo, khiến người thấy chuyện lạ khởi sanh lòng tin. Hoặc đem những đồ như giản sách, phù độc đến trao trước cho người đó, rồi đeo vào thân thể người đó. “Sách” là dùng da thuộc để biên chép chữ nghĩa; “giản” là dùng tre vót thành thẻ cũng để ghi chép; “phù” là thẻ tre khắc lên để làm tin; “độc” là dùng thẻ gỗ để viết. Đó là những vật dụng thời xưa. Sách dùng ghi việc lớn, giản và độc ghi việc nhỏ, phù dùng để đưa tin tức. Nó đem những thứ này đeo vào thân người đó, rồi bảo người nghe pháp là có hạt châu minh nguyệt chôn dưới đất ở nơi đó, làm cho người nghe thấy những điều chưa từng có, rồi tin theo, dần dần nó dẫn vào đường tà.

Nó hiện những cái khác thường, như không ăn cơm, chỉ ăn cây cỏ thuốc, hoặc ăn ít hạt mè, hạt mạch v.v… mà thân thể vẫn mập tốt. Đây là do sức ma giúp, khi ma ra rồi sẽ khô khan. Người tu hành không khéo, thích chuyện lạ là dễ bị gạt. Ma cũng thích nói những việc như ở cõi nào đó, cách xa bao nhiêu đó, có kho báu gì đó, hoặc đó là chỗ ẩn cư của các bậc Thánh Hiền. Người nghe thấy chuyện lạ liền tin theo, dần dần nó kêu làm những điều dâm dục, phá giới luật Phật, cùng những kẻ thừa sự lén hành ngũ dục, đi vào đường tà. Cuối cùng nó bỏ đi, đệ tử và thầy đều rơi vào pháp luật.

Thế nên những người thích chuyện lạ, thích biết túc mạng, khởi tâm động niệm thì dễ bị mê hoặc. Chúng ta phải biết để cẩn thận tu hành, quan trọng là dứt phiền não, giải thoát sanh tử luân hồi, còn ham thích chuyện này chuyện kia là không đúng. Khi sạch hết phiền não, dứt sanh tử, đạt được thể tánh thì diệu dụng tự có. Tham cầu là nguy hiểm, chúng ta phải khéo ngăn ngừa.

Thứ tám là tham chấp về thần lực:

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không bị các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa, tâm ưa thần thông và các thứ biến hóa, nghiên cứu nguồn gốc của sự biến hóa, tham cầu có thần lực. Khi ấy Thiên ma chờ có dịp tiện, cho tinh thần bay gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không hay biết bị ma gá vào, cũng nói tự được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu thần thông kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó hoặc tay cầm ngọn lửa, nắm chia ngọn lửa trên đầu bốn chúng nghe pháp. Ngọn lửa trên đỉnh đầu những người nghe pháp đều dài mấy thước mà cũng không đốt cháy, cũng không nóng. Người đó hoặc đi trên nước như đi trên đất bằng, hoặc ở giữa hư không, ngồi yên không lay động, hoặc vào trong bình, hoặc ở trong đãy, vượt qua cửa sổ, thấu qua tường vách, vẫn không bị chướng ngại, chỉ đối với đao binh thì không được tự tại. Người đó tự bảo là Phật, thân mặc áo cư sĩ, nhận Tỳ-kheo lễ bái, chê bai Thiền Luật, mắng nhiếc đồ chúng, phơi bày việc riêng của người, không ngại bị chê trách. Trong miệng họ thường nói thần thông tự tại, hoặc lại cho người thấy cõi Phật ở một bên. Đó là do sức quỷ làm mê lầm không có gì chân thật. Người đó khen ngợi việc hành dâm, không từ bỏ việc làm thô tục, bảo những sự ôm ấp lẫn nhau là truyền pháp. Đây gọi là những giống sơn tinh, hải tinh, phong tinh, hà tinh, thổ tinh và tất cả những loài tinh mị của cỏ cây đã sống trong nhiều kiếp, có sức lớn trong trời đất; hoặc là long mị, hoặc các vị tiên tuổi thọ hết, sống lại làm tinh mị, hoặc quả báo đạo tiên đã hết, kể năm thì phải chết, nhưng hình hài không hư nát, nên loài quái khác gá vào. Bọn ấy tuổi già thành ma khuấy rối người tu hành, khi ma khuấy phá chán rồi, bỏ thân người không gá vào nữa, thì đệ tử và thầy phần nhiều sa vào lưới pháp luật. Ông nên giác ngộ trước thì không bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián.

GIẢNG GIẢI:

Đây là người tu hành thích thần thông biến hóa, tham cầu có thần lực, ma được thuận tiện gá vào người khác để dẫn họ vào đường tà. Nó gá vào người khác hiện tướng thần thông, cầm ngọn lửa chia trên đầu mọi người mà không ai bị cháy, ở giữa hư không, đi qua tường vách v.v…, khiến cho người ưa thích vì gãi đúng chỗ ngứa, rồi tin theo, dần dần bị gạt.

Nó tự bảo là Phật, mặc áo cư sĩ mà nhận Tỳ-kheo lễ bái. Tỳ-kheo thấy thần lực của nó, thích thần thông nên cũng tin theo, dù nó là cư sĩ mà cũng lễ. Ma chê bai Thiền Luật, mắng nhiếc đồ chúng, chê trách người khác. Do đã tin, đã bị mê hoặc nên ma nói gì cũng nghe, dần dần nó khen ngợi việc hành dâm, nói ôm ấp lẫn nhau là truyền pháp, làm chuyện phá giới, phạm luật, rơi vào đường tà. Đây là những giống sơn tinh, hải tinh, v.v… những loài tinh mị sống lâu thành quái đến gạt người. Sau cũng lộ ra tập khí sanh tử. Thế nên người tu chúng ta phải sáng suốt nhận định, đừng để rơi vào đường tà thì thật là đáng tiếc!

Thứ chín là tham cầu sâu về không:

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không mắc vào các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa tâm ưa vào chỗ diệt hết, nghiên cứu tánh biến hóa, tham cầu cái rỗng không sâu nhiệm. Khi ấy Thiên ma chờ được dịp tiện, cho tinh thần bay gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng nói tự được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu rỗng không kia, trải tòa thuyết pháp. Ở trong đại chúng thân hình của người đó bỗng hóa thành không, cả chúng cũng không thấy gì rồi lại từ hư không bỗng chốc hiện ra, khi mất, khi còn được tự tại; hoặc hiện thân rỗng suốt như ngọc lưu ly, hoặc khi duỗi tay chân xuống, phát ra mùi thơm chiên-đàn, hoặc đại tiểu tiện cứng chắc như đường phèn. Người đó chê bai giới luật, khinh khi người xuất gia, trong miệng thường nói không có nhân quả, một phen chết rồi mất hẳn không còn thân sau và các phàm Thánh; tuy được không tịch, vẫn lén làm việc tham dục và cho người thọ nhận sự dâm dục đó cũng được tâm rỗng không, bác không có nhân quả. Đây gọi là những loại vàng ngọc, cỏ linh chi, lân, phụng, quy, hạc hấp thu lấy tinh khí mặt trời, mặt trăng khi bị ăn mòn, trải qua ngàn vạn năm không chết làm tinh linh, sanh ra trong các quốc độ, tuổi già thành ma khuấy phá người tu hành. Khi ma khuấy phá chán rồi, bỏ thân người không gá vào nữa, thì đệ tử và thầy phần nhiều sa vào lưới pháp luật. Ông nên giác ngộ trước, thì khỏi bị luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián.

GIẢNG GIẢI:

Đây là tâm ưa chỗ diệt hết, hướng vào chỗ diệt khởi tâm tham cầu rỗng không một cách sâu xa mầu nhiệm. Do tâm động niệm nên ma được dịp thuận tiện. Chúng ta tu có khi cũng chán những phiền não, những vọng tưởng lăng xăng, thích đi sâu vào cái không. Đâu biết khi tu hành đúng pháp, lý hợp thì tự nó thông. Còn khởi tâm tham cầu khi công phu chưa đến là ma được dịp thuận tiện. Nó hiện ở trước đại chúng, đang nói pháp bỗng biến thành không, một chốc lại từ hư không hiện ra, hoặc hiện thân rỗng suốt như ngọc, hoặc đại tiểu tiện như đường phèn, người nghe thấy giống như Thánh nên tin theo, bị nó dẫn vào đường tà. Ma lại chê bai giới luật, nói cái gì cũng không, giới luật cũng không thì đâu có gì là trì là phạm. Nó khinh khi người xuất gia, miệng thường nói không nhân quả, đó là lộ ra cái tà rồi. Người không biết tin theo, thấy cái gì cũng không, lén làm việc dâm dục, thọ nhận dâm dục, cho tham dục cũng không. Cuối cùng, thầy trò đều sa vào pháp luật.

Thứ mười là tham cầu sống lâu:

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử thọ ấm hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam-ma-địa, tâm ưa sống lâu, gian khổ quán sát tinh vi, tham cầu được nhiều tuổi, bỏ cái sống phần đoạn, lại trông mong cái tướng của vi tế biến dịch sanh tử được thường trụ. Khi ấy Thiên ma chờ được dịp, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó hoàn toàn không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu sống lâu kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó ưa nói qua lại phương khác không ngăn ngại, hoặc trải qua muôn dặm khoảng giây lát đã trở lại và đều lấy được những vật nơi đó, hoặc ở một chỗ hay trong một nhà chỉ trong vài bước, bảo người ta đi từ vách đông sang vách tây, nhưng người đi mau cả năm không đến. Nhân đó người tu hành tin tưởng, nghi là Phật hiện tiền. Miệng ma thường nói: “Chúng sanh trong mười phương đều là con của ta, ta sanh ra chư Phật, ta sanh ra thế giới, ta là Phật đầu tiên tự nhiên sanh ra đời, không nhân tu mà đắc đạo”. Đây gọi là ma trụ thế Tự Tại Thiên, nó khiến bọn quyến thuộc chưa phát tâm như bọn Giá-văn-trà, Tỳ-xá đồng tử cõi Tứ Thiên Vương, thích cái hư minh kia mà đến ăn tinh khí người tu hành, hoặc không nhân ông thầy, chính người tu hành tự mình xem thấy bọn đó tự xưng là thần Chấp Kim Cang đến cho trường thọ, chúng hiện thân làm gái đẹp, ưa làm việc tham dục, làm cho chưa đầy một năm mà gan não đã khô kiệt; miệng nói lẩm nhẩm một mình, nghe như yêu mị, người ngoài chưa rõ nguyên do, nên phần nhiều sa vào lưới pháp luật, và chưa kịp hình phạt mà đã chết khô trước. Thế là bọn ma khuấy phá người tu kia đến phải ốm chết. Ông nên giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, sẽ bị đọa vào ngục vô gián.

GIẢNG GIẢI:

Đây là tham cầu sống lâu, được nhiều tuổi, ma nhân thấy tâm rồi đến mê hoặc. Tu như vậy là kẹt vào ngã tướng, bám vào cái ngã này nên muốn nó còn lâu, còn dài. Thiên ma được dịp thuận tiện gá vào người khác, miệng nói kinh pháp, nói những chuyện thần thông qua lại, nó có thể đi qua lại những phương xa xôi, đi về chỉ trong chốc lát, rồi còn lấy vật ở những nơi khác đem về làm tin. Thí dụ như nói qua Bắc-câu-lô-châu, lấy hạt lúa bên đó đem về đưa cho coi. Người nghe tin vì thấy có chứng cứ đàng hoàng. Nó nói: “Chúng sanh mười phương đều là con ta, ta là Phật đầu tiên tự nhiên ra đời, không nhân tu mà được đạo”. Chúng ta có thấy kinh nào nói như vậy không? Nhưng bây giờ tin rồi, nó nói gì cũng nghe. Nó lại nói chúng sanh đều là con nó, tức nó có trước chúng sanh; nó sanh ra chư Phật, tức nó có trước chư Phật luôn. Điều này có hợp lý không? Thấy vậy là biết thật giả rồi.

Phật nói đó là trụ thế Tự Tại Thiên, tức Ma vương ở cõi trời Dục giới thứ sáu. Do người tu thiền mà có tâm tham cầu, Ma vương mới tới mê hoặc. Còn Giá-văn-trà là nữ thần tật đố, hay cũng gọi là nộ thần, chúng là những ma nữ nhiều tật đố nóng giận; còn Tỳ-xá-xà, cũng gọi là Tỳ-xá-giá là quỷ ăn tinh khí, đây gọi là Tỳ-xá đồng tử, là những quyến thuộc của ma chưa phát tâm hộ trì Phật pháp, đến khuấy phá người tu hành. Bọn đó còn tự xưng là thần Chấp Kim Cang đến để ban cho người được trường thọ, vì người này thích sống lâu, nghe nó nói vậy bèn tin theo v.v...

Người tu hành phải chín chắn, cẩn thận với từng tâm niệm mình, đừng để tập khí tham sanh khởi làm ngại chánh định. Tâm ban đầu của người tu là chân chánh, nhưng nửa chừng bị tập khí tham khởi lên, không sáng suốt, không làm chủ được, bị rơi vào đường tà. Thế là nhân lành mà chuốc quả dữ. Đó là điều đáng tiếc!

Đây là mười loại tưởng ấm ma. Còn có tâm tưởng nên ma thấy tâm. Ma gá vào người khác rồi đến dẫn người đó vào đường mê tà.

 

CHÁNH VĂN:

A-nan nên biết, mười thứ ma ấy trong đời mạt pháp, hoặc xuất gia tu hành trong đạo Phật, hoặc gá thân người, hoặc tự hiện hình, đều tự bảo đã thành Chánh Biến Tri Giác, khen ngợi dâm dục, phá luật nghi của Phật, thầy trò ma tiếp nối đem sự dâm dục truyền dạy cho nhau. Những thứ tà tinh như thế, mê hoặc tim gan, ít thì chín đời, nhiều đến trăm đời, khiến cho người tu hành chân chánh đều làm quyến thuộc của ma, sau khi mạng chung ắt phải làm dân của ma, bỏ mất Chánh Biến Tri, đọa vào ngục vô gián. Nay ông chưa nên vào Niết-bàn trước, dẫu được quả Vô học, cũng phát nguyện vào trong đời mạt pháp kia, phát lòng đại từ bi cứu độ chúng sanh có lòng thâm tín chân chánh, khiến cho khỏi mắc tà ma, được Chánh Tri Kiến. Nay tôi đã độ ông ra khỏi sanh tử, ông vâng lời Phật dạy, thì gọi là báo ân Phật.

GIẢNG GIẢI:

Đây Phật khuyên nhắc người tu phải sáng suốt nhận định cho rõ. Ma hay xuất hiện trong thời mạt pháp, có khi xuất gia làm người tu hành, hoặc gá vào thân người, hoặc tự hiện hình, tự bảo đã thành Chánh giác, thành Phật, thành Thánh, nhưng lại khen ngợi việc dâm dục, phá luật nghi Phật. Chúng ta phải biết để cẩn thận ngừa tránh. Phật lại khuyên nhắc A-nan và những bậc đã chứng quả Vô học chớ vội vào Niết-bàn, mà ở đời sau nên hiện ra dắt dẫn cho người không rơi vào đường ma.

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Mười thứ cảnh hiện ra trong Thiền định như thế, đều do tưởng ấm và tâm dụng công giao xen nên hiện ra cảnh ấy. Chúng sanh ngu mê không biết suy xét tự lường, gặp nhân duyên đó mê không tự biết, bảo là lên bậc Thánh, thành tội đại vọng ngữ phải đọa vào ngục vô gián. Sau khi tôi diệt độ, các ông cần phải đem những lời dạy của Như Lai đây, chỉ bày cho đời mạt pháp, khiến cho khắp chúng sanh tỏ ngộ nghĩa đó, không để cho Thiên ma được dịp khuấy rối, giữ gìn che chở cho chúng sanh thành đạo Vô thượng.

GIẢNG GIẢI:

Phật nói rõ mười thứ cảnh ma hiện ra trong khi tu thiền định là do dụng tâm tu hành, nó giao xen với tưởng ấm mà vọng hiện ra, chớ không phải thật. Đừng lầm cho đó là sở đắc của mình, cho mình đã chứng Thánh, thành bệnh sẽ khó cứu. Thế nên người tu hành phải tránh khởi tâm mong cầu này kia, làm mất đi chánh niệm.

Có tâm mong cầu là cái ngã phát sanh. Chúng ta phải luôn luôn phản chiếu trở lại, xét thấu từng ngõ ngách của ngã để biết mà ngăn ngừa. Vì tập khí ngã chấp ăn sâu trong mình từ vô thủy kiếp, khiến chúng ta sống đây là lấy nó làm sự sống. Bây giờ chúng ta tu là đi ngược dòng, phải quán kỹ cho nó tiêu mòn, chớ để nó thêm lớn, khiến tự mình làm mê hoặc mình rồi rơi vào đường tà.

Nên nhớ, tinh thần vô ngã là tôn chỉ chính trên đường tu của chúng ta, không thể rời, không thể bỏ qua. Lúc nào cũng phải lấy vô ngã làm hướng đi, tu làm sao phải sạch cái ngã mới được. Dù có nói chân ngã thường trụ hay Phật tánh thường trụ cũng đều phải thấu qua tôn chỉ vô ngã, vì phải sạch hết ngã chấp mới thông được chân ngã, thông được chỗ Phật tánh hay Pháp thân thường trụ. Nếu chưa sạch ngã chấp mà nói chân ngã thì không khéo lại lầm thành một cái ngã nữa. Thế nên người tu phải cẩn thận. Chưa có gì đừng bảo mình chứng Thánh, vì còn thấy mình tu hay hơn người là bị tự ngã mê hoặc rồi. Quan trọng là cần có con mắt chánh, cần phải có chánh kiến. Mắt chánh thì thấy cái gì cũng chánh, còn có tâm tà thì chánh cũng thấy thành tà.

Học Kinh Lăng Nghiêm chúng ta phải học kỹ đoạn Phật dạy ngũ ấm ma này mới thấy được sự lợi ích lớn lao. Thế nên Hòa thượng Hư Vân, Hòa thượng Tuyên Hóa đều tán thán kinh Lăng Nghiêm, khuyên người phải đọc, phải học thuộc. Hòa thượng Tuyên Hóa còn nói, những người chê bai kinh Lăng Nghiêm là vì sợ học kinh Lăng Nghiêm kỹ sẽ lộ ra những tâm tà, người có tâm tà sợ không dám học.

Đó là qua phần tưởng ấm. Kế là hành ấm, ma bên ngoài hết vào được, nhưng tới ma bên trong, tức là những chấp trước bên trong tâm.

 

 

4. CÁC TƯỚNG TRẠNG CỦA MA HÀNH ẤM

CHÁNH VĂN:

A-nan! Thiện nam tử kia tu pháp Tam-ma-địa khi tưởng ấm đã hết thì những mộng tưởng bình thường của người đó đã tiêu diệt, khi ngủ, khi thức luôn luôn một Thể Tánh Giác Minh rỗng lặng như hư không, trong trẻo không còn những việc bóng dáng tiền trần thô trọng; xem những núi sông, đất liền trong thế gian, như gương soi sáng khi đến không dính vào đâu, khi qua không để lại dấu vết, rỗng chịu theo sự vật chiếu ứng; rõ ràng không còn tập quán cũ, chỉ một tánh tinh chân.

GIẢNG GIẢI:

Qua được tưởng ấm thì hết mộng tưởng, ngủ không còn mộng. Xem thấy các cảnh không để lại dấu vết. Chúng ta sở dĩ có tưởng là vì còn dấu vết, ban ngày tưởng nhiều, đêm nằm mộng thấy lại. Tưởng ấm hết thì thức ngủ không hai, như gương soi sáng, khi vật đến không dính vào đâu, khi qua cũng không để lại dấu vết, chỉ một tánh tinh chân, không còn dính những bóng dáng tiền trần thô trọng nữa, gọi là rỗng chịu sự chiếu ứng.

Dưới đây là nói tới phạm vi của hành ấm.

 

CHÁNH VĂN:

Căn nguyên sanh diệt từ đây phơi lộ ra, thấy được mười hai loài chúng sanh trong mười phương, khắp rõ hết các loài, tuy chưa thông suốt mối manh mệnh căn của mỗi chúng sanh, nhưng đã thấy cơ sở sanh diệt chung, giống như dã mã (sóng nắng) lớp lớp chớp nhoáng hiện ra, làm các then chốt rốt ráo phát sanh các phù căn trần; ấy gọi là phạm vi của hành ấm.

GIẢNG GIẢI:

Căn nguyên sanh diệt đã phơi lộ, thấy đến cội nguồn sanh diệt của mười hai loài chúng sanh. Tuy thấy được gốc sanh diệt chung, nhưng chưa thông suốt được mối manh mạng căn của chúng sanh, tức chưa đoạn được mạng căn, nên vẫn còn trong sanh tử. Giống như sóng nắng, lớp lớp chớp nhoáng hiện ra. Vì hành ấm là những niệm sanh diệt rất vi tế, rất nhanh chóng, nên nói giống như sóng nắng, không phải thật, nhưng do mê mà lầm theo. Tâm còn mê khó thấy tới chỗ này, đến được đây là tâm thiền định đã rất khá rồi mới thấy được những chỗ sanh diệt vi tế này. Nếu không khéo cũng dễ lầm. Ở đây Phật chỉ rõ hành ấm ma để chúng ta biết mà ngăn ngừa. Trong đây vẫn còn thuộc trong phạm vi hành ấm, tiếp đến mới là tướng của hành ấm hết.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các cội gốc của những lăng xăng, chớp nhoáng u ẩn đó vào được tánh đứng lặng bản lai, một phen tập khí bản lai đứng lặng, như sóng mòi diệt hết, hóa thành nước đứng, thì gọi là hết hành ấm. Người ấy có thể vượt khỏi chúng sanh trược, xét lại nguyên do cội gốc là u ẩn vọng tưởng.

GIẢNG GIẢI:

Cội gốc của những lăng xăng, chớp nhoáng, u ẩn vào được tánh đứng lặng, tức cái sanh diệt vi tế thầm kín khó thấy đó được đứng lặng thì như sóng mòi diệt, hóa thành nước đứng. Đó gọi là tướng hành ấm hết. Chúng sanh từ sanh diệt hiện ra, bây giờ sanh diệt lặng, gọi là vượt qua được chúng sanh trược.

Cội gốc sanh diệt này là vọng tưởng u ẩn, thầm kín khó thấy, do đó chúng sanh phải chịu trôi theo dòng sanh diệt này hoài. Nghĩa là sự sanh diệt vi tế, thầm kín rất khó thấy nên khó phá.

Dưới đây Phật chỉ hành ấm ma.

 

* Hai Luận Vô Nhân

CHÁNH VĂN:

A-nan nên biết, các thiện nam tử được sự nhận biết đúng đắn trong Xa-ma-tha đó, chính tâm đứng lặng sáng suốt, mười hai loài Thiên ma không có dịp khuấy phá. Trong lúc nghiên cứu tinh vi cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh. Khi cội gốc sanh diệt bản lai lộ ra, xét cái cội gốc thường chuyển động lăng xăng cùng khắp u ẩn kia, lại móng tâm so đo chấp trước trong tánh viên nguyên thì người ấy rơi vào hai thứ luận vô nhân.

GIẢNG GIẢI:

Đến đây, do định mà niệm sanh diệt đã tạm đứng lặng, nên Thiên ma bên ngoài không còn dịp khuấy phá, chỉ có sự chấp trước bên trong thôi. Thấy được cội gốc sanh diệt xưa nay lộ ra, nhưng chưa sáng tột đến gốc vô sanh, rồi ở trên gốc sanh diệt này lại móng tâm so đo, suy xét, thành ra có những kiến chấp làm ngăn ngại tâm chân thật, hay tánh Bồ-đề.

 

CHÁNH VĂN:

Một, là người ấy thấy cái gốc vốn không có nhân. Vì sao? Người ấy đã được cơ sở sanh diệt hoàn toàn lộ ra, nhưng theo tám trăm công đức của nhãn căn mà thấy trong tám muôn kiếp, thấy tất cả chúng sanh đều theo dòng nghiệp báo mà xoay vần, chết nơi đây sanh nơi kia; chỉ thấy chúng sanh luân hồi trong đó, ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt không thấy gì, bèn khởi nhận định rằng, những loài chúng sanh trong mười phương ở thế gian này, từ tám muôn kiếp trở lại đây, không nhân gì mà tự có. Do cái chấp trước, so đo như thế mà bỏ mất Chánh Biến Tri, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề.

GIẢNG GIẢI:

Đây là chỉ thấy đến dòng nghiệp báo trong tám muôn kiếp thôi, ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt không biết. Do đó khởi chấp rằng chúng sanh trong tám muôn kiếp trở lại không nhân tự có. Tức là trong vòng tám muôn kiếp chúng sanh cứ sanh diệt trong đó, ngoài tám muôn kiếp không biết gì, thấy giống như bỗng nhiên tự có, nên mới chấp là chúng sanh không nhân tự có. Trước tám muôn kiếp mờ mịt không biết gì, mà không biết rằng đó là do chỗ thấy của mình còn giới hạn trong vô minh, lại lầm chấp làm che mất tánh Bồ-đề. Ở đây thấy được tới tám muôn kiếp cũng là khá, nhưng cũng còn lầm trên cái sanh diệt mà phán đoán, do lầm chấp thành chướng ngại Bồ-đề.

 

CHÁNH VĂN:

Hai, là người ấy thấy cái ngọn không có nhân. Vì sao? Người ấy đã thấy được cái cội gốc sanh diệt, biết người sanh ra người, rõ chim sanh ra chim, chim quạ xưa nay là đen, chim hộc xưa nay là trắng; loài người, loài trời, thân vẫn đứng thẳng, các loài súc sanh, thân vẫn nằm ngang; sắc trắng không phải do rửa mà thành, sắc đen không phải do nhuộm mà có, suốt tám muôn kiếp không hề thay đổi, hết đời này tột thân hình này cũng như vậy; từ xưa đến nay không thấy gì là Bồ-đề, làm sao lại còn có việc thành đạo Bồ-đề, rồi nhận định tất cả các vật ngày nay đều không có nguyên nhân gì cả. Do so đo chấp trước như thế nên bỏ mất Chánh Biến Tri, mà sa lạc vào ngoại đạo, làm mất tánh Bồ-đề. Ấy gọi là ngoại đạo thứ nhất, lập những luận vô nhân.

GIẢNG GIẢI:

Trước là nói về gốc, chấp chúng sanh không nhân. Đoạn này là chấp cái ngọn không nhân. Tức là trong tám muôn kiếp này xét thấy người sanh ra người, chim sanh ra chim, chớ không có gì khác. Rồi quạ tự đen, chim hộc tự trắng, không phải do cái gì làm ra. Suốt tám muôn kiếp vẫn là như vậy. Người thì đi thẳng, vật đi ngang, xưa nay vẫn vậy không gì thay đổi. Như vậy đâu cần tu hành làm gì. Cái chấp này là cái nguy hiểm, thấy rằng từ trước đến nay không thấy Bồ-đề gì hết, bây giờ làm sao thành Bồ-đề được, cho rằng Bồ-đề cũng không có. Đây là cái chấp sai lầm, chướng ngại Bồ-đề rất lớn. Chấp theo cái thấy của mình, bị cái ngã mê hoặc, lầm theo đường tà mà không hay không biết.

Đây cũng do móng tâm so đo, suy xét, rồi lầm chấp theo cái thấy của mình. Cho nên tu hành phải cẩn thận, tránh những kiến chấp. Nhiều khi tu được một lúc, khởi tâm muốn xét thấu cội gốc chúng sanh, nhưng thấy không hết, thấy không tới, bởi cái mê của mình chưa sạch, nên chỉ thấy được một góc cạnh nào đó, rồi chấp theo cái góc cạnh đó, bị nó che không tiến được.

 

* Bốn Luận Biến Thường

CHÁNH VĂN:

A-nan! Nếu các thiện nam tử ở trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng sáng suốt thì Thiên ma không có dịp để khuấy phá; trong lúc xét cùng cội gốc của sanh loại, xem cái cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, lại móng tâm so đo chấp trước trong tánh viên thường thì người ấy sa vào bốn cái luận biến thường.

GIẢNG GIẢI:

Ở trong định do móng tâm so đo, chấp trước, thành bốn kiến chấp về luận biến thường. Lỗi là ở chỗ móng tâm so đo nên bị động niệm, do động niệm rồi có những kiến chấp thiên lệch, sai lầm, trái với thật nghĩa.

 

CHÁNH VĂN:

Một, là người đó xét cùng bản tánh của tâm và cảnh cả hai đều không có nhân, tu tập có thể biết trong hai muôn kiếp, mười phương chúng sanh có những sự sanh diệt đều xoay vần không hề tan mất, nên chấp cho đó là thường.

GIẢNG GIẢI:

Do công phu tu tập biết được trong vòng hai muôn kiếp, chúng sanh mãi sanh diệt xoay vần trong đó không mất, nên chấp cho là thường, do đó cũng không cần cầu Bồ-đề. Đó chỉ là do tâm so đo vọng chấp thành trái với thật nghĩa, trái với con đường Bồ-đề chân chánh.

 

CHÁNH VĂN:

Hai, là người đó xét cùng cội gốc của tứ đại, thấy tứ đại thường trụ, tu tập biết được trong bốn muôn kiếp, mười phương chúng sanh tuy có sanh diệt, nhưng đều có bản thể thường hằng, không hề tan mất nên chấp đó là thường.

GIẢNG GIẢI:

Trước là trên tâm và cảnh mà xét cho nên chỉ thấy được hai muôn kiếp, còn ở đây xét trên tứ đại, tột cùng chỗ thấy không mất. Do thấy tứ đại có biến đổi thành những tướng này tướng kia nhưng rốt cuộc cũng trở về tứ đại đất nước gió lửa, nên chấp cho là thường trụ. Là thấy được trong vòng bốn muôn kiếp, tuy chúng sanh có sanh diệt trong đó nhưng tánh của bốn đại vẫn không mất. Tức chấp bản thể tứ đại là bản thể thường hằng của chúng sanh, đây cũng là do so đo vọng chấp nên chỗ thấy có giới hạn, không đúng thật nghĩa, mê trái với tánh Bồ-đề, làm ngăn ngại con đường giác ngộ.

 

CHÁNH VĂN:

Ba, là người đó xét cùng tột cội nguồn của sáu thức nơi sáu căn, thức mạt-na chấp thọ và thức thứ tám, trong các tâm, ý, thức này thấy tánh nó vẫn thường hằng; tu tập có thể biết được trong tám muôn kiếp, tất cả chúng sanh xoay vần không mất, bản lai thường trụ; rồi xét tột tánh không mất đó mà chấp là thường.

GIẢNG GIẢI:

Ở đây xét cùng tột trong tám thức nhưng chưa qua được thức thứ tám, nên chỉ thấy đến tám muôn kiếp, chúng sanh mãi xoay vần trong đó, chấp làm tánh thường hằng. Đó cũng chỉ là vọng chấp, không ra khỏi sanh tử. Do suy xét rồi chấp, đến khi hết sức định cũng rơi vào trong sanh tử luân hồi.

 

CHÁNH VĂN:

Bốn, là người đó tưởng ấm đã hết, lý sanh không còn vận chuyển chảy dừng, tư tưởng sanh diệt đã diệt hết, thì trong lý tự nhiên thành không sanh diệt; người đó nhân tâm niệm so đo như thế mà chấp là thường. Do sự chấp thường đó, nên bỏ mất Chánh Biến Tri, phải đọa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề. Ấy gọi là ngoại đạo thứ hai, lập những luận viên thường.

GIẢNG GIẢI:

Đây do tưởng ấm hết thấy không còn vọng tưởng sanh diệt nên lý sanh không còn vận chuyển chảy hay dừng. Nhưng chỗ sanh diệt vi tế lưu chú chưa hết, tức hành ấm vẫn còn. Bởi chưa qua được hành ấm, nên chỗ vi tế niệm niệm sanh diệt trôi chảy của hành ấm vẫn chưa thấu hết, và vì chưa thấy tột được chỗ này nên mới so đo chấp trước cho đó là thường, cũng là vọng chấp. Nghĩa là trong chỗ vi tế sanh diệt trôi chảy quá nhanh đó không thấy đến kịp, vì thấy không đến kịp nên tưởng nó là thường rồi chấp vào đó, nên đâu đạt được giải thoát Niết-bàn. Đến khi hết sức định thì cũng rơi trở lại vào trong sanh tử.

Đây là do so đo chấp trước thành chướng ngại với Bồ-đề, bị ngưng trệ không tiến lên được. Chung lại, bốn thứ này là loại ngoại đạo thứ hai, lập những luận viên thường.

 

* Luận Chấp Một Phần Thường, Một Phần Vô Thường

CHÁNH VĂN:

Lại, các thiện nam tử đó, trong Tam-ma-địa chánh tâm đứng lặng, Thiên ma không còn dịp khuấy phá. Trong lúc xét cùng cội gốc sanh loại, xét cái cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, lại móng tâm so đo chấp trước giữa mình và cái khác, thì người ấy mắc vào bốn kiến chấp điên đảo, là những luận “một phần thường, một phần vô thường”.

GIẢNG GIẢI:

Ở đây, khi tâm được định (Tam-ma-địa), lại khởi tâm xét cội gốc của mười hai loài chúng sanh, là chỗ sanh diệt vi tế thường chuyển động u ẩn khó thấy nơi hành ấm; rồi móng tâm so đo chấp trước giữa mình và chúng sanh cùng thế giới, lại sanh cái kiến chấp một nửa là thường, một nửa là vô thường, cũng thuộc cái thấy điên đảo trái với chánh tri kiến, lẩn quẩn trong hai bên đối đãi.

 

CHÁNH VĂN:

Một, là người ấy xét tánh diệu minh vắng lặng khắp giáp mười phương thế giới, cho là cái thần ngã rốt ráo; do đó mà chấp cái ta cùng khắp cả mười phương đứng lặng sáng suốt không lay động, còn tất cả chúng sanh thì ở trong tâm ta, tự sanh tự chết, vậy tâm tánh của ta thì gọi là thường, còn những cái sanh diệt kia, thì thật là vô thường.

GIẢNG GIẢI:

Đây là xét thấy tánh diệu minh vắng lặng khắp mười phương, lại lầm cho đó là thần ngã rốt ráo trùm khắp của ngoại đạo (ngoại đạo Số luận), theo đó sanh kiến chấp cho tâm tánh của ta trùm khắp cả mười phương vì nó bao quát hết nên là thường, còn chúng sanh thì ở trong đó mà tự sanh diệt nên chúng sanh là vô thường. Từ đó thành cái chấp một bên là thường, một bên là vô thường, cũng còn nằm trong cái thấy sanh diệt đối đãi. Cho nên, khi tu đến đây nếu không khéo lại thành vọng chấp mà chướng ngại Bồ-đề.

CHÁNH VĂN:

Hai, là người ấy không xét cái tâm, lại xét khắp hằng sa quốc độ trong mười phương, thấy có chỗ bị kiếp tai phá hoại, thì cho là có tánh rốt ráo vô thường, còn những chỗ không bị kiếp tai phá hoại, gọi là rốt ráo thường.

GIẢNG GIẢI:

Ở trên, xét tâm tánh rồi nhìn ra chúng sanh, thấy chúng sanh ở trong tâm, còn đây xét ra ngoài mười phương cõi nước thế giới bên ngoài, thấy có chỗ vô thường, có chỗ thường. Nghĩa là khi tới kiếp tam tai phá hoại tất cả không còn, nên thuộc về vô thường; còn chỗ tam tai không lên đến nên không bị phá hoại như cõi Tứ Thiền là thường còn, tức chấp thường. Do cái thấy có giới hạn rồi lầm chấp theo cái thấy giới hạn đó, không phải thật nghĩa. Đó gọi là vọng chấp.

CHÁNH VĂN:

Ba, là người ấy quán xét riêng tâm mình nhỏ nhiệm vi tế, giống như vi trần lưu chuyển trong mười phương mà tánh không dời đổi, lại có thể khiến cái thân này sanh rồi lại diệt, rồi chấp cái tánh không mất đó là tánh thường của mình, còn tất cả sự sống chết từ tánh ấy sanh ra thì gọi là vô thường.

GIẢNG GIẢI:

Đây tức chấp tâm tánh là thường, còn sanh tử là vô thường. Bởi sanh tử sanh ra từ trong tâm tánh nên là vô thường, còn tâm tánh là thường. Cái thấy vừa thường vừa vô thường đó là cái thấy hai bên, thuộc cái thấy sanh diệt, nhưng lại không biết bám vào đó chấp là thật nên thành chướng ngại.

 

CHÁNH VĂN:

Bốn, là người ấy biết tưởng ấm hết, thấy dòng hành ấm mới chấp cái thường lưu chuyển của hành ấm là tánh thường, còn những sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm v.v.. nay đã diệt hết, thì gọi là vô thường. Do đây mà chấp trước so đo, “một phần thường, một phần vô thường”, đọa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề. Ấy gọi là ngoại đạo thứ ba, lập những luận “một phần thường, một phần vô thường”.

GIẢNG GIẢI:

Phần thứ tư này là thấy dòng sanh diệt tương tục không gián đoạn của hành ấm. Hành ấm là những niệm niệm sanh diệt tương tục không dừng, nó có sự tương tục giống thác nước đổ xuống từ giọt từ giọt nối nhau rất nhanh nên nhìn không thấy kịp, lầm cho là thường. Còn sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm đã diệt nên chấp nó là vô thường, thành ra cũng là chấp một phần thường, một phần vô thường, cũng thuộc cái thấy có giới hạn trong phạm vi hành ấm, chưa biết là vẫn còn thức ấm, nên Phật gọi là đọa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề. Bốn thứ này là loại ngoại đạo thứ ba, lập những luận “một phần thường, một phần vô thường”, khiến những người không biết phải bị lầm mê.

 

* Bốn Luận Hữu Biên

CHÁNH VĂN:

Lại, các thiện nam tử trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không dịp khuấy phá, khi xét cùng cội gốc sanh loại, xét cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, lại sanh chấp trước so đo về phần vị, người đó rơi vào bốn thứ luận hữu biên.

GIẢNG GIẢI:

Hữu biên là có bờ mé, có ranh giới. Tức là xét cội gốc thường chuyển động u ẩn sanh diệt của hành ấm, rồi so đo, suy luận thành kiến chấp nên ngăn ngại cái thấy chân thật.

 

CHÁNH VĂN:

Một, là người ấy so đo cái cội gốc sanh diệt, lưu chuyển không dừng, rồi chấp quá khứ, vị lai là hữu biên, chấp tâm tương tục là vô biên.

GIẢNG GIẢI:

Loại thứ nhất do so đo, suy tánh cội gốc sanh diệt lưu chuyển không dừng, thấy quá khứ qua rồi, vị lai chưa tới như có bờ mé, có biên giới; còn tâm tương tục hiện tại liên tục không dừng giống như không có bờ mé, thành chấp một bên là hữu biên, một bên là vô biên. Đó cũng là còn trong tâm động niệm kia đây, do so đo chấp trước chưa thấy suốt qua được nên còn kẹt ở ba thời, thành cái thấy có giới hạn. Đó là loại thứ nhất y cứ theo ba thời mà chấp.

 

CHÁNH VĂN:

Hai, là người đó xét tám muôn kiếp thấy chúng sanh, còn trước tám muôn kiếp thì bặt không nghe thấy gì, rồi chấp chỗ không nghe thấy gọi là vô biên, còn chỗ có chúng sanh gọi là hữu biên.

GIẢNG GIẢI:

Người này do khi tu thiền định có được một phần định tâm nên xét thấy được chúng sanh ở trong tám muôn kiếp, còn trước tám muôn kiếp là không thấy. Do chỗ thấy còn giới hạn rồi so sánh thành vọng chấp có đây kia mà chướng ngại. Còn với con mắt Phật, thấy thấu qua tám muôn kiếp nên đâu thấy đây hữu biên kia vô biên v.v... gì nữa.

 

CHÁNH VĂN:

Ba, là người đó chấp rằng mình biết cùng khắp là được tánh vô biên, còn tất cả các người kia hiện ra trong cái biết của mình, mà mình không hề nhận biết cái biết của họ, vậy thì những người kia không được tâm vô biên và chỉ có tánh hữu biên.

GIẢNG GIẢI:

Đây do khi tu cái biết được rộng khắp, rồi chấp vào cái biết khắp đó cho là vô biên. Nhưng nếu lặng tâm xét cho rõ một chút, có thật là mình được tánh vô biên không? Thấy cái biết của mình là biết khắp, còn những người kia hiện trong cái biết của mình mà mình lại không nhận biết cái biết của họ, vậy là cái biết của mình có thật vô biên chưa? Nếu cái biết của mình thật là vô biên thì phải biết suốt luôn cái biết của họ mới là vô biên nhưng không được như vậy, tức là còn giới hạn, vậy là nó vẫn còn hữu biên mà lại chấp là vô biên. Đó là vọng chấp.

Xét thêm nữa, cũng do cái ngã chấp mà ra. Thấy giống như mình là trên, là hơn hết không ngờ còn sai sót mà không hay. Tóm lại, đó cũng là bị tự ngã mê hoặc nên không thấy hết được chỗ lầm của mình.

 

CHÁNH VĂN:

Bốn, là người ấy khi xét cùng hành ấm là không, do chỗ thấy đó mà tâm so đo tất cả chúng sanh trong mỗi cái thân, gồm có phân nửa sanh, phân nửa diệt, và chứng tỏ sự vật có ra trong thế giới, phân nửa tánh hữu biên, phân nửa tánh vô biên.

GIẢNG GIẢI:

Đến đây, xét cho thấu đến cùng hành ấm là không, vì hiện tại nó vẫn còn tương tục sanh diệt, vẫn chưa qua khỏi được niệm sanh diệt nên theo chỗ thấy đó suy xét cho rằng thân của mỗi chúng sanh có phân nửa là sanh, phân nửa là diệt. Nhân đó, suy ra thế giới chấp thành phân nửa hữu biên, phân nửa vô biên. Nhưng đó cũng là nằm trong niệm sanh diệt vọng chấp, không có thật nghĩa. Đây là thấy cái sanh thì có diệt nên giống như có giới hạn, có bờ mé; còn thấy cái diệt, khi diệt rồi không biết đến đâu, nên cho cái diệt là vô biên. Đâu biết nó diệt rồi, khi đủ duyên nó sanh trở lại thì nó cũng là hữu biên, mới thấy đó là cái lầm, cũng nằm trong niệm sanh diệt.

Phật kết lại:

CHÁNH VĂN:

Do những so đo chấp trước hữu biên, vô biên như thế mà đọa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề. Ấy gọi là ngoại đạo thứ tư, lập những luận hữu biên.

GIẢNG GIẢI:

Kết lại, do niệm so đo suy luận đối đãi mà chấp như thế. Đối đãi tức là so sánh cái này với cái kia, vọng chấp thành ngăn ngại cái thấy chân thật Bồ-đề, do đó mới lạc vào ngoại đạo. Nếu người khéo tu chút nữa, soi trở lại trước khi động niệm so đo đó, cái gì là hữu biên, vô biên!? Lúc đó vượt qua suốt cả hữu biên, vô biên, đâu còn chỗ nào để so đo nữa. Thấy thấu trở lại chỗ đó, là vượt qua cái lầm mê này.

* Bốn Luận Càn Loạn Bất Tử

CHÁNH VĂN:

Lại, các thiện nam tử ở trong Tam-ma-đề, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá, trong lúc xét cùng cội gốc sanh loại. Xét cái cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, sanh lòng so đo chấp trước về tri kiến, thì người đó mắc vào bốn thứ luận hư vọng biến kế, điên đảo càn loạn bất tử.

GIẢNG GIẢI:

Người này khi tu tập cũng được một phần thiền định trong Tam-ma-địa, rồi động niệm so đo về chỗ thấy biết (tri kiến), do đó thành bốn thứ vọng chấp càn loạn bất tử. Đây thuộc về ngụy biện, nói lộn xộn cho người ta mờ mịt không biết đâu để gạn lọc, khiến người không biết rõ để gạn hỏi.

 

CHÁNH VĂN:

Một, là người đó quán sát cội gốc của sự biến hóa, thấy chỗ dời đổi gọi là biến, thấy chỗ tương tục gọi là thường, thấy chỗ thấy được gọi là sanh, thấy chỗ không thấy được gọi là diệt, chỗ các nhân tương tục không có đứt đoạn gọi là thêm, chính trong cái tương tục chỗ rời nhau ở giữa gọi là bớt, chỗ mỗi mỗi cái sanh ra gọi là có, chỗ thường thường mất đi, thì gọi là không, dùng lý quán sát tất cả và dùng tâm thấy nó sai biệt; có người đến cầu pháp, hỏi nghĩa thì đáp rằng: “Nay ta cũng sanh, cũng diệt, cũng có, cũng không, cũng thêm, cũng bớt”. Trong tất cả thời đều nói lộn xộn khiến cho người nghe không thể hiểu được.

GIẢNG GIẢI:

Nói cho người nghe nhưng nghe rồi không ghi nhận được thì làm sao hiểu! Sự thật do không rõ nghĩa nên nói không rõ ràng khiến người nghe không hiểu. Sở dĩ nói như vậy là tránh cho người ta không biết chỗ để gạn hỏi. Tức thấy có biến có thường, có thêm có bớt, có sanh có diệt, có có có không v.v... thành ra không xác quyết được nên đáp phân hai: “Cũng có cũng không, cũng thêm cũng bớt v.v...”.

Trong Lăng Nghiêm Chỉ Chưởng có giải: “Đến đây là tưởng ấm hết, hành ấm lộ bày ra, mới tiến tới quán hành ấm là cội gốc biến hóa. Nó đã là cội gốc biến hóa thì thể của nó là dời đổi, nên nói thấy có chỗ dời đổi. Có dời đổi tức có biến chuyển không dừng, gọi là biến. Tuy có đổi thay nhưng trước sau nó tương tục tiếp nối luôn nên thấy chỗ tương tục. Có chỗ tương tục thì không đoạn dứt nên gọi là hằng. Đây là cặp đối đãi biến-hằng.

Còn trong đây nói rằng: “thấy chỗ thấy được gọi là sanh”, nghĩa là trong tám muôn kiếp hay thấy được chỗ thấy đó, trong đó tợ như có chúng sanh sanh ra nên gọi là sanh. Rồi chẳng thấy chỗ thấy được gọi là diệt, tức ngoài tám muôn kiếp chẳng thấy chỗ thấy được gì, tợ như chúng sanh diệt mất, nên gọi là diệt. Đây là cặp đối đãi sanh-diệt.

Rồi nhân tương tục là, có chúng sanh tức có sanh diệt, đây lại ở trong cái chúng sanh có sanh diệt đó riêng khởi ra cái thấy khoảng giữa có cái nhân (nối tiếp giữa sanh và diệt); như hành ấm của ấm trước đã diệt, rồi hành ấm của hậu ấm (thân sau) chưa sanh, khoảng giữa ắt có cái nhân tương tục (để nối lại hai cái trước sau). Nhưng cái nhân tương tục tức thân trung ấm, mà thể của nó là thức ấm. Do người này chẳng biết được là ngoài hành ấm còn riêng có thức ấm, mà chỉ thấy có tánh kia chẳng đoạn, tợ như nó có nhiều ra một pháp nữa nên gọi là tăng (thấy có thêm cái nữa). Rồi chính trong cái tương tục, tức cái trung ấm tương tục đó cũng có cái hành ấm vi tế nhưng do người kia tâm còn thô chưa thấy thấu được, mà chỉ thấy chỗ nó lìa hở ra trong đó, tợ như thiếu một cái hành, nên gọi là giảm. Đây là cặp đối đãi tăng-giảm.

Rồi mỗi mỗi chỗ sanh là, có chúng sanh là có sai biệt, đây lại ở trong chỗ chúng sanh sai biệt đó riêng khởi ra mỗi cái chấp có chỗ sanh. Như người trở lại sanh người, chim trở lại sanh chim, mỗi loại mỗi loại đều có chỗ sanh nhau. Tuy mỗi mỗi sanh nhau mà trong khoảng đó cũng có thay hình đổi báo, nhưng người này chẳng biết được mới vọng cho là mỗi loại nhất định có chỗ sanh, do đó mà gọi là có. Rồi chỗ xen xen nhau mất đi, như người chẳng sanh chim, chim cũng chẳng sanh người, tuy vậy mà trong người cũng có tánh chim, trong chim cũng có tánh người. Nhưng do người này không biết hết, vọng cho là kia đây nhất định xen lẫn nhau cùng mất, bởi đó mà gọi là không. Đây là cặp đối đãi có-không”.

Còn câu: “Dùng lý quán tất cả, dùng tâm thấy có sai khác”, chỗ này Ngài Hàm Thị giải là: “Dùng lý thiền thì đều ở chỗ nhất quán với nhau, mà dùng tâm phân biệt thì có tám tướng”. Như vậy, nếu dùng lý mà quán thì không có vấn đề, nhưng động niệm phân biệt thành có sai lệch, rồi tâm không quyết định được rõ ràng thành ra mới đáp lộn xộn, không nhất định.

Đó là lối đáp bịt miệng để người ta không biết chỗ gạn hỏi. Có chỗ gọi là đáp ngụy biện, là càn loạn bất tử. Đó là do tâm chưa xác quyết rõ ràng. Đây là loại ngoại đạo thứ nhất chấp trong tám thứ.

 

CHÁNH VĂN:

Hai, là người ấy chính xét cái tâm luôn luôn là không, nhân cái không mà được chứng; có người đến hỏi chỉ đáp một chữ, chỉ nói là “không”; ngoài chữ “không” ra, không nói gì cả.

GIẢNG GIẢI:

Người này xét nơi tâm thấy niệm niệm lẫn nhau diệt đều đến chỗ không, tức là thấy nó không dừng trụ mà luôn hướng đến chỗ diệt. Là ngay khi sanh nó liền diệt, rồi bám vào chỗ thấy không đó, lấy đó làm chỗ chứng. Cho nên, hễ ai đến hỏi đạo thì chỉ đáp chữ “không”, không nói thêm gì hết vì sợ nói nhiều người ta gạn tiếp không biết trả lời. Người không biết tưởng vị này hiểu đạo sâu xa, hóa ra bị lầm mà không hay. Bởi do chỗ thấy chưa chính xác, chưa đến nơi nên chỉ đáp một chữ vậy thôi.

 

CHÁNH VĂN:

Ba, là người ấy chính xét cái tâm mỗi mỗi đều có chỗ, nhân cái có mà được chứng; có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là “phải”; ngoài chữ “phải” ra, không nói gì cả.

GIẢNG GIẢI:

Ở trước xét mỗi niệm đi đến chỗ diệt; đây ngược lại, xét mỗi niệm là sanh, tức thấy theo chiều sanh. Mà mỗi niệm thấy sanh tức là có chỗ; vì có chỗ nên thấy là có, rồi lấy đó làm chỗ chứng. Vì vậy, khi ai đến hỏi đạo chỉ đáp một chữ “phải”, ý không muốn cho người gạn hỏi nữa, không nói nhiều. Đó cũng là một loại ngoại đạo.

 

CHÁNH VĂN:

Bốn, là người ấy chấp cả có và không. Do cảnh rời rạc mà tâm cũng rối loạn; có người đến hỏi thì đáp rằng: “Cũng có tức là cũng không, trong cái cũng không, chẳng phải là cũng có”; tất cả đều càn loạn không thể nói hết được.

GIẢNG GIẢI:

Tức là đáp lộn xộn khiến cho người ta không biết đâu mà hỏi nữa. Như vậy là chưa thấu tột được cội nguồn, trên tướng sanh diệt tương tục của hành ấm vừa thấy là có, cũng vừa thấy là không rồi không xác quyết được thế nào nên chỗ đáp cũng rối loạn theo.

Phật kết lại:

 

CHÁNH VĂN:

Do cái so đo chấp trước càn loạn, rỗng không như thế mà sai lạc vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ năm, lập nên luận hư vọng nghĩ suy chấp trước về bốn tánh điên đảo, càn loạn bất tử.

GIẢNG GIẢI:

Do khởi tâm động niệm so đo chấp trước mà lạc vào ngoại đạo, ngăn ngại tánh Bồ-đề không thấy được như thật, lẩn quẩn trong cái thấy sanh diệt chưa ra khỏi.

 

* Mười Sáu Luận Hữu Tướng

CHÁNH VĂN:

Lại, các thiện nam tử ở trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; trong lúc xét cùng cội gốc sanh loại, xét cội gốc thường chuyển động u ẩn kia sanh tâm so đo chấp trước nơi dòng sanh diệt vô tận, thì người ấy sa vào tư tưởng điên đảo, chấp sau khi chết có tướng.

GIẢNG GIẢI:

Đây là trên tướng hành ấm sanh diệt, dời đổi không cùng đều không có thật tánh mà lại cho là thật nên mới so đo chấp là sau khi chết có tướng, đó gọi là điên đảo chớ không phải thật, khiến lạc vào đường tà.

 

CHÁNH VĂN:

Hoặc tự củng cố cái thân mình, bảo rằng sắc là ta, hoặc khi thấy cái ta bao trùm khắp các cõi nước, rồi bảo rằng ta có sắc; hoặc thấy các tiền trần kia, theo ta mà xoay trở về, rồi bảo rằng, sắc thuộc về ta; hoặc thấy cái ta nương trong hành mà tương tục, rồi bảo rằng ta ở nơi sắc, những người đó đều so đo chấp rằng, sau khi chết có tướng, xoay vần như thế, có đến mười sáu tướng.

GIẢNG GIẢI:

Củng cố thân mình tức là chưa rời khỏi ngã chấp, mãi bám vào thân này rồi lẩn quẩn trong cái ngã sanh diệt. Hoặc khi thấy ta bao trùm khắp các cõi nước bảo rằng ta có sắc, cũng là bám vào cái ngã. Hoặc thấy các tiền trần đó theo ta rồi xoay trở về mình, nên cho sắc thuộc về ta. Hoặc thấy cái ta này nương trong các hành mà tương tục, liền bảo là ta ở nơi sắc. Như thế cứ lẩn quẩn trong ngã chấp rồi xoay vần thành vọng chấp điên đảo. Đây nói bốn tướng thuộc về sắc: Sắc là ta; ta có sắc; sắc thuộc về ta; ta ở nơi sắc. Rồi thọ, tưởng và hành mỗi thứ cũng xoay vần thành mười sáu tướng. Từ đó suy ra sau khi chết, nó cũng còn có tướng, tức không phải hoàn toàn mất hết. Đó là chấp chung.

Đây nói về phần chấp riêng:

 

CHÁNH VĂN:

Từ đó, hoặc còn chấp rằng rốt ráo phiền não và rốt ráo Bồ-đề, hai tánh ấy cùng đuổi nhau mà không đụng chạm gì nhau.

GIẢNG GIẢI:

Ở đây lại chấp thêm là thật có tánh phiền não và thật có tánh Bồ-đề cùng tồn tại song song nhưng không đụng chạm, tức chúng không phá hoại được nhau. Phiền não mãi là phiền não, Bồ-đề cũng mãi là Bồ-đề, đều là thật hết. Chấp như thế là hết tu. Bởi nếu phiền não mãi là phiền não, Bồ-đề mãi là Bồ-đề rồi thì dù có tu cũng không thể hết phiền não, do đó cũng khỏi cần phải cầu Bồ-đề. Đó là ngăn con đường tiến đến Bồ-đề, xa rời Chánh giác, là chỗ chấp nguy hiểm.

Phật kết luận:

CHÁNH VĂN:

Do so đo chấp sau khi chết là có tướng như vậy, nên rơi vào ngoại đạo, làm mất tánh Bồ-đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ sáu, lập những luận điên đảo, nhận trong ngũ ấm, sau khi chết là có tướng.

GIẢNG GIẢI:

Đến đây Phật kết lại, do chỗ so đo chấp như trên là trái với chánh đạo, là còn bám trong cái ngã nên trái xa tánh Bồ-đề, là chướng đạo phải rơi vào đường tà.

 

* Tám Luận Vô Tướng

CHÁNH VĂN:

Lại, các thiện nam tử trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cội gốc sanh loại, xét cái cội gốc thường chuyển động u ẩn kia lại sanh tâm so đo chấp trước nơi ba ấm; sắc, thọ, tưởng đã trừ diệt rồi, thì người đó sa vào những tư tưởng điên đảo, chấp sau khi chết không có tướng.

GIẢNG GIẢI:

Trường hợp này đã vượt qua ba ấm nêu trên, tức chúng đã diệt rồi mà diệt tức thành không. Trước là có bây giờ lại là không, do đó suy xét về hành ấm đoán biết giờ tuy còn đó nhưng sau nó cũng đến chỗ đoạn diệt, từ đó đưa đến cái chấp là sau khi chết không còn có tướng, nghiêng về một bên thuộc về chấp đoạn diệt.

CHÁNH VĂN:

Người đó thấy sắc ấm diệt, thân hình không có nhân vào đâu, xét tưởng ấm diệt, tâm không bị ràng buộc vào đâu, biết thọ ấm diệt không còn dính liền vào đâu, tánh các ấm đó đã tiêu tán, dẫu có lý sanh mà không thọ, không tưởng đồng như cây cỏ, rồi nghĩ rằng, thể chất hiện tiền còn không thể được, làm sao sau khi chết lại còn có các tướng. Nhân đó nghiệm xét sau khi chết không có tướng; xoay vần như thế, có đến tám luận vô tướng.

GIẢNG GIẢI:

Ở đây xét thấy sắc ấm đã diệt, thân không còn là nhân để nó nương; rồi thọ ấm diệt thì tâm không còn chỗ để liên hệ; đến tưởng ấm diệt, thì tâm cũng hết chỗ để buộc vào và vin theo. Thế nên tuy hành ấm vẫn còn nhưng đã mất điểm tựa. Đây mới nói: “Dẫu có lý sanh mà không thọ, không tưởng thì đồng như cây cỏ” vậy thôi. Xét rõ thấy hiện tại còn như vậy thì sau khi chết có còn được gì! Thành ra mới chấp sau khi chết không còn tướng nào cả, đều là không, nghiêng về một bên đoạn diệt. Như thế sắc, thọ, tưởng, hành xoay vần có đến tám thứ vô tướng: hiện tại không, sau khi chết cũng không v.v...

Đây lại thêm cái chấp riêng:

CHÁNH VĂN:

Đây hoặc chấp Niết-bàn, nhân quả tất cả đều không, chỉ có danh tự suông, rốt ráo đều đoạn diệt.

GIẢNG GIẢI:

Nhân đó lại chấp Niết-bàn, nhân quả cũng đều không, chết là xong không còn gì, cho nên cái chấp đoạn diệt này rất là nguy hiểm. Vì nếu không nhân quả, không Niết-bàn vậy tu để làm gì? Khiến người chỉ biết thụ hưởng thoải mái để chết rồi là xong. Đây gọi là cái chấp đoạn diệt.

Đây Phật kết luận:

CHÁNH VĂN:

Do cái so đo chấp sau khi chết là không có tướng như vậy nên sa vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ bảy, lập những thứ tâm luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm, sau khi chết không có tướng.

GIẢNG GIẢI:

Kết lại, do tâm so đo động niệm thành vọng chấp sai lầm, lạc vào tà đạo ngăn ngại cái thấy chân thật, xa mất tánh Bồ-đề, thật là đáng tiếc! Tuy tu cũng có định lực nhưng khởi tâm động niệm so đo chấp trước thành sai! Biết vậy rồi chúng ta càng phải cẩn thận khi tu hành.

 

* Tám Thứ Phi

CHÁNH VĂN:

Lại, các thiện nam tử trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cội gốc sanh loại, xét cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, trong khi hành ấm còn mà thọ, tưởng đã diệt, đồng thời khởi so đo chấp cả hai cái có và không, tự thể phá nhau. Người ấy rơi vào cái luận điên đảo, chấp sau khi chết không phải có, không phải không.

GIẢNG GIẢI:

Đây suy xét ba ấm sắc, thọ, tưởng đều không, hành ấm đang hiện hành là có. Bởi ở vị này chưa qua khỏi hành ấm, vẫn thấy hành ấm hiện hữu mới so đo suy xét cho cả hai tự thể của cái có và cái không phá lẫn nhau. Nói là không nhưng cái này hiện đang là có, thành không thể nói là không; còn cái này đang có, lại thấy cái kia đã không rồi thì không lẽ nó có, trường hợp này gọi là hai tự thể phá lẫn nhau không quyết định được. Lỗi là còn thấy có và không đều có tự thể. Do đó mới thành cái chấp sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không. Tức người này suy xét hiện tại đã vậy thì sau khi chết nó cũng vậy. Nghe nói thế thấy giống như thiền không chấp có-không, nhưng sự thật vẫn còn mắc kẹt nơi có không. Đây do so đo suy xét thành chấp, vẫn còn nằm trong bốn câu.

 

CHÁNH VĂN:

Người đó thấy những ấm sắc, thọ, tưởng thì có, nhưng chẳng phải có. Xét trong hành ấm chuyển biến, không nhưng chẳng phải không, xoay vần như thế, cùng tột các ấm, làm thành tám tướng, tướng không phải có, không phải không, tùy gặp duyên gì đều nói, sau khi chết có tướng, không tướng.

GIẢNG GIẢI:

Trường hợp này xét rõ thấy ba ấm sắc, thọ, tưởng là có nhưng hiện nay lại là không, tức chẳng phải có; còn hành ấm hiện có nhưng luôn luôn chuyển biến, niệm niệm sanh diệt liên tục không dừng, tức rốt ráo cũng phải thành không. Xét cả bốn ấm đều có tám tướng như thế, tức là chẳng phải có chẳng phải không, từ đó suy ra các thứ rồi tùy gặp duyên gì đến cũng đều nói sau khi chết là có tướng, không tướng. Tức cũng không có quyết định rõ ràng làm người học mù mờ không biết nghĩa về đâu.

 

CHÁNH VĂN:

Lại, xét các hành ấm sanh diệt thay đổi liên tục, tâm phát tỏ suốt, chấp tất cả đều không phải có, không phải không, lộn lạo hư thật.

GIẢNG GIẢI:

Đây chấp tất cả đều chẳng phải có chẳng phải không, hư thật không rõ ràng. Giữa cái hư cái thật không xác quyết rõ được, tức mất chỗ y cứ cũng làm mờ mịt người học không biết phải hiểu sao!

Đây Phật kết luận:

 

CHÁNH VĂN:

Do so đo, chấp sau khi chết đều không phải có, không phải không, như thế mà đường sau mờ mịt, không còn lối đi, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ tám, lập những luận điên đảo, chấp trong năm ấm sau khi chết, chẳng phải có, chẳng phải không.

GIẢNG GIẢI:

Nói rõ lại cũng do tâm động niệm so đo suy xét, lỗi là chỗ đó. Do vọng chấp theo chiều có không trái với cái thấy như thật, thành rơi vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề. Gọi là đường sau mờ mịt không còn lối đi, thật là đáng tiếc!

Đây là loại ngoại đạo thứ tám.

 

*Bảy Luận Đoạn Diệt

CHÁNH VĂN:

Lại, các thiện nam tử trong Tam-ma-địa, chánh tâm lóng đứng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cội gốc sanh loại, xét cái cội gốc thường chuyển động u ẩn kia, sanh tâm so đo chấp mãi sau này là không, người ấy mắc vào bảy thứ luận đoạn diệt.

GIẢNG GIẢI:

Xét thấy hành ấm niệm niệm luôn dời đổi không dừng, nên mới hướng về chỗ diệt chấp là sẽ đi đến chỗ đoạn diệt, cho rằng sau này tất cả đều là không. Chấp này rất nguy hiểm!

 

CHÁNH VĂN:

Hoặc chấp thân này diệt, hoặc chấp ngũ dục tận diệt, hoặc chấp hết khổ tận diệt, hoặc chấp tột vui diệt, hoặc chấp xả tột diệt; xoay vần như thế cùng tột đến bảy mé hiện tiền tiêu diệt, diệt rồi không trở lại nữa.

GIẢNG GIẢI:

Trong Lăng Nghiêm Chỉ Chưởng giải thích: “Chấp thân này diệt tức cho sau khi chết là hết, thân này không còn sanh trở lại.

Hoặc chấp ngũ dục tận diệt, là theo cõi trời Dục giới lấy ngũ dục làm nhân sanh. Khi dục hết là tận diệt, không còn trở lại.

Hoặc chấp hết khổ tận diệt, là tiến lên trời Sơ thiền, lấy chán khổ làm nhân sanh. Khi khổ hết thì tận diệt, không còn trở lại.

Hoặc chấp tột vui diệt, là thuộc trời Nhị thiền, lấy cái vui làm nhân sanh. Khi được tột cái vui thì nó tận diệt, không còn trở lại.

Hoặc chấp xả tột diệt, là thuộc trời Tam thiền, lấy cái vui tột làm thân hình quả báo của mình. Khi xả tột thì nó tận diệt, không còn trở lại.

Rồi xoay vần, Tứ thiền lấy tột xả làm thân hình quả báo, từ đây vọng chấp lên cõi Không Vô Biên Xứ, là diệt. Rồi Không Xứ chấp đến Thức Xứ, là diệt hết. Cứ thế xoay vần tiến lên đến Phi Phi Tưởng Xứ là bảy chỗ”. Gọi là cùng tột đến bảy mé hiện tiền đều đưa đến chỗ diệt hết, không còn trở lại, tức là chấp đoạn diệt cuối cùng tất cả đều trở về không.

Đây Phật kết luận:

 

CHÁNH VĂN:

Do những so đo chấp sau khi chết là đoạn diệt, như thế sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ chín, lập những luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm, sau khi chết là đoạn diệt.

GIẢNG GIẢI:

Do tâm động niệm so đo chấp trước thành điên đảo, lạc vào các đường tà, trái với chánh tri kiến, xa mất con đường Bồ-đề. Cho nên, chúng ta cần phải biết để tránh. Tránh đây tức không phải khi tu rồi khởi niệm so đo suy luận cái mình thấy được, lấy làm chỗ hiểu rồi chấp vào đó, không biết là cái thấy của mình còn có giới hạn chưa qua khỏi có-không. Chấp là thành chướng ngại. Tiếp, đến loại ngoại đạo thứ mười:

 

*Luận Năm Thứ Niết-Bàn Hiện Có

CHÁNH VĂN:

Lại, các thiện nam tử trong Tam-ma-địa, chánh tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cội gốc sanh loại, xét cội gốc thường chuyển động u thanh kia, so đo chấp đời sau này là có; người ấy sa lạc vào các luận năm thứ Niết-bàn hiện có.

GIẢNG GIẢI:

Đây không chấp theo chiều niệm niệm diệt như trước, mà theo chiều niệm niệm sanh. Tức thấy hành ấm niệm niệm sanh khởi, nên cho rằng sau khi chết cũng vẫn còn, mới luận thành năm thứ Niết-bàn hiện có; tức chấp ngay khi còn sống vẫn có được cái vui Niết-bàn. Cái chấp này là thọ hưởng ngũ dục mà không cần tiêu diệt.

 

CHÁNH VĂN:

Hoặc nhận Dục giới là chuyển y chân chánh do chỗ xem thấy sáng suốt cùng khắp và sanh lòng yêu mến. Hoặc nhận Sơ thiền là chuyển y chân chánh, vì tâm không còn lo buồn. Hoặc nhận Nhị thiền vì tâm không còn khổ thọ. Hoặc nhận Tam thiền vì rất vui theo. Hoặc nhận Tứ thiền khổ vui đều hết. Vì chấp không còn chịu sanh diệt trong luân hồi này, người đó lầm trong cõi trời hữu lậu, khởi hiểu vô vi lầm sự an ổn, cho năm chỗ ấy là chỗ nương tựa thù thắng, thanh tịnh; xoay vần như thế, rốt ráo có năm chỗ.

GIẢNG GIẢI:

Chấp về cảnh trời Dục giới và Sắc giới, lấy làm chỗ vui an ổn cho đó là Niết-bàn, nên gọi chấp Niết-bàn hiện có là vậy.

1. Nhận Dục giới làm chuyển y chân chánh, tức nhận Dục giới là Niết-bàn. Do chỗ xem thấy tròn sáng mới sanh tâm yêu thích tướng sáng đó, cho đó là chỗ thật an ổn, gọi là Niết-bàn hiện có.

2. Nhận cái vui của Sơ thiền làm Niết-bàn, vì Sơ thiền là được ly dục sanh hỷ lạc, lìa được ngũ dục không còn phải lo, do đó chấp làm Niết-bàn.

3. Nhận cái vui của Nhị thiền làm Niết-bàn, vì tâm không còn khổ thọ, bởi đã được tâm định, sanh hỷ lạc, chấp là Niết-bàn.

4. Nhận cái vui của Tam thiền làm Niết-bàn, bởi đến Tam thiền được cái vui vi diệu, là cực vui, không còn thô động như ở trước. Đây lấy chỗ đó cho là Niết-bàn.

5. Nhận Tứ thiền khổ vui đều xả, chấp là không còn sanh diệt trong luân hồi, nhận đó làm Niết-bàn. Chỗ này nhiều vị tu cũng bị lầm. Người tu đến Tứ thiền, thấy được xả niệm thanh tịnh nên cho là Niết-bàn, nhưng sự thật đây còn thuộc Tứ thiền, là thuộc về thiền của phàm phu.

Cho nên, thời Ngài Ưu-ba-cúc-đa cũng có vị Tỳ-kheo chứng được Tứ thiền, rồi cho là mình đã chứng A-la-hán, trong khi ngã mạn chưa hết. Ngài Ưu-ba-cúc-đa mới dùng phương tiện giáo hóa khiến vị Tỳ-kheo này cho là Ngài Ưu-ba-cúc-đa tu chưa bằng mình, Ngài Ưu-ba-cúc-đa mới cảnh tỉnh cho Tỳ-kheo kia biết là thầy vẫn còn ngã mạn, chưa phải thật A-la-hán. Nhờ vậy, vị Tỳ-kheo có tỉnh. Trong kinh kể là Tỳ-kheo Vô Văn chứng được Tứ thiền, lầm cho là Niết-bàn. Đến khi gần chết, thấy thân trung ấm của cảnh trời Tứ thiền hiện ra, ông mới bài bác Phật nói Niết-bàn là không thật có, như câu: “Tôi chứng Niết-bàn rồi, sao giờ lại còn có thân trung ấm sanh?”.

Đây cũng vậy, chấp Tứ thiền làm Niết-bàn, cho đến đây là không còn chịu sanh tử luân hồi, nhưng sự thật cũng còn nằm trong ba cõi. Đó chỉ là vọng chấp, còn có chỗ duyên theo, chưa rời tâm duyên, cuối cùng cũng thuộc sanh diệt, nên cần phải biết để khỏi bị lầm.

 

CHÁNH VĂN:

Do so đo chấp năm thứ Niết-bàn hiện có như thế, mà sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ-đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ mười, lập những luận điên đảo chấp trong ngũ ấm có năm thứ Niết-bàn hiện có.

GIẢNG GIẢI:

Tức chấp ngay nơi ngũ ấm có năm thứ Niết-bàn, nên cũng chưa rời khỏi cái ngã. Mới thấy cái ngã rất vi tế, nếu còn chút ngã là chưa ra khỏi sanh tử luân hồi. Do đó trên đường tu hành phải hết sức cẩn thận, làm sao cho những ngõ ngách của cái ngã dần dần tiêu mòn thật sạch, đừng nuôi dưỡng nó. Vì nếu không khéo tu, chỉ một niệm bất giác là ngã sanh trở lại, mà sanh trở lại tức là vào trong luân hồi. Hễ nó còn sanh trở lại tức là còn vào trong luân hồi. Nhớ kỹ!

Phật mới kết lại để khuyên truyền bá:

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Mười thứ nhận hiểu cuồng loạn trong Thiền-na như thế, đều do hành ấm và tâm công dụng giao xen, nên hiện ra những nhận thức đó. Chúng sanh ngu mê không tự xét lường; gặp cảnh ấy hiện ra lại nhận mê làm ngộ, tự bảo là chứng bậc Thánh, thành tội đại vọng ngữ và sẽ đọa vào địa ngục vô gián. Các ông phải nên đem lời này của Như Lai: Sau khi tôi diệt độ truyền lại trong đời mạt pháp, khiến cho tất cả chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho tâm ma tự gây nên những tội lỗi sâu nặng, giữ gìn che chở cho chúng sanh tiêu hết tà kiến, dạy cho họ thân tâm giác ngộ đạo nghĩa chân thật đối với đạo Vô thượng, không mắc vào các đường tẽ, cũng chớ để chúng sanh tạm mong được chút ít cho là đã đủ, nêu ra lời chỉ dạy thanh tịnh của vị Đại Giác.

GIẢNG GIẢI:

Mười thứ ấm ma này là do hành giả đã phá tưởng ấm, rồi hành ấm hiện ra thấy được những chỗ sanh diệt vi tế, nhưng chưa thấu tột được mé chân thật vội động niệm so đo chấp trước. Bởi vì còn hành ấm là còn niệm niệm sanh diệt nên còn động niệm so đo chấp trước, khiến thành những suy nghĩ tà, rơi vào đường tẽ. Cho nên người tu thiền cần phải biết để ngăn ngừa tránh không rơi vào đường tẽ đó.

Hoặc là thấy biết được chút ít vội chấp cho là đủ, sáng được một chút đạo lý liền bám vào đó, chấp cho là mình đã chứng được gì rồi, cho đó là cái thấy thù thắng thành không cầu tiến lên. Cái tâm chứng đắc đó rất nguy hiểm! Trong nhà thiền luôn ngăn ngừa không cho hành giả thấy có đắc, có chứng là nguyên nhân đó. Ma này gọi là tâm ma, chính do tâm tự gây chứ không phải ma bên ngoài vào. Ma bên ngoài hết vào nhưng còn ma bên trong, chính nó tự che chướng mình. Cho nên, Phật nhắc là ở đời mạt pháp phải đem những lời này nhắc nhở chỉ dạy cho chúng sanh để không bị mắc kẹt, rơi vào đường tẽ, hoặc là tà kiến, không tiến lên được.

Phần thuộc về hành ấm ma xong.

 

5. CÁC TƯỚNG TRẠNG CỦA MA THỨC ẤM

CHÁNH VĂN:

A-nan! Thiện nam tử kia tu pháp Tam-ma-địa, khi hành ấm hết, thì cái then chốt lay động u ẩn chung sanh ra các loài thế gian, bỗng nhiên được xóa bỏ giềng mối vi tế quan hệ sâu xa gây nghiệp chịu báo của ngã thể chúng sanh, cảm ứng đều bặt dứt. Đối với bầu trời Niết-bàn sắp được rất tỏ sáng. Người đó như khi gà gáy tan, xem qua phương đông đã có ánh sáng.

GIẢNG GIẢI:

Đến đây, then chốt sanh ra mười hai loại chúng sanh bỗng nhiên được xóa bỏ, tức là hết chỗ để sanh. Rồi cảm ứng gây nghiệp thọ báo của ngã thể chúng sanh đều bặt dứt, là dừng nghiệp, hết tiếp nối, là tin tức Niết-bàn đã lộ ra. Như vậy, thấy được tin tức Niết-bàn nên nói giống như gà gáy lần cuối, xem qua phương đông có ánh bình minh bắt đầu ló dạng. Tu đến đây thật không phải dễ, nhưng Phật muốn chỉ để chúng ta còn tiến lên không dừng ngay đó. Bởi vậy, phần sau đây có nói đến Định tánh Thanh Văn, Định tánh Duyên Giác. Đến đó mà không cầu tiến lên thì bị dừng lại. Phật mới chỉ để chúng ta tiến lên cho đến viên mãn Phật đạo. Đó là tướng thù thắng của hành ấm hết.

Đến phạm vi của thức ấm:

 

CHÁNH VĂN:

Sáu căn rỗng rang thanh tịnh, không còn rong ruổi. Trong ngoài đều lặng sáng, vào được tánh vô sở nhập, thấu suốt nguyên do thọ mạng của mười hai loài chúng sanh trong mười phương. Xét rõ nguyên nhân do chấp trước gây nên, các loài không thể hấp dẫn được, nơi mười phương thế giới đã nhận được tánh đồng; tánh trong sáng ấy không bị chìm mất, phát hiện ra một cách sâu kín, ấy gọi là phạm vi của thức ấm.

GIẢNG GIẢI:

Sáu căn rỗng rang thanh tịnh không còn rong ruổi, đến đây như căn nhà trống tiền trần không còn lôi cuốn. Người tu đến đây đâu phải tầm thường nhưng nếu bám vào đó rồi dừng không tiến thêm nữa là cũng còn mắc kẹt.

Trong ngoài đều lặng sáng, vào được tánh vô sở nhập, tức vào mà không có chỗ vào. Căn trần không dính nhau nên trong ngoài đều lặng sáng, dòng sanh diệt đã dừng, trở về nguồn của thức, cho nên nói vào được không có chỗ vào.

Thấu suốt nguyên do thọ mạng của mười hai loài chúng sanh trong mười phương, là thấy tột đến cái gốc của chúng sanh.

Xét rõ nguyên nhân do chấp trước gây nên, tức thấy được chỗ chúng sanh sanh ra, là do chỗ chấp trước mà thành chớ không có thật.

Các loài không thể hấp dẫn, hấp dẫn tức là thu hút, giờ không còn theo các loài để sanh nữa.

Nơi mười phương thế giới đã nhận được tánh đồng, là trở về cội nguồn của thức nên gọi là nhận ra được tánh đồng; nhưng chưa qua được chỗ đồng, là còn kẹt.

Tánh trong sáng ấy không bị chìm mất, đây là chỗ thức ấm hiện ra nên gọi tánh trong sáng đó không bị chìm mất.

Phát hiện ra một cách sâu kín, là phát hiện chỗ đó thật là sâu kín, rồi lấy đó làm chỗ duyên. Cho nên tuy có chỗ thấy sâu kín nhưng vẫn còn nằm trong thức ấm chưa vượt qua khỏi.

Đây gọi là phạm vi của thức ấm. Đến chỗ vi tế như thế nhưng cũng còn trong phạm vi của thức ấm.

Tướng của thức ấm hết:

 

CHÁNH VĂN:

Nếu đối với các loài chiêu dẫn đã chứng được trong tánh đồng, rồi tiêu hóa cả sáu căn, làm cho khi họp khi chia đều được tự tại, cái thấy cái nghe thông nhau, tác dụng thanh tịnh thay thế lẫn nhau, thì mười phương thế giới, cùng với thân tâm đều như ngọc lưu ly; trong ngoài đều sáng suốt; ấy gọi là hết thức ấm. Người ấy mới vượt khỏi mạng trược, xét lại nguyên do, cội gốc là vọng tưởng điên đảo huyễn hóa rỗng không.

GIẢNG GIẢI:

Đã chứng được trong tánh đồng, rồi tiêu hóa cả sáu căn, là dung thông lẫn nhau, không còn ngăn ngại. Đó là quên cả cái chỗ đồng mà suốt thông tự tại, mới vượt qua thức ấm.

Mười phương thế giới cùng với thân tâm đều như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, là thấu suốt cả trong ngoài, thức ấm không còn ngăn che nữa.

Rồi vượt khỏi mạng trược, tức trong cái tánh thể thấy biết thông với nhau, nhưng trong cái dụng vẫn còn trái nhau, đó là còn ở trong mạng trược. Còn đây vượt qua mạng trược cho nên dung thông lẫn nhau, các căn dùng thay nhau.

Xét lại nguyên do, cội gốc là vọng tưởng điên đảo huyễn hóa rỗng không, tức cội gốc của thức ấm này là vọng tưởng điên đảo huyễn hóa rỗng không. Huyễn hóa là những trò hóa hiện không có thật thể, thấy thì như có nhưng không có thật thể nắm bắt, chỉ do vọng chấp dối thành vậy thôi.

Lâu nay, vì mê lầm tưởng đâu thực có thành ra theo đó mà sanh tử, khi giác ngộ viên mãn thì nó tự hết nhưng cũng không có chỗ hết, bởi nó là huyễn hóa rỗng không. Đó là bặt hết dấu vết để sanh trở lại. Nếu thấy có chỗ hết là còn có chỗ sanh trở lại vì có dấu vết. Còn đây là bặt hết dấu vết luôn. Đó gọi là chỗ thức ấm hết.

Đây nói qua các thức ấm ma. Thứ nhất là chấp nhân sở nhân.

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Nên biết các thiện nam tử đó đã xét cùng tột tánh không của các hành, trở về cội nguồn của thức, sanh diệt đã diệt, mà đối với quả tịch diệt tinh diệu chưa viên mãn. Người đó có thể khiến nơi thân mình các căn khác nhau khi hợp, khi chia và thông suốt với sự hay biết của các loài trong mười phương; cái hay biết đó thông suốt vắng lặng, có thể vào tánh viên nguyên. Nếu nơi chỗ quay về, lại lập ra cái nhân chân thường và quyết định như thế là đúng, thì người ấy sa vào cái chấp “nhân sở nhân”, trở thành bè bạn với bọn Ca-tỳ-ca-la; chấp Minh đế là chỗ trở về, mê muội Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ nhất lập cái tâm sở đắc thành cái quả sở quy, trái xa tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống ngoại đạo.

GIẢNG GIẢI:

Phật bảo A-nan nên biết, đó là muốn nhấn mạnh chỗ này cần phải cảnh giác sáng suốt!

Xét cùng tánh không của các hành, là thấu qua niệm sanh diệt. Trở về cội nguồn của thức, là ngược dòng trở về gốc.

Rồi, sanh diệt đã diệt, mà đối với quả tịch diệt tinh diệu chưa viên mãn, chỗ này là chỗ vi tế. Do công phu tu hành thấy chỗ sanh diệt đã diệt nhưng không thấu đến chỗ vốn không sanh diệt, nên vẫn còn ở trong đối đãi chưa viên mãn.

Cho nên, tu để dứt cái sanh diệt tức là còn thấy có cái sanh diệt để mà dứt, là còn trong đối đãi. Thấy có sanh diệt để mà dứt thì có Niết-bàn để chứng, lỗi tại thấy hai. Mắc kẹt chỗ đó! Là chưa thấy được thể nó vốn không sanh diệt, nếu đã không sanh diệt thì còn dứt cái gì! Thấy đến chỗ đó mới là quét sạch hết dấu vết. Đến chỗ này là phải thấu đến chỗ không sanh diệt.

Người đó có thể khiến nơi thân mình các căn khác nhau khi hợp, khi chia và cùng thông suốt với sự hay biết của các loài trong mười phương. Nghĩa là các căn không còn ngăn ngại nhau, và cái hay biết không còn hạn hẹp nơi mình mà thông suốt với cái hay biết của các loài ở trong mười phương. Tức cái hay biết của mình thông với cả mọi chúng sanh ở mười phương.

Cái hay biết đó thông suốt vắng lặng có thể vào tánh viên nguyên, là cội nguồn tròn khắp. Tức cái hay biết không bị sanh diệt làm ngăn ngại mà thông vào tánh đồng của các loài. Là đồng một tánh biết thông suốt với nhau.

Nhưng nếu chấp vào chỗ đó, cho là chỗ trở về liền mắc kẹt. Còn có chỗ trở về là còn có chỗ sở duyên, còn lấy đó làm đối tượng thành kẹt. Cho nên lấy đó lập thành cái nhân chân thường để nương tựa là đi lạc. Vì như thế là thành có năng sở chia cách, do đó mà lạc vào ngoại đạo. Thật rất nguy hiểm! Bởi vì thấy có chỗ trở về rồi lấy đó làm chỗ để bám, tức là còn có chỗ để tâm duyên đến, gọi là kẹt vào tâm sở đắc. Do thấy có tâm sở đắc mà thành có cái quả sở quy tức là có chỗ về, khiến bỏ mất chánh tri kiến. Đây gọi là chưa thật quên được chỗ duyên, đó là loại thứ nhất.

Trở thành bè bạn với bọn Ca-tỳ-ca-la; chấp Minh đế là chỗ trở về, mê muội Bồ-đề của Phật. Tức ngoại đạo này chấp Minh đế là chỗ mờ mờ ban đầu không biết gì, cho đó là nguồn gốc của tất cả muôn vật, là chỗ khởi đầu của các pháp.

Thứ hai, chấp năng phi năng.

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Lại thiện nam tử kia, khi xét cùng tánh không của các hành, cái sanh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt; nếu nơi chỗ trở về lại bám lấy đó làm tự thể, cho rằng tất cả chúng sanh trong mười hai loài, đều từ trong thân mình sanh ra và quyết định như thế là đúng, thì người đó sa vào cái chấp “năng phi năng”, thành bè bạn với bọn Ma-hê-thủ-la, hiện ra thân vô biên làm mê muội Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ hai, lập cái tâm năng vi thành cái quả năng sự, trái xa với tánh viên thông, đi ngược đạo Niết-bàn, sanh ra giống Đại Mạn Thiên, chấp cái ta cùng khắp viên mãn.

GIẢNG GIẢI:

Đây lại lấy chỗ sanh diệt trở về tịch diệt, rồi bám lấy đó cho là tự thể chính mình thành có chỗ nương tựa. Rồi lại bám theo tự thể đó mà thấy mười hai loài chúng sanh từ trong thân mình sanh ra, vì đồng một tự thể. Vậy là mình hay sanh ra chúng sanh, rồi quyết định cho đó là cái thấy thù thắng, là chỗ chứng của mình, thành mắc kẹt vào cái sở đắc. Vì thế, rơi vào cái chấp “năng phi năng”. Tức chấp là hay làm được nhưng mà thật ra là không phải hay làm.

Đây gọi là bè bạn với Trời Ma-hê-thủ-la, là Trời Đại Tự Tại trên đảnh của Sắc giới. Trời này cũng gọi là Trời Đại Mạn. Vì Trời này có thể biến hiện ra vô lượng chúng sanh, nên nghĩ tất cả chúng sanh đều do mình sanh ra, thành Đại Mạn. Đây là trái xa với cái thấy như thật và cũng còn mang cái ngã vô minh mà không biết.

Rồi lập cái tâm năng vi thành cái quả năng sự, tức là lập cái tâm hay làm ra thành cái quả hay thành sự, nghĩa là hay thành các loài chúng sanh. Cái chấp này quá ngã mạn, thấy mình sanh ra tất cả, nguy hiểm ở chỗ đó!

Thứ ba, chấp thường phi thường.

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử, khi xét cùng tánh không các hành đã dứt cái sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu trong chỗ quay về thấy có chỗ nương về lại tự nghi thân tâm mình từ đó mà sanh ra và cả mười phương hư không đều từ đó sanh khởi, tức cái sanh ra tất cả đó, nhận là cái thể chân thường không sanh diệt, như thế là trong cái sanh diệt sớm chấp là thường trụ, chẳng những lầm tánh bất sanh mà cũng mê tánh sanh diệt, an trụ trong cái mê lầm trầm trọng mà quyết định là đúng. Người ấy sa vào cái chấp “thường phi thường”, thành bè bạn với những kẻ chấp có Tự Tại Thiên; mê tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ ba, lập tâm nhân y, thành quả vọng kế, trái xa tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, thành ra giống “đảo viên”.

GIẢNG GIẢI:

Đây, hành giả dứt được cái sanh diệt trở về tịch diệt nhưng vẫn chưa tột nên còn thấy có chỗ nương về, rồi cho rằng thân tâm mình và mười phương hư không đều từ đó sanh khởi, rồi nhận đó làm thể chân thường không sanh diệt. Tức nhận cái hay sanh ra tất cả chính là thể chân thường, nguy là chỗ đó! Nó chân thường mà lại hay sanh ra tất cả, là thuộc về sanh diệt rồi. Đây gọi là trong cái sanh diệt mà chấp là thường trụ, nên mê không biết luôn cả hai nghĩa sanh diệt và bất sanh. Là rơi vào cái chấp “thường phi thường”, tức chấp thường nhưng không phải thật là thường, trở thành bè bạn của những kẻ chấp có Tự Tại Thiên. Tự Tại Thiên là Trời ở đảnh Dục giới, Trời này được cho là hay sanh ra muôn vật.

Lập cái tâm nhân y thành cái quả vọng kế, tức lập có cái nhân để nương tựa, thành cái quả hư dối vọng chấp: chấp có cái quả thường nhưng thật không phải thường.

Thành ra giống “đảo viên”, tức là chấp cái hoàn toàn sanh ra tất cả nhưng không phải, chỉ là điên đảo. Đó là loại thứ ba.

Thứ tư, chấp tri vô tri, tức chấp có biết nhưng thật không có biết.

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử, khi xét cùng tánh không các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu đối với chỗ nhận biết, do nó biết cùng khắp nên nhận cái biết mà lập thành chỗ nhận hiểu, cho cỏ cây mười phương đều gọi là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây sanh làm người, người chết trở lại làm cỏ cây trong mười phương, nhân cái biết khắp không có lựa chọn này, quyết định như thế là đúng; (cho là thắng giải) người ấy sa vào cái chấp “tri vô tri”, thành bè bạn của bọn Bà-tra, Tiển-ni chấp tất cả đều có hay biết; mê lầm tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ tư chấp tâm viên tri, thành cái quả sai lầm hư dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống “đảo tri”.

GIẢNG GIẢI:

Đây do thức biến mà thấy như cái biết cùng khắp rồi thấy cỏ cây thảy đều có biết. Thành như cái biết thông cả hữu tình, vô tình đều không có chọn lựa. Nhận đó làm chỗ hiểu đặc biệt của mình, như là chỗ chứng đắc, là đi sai lệch. Nhiều người tu cũng kẹt chỗ này. Nghe trong kinh nói: “Tình dữ vô tình đồng thành chủng trí”, nên chấp cỏ cây đều có tánh giác biết, cũng đều thành Phật. Đó là hiểu lầm. Bởi khi người giác ngộ viên mãn rồi, thấy cái gì cũng sáng suốt, cũng giác, không có xen hở bất giác trong đó, chứ không phải nói cỏ cây cũng thành Phật. Chỉ sai lầm chút xíu đó là đi lạc, mà đi lạc như vậy là do anh “thức” so đo suy luận. Anh “thức” này rất nguy hiểm!

Đây thuộc về cái chấp “tri vô tri”, tức chấp là có biết nhưng thật không có biết. Đồng bè bạn với ngoại đạo Bà-tra, Tiển-ni, hai loại ngoại đạo này chấp tất cả đều có giác tri. Rốt lại, thành loại chấp tâm viên tri là cái tâm tròn biết nhưng không phải vậy mà chỉ thành cái quả hư dối sai lầm. Cũng thuộc về đảo tri, là cái biết điên đảo thôi.

Thứ năm, chấp sanh vô sanh.

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử, khi xét cùng tánh không của hành ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tánh tịch diệt. Nếu đã được tùy thuận trong căn viên dung dùng thay lẫn nhau, liền ở nơi tánh biến hóa viên dung mà tất cả muôn vật phát sanh này, khởi cầu cái ánh sáng của hỏa đại, ưa cái thanh tịnh của thủy đại, yêu cái châu lưu của phong đại, xét cái thành tựu của địa đại, rồi sùng phụng mỗi mỗi cái, nhận những tứ đại kia làm bản nhân và lập nó làm chỗ nhận hiểu thường trụ, thì người đó sa vào cái chấp “sanh vô sanh”, thành bè bạn với bọn ông Ca-diếp-ba và bọn Bà-la-môn đem hết thân tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sanh tử, mê muội tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ năm chấp trước phụng thờ, mê tâm theo vật, lập cái nhân mong cầu hư vọng, để cầu cái quả mong mỏi giả dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết-bàn, sanh ra giống “điên hóa”.

GIẢNG GIẢI:

Đến đây hành giả lại chấp vào bốn đại cho là thật có tánh thù thắng biến hóa, thành sùng phụng vào bốn đại, lập nó thành bản nhân, từ đó hay tạo tác ra tất cả. Như vậy, cái được nó tạo tác ra là vô thường, còn cái hay tạo tác này thì lại cho là thường trụ. Ngài Hàm Thị có giải thêm: “Đây cũng là do chưa thâm đạt được cội gốc của tánh giác, chẳng biết tứ đại chủng là từ vọng tưởng sanh, vốn không phải là thường trụ, thì đâu có thể phát sanh ra quả thường trụ, nên nói chấp sanh vô sanh”. Vì chưa rõ được tứ đại chủng là từ vọng tưởng sanh, mà lại thấy bốn đại là thật có tánh thù thắng. Do thấy nó thật riêng có tánh nên mới lập nó thành cái nhân để từ đó sanh ra tất cả. Vậy tức là thấy ngoài tâm riêng có pháp.

Do đó trở thành bè bạn với nhóm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sanh tử, thật là uổng công. Như nhóm ông Ca-diếp-ba tức là ba anh em ông Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp thờ lửa. Đây là sùng phụng nơi tứ đại, mê tâm theo vật, nhận vật làm cái chính mà mê mất tâm mình, rơi vào cái hư vọng chấp trước, thuộc về điên đảo biến hóa, trái mất chánh tri kiến, thật là đáng tiếc!

Thứ sáu, chấp quy vô quy.

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu đối với cảnh viên minh chấp cái rỗng không trong cái minh, mà bác bỏ trừ diệt các sự vật biến hóa, lấy tánh tịch diệt hẳn làm chỗ quy y của mình và quyết định như thế là đúng; (cho là thắng giải) người đó sa vào cái chấp “quy vô quy”, thành bè bạn của bọn Thuấn-nhã-đa trong Vô Tưởng Thiên, mê muội tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ sáu, viên thành cái tâm hư dối, lập ra cái quả không vong, trái xa với tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống đoạn diệt.

GIẢNG GIẢI:

Đây hành giả ở trong cảnh viên minh của thức ấm, thấy chỗ sanh diệt đã diệt của hành ấm, rồi bám vào chỗ rỗng không thành bác bỏ hết mọi sự biến hóa. Nghĩa là lấy chỗ diệt hẳn làm chỗ nương về, cho là thắng giải của mình. Tức cho đó cái hiểu thù thắng của mình rồi chấp vào đó, bèn rơi vào cái chấp “quy vô quy”, là nói trở về mà thật không có trở về, chỉ là vọng chấp, thành bè bạn của bọn Thuấn-nhã-đa là thần hư không trong cõi trời Vô Tưởng.

Từ chỗ rỗng không tròn khắp rồi bám vào đó, khởi tâm mong cầu quả chân thật (chân quả) nhưng không được, cuối cùng thành cái quả không vong cũng thuộc luân hồi. Do hành giả chấp lấy cái chỗ diệt hết tưởng nhưng sự thật chưa hết, giống như đá đè cỏ. Nhờ định nên tưởng tạm dừng nhưng không hết, lại lấy đó làm chỗ nương về của mình. Khi sức định hết liền sanh trở lại, rồi cũng vào trong luân hồi, chưa phải rốt ráo.

Loại thứ bảy, chấp tham phi tham.

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử, xét cùng tánh không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt, nếu ở nơi cảnh viên thường, củng cố cái thân thường trụ, khiến đồng với tánh tinh diệu viên mãn, mãi mãi không suy mất và quyết định như thế là đúng, (cho là thắng giải) thì người đó sa vào cái chấp “tham phi tham”, thành bạn bè của A-tư-đà cầu trường sanh, mê muội tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ bảy, chấp trước cội nguồn mạng căn, lập cái nhân củng cố hư vọng, để đến cái quả kéo dài sự nhọc nhằn, trái xa tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống “vọng diên”.

GIẢNG GIẢI:

Đây chấp chỗ lặng lẽ tạm thời của thức ấm làm tánh viên thường, cho đó là chỗ thường trụ viên mãn, bám vào làm chỗ nương của mình, rồi muốn củng cố cái thân cho được tuổi thọ dài lâu. Cái hư huyễn nhưng muốn giữ mãi lâu dài, cũng là bám vào cái ngã hư dối, lại không hay biết, rồi chấp làm cái thấy thù thắng của mình nên mắc kẹt. Rơi vào cái chấp “tham phi tham” là tham cầu sự trường thọ, nhưng rốt cuộc chỉ là cái nhân củng cố hư vọng, chỉ luống uổng mà không có thật, rồi cũng trở lại luân hồi.

Nếu đem công phu đó chuyển qua cầu chứng Phật đạo giải thoát sẽ rất nhanh. Nhưng do hành giả này đi sai một bước thành nhọc nhằn, uổng phí công phu. Đây sanh ra giống “vọng diên” là kéo dài sự hư dối, vẫn còn chưa qua khỏi cái ngã vô minh. Thế nên, chúng ta tu hành phải hết sức sáng suốt, cẩn thận gạn lọc cái tình chấp ngã. Nếu như không sáng suốt cẩn thận, dễ bị nó gạt. Đó là loại thứ bảy.

Loại thứ tám, chấp chân phi chân.

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệu, xét cho các mạng thông lẫn với nhau, muốn giữ lại cái trần lao, sợ nó tiêu hết, khi ấy bèn ngồi nơi cung hoa sen, hóa ra bảy thứ trân báu rất nhiều, cùng những gái đẹp, buông lung tâm mình và quyết định như thế là đúng; (cho là thắng giải) thì người ấy sa vào cái chấp “chân vô chân”, thành bè bạn của bọn Ca-chỉ-ca-la, mê muội tánh Bồ-đề, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ tám, lập cái nhân tà tư, thành cái quả xí trần, trái xa tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống “Thiên ma”.

GIẢNG GIẢI:

Chúng ta thấy tu đến chỗ đó rồi còn sợ thức diệt không còn chỗ để duyên, nên muốn giữ các thứ trần lao lại làm chỗ duyên, mới hóa ra các trần cảnh để vui chơi, thành ra tự mình gạt mình. Trở thành cái nhân suy nghĩ tà, đưa đến cái quả trần lao thêm nhiều chớ không được giải thoát; rốt cuộc là bè bạn với Thiên ma. Là loại thức ấm ma thứ tám.

Tám loại này dẫn chúng ta đi lệch theo đường tẽ, đường tà. Còn hai loại sau này là dừng lại giữa đường, gọi là Định tánh Thanh Văn và Định tánh Duyên Giác.

Thứ chín là Định tánh Thanh Văn.

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nơi thức thể viên minh cội gốc của sanh mạng mà phân biệt chỗ tinh chỗ thô, quyết đoán chỗ chân chỗ ngụy; nơi nhân quả đền đáp nhau, chỉ cầu cảm ứng, trái với đạo Thanh Tịnh, nghĩa là chỉ thấy Khổ đế, đoạn Tập đế, chứng Diệt đế, tu Đạo đế; ở nơi Diệt đế đã dứt rồi, lại không cầu tiến thêm nữa và quyết định như thế là đúng; (cho là thắng giải) thì người đó sa vào Định tánh Thanh Văn, thành bè bạn của hàng Vô Văn tăng thượng mạn; mê muội tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ chín viên mãn tâm tịnh ứng, thành cái quả thú tịch, trái xa với tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống “triền không”.

GIẢNG GIẢI:

Đây qua được hành ấm là cái sanh diệt đã diệt, cũng còn ở nơi thức thể tạm lặng lẽ nhưng vẫn chưa viên mãn đến chỗ tinh diệu của tịch diệt, rồi phát minh cội gốc của sanh mạng.

Do phát minh thấu được cội gốc của sanh mạng, rồi phân biệt rõ ràng đâu là Thánh đạo, tà đạo, hoặc là thế gian, xuất thế gian, phàm Thánh v.v..., tức đã biết Khổ đế, đoạn Tập đế, rồi tu Đạo đế, chứng Diệt đế. Là rõ biết nhân quả của thế gian sanh tử và tu chứng nhân quả của xuất thế gian giải thoát, nhưng lại dừng ở chỗ đoạn dứt đó cho là đủ, không cầu tiến lên, thành bị ngưng trệ giữa đường. Gọi là đã viên mãn tâm tịnh ứng, là ứng với chỗ thanh tịnh mà thành cái quả thú tịch, tức hướng đến chỗ tịch diệt, lặng lẽ rồi dừng ở đó. Do nghiêng một bên cái thể tịch diệt, chưa phát huy hết diệu dụng, nên gọi là “Triền không” (hay Trệ không), bị cột vào cái không.

Đó là nhắc cho mỗi người khi dụng công cần tránh để không bị ngưng trệ, chứ không phải nói đây để chê người. Cho rằng chúng ta tu thuộc về Tối thượng thừa rồi chê hàng Thanh Văn thuộc về thiên không, hay trệ không, là phải mang khẩu nghiệp. Chúng ta phải biết được ý của Phật không phải là chê tu dở, nhưng đây Phật nói để sách tấn các vị đó tiến thêm. Người không biết cứ lo đi chê là không tốt, phải cẩn thận!

Thứ mười là Định tánh Duyên Giác.

 

CHÁNH VĂN:

Lại thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở nơi Tánh Giác Minh Thanh Tịnh Viên Dung mà phát khởi nghiên cứu thâm diệu, liền nhận làm Niết-bàn mà không cầu tiến lên nữa, và quyết định như thế là đúng; (cho là thắng giải) người đó sa vào hàng Định tánh Bích-chi, thành bè bạn với các vị Duyên Giác, Độc Giác, không biết hồi tâm hướng về Đại thừa, mê muội tánh Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến; ấy gọi là bọn thứ mười Viên thành giác tâm vắng lặng, lập ra các quả trạm minh, trái xa với tánh viên thông, đi ngược với đạo Niết-bàn, sanh ra giống giác ngộ viên minh, nhưng không hóa được tánh viên.

GIẢNG GIẢI:

Đây gọi là nơi Tánh Giác Minh Thanh Tịnh Viên Dung, tức chỗ giác biết sáng soi thanh tịnh thông suốt không còn bị căn trần ngăn ngại, rồi phát khởi nghiên cứu thâm diệu lấy làm chỗ chứng của mình, ngay đó nhận làm Niết-bàn an trụ mà không cầu tiến lên, nên rơi vào Định tánh Duyên giác. Mãi đứng dừng trong đó mà không tiến lên, bị ngưng trệ trong Niết-bàn, vì thiếu sức diệu dụng tự tại. Như vậy, viên thành giác tâm vắng lặng rồi lập ra quả trạm minh. Giác tâm vắng lặng là chỗ không sanh. Rồi quả trạm minh là chỗ đứng lặng sáng suốt. Vậy vẫn còn kẹt ở chỗ đứng lặng sanh ra giống giác ngộ viên minh nhưng không hóa được tánh viên. Viên là tròn đầy, đây vẫn còn có chỗ viên để giác hay là để hợp về tánh viên đó, cho nên chưa viên mãn là chỗ đó.

Chúng ta thấy công phu đến đây rồi vẫn còn chỗ kẹt vi tế. Nếu qua được cửa này là viên thông tự tại. Mới thấy tinh thần của Lục Tổ đã dạy “Lấy vô trụ làm gốc” là vậy, không được dừng trụ chỗ nào, còn có chỗ trụ là còn dính, còn kẹt, còn có ngưng trệ. Người bình thường nghe nói tu không trụ vào đâu thấy quá bấp bênh, tu mà không cho trụ vào đâu thành lang thang sao? Nhưng chính không trụ mới là thật trụ. Phải nhớ kỹ! Chúng ta học kỹ, nắm vững để rõ suốt đường đi mà thẳng đến được rốt ráo, không bị dừng giữa đường.

Đây nhắc thêm, trong nhà thiền có vị tăng hỏi Thiền sư Chí Cần ở Linh Vân:

- Khi thẳng đó dứt điểm hoàn toàn trong thì thế nào?

Thiền sư Chí Cần - Linh Vân đáp:

- Vẫn là chân thường lưu chú.

Chân thường nhưng mà lưu chú trôi chảy, chưa phải là chỗ rốt ráo.

Tăng hỏi:

 - Thế nào là chân thường lưu chú?

Thiền sư Linh Vân đáp:

- Giống như gương thường sáng.

Ông tăng mới hỏi:

- Vậy hướng thượng còn có việc hay không?

Thiền sư Linh Vân đáp:

- Có.

Ông tăng hỏi:

- Thế nào là việc hướng thượng?

Thiền sư Linh Vân đáp:

- Đập bể gương ra cùng ông thấy nhau.

Còn thấy có gương thường sáng để soi là còn có chỗ kẹt. Phải đập bể gương đi, không còn chỗ nào làm đối tượng nữa mới là cùng ông thấy nhau. Tu phải rốt ráo đến như vậy!

Cũng có câu chuyện trong pháp hội của Mã Tổ. Một hôm, sau giờ trai có vị tăng đầy đủ oai nghi đến gặp Mã Tổ ở Pháp đường, Mã Tổ hỏi thăm biết vị này chưa dùng cơm, nên bảo đến gặp Khố đầu xin cơm. Lúc đó, Ngài Bá Trượng – Hoài Hải làm Điển tòa, trông coi kho bếp, Ngài mới chia phần cơm của mình để cúng dường cho vị tăng đó.

Sau đó, Ngài Hoài Hải lên gặp Mã Tổ, Mã Tổ lại hỏi:

- Vừa rồi có vị tăng chưa dùng cơm, ông có cúng dường chăng?

Ngài Hoài Hải thưa:

- Con đã cúng dường xong.

Mã Tổ mới bảo:

- Về sau ông được phước đức vô lượng.

Ngài Hoài Hải thưa:

- Vì sao Hòa thượng lại nói như vậy?

Mã Tổ bảo:

- Đây là vị tăng Bích-chi Phật nên ta mới nói như thế.

Ngài Hoài Hải vẫn thắc mắc, thưa:

- Hòa thượng là phàm nhân vì sao lại nhận Bích-chi Phật làm lễ?

Mã Tổ đáp:

- Thần thông biến hóa thì được, còn nói một câu Phật pháp thì chẳng bằng Lão Tăng.

Chỗ này là chỗ mỗi người chúng ta cần phải nghiệm kỹ!

Mã Tổ nói rõ là, so về thần thông biến hóa thì vị tăng kia có hơn nhưng nếu nói một câu Phật pháp thì chẳng bằng Lão Tăng. Như vậy, Mã Tổ tuy không có thần thông nhưng cũng không phải là bậc tầm thường. Nếu tầm thường làm sao biết đây là vị tăng Bích-chi Phật.

Đó là qua mười ấm ma của thức ấm. Đây Phật kết lại:

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Mười thứ Thiền-na như thế, giữa đường hóa điên, nhân nương theo sự mê lầm, trong chỗ chưa đủ, lại nhận là đã chứng đầy đủ, đều do thức ấm dụng tâm xen nhau, nên sanh ngôi vị này. Chúng sanh mê muội không biết tự xét, gặp cảnh đó hiện tiền, mỗi mỗi dùng tâm mê lầm ưa thích theo những tập quán cũ mà tự dừng nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo an ổn, tự bảo đã đầy đủ đạo Vô thượng Bồ-đề, thành tội đại vọng ngữ. Bọn ngoại đạo tà ma, khi nghiệp báo chiêu cảm hết rồi, bị đọa vào ngục vô gián, hàng Thanh Văn, Duyên Giác thì không tiến thêm được nữa.

GIẢNG GIẢI:

Chỗ tu hành bị dừng bước giữa đường hoặc rơi vào đường tẽ là do chưa gì mà vội tự mãn, thành ra bị chặn đứng bước tiến rốt ráo của mình. Thế nên, chúng ta phải biết để ngăn ngừa, vì nếu rơi vào trong bọn ngoại đạo tà ma đến khi nghiệp báo hết sẽ bị đọa vào ngục vô gián. Nếu là hàng Thanh Văn, Duyên Giác lại dừng bước không tiến hơn được.

Hiểu rõ rồi trên đường tu hành chớ có mong cầu chứng đắc thế này thế kia, được một chút cho là đủ. Đây là theo tập quán cũ nên còn thích rồi bị tâm sở đắc với lòng tự mãn làm ngăn ngại con đường tu tiến. Quyết đi là phải đi rốt ráo chớ không dừng nửa đường, phải cẩn thận!

 

CHÁNH VĂN:

Các ông để tâm giữ gìn đạo của Như Lai nên đem pháp môn này, sau khi Tôi diệt độ, truyền dạy cho đời mạt pháp, khiến cho khắp tất cả chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho những ma tà kiến gây ra nạn lớn cho mình, giữ gìn cứu giúp tiêu hết duyên tà, khiến cho thân tâm được vào tri kiến của Phật, từ lúc bắt đầu đến thành tựu, không gặp các đường tẽ.

GIẢNG GIẢI:

Phật khuyên nên đem lời dạy này truyền rộng cho người tu đời sau, tức có cả chúng ta. Bởi vì đời mạt pháp này cách xa thời Phật, các bậc Thánh Hiền ẩn hết, mà Thánh Hiền ẩn thì thường có nhiều tà sư. Cho nên Phật khuyên người hiểu chánh đạo phải khéo truyền rộng những lời Phật dạy đến cho người sau biết mà ngăn ngừa, phân biệt tà chánh rõ ràng, để không rơi vào con đường tẽ, cũng là để khỏi phải uổng phí một đời công phu.

Chúng ta thấy tu mà đến được những giai đoạn này thì đâu phải tầm thường, nhưng không khéo rơi vào đường tẽ thật quá đáng tiếc! Nếu như công phu đến đó mà đi đúng đường thì sẽ rất nhanh, chỉ cần chuyển một cái là khế hợp, nhưng lạc một chút là đi càng xa. Thí dụ rơi vào trong các đường Thiên ma, hoặc các vị tiên sống cả tám muôn kiếp, tám muôn kiếp ở trong đường tà, mất biết bao nhiêu thời gian trong đó, cho nên nói xa là như vậy.

 

CHÁNH VĂN:

Pháp môn như thế, các Đức Như Lai như số vi trần trong hằng sa kiếp quá khứ, đều nương theo đây mà tâm khai ngộ đạo Vô thượng.

GIẢNG GIẢI:

Phật bảo đây là pháp môn chung của chư Phật trong hằng sa kiếp nhiều như vi trần chứ không phải riêng của một Đức Phật Thích Ca. Chư Phật cũng y theo đó tiến thẳng vào đạo Vô thượng Bồ-đề, không phải nghi ngờ.

 

CHÁNH VĂN:

Thức ấm nếu hết rồi, thì hiện tiền các căn của ông đều được thay dùng lẫn nhau. Từ chỗ các căn thay dùng lẫn nhau, ông sẽ lên bậc Kim Cang Càn Tuệ Bồ-tát. Từ trong Tâm Tròn Sáng Tinh Thuần đó, hóa ra như mặt trăng báu hiện trong ngọc lưu ly trong sạch, rồi cứ như thế mà vượt lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm, và Thập Địa Kim Cang của Bồ-tát; tánh Đẳng Giác Viên Minh, vào biển Diệu Trang Nghiêm của Như Lai, viên mãn đạo Bồ-đề, về chỗ vô sở đắc.

GIẢNG GIẢI:

Cuối cùng cũng về chỗ vô sở đắc, đó là chỗ cốt tủy.

Như vậy là vượt qua hết các ấm cho đến thức ấm cũng hết luôn mới là không còn gì ngăn che nữa, bởi còn ấm là còn che. Khi thức ấm hết không còn gì để ngăn che thì các căn được thông suốt nên gọi là dùng thay lẫn nhau. Đó là diệu dụng được tự tại, tâm sáng ngời thấu suốt cả trong ngoài, rồi vượt lên cho đến chỗ viên mãn.

Hiện tại sáu căn chúng ta chưa được đầy đủ diệu dụng tự tại dùng thay lẫn nhau, nhưng nếu khéo tu cũng có thể nghiệm biết được ngay cái thể của nó. Chúng ta thường mắc kẹt trên các căn nên khi thấy thì cái thấy khác cái nghe, rồi cái nghe khác với cái hiểu, cái giác biết, cái ngửi, cái nếm v.v... mỗi cái có cái biết khác cho nên có ngăn cách. Nếu chúng ta thấu suốt nơi cái thể biết, thì dù cho nói là thấy, nghe hay là ngửi, nếm hoặc là xúc, biết, có sáu cái dụng nhưng mà thể biết này vẫn không hai, chỉ là một thể biết thôi. Như vậy thấy cũng là biết, nghe cũng là biết, ngửi cũng là biết, nếm cũng là biết, xúc cũng là biết, hiểu cũng là biết, tuy nói là sáu cái dụng khác nhau nhưng chỉ một thể biết thông suốt hết sáu cái. Điều này chúng ta có thể nghiệm biết rõ, tin chắc đây là lẽ thật chứ không phải nói suông.

Rồi đến chỗ rốt ráo cũng là về chỗ vô sở đắc, tức là sạch hết dấu vết của chứng đắc, chỗ đó phải nhớ kỹ! Còn thấy có chỗ chứng đắc là còn dừng ở giữa đường, bởi vì đó là còn có chỗ trụ, là còn có đối tượng cho mình được. Phải sạch hết dấu vết, không còn chỗ để tâm duyên.

Kế, Phật dạy.

 

CHÁNH VĂN:

Đó là những ma sự vi tế mà các Đức Phật Thế Tôn đời quá khứ trước đã giác ngộ nghiệm xét, và phân tách trong lúc tu chỉ, và tu quán. Nếu khi cảnh ma hiện tiền, ông hay biết rõ, thì rửa trừ được tâm cấu nhiễm, không mắc vào các tà kiến; ấm ma đều tiêu diệt, Thiên ma bị đánh tan, Đại lực quỉ thần hoảng hốt chạy trốn, ly mỵ vọng lượng không còn sanh ra được, thì đi thẳng đến Bồ-đề không có thiếu sót. Những căn cơ hạ liệt tăng tiến lên, đối với Đại Niết-bàn tâm không mê lầm. Nếu có các chúng sanh ngu độn trong đời mạt pháp chưa biết Thiền-na, không hiểu thuyết pháp, ưa thích tu Tam-muội, ông e mắc vào tà kiến, thì nên nhất tâm khuyên bảo hộ trì thần chú Phật đảnh của Tôi, nếu không thể tụng được thần chú, thì nên viết trên thiền đường hoặc đeo nơi thân; như thế thì tất cả các ma không thể động đến được. Ông nên kính vâng khuôn phép cuối cùng về đường tu tiến rốt ráo của mười phương Như Lai”.

GIẢNG GIẢI:

Những ma sự vi tế như thế là từ trí tuệ Phật thấy rõ mà chỉ ra, không phải dễ dàng thấy được. Nhằm giúp chúng sanh biết để gạn lọc tâm mê, không còn dấu vết để bám, mới đến được rốt ráo. Quan trọng là khi cảnh ma hiện đều biết rõ không lầm nhận. Nếu mê không biết khi thấy những cảnh như thế chấp cho là mình chứng được cái gì đó, mới lầm vào cảnh ma. Chủ yếu là con mắt chúng ta phải sáng để cảnh không làm lầm.

Kế là Phật phương tiện khuyên người nếu còn yếu kém thì nên hộ trì tâm chú này giúp cho tâm chuyên chú không khởi những niệm khác, mà tâm không khởi niệm khác thì ma không có cơ hội. Giữ được tâm chuyên nhất như vậy rồi, khi cơ duyên đến là tự thầm hợp ý Phật.

 

CHÁNH VĂN:

Ông A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe Phật dạy bảo, đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ không sót, ở trong đại chúng lại bạch Phật rằng: “Như Phật đã dạy, trong tướng ngũ ấm có năm thứ hư vọng, là gốc ở nơi tâm tưởng; chúng con bình thường chưa được nhờ Đức Như Lai khai thị tỉ mỉ như thế. Lại năm thứ ấy là tiêu trừ một lần, hay theo thứ lớp mà hết? Năm lớp như thế đến đâu làm giới hạn? Cúi mong Đức Như Lai mở lòng đại từ làm cho tâm và con mắt của đại chúng này được trong sáng, để làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng sanh trong đời mạt pháp”.

GIẢNG GIẢI:

Đến đây Ngài A-nan lại thay đại chúng thưa hỏi thêm về năm thứ hư vọng trong tướng năm ấm này, thứ lớp tiêu trừ thế nào, rồi đến đâu là cùng tột. Đây đúng là làm đạo nhãn cho đời sau, tức là làm con mắt sáng, con mắt đạo để cho đời sau, tức là có chúng ta ngày nay. Chúng ta phải hết sức cám ơn Ngài A-nan, nhờ Ngài hỏi kỹ đâu đó tỉ mỉ để Phật dạy, nếu không thì chúng ta hiện nay không biết làm sao để hỏi. Cho nên chúng ta phải một lòng kính lễ tri ân sâu rộng của Ngài A-nan.

 

CHÁNH VĂN:

Phật bảo ông A-nan: “Tánh tinh chân là diệu minh, tánh bản giác là viên tịnh, không có để lại sự sanh tử và các trần cấu, cho đến cả hư không cũng đều nhân nơi vọng tưởng mà sanh khởi. Tất cả cái ấy gốc nơi Bản Giác Diệu Minh Chân Tinh do vọng khởi mà phát sanh ra các vật tượng thế gian, như chàng Diễn-nhã-đạt-đa quên đầu mà nhận bóng. Cái vọng vốn không có nhân, từ trong vọng tưởng mà lập thành tánh nhân duyên. Người mê nhân duyên thì gọi là tự nhiên. Cả tánh hư không kia còn thật là huyễn hóa sanh ra, thì nhân duyên, tự nhiên đều là những sự so đo của vọng tâm chúng sanh. A-nan! Biết rõ do vọng sanh khởi mà nói là nhân duyên vọng, nếu cái vọng vốn là không, thì cái nhân duyên vọng đó cũng thật không có gì, huống nữa chẳng biết mà cho là tự nhiên. Thế nên Đức Như Lai phát minh cho các ông rằng, bản nhân của ngũ ấm, đồng là vọng tưởng.

GIẢNG GIẢI:

Phật dạy tánh tinh chân là chỗ chân thật nguyên vẹn từ ban đầu, nó không lẫn với vọng tưởng vì nó là sáng suốt nhiệm mầu, không cần phải thêm bớt gì trong đó. Dấu vết sanh tử và các trần cấu cũng không có trong đó. Nhưng chúng sanh lại mê cái gốc chân thật đó, mà vọng khởi thành có các thứ trong thế gian. Ngay cả hư không cũng là vọng khởi luôn. Vậy thì tất cả đồng là một tánh vọng thôi, thế mà còn ở trong đó so đo chấp là nhân duyên tự nhiên, quả thật có dính dáng gì! Cho nên Phật chỉ kết lại, đồng là vọng tưởng là xong. Thấu được cái vọng này thì sáng tỏ tất cả.

Thế nên, điều trọng yếu là chúng ta cần phải ngộ trở lại chỗ Bản Giác Diệu Minh Chân Tinh mới là quan trọng, bởi vì từ cái gốc đó mà hư không thế giới vọng sanh. Còn nếu cứ mãi lo giải quyết ở trên cái vọng này, thì không tới đâu cả. Gốc nó là “tánh giác sẵn có nhiệm mầu sáng suốt chân thật không có xen lẫn cái gì cả”. Chúng ta học kỹ rồi, khi tu nhắm ngay gốc mà đốn thì những ngọn ngành khác sẽ ngã không còn; nếu chỉ chặt cái ngọn này thì cái ngọn khác lại sanh, nên tu lâu mà không đến rốt ráo. Đây là chỗ mà mỗi người cần phải hết sức chín chắn quán kỹ, nghiệm sâu để thật sự có chỗ tỉnh sáng!

Kinh ví dụ chàng Diễn-nhã-đạt-đa quên đầu nhận bóng, khi mà quên đầu nhận bóng thì lúc đó toàn là sống trong cái bóng, tức sống trong cái vọng, chỉ nhận cái vọng mà sống, quên cái thật mới chạy la hoảng. Nhưng ngay khi chạy la hoảng đó, cái thật hay cái đầu có mất không?

Cũng vậy, ngay khi chúng ta sống với bao nhiêu thứ vọng tưởng hư dối hiện có đây thì tánh Bản Giác Diệu Minh Chân Tinh này có mất không?

Do chúng ta đang sống trong bao nhiêu thứ vọng tưởng hư dối nên tưởng là mất mình. Cái gọi là “mất mình đó” là ngôn ngữ phương tiện của chư Phật, chư Tổ dùng cảnh tỉnh đánh thức cho mọi người nhớ trở lại, chớ không phải là thật sự mất. Nếu mà thật sự mất thì còn ai để đi tìm?

Như khi chàng Diễn-nhã-đạt-đa chạy hoảng la mất đầu, nhưng cái đầu vẫn nguyên đó. Khi ấy, nếu người nào khéo một chút liền ngay đó chạy lại cú đầu anh một cái bảo: “Có mất đâu?”, anh sẽ tỉnh nhớ trở lại, là xong.

Nhà thiền nói đốn ngộ là chỗ đó. Khi các vị đốn ngộ rồi, các Ngài thấy vốn tự đầy đủ và mới có những sự cảm xúc hoặc khóc hoặc cười gì đó, thấy mình xưa nay đúng là điên đảo. Từ đó mới có những câu như ông tăng Trí Thông nói “Sư cô là người nữ” hoặc Thiền sư Chân Tịnh nói: “Lý Bạch vốn là tú tài”. Tức là ngộ ra nó vốn sẵn đủ tự bao giờ. Bởi vậy, Ngài A-nan trong bài kệ trình Phật ở trước nói: “Bất lịch tăng-kỳ hoạch Pháp thân”, tức là chẳng phải nhọc nhằn trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp mà ngay đây liền nhận được Pháp thân. Nhưng đó là ngộ lý sáng tỏ mà những tập khí cũ vẫn chưa hết, nên còn phải tiệm tu gạn lọc tập khí cũ là vậy. Tuy nhiên, do là tập khí nên nó cũng không có thật thể, vì vậy tuy nói là gạn lọc nhưng rốt cuộc cũng không có chỗ gì để gạn, rốt ráo cũng đến chỗ vô sở đắc.

Chúng ta hiểu kỹ thì không còn lầm lẫn nghiêng lệch một bên, phải có lý, có hạnh đầy đủ, gọi là “Hạnh giải tương ưng, gọi đó là Tổ” là như thế. Giải là hiểu thấu, nhưng còn hạnh phải tương ưng với cái thấy hiểu của mình mới là khế hợp ý Tổ, còn thấy mà chưa hợp với hạnh là còn nghiêng lệch.

Kết lại, Phật chỉ rõ bản nhân của năm ấm đồng là vọng tưởng, đã đồng với vọng tưởng thì trong đó còn mãi lo phân tích nhân duyên, tự nhiên gì nữa! Quan trọng là thấu qua cái chữ “vọng” này, là xong! Còn chưa thấu suốt rồi cứ lo bàn nhân duyên, tự nhiên thì cũng ở trong vọng. Đó là chỗ mà Phật muốn nhắm, muốn chỉ.

Đây nói về bản nhân của sắc ấm. Phật bảo:

 

CHÁNH VĂN:

Thân thể của ông, trước kia nhân cái tưởng của cha mẹ mà sanh ra. Tâm của ông nếu không phải là tưởng, thì không thể đến trong tưởng để truyền mạng. Như trước tôi đã nói, trong tâm tưởng vị chua, thì nước bọt trong miệng chảy ra; tâm tưởng lên cao, thì lòng bàn chân nghe ghê rợn. Dốc cao không có, vị chua chưa đến, cái thân thể của ông nếu không phải đến cùng loài hư vọng thì làm sao nhân nghe nói chua, trong miệng nước bọt lại chảy ra, vậy biết sắc thân hiện tiền của ông, gọi là vọng tưởng kiên cố thứ nhất.

GIẢNG GIẢI:

Sắc ấm tức sắc thân hiện có của mỗi người, vậy gốc từ đâu có? Ban đầu chưa có gì, từ dục tưởng của cha mẹ kết hợp, cộng với cái tưởng của mình chạy đến bám vào đó rồi truyền ra có mạng sống này, cho nên bản chất của sự sống này là từ “tưởng” chứ không gì khác.

Đây mới giải thích, do nó thông với cái “tưởng” nên khi tưởng vị chua, tưởng lên dốc cao liền hiện tướng là trong miệng chảy ra nước bọt, hoặc lòng bàn chân nghe rờn rợn. Để thấy rằng cái thân cùng loài với tưởng, và khi xét tột sắc ấm này thì do vọng tưởng bám chấp chặt thành kiên cố, đó là bản nhân của sắc ấm. Tuy nói là kiên cố, nhưng là vọng tưởng kiên cố chớ không phải thật có cái bản chất kiên cố, do chúng sanh vọng tưởng nhiều đời rồi bám cứng như vậy, khi tu giác ngộ rồi là hết. Đó là lớp vọng tưởng thứ nhất.

Kế là bản nhân của thọ ấm:

 

CHÁNH VĂN:

Tức nơi tâm tưởng tượng việc lên cao vừa nói ở trước, nó có thể khiến thân ông thật cảm nhận ghê rợn. Là do nhân các thọ sanh ra, nó có thể xúc động sắc thân. Vậy hiện nay hai thứ thọ, thuận thì tăng ích, nghịch thì tổn giảm, cả hai đều hiện đang dong ruổi nơi ông, gọi là vọng tưởng hư minh thứ hai.

GIẢNG GIẢI:

Về cái thọ cũng dẫn việc tưởng lên dốc cao liền cảm thấy lòng bàn chân ghê rợn, tức có cảm thọ rồi. Chưa có dốc cao hiện trước mặt, chỉ là tưởng thôi nhưng lòng bàn chân lại nghe cảm giác rờn rợn; vậy rõ ràng nó là vọng đâu có thật thể.

Xét rõ về thọ cũng do xúc tưởng làm động đến sắc thân, thành ra có khổ có vui thuận nghịch v.v..., do đó mà che mờ tâm tánh chân thật, trong khi nó không thật chỉ là cái xúc tưởng thôi. Thí dụ như thân xúc với vật mềm mại, êm ái liền cảm thích thú một chút, nhưng qua rồi là hết. Hoặc như cái lưỡi xúc với vị, cảm giác ngon thấy thích một chút, nhưng rồi có được gì đâu! Được cái tưởng ngon thôi! Qua rồi lọt xuống dưới cũng đâu còn gì! Thành ra được là được cái “tưởng” thuận với mình nên thích chút vậy thôi; còn ngược lại với nó là thành khổ. Rốt cuộc cũng chỉ là “tưởng” chứ cũng không có thật được gì. Nên gọi đó là vọng tưởng hư minh, thuộc cái sáng mà rỗng, chứ không có thật thể gì, chỉ do điên đảo vọng chấp vậy thôi.

Nhưng nếu quán cho kỹ, thấu rõ bản chất của nó là không thật liền bớt bám chấp vào cái thọ. Bởi vậy khi người tu về Diệt thọ tưởng định, lúc nhập định xem như quên dứt đâu còn cảm thọ, rõ ràng thọ đâu có thật thể. Đó là nói về cái bản nhân của thọ.

Kế, bản nhân của tưởng ấm:

 

CHÁNH VĂN:

Do những ý nghĩ sai khiến sắc thân của ông, nếu sắc thân không phải cùng loại, thì thân ông vì sao lại theo cái ý nghĩ bị sai khiến, mỗi mỗi nhận lấy các thứ hình tượng? Tâm sanh rồi hình thể nhận lấy, chỗ nhận lấy đó cùng với ý nghĩ tương ưng, lúc thức là tâm tưởng, lúc ngủ là chiêm bao. Những vọng tình lay động, tưởng nghĩ của ông đó gọi là vọng tưởng dung thông thứ ba.

GIẢNG GIẢI:

Thân thường bị những niệm lự (tức ý nghĩ) sai khiến, nhưng thân thì có hình thể, còn niệm thì không hình thể, vậy sao thân lại bị niệm lự sai khiến? Thí dụ như thân đang ngồi trong nhà thoải mái, nhưng khi niệm nghĩ đi chơi liền đội mưa đi. Đó là thân bị niệm sai khiến, không làm chủ được. Xét lại, thân có hình thể, còn niệm đâu có hình thể, vậy niệm làm sao sai khiến được thân? Đó là do vọng tưởng dung thông của tưởng ấm thành thông với thân.

Đây gọi là vọng tình lay động, khiến tâm nghĩ tưởng ngày đêm không dứt, do đó mà che mờ tánh giác, khiến người ban ngày bị tâm tưởng, ban đêm ngủ thành chiêm bao, cả ngày đêm sai khiến không dứt.

Nếu ngộ ra, nó chỉ là vọng tưởng dung thông, không có thật thể, nguyên chỉ là thể giác. Theo danh từ chuyên môn là nó không có tự ngã. Sắc không có tự ngã của sắc, thọ cũng không có tự ngã của thọ, giờ đến tưởng cũng không có tự ngã của tưởng, tức cả ba đều không có thật thể, chỉ là vọng tưởng. Do chúng sanh mê nghĩ theo cái tình chấp ngã, thấy mỗi cái có cái ngã riêng, đó là vọng tưởng điên đảo.

Đến bản nhân của hành ấm:

 

CHÁNH VĂN:

Lý chuyển hóa không dừng, xoay vần thầm thầm dời đổi, móng tay dài, tóc mọc ra, khí lực tiêu, da mặt nhăn, ngày đêm thay đổi mà không hề hay biết. A-nan! Nếu cái đó không phải là ông, thì làm sao thân ông lại dời đổi; nhưng nếu nó thật là ông, thì làm sao ông lại không hay biết? Vậy các hành mỗi niệm không dừng của ông, gọi là vọng tưởng u ẩn thứ tư.

GIẢNG GIẢI:

Đây là vọng tưởng thầm kín. Bởi hành ấm rất sâu xa, tế nhị khó thấy. Nó là sự chuyển biến sanh diệt tương tục rất vi tế, người tu có định lực sâu mới thấy rõ được nó, còn thường thường là không thấy.

Từng niệm từng niệm sanh diệt tương tục vi tế thì người thường làm sao thấy kịp. Chúng ta chỉ thấy những vọng tưởng thô thôi. Cho nên, Phật mới lấy cái lý biến hóa thầm thầm dời đổi, biểu hiện ở nơi thân hiện tại đây chứng minh, để nhân cái này mà hiểu được hành ấm đó. Như móng tay dài, tóc mọc ra, da nhăn v.v... từ đó suy ra rồi nhận thấy nó là một sự thầm thầm dời đổi sâu kín không dừng nên mới có sự chuyển biến như vậy. Chính do sự sanh diệt tương tục quá vi tế đó, chúng ta không thấy được, nên lầm cho là một dòng chuyển biến, như là một thể, nhưng sự thật đó là từng niệm sanh diệt vi tế kết nối nhau.

Phật mới chỉ ra nó ở ngay nơi thân ông, có sự liên hệ với ông nhưng tại sao ông lại không hay biết. Đã là ông tại sao không hay biết? Còn nếu không phải ông tại sao nó lại ở trên thân ông? Cả hai trường hợp đều tìm không ra câu trả lời, ngầm chỉ rằng nó là hư vọng vốn không có thật thể. Đây gọi là vọng tưởng, mà là vọng tưởng u ẩn thầm kín sâu xa. Nếu là người có định tâm sâu thấy rõ nó cũng là vọng tưởng không thật, mới thấu qua khỏi hành ấm.

Cuối cùng là bản nhân của thức ấm:

 

CHÁNH VĂN:

Lại chỗ tinh minh đứng lặng không lay động của ông gọi là thường hằng đó, đối với thân ông thì không ra ngoài sự thấy-nghe-hay-biết. Nếu nó thật là tánh tinh chân, thì không cho huân tập được các điều vọng. Vậy thì vì sao các ông trong mấy năm trước đã từng xem một vật lạ, rồi trải qua nhiều năm không hề nghĩ đến, về sau bỗng nhiên lại xem thấy vật lạ đó, diễn nhớ lại rõ ràng không có thiếu sót. Vậy trong tánh tinh minh đứng lặng không lay động ấy, từng niệm từng niệm chịu sự huân tập không thể tính toán hết được. A-nan! Nên biết cái đứng lặng đó không phải thật, như dòng nước chảy nhanh, trông như yên lặng, vì chảy quá nhanh mà không thấy, chứ không phải là không chảy. Nếu cội gốc cái đó không phải là vọng tưởng, thì đâu chịu để cho hư vọng huân tập. Nếu sáu căn của ông chưa được tự tại, chia hợp dùng thay lẫn nhau; thì cái vọng tưởng đó lúc nào diệt được. Vậy nên hiện nay cái thấy-nghe-hay-biết của ông đây, nó thường xuyên suốt huân tập vi tế trong đó, và là cái tướng huyễn hóa rỗng không bên trong tánh trạm liễu của ông, thuộc cái “tưởng điên đảo rất tinh tế thứ năm”.

GIẢNG GIẢI:

Về bản nhân của thức ấm lại càng vi tế hơn. Đây chỉ ra chỗ tinh minh đứng lặng không lay động hằng thường của ông đó, đối với thân ông thì nó không ra ngoài sự thấy-nghe-hay-biết. Vậy xét kỹ lại xem, nó có phải thật là tánh tinh chân chưa? Nếu nó là tinh chân thì đâu cho huân tập các điều hư vọng. Nhưng hiện nay các ông lại không phải vậy, cho nên Phật mới thí dụ là như những năm trước ông xem thấy một vật gì lạ có ấn tượng, rồi bỗng trải qua nhiều năm quên không nghĩ tới. Bỗng một hôm thấy vật lạ đó liền nhớ lại rõ ràng không thiếu sót. Vậy là nó có sự thầm thầm huân tập sâu kín bên trong nhưng ông không hề hay biết, đó là dấu hiệu của thức ấm.

Bởi cái tinh minh đứng lặng không lay động gọi là hằng thường, đó là cái gốc của các thức, nhưng ở đây do hành ấm hết nên tạm thấy như thế, chứ sự thật thì chưa phải. Vì hành ấm tuy hết nhưng hiện tại còn thức ấm, mà thức ấm thì nó trôi chảy quá nhanh nên lầm thấy như là nó đứng lặng hằng thường vậy thôi. Đây mới nói, nếu nó đã là tánh tinh chân thì sao lại có chịu sự huân tập như vậy? Chân mà tinh thì đâu có xen lẫn cái gì khác nữa. Để biết, nó còn có cái vọng, còn có chỗ bị che, nên gọi là thức ấm. Phật nói rõ: “Trong tánh tinh minh đứng lặng không lay động ấy, từng niệm, từng niệm chịu sự huân tập không thể tính toán hết được. A-nan! Nên biết cái đứng lặng đó không phải thật, như dòng nước chảy nhanh, trông như yên lặng, vì chảy quá nhanh mà không thấy, chứ không phải là không chảy”. Là bởi vì nó có sự huân tập sâu kín bên trong là biểu tướng của thức ấm.

Như vậy cái tập khí này, nó thường xuyên suốt huân tập trong chỗ thấy nghe nên mới có sự tiếp nối thấy trước nhớ sau không mất. Nó cũng vốn là vọng tưởng điên đảo, tinh tế, thuộc tướng huyễn hóa, rỗng không, không có thật thể gì. Nhưng vì mê, chúng ta thấy giống như có thật, lầm là chỗ đó. Chính vì lầm cho nên còn bị che; nếu ngộ ngay đó tự hết, chỉ vốn là tánh trạm liễu, tức trong lặng rõ ràng thôi.

Đó là nói qua về bản nhân của năm ấm. Đây Phật khai thị về biên giới của các ấm.

 

CHÁNH VĂN:

A-nan! Năm thứ ấm đó, là do năm thứ vọng tưởng tạo thành. Nay ông muốn biết giới hạn cạn sâu, thì chỉ sắc và không là biên giới của sắc ấm; chỉ xúc và ly là biên giới của thọ ấm; chỉ nhớ và quên, là biên giới của tưởng ấm; chỉ diệt và sanh, là biên giới của hành ấm, đứng lặng vào hợp với đứng lặng, là trở về bờ mé của thức ấm.

GIẢNG GIẢI:

Phật xác định rõ năm ấm là năm thứ vọng tưởng tạo thành thôi. Tuy nói có năm thứ sai biệt nhưng cũng là từ vọng tưởng, không có thật thể có thể được.

 Nếu chúng ta thấy được chỗ đó là không bị mắc kẹt, không bị che. Ấm tức là che, năm thứ che ngăn nhưng cũng chỉ là vọng che chớ không có tánh thật. Chính do vô minh mà người ta đành chịu đầu hàng nó? Đó là một cái đau thật đau!

Đây Phật mới chỉ ra biên giới cạn sâu: “Chỉ sắc và không là biên giới của sắc ấm”. Nếu chưa qua khỏi sắc-không thì vẫn còn nằm trong sắc ấm. Cho nên, còn thấy sắc hết trở về không là cũng còn ở trong sắc ấm, phải qua sắc-không mới qua khỏi sắc ấm. Đó là điều phải thấy được.

Chỉ xúc và ly là biên giới của thọ ấm. Xúc tức là xúc chạm và ly là lìa ra, hai tướng đó là biên giới của thọ ấm. Chưa thấu qua được cái xúc và cái ly là cũng chưa qua khỏi được thọ ấm.

Nhớ và quên là biên giới của tưởng ấm. Còn có nhớ, còn có quên là còn trong tưởng ấm. Khi tưởng ấm hết rồi thì không còn có nhớ quên, ngủ thức như nhau.

Diệt và sanh là biên giới của hành ấm. Nếu còn thấy có diệt có sanh là còn trong biên giới của hành ấm.

Đứng lặng vào hợp với đứng lặng, trở về bờ mé của thức ấm. Tức còn thấy có chỗ đứng lặng để hợp trở về, đó cũng là biên giới của thức ấm, là trở về bờ mé của thức ấm, chưa qua khỏi thức ấm.

Đây là chỗ rất vi tế của người tu hành. Khi chúng ta thấy tâm đã được lặng lẽ hợp vào chỗ lặng, chỗ tịch diệt như vậy là quá hay. Nhưng còn thấy có chỗ lặng lẽ để thầm hợp thì cũng là còn dấu vết của thức ấm. Nó vi tế vậy đó. Như vậy, để thấy nếu chúng ta tu lừng chừng, tu hời hợt thì bao giờ thấy được chỗ này? Thử kiểm xem, vọng tưởng mà thấy chưa hết làm sao thấy được tới chỗ vi tế này! Vì thế, chúng ta cần phải tinh tấn tu cho kỹ.

Đó là nói về biên giới của năm ấm. Đây Phật mới khai thị chỗ chứng ngộ dẹp trừ đốn tiệm.

 

CHÁNH VĂN:

Cội nguồn năm ấm này vốn trùng điệp sanh khởi. Sanh, nhân thức ấm mà có; diệt, từ sắc ấm mà trừ; lý thì ngộ liền, nhân cái ngộ đều tiêu; sự không phải trừ liền, theo thứ lớp mới diệt hết.

GIẢNG GIẢI:

Cội nguồn năm ấm tuy là vọng nhưng cũng không phải đơn giản. Nên đây nói cội nguồn năm ấm vốn là trùng điệp sanh khởi tức là nhiều lớp từ tế tới thô. Sanh bắt đầu từ thức, tức cũng không rời ngoài cái thức, nhưng chỉ là từ tế rồi hiện thô thành ra tạm có sai khác. Tuy nói có hành, có tưởng, có thọ nhưng gốc ban đầu là từ cái thức khởi nên gọi thức là gốc. Thức là gốc, mà cái gốc thức thì thể của nó vốn chân thật, do mê cái gốc chân thật mới chuyển thành thức. Vì mê Như Lai Tạng mà chuyển thành tàng thức, rồi có các thức.

Đây gọi là sanh từ thức mà sanh, nhưng diệt thì từ sắc ấm mà trừ. Từ thức mà đi ra tới sắc là từ tế ra tới thô, diệt thì từ thô trở về tế. Tuy nói có thô có tế nhiều lớp nhưng cũng là vọng hiện thì đâu có tánh thật. Bởi vậy, ngộ biết nó vốn không tự tánh, chỉ là một tánh giác không có riêng, thì thấu qua các thứ lớp. Bởi vậy mới nói, về lý thì ngộ liền đâu có hai, nhưng trên sự phải theo thứ lớp mới trừ diệt được, vì tập khí không phải một lúc được sạch. Không phải nghe nói ngộ là liền xong, không cần tu nữa, đó là trở thành thiền bắn bổng, rất nguy hiểm!

Song chúng ta đã thấu được lý nên tuy diệt có thứ lớp nhưng sự thật nó cũng vốn là tánh không, do đó diệt mà cũng không thật có cái để diệt. Đó là suốt qua thứ lớp mà không mắc kẹt nơi chỗ được. Bởi vậy, ở đây tuy nói đốn nói tiệm nhưng cũng là phương tiện, còn khi trở về gốc thì chỉ là một tánh giác xưa nay có gì là đốn tiệm, được mất, thô tế, như vậy mới là quên sạch hết dấu vết kia đây. Ở trước, Phật đã nói rốt ráo trở về vô sở đắc, không có gì để được là vậy. Đó là chỗ chúng ta phải học cho kỹ!

Phật kết luận:

 

CHÁNH VĂN:

Tôi đã chỉ cho ông về cái gút nơi khăn kiếp-ba-la có chỗ nào không rõ mà ông phải hỏi lại. Tâm ông cần phải thông suốt về cội gốc vọng tưởng đó để truyền dạy cho người tu hành trong đời mạt pháp sau này, khiến cho họ biết hư vọng mà tự sanh nhàm chán, và biết rõ có Niết-bàn nên không luyến tiếc ba cõi.

GIẢNG GIẢI:

Đây Phật nhắc lại ở trước Phật nói về cái gút, tức từ một cái khăn nhưng khi thắt thành sáu gút thì sáu gút đó thành ra sáu cái sai biệt, cái gút này không phải cái gút kia. Vậy khi mở thì cũng không thể mở liền một cái là xong, mà cần phải mở từng gút. Tuy nhiên, khi mở hết các gút rồi thì chỉ là một cái khăn, không phải thành có sáu cái. Đó là điều chúng ta phải thấy rõ. Phật lại nhấn mạnh: “Tâm ông cần phải thông suốt về cội gốc vọng tưởng đó để truyền dạy cho người tu hành đời sau”. Phải thấu rõ nó vốn không có tánh thật, không lầm bám chấp vào đó mà vọng chịu sanh tử đáng tiếc!

Tuy nhiên, biết nó là vọng thì ngộ vọng tức chân chứ không phải ngoài cái vọng riêng có cái chân khác, cho nên nói nguyên thể xưa nay nó chưa từng có hai thứ, đâu phải có một cái thể là vọng, rồi có một cái thể là chân, rồi bỏ cái vọng để về cái chân. Đó là chỗ dễ mắc kẹt. Thường chúng ta học trên chữ nghĩa là bỏ vọng về chân, bỏ mê về ngộ. Đó là chữ nghĩa thôi. Giống như sóng và nước, nước dậy sóng thì sóng cũng là nước, nhưng lúc nước dậy thành sóng thì thấy như sóng khác nước mới nghĩ bỏ sóng trở về nước. Đây là những danh từ phương tiện, thật ra bỏ sóng rồi còn nước đâu để mà về. Sóng lặng tức là nước, có về đâu! Như vậy, Niết-bàn cũng không phải là cái bên ngoài tìm được, Niết-bàn cũng ngay trong sanh tử này, có sanh tử nên quên Niết-bàn, còn ngộ thấu sanh tử tức là Niết-bàn, chứ Niết-bàn không phải ở đâu khác.

Học kinh này rồi, điều muốn khuyên nhắc cho tất cả là chúng ta phải khéo tu để thấu rõ sự hư vọng của năm ấm, mà không có tham luyến trong đó. Sở dĩ tham luyến là thấy nó thật, còn thấu rõ cái hư vọng của nó thì không còn tham luyến, đó là con đường giải thoát. Biết rõ nó là hư vọng mà bám chấp không chịu buông là sao? Như chúng sanh điên đảo mê lầm không biết thì không nói gì, còn chúng ta đã biết là vọng lại không chịu buông, đó là điều đáng trách!

Đã biết có cái gốc chân thật này rồi, lại còn biết rõ những thứ thuộc hư vọng, vậy tại sao không chịu sống trở lại cái chân thật, mà mãi bám vào cái hư vọng! Đó là tập khí mê lầm lâu đời trở thành thói quen, cho nên chúng ta phải biết để chuyển, không thể mãi chịu chôn vùi trong hư vọng. Bởi vậy, bậc trí sáng suốt phải xét kỹ để có những bước tiến sâu trên đường giải thoát.

Đây có bài kệ tóm kết ý này mà nhắc chung:

     Người người sẵn có một tánh chân,

     Sáng suốt chưa từng bị vết ngăn.

     Sao chịu che mờ bởi các ấm?

     Lang thang ba cõi vọng xoay vần.

          Vọng xoay vần...

     Nhớ chăng lời Phật thật ân cần?!

Những lời Phật dạy thật ân cần nhắc nhở như thế, tại sao bao nhiêu người vẫn chịu để che mờ bởi các ấm rồi lang thang trong ba cõi vọng xoay vần. Ngay đây còn chưa chịu tỉnh trở lại hay sao?

Đó là xong phần Chánh Tông của kinh Lăng Nghiêm, kế là phần Lưu Thông, kết lại.

***

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 97384
  • Online: 25