Mời Tham Dự Khóa Tu Một Ngày Tu An Lạc Tháng 10 - Lễ Tưởng Niệm Phật Hoàng Trần Nhân Tông và Thiền Sư Chân Nguyên
Đặc Điểm Của Thiền Tông Việt Nam
Bế mạc khóa gặp mặt chư Tôn đức Tăng các thiền viện Tông môn Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam khu vực phía Bắc
Các hoạt động tại Khóa gặp mặt Chư Tôn Đức Tăng Các Thiền Viện Trong Tông Môn Thiền Phái Trúc Lâm Khu vực Phía Bắc
Thiền phái Trúc Lâm VN tổ chức khóa gặp mặt, tu học dành cho chư Tăng các thiền viện khu vực phía Bắc
Lễ Giỗ Tổ Bồ Đề Đạt Ma PL.2568-DL.2024 tại TVTL Sùng Phúc
Chuyện Tổ Bồ Đề Đạt Ma
Tiểu Sử Tổ Bồ Đề Đạt Ma
Thiền Tông Là Gì
Thiền Của Đạo Phật
Chủ nhật, 22/12/2024
,
Niềm vui đầu xuân
27/01/2012 | Lượt xem: 3658
HT.Thích Thanh Từ
Hôm nay là Tết Nguyên Đán, năm Quí Hợi, 1983 DL, chư Tăng Ni và Phật tử đến đây chúc mừng năm mới và cầu tuổi thọ cho tôi. Vì tôi có một chút niềm vui, nên muốn nói chuyện nhiều với quí vị nhân buổi đầu xuân.
Một hôm, đang ngồi nghỉ, bỗng dưng tôi nhớ đến câu chuyện Thiền sư Huệ Hải đến hỏi đạo với Mã Tổ. Khi Huệ Hải đến, Mã Tổ hỏi: “Ông đến đây cầu việc gì?” Huệ Hải thưa: “Con đến đây cầu Phật pháp.” Mã Tổ bảo: “Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì?” Huệ Hải thưa:“Cái gì là kho báu của Huệ Hải?” Mã Tổ nói: “Chính cái ngươi hỏi ta, đó là kho báu của ngươi, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.” Ngay câu này, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình, vui mừng lễ tạ. Về sau, khi giáo hóa đồ đệ, Ngài bảo: “Từ khi ta đến Mã Tổ, nhận được kho báu nhà mình đến giờ sử dụng tự tại, không bao giờ thiếu thốn.” Khi ấy bỗng dưng tôi tự hỏi: “mình thiếu thốn cái gì”, rồi tôi cười…
Tôi lại nhớ đến hai thí dụ trong kinh Pháp Hoa: thí dụ Cùng tử và thí dụ Hệ châu.
Các đệ tử lớn của đức Phật, sau khi ngộ được Tri kiến Phật, mới trình lên thí dụ “Cùng tử”, để đức Phật ấn chứng. Cùng tử từ thuở nhỏ, đã bỏ cha trốn đi lang thang ở xứ người, sống chật vật nghèo khổ. Khi tuổi đã lớn, chàng tình cờ về đến cố hương. Gặp lại cha sống trong cảnh giàu sang quyền quí, chàng không dám nhìn cha. Vì không nhận ra ông Trưởng giả đầy thế lực kia là cha mình, nên cùng tử hoảng sợ bỏ chạy, khiến ông Trưởng giả phải khổ nhọc sai ngưởi đi dụ dỗ. Sau cùng chàng chịu trở về với tư cách làm thuê cho ông Trưởng giả, chớ không dám tự nhận mình là con. Lần lần về sau, nhờ sự khôn ngoan khéo léo, nên đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc lại, mới tuyên bố rằng: “ngươi thật là con ta, ta thật là cha ngươi…” và trao cả sự nghiệp cho chàng. Từ đó cùng tử mới thấy mình thật là con ông Trưởng giả và thừa hưởng sự nghiệp của cha.
Qua thí dụ trên, chúng ta nhận thấy chàng cùng tử đi lang thang, khi trở về không dám nhận ông Trưởng giả là cha, nên hoảng sợ bỏ chạy. Và khi được dụ dỗ mới trở lại. Nếu chàng cùng tử ấy ngay khi trở về liền tự nhận mình là con thì chắc khỏi bận tâm người cha.
Đến thí dụ “Hệ châu”. Đây là hình ảnh một người cùng khổ đói rét về thăm bạn thân, rồi say rượu nằm ngủ. Người bạn thương, cột trong chéo áo của anh một hạt châu quí nhưng vì say nên anh không hay biết. Người bạn bận việc phải đi, anh chàng say khi tỉnh dậy bèn đi lang thang xứ này xứ khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc. Một hôm, người bạn thân gặp lại anh bèn nói: “Ngày xưa tôi đã tặng anh một hạt châu quí, giá trị vô luợng, cột trong chéo áo của anh, nếu anh đem ra dùng thì sẽ thành một cự phú, đâu phải sống lang thang đói rét đến thế này.” Người bạn mới chỉ thẳng hạt châu cho anh. Nhận ra hạt châu, anh chàng kia liền hết thiếu thốn, nghèo khổ.
Qua thí dụ trên chúng ta thấy chỉ cần một phen nhận lại mình có hạt châu thì hết nghèo; nếu quên mình có hạt châu thì đói khổ, nhớ mình có hạt châu thì giàu có.
Như vậy cái giàu có và nghèo khổ cách nhau bao nhiêu. Chỉ giữa tỉnh và mê. Ví như cùng tử khi gặp lại cha, nhận ngay cha mình là ông Trưởng giả, lúc ấy tuy chưa thay đổi y phục nhưng còn thấy mình là cùng tử hay không? Và anh chàng có sẵn hạt châu trong chéo áo, vừa nhớ lại mình có hạt châu, lúc ấy tuy còn đội nón lá, mặc áo rách, nhưng anh còn thấy mình nghèo chăng? Cái nghèo của cùng tử và của gã say, lỗi tại chỗ nào? Chỉ tại quên mình là con ông Trưởng gia, chỉ tại quên mình là người có hạt châu.
Kinh Pháp Hoa rất cao siêu, thuộc về Đại thừa đốn giáo, đốn nghĩa là nhanh. Nhớ mình là con ông Trưởng giả, nhớ mình có hạt châu, liền thấy mình giàu. Quên mình là con Trưởng giả, quên mình có hạt châu, là kẻ bần cùng. Chỉ trong tích tắc đồng hồ bỏ nghèo thành giàu, chỉ trong tích tắc đồng hồ chuyển mê thành ngộ. Đó là chỗ cao siêu đốn ngộ của kinh Pháp Hoa. Đó cũng chính là chỗ nhận ra kho báu nhà mình của Thiền sư Huệ Hải. Chỉ ngay câu nói của Mã Tổ, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình vốn tự đầy đủ, chưa từng thiếu thốn, không phải đi lang thang cầu pháp nơi này nơi khác. Chỉ một phen nhận ra một cách nhanh chóng kho báu nhà mình liền trở thành người giàu có, đó gọi là đốn ngộ. Còn quên gọi là mê, mê lộ là quên đường. Chỉ vì quên kho báu của chính mình nên chúng ta lang thang đi trong luân hồi sanh tử không biết bao nhiêu kiếp. Cho đến ngày nay, tuy đôi lúc tỉnh giác trở về với đạo, nhưng vẫn còn thấy mình nghèo thiếu, nên đi học hỏi nơi này nơi kia, tìm cầu bên ngoài, nếu nhớ lại thì hết đói khát thiếu thốn. Đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông, là tinh thần “truyền đốn pháp” trong bài kệ của Lục Tổ, cũng là tinh thần đốn ngộ của kinh điển Đại thừa.
Pháp đốn ngộ này không có thời gian, như câu chuyện Long nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa. Long nữ là con gái của vua rồng, mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ thấy rõ các pháp, được ngài Văn-thù-sư-lợi hóa độ nên chứng được quả Vô thượng Bồ-đề mau chóng. Ngài Xá-lợi-phất không tin việc này. Vô lý, thân nữ lại thuộc loài súc sanh, mà được thành Phật, việc này khó tin. Long nữ có một hạt châu quí báu, đem dâng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Tôn giả Xá-lợi-phất: Tôi dâng châu báu, đức Thế Tôn nhận lấy, việc này trong khoảng bao lâu? Đáp: Trong chốc lát. Long nữ nói: Tôi thành Phật cũng nhanh như vậy.
Thật vậy, nếu chúng ta nhận mình là con ông Trưởng giả thì trong chớp mắt mình không còn là kẻ lang thang đói rách nữa. Nếu chúng ta biết mình có hạt châu trong chéo áo, dù có ai chê cười mình là kẻ ăn mày nghèo khổ, mình vẫn thản nhiên vì biết mình là cự phú. Nhận rõ được điều này, chúng ta không còn lo sợ thiếu thốn. Nghĩ như vậy tôi cảm thấy vui vì năm nay chúng ta đều là những người giàu có, là những cự phú ngày mai.
Kinh điển Đại thừa thường hay nói mê và ngộ nhanh như trở bàn tay. Vì sao? Vì mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Hạt châu đã sẵn trong túi áo, chỉ cần nhớ lại mình có hạt châu là thành kẻ giàu, cái nhớ lại chỉ trong khoảnh khắc, không thể nói thời gian được. Tuy chúng ta chưa bán hạt châu để sắm xe cộ, nhà cửa v.v… nhưng chúng ta chắc chắn không phải kẻ nghèo khổ. Cũng như vậy, một phen ngộ rồi chúng ta là Phật tương lai không nghi ngờ gì, ngộ rồi chúng ta không còn là chúng sanh lang thang nữa. Trong nhà thiền thường nói mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Chỉ mê và ngộ thôi, cũng như chỉ nhớ và quên thôi. Nhớ và quên còn mau hơn cả cái tích tắc đồng hồ, không thể định thời gian được. Đó gọi là đốn ngộ, nghĩa là ngộ nhanh không tưởng được. Mê thì Phật là chúng sanh, quên mình có hạt châu, thấy mình là kẻ ăn mày. Ngộ thì chúng sanh là Phật, chính kẻ ăn mày nhận ra hạt châu trong chéo áo, thấy mình là tay cự phú.
Nhưng thử hỏi, vì sao chúng ta không giác ngộ, mà cứ mãi si mê như vậy? Đó là câu hỏi mà người tu hành vẫn thường thắc mắc. Lỗi tại đâu mà chúng ta không ngộ, mà cứ mê hoài? Sau đây là câu chuyện của ngài Sa-di Cao. Sa-di Cao đến với Thiền sư Dược Sơn. Dược Sơn hỏi: “Ta nghe nói ở Trường An ồn ào lắm phải chăng?” Sa-di Cao trả lời : “Xứ con an ổn.” Qua câu trả lời, chúng ta thấy ngài Sa-di Cao là kẻ giàu phải không? Và tại sao giàu? Ngài Dược Sơn hỏi tiếp: “Ngươi do đọc kinh mà được hay do thưa hỏi được?” Sa-di Cao thưa: “Không do đọc kinh cũng không do thưa hỏi.” Dược Sơn bảo: “Những người khác không đọc kinh, không thưa hỏi, tại sao họ không được?” Sa-di Cao thưa: “Không phải họ không có, tại vì họ không chịu nhận thôi.” Chính vì những người khác không nhận cái ấy sẵn có nơi mình, nên làm kẻ nghèo lang thang. Chỉ một phen nhận ra, từ đó về sau đi đứng nằm ngồi không bao giờ quên, không bao giờ thấy mình là kẻ nghèo đói thiếu thốn nữa.
Khi nghe hỏi Trường An ồn ào lắm phải chăng, ngài Sa-di Cao trả lời: Xứ con an ổn. Vậy xứ Ngài là xứ nào? Vì Trường An là kinh đô ồn náo, xứ của Ngài có phải ở trong đồng hoang rừng vắng chăng? Nếu ai chỉ được chỗ ấy là biết xứ của Ngài. Để chỉ người dám chỉ, chúng tôi xin dẫn câu chuyện của ngài Qui Chơn. Qui Chơn đến với Tổ Qui Sơn. Tổ hỏi: “Ngươi tên gì?” Đáp: “Dạ con tên Qui Chơn.” Tổ hỏi: “Qui Chơn ở chỗ nào?” Ngài trả lời không được, rồi từ giã Tổ xuống núi, và gặp ngài Ngưỡng Sơn đang chăn trâu. Ngưỡng Sơn hỏi: “Sao Thượng tọa lên núi xuống mau vậy?” Qui Chơn đáp: ‘Tại vì cơ duyên không hợp.” Hỏi: “Vậy Hoà thượng hỏi gì?” Đáp: “Hoà thuợng hỏi tôi tên gì, tôi nói Qui Chơn, rồi Hoà thượng hỏi Qui Chơn ở đâu, tôi trả lời không được nên xuống núi.” Ngưỡng Sơn nói: “Thôi Thượng tọa trở lên thưa: Con nói được. Hoà thượng hỏi ở đâu, Thượng tọa chỉ đáp “trong mắt, tai, mũi…” Qui Chơn vội vã trở lên thưa: “Con trả lời được.” Tổ hỏi: “Qui Chơn ở đâu?” Ngài liền đáp: “Trong mắt, tai, mũi…” Tổ Qui Sơn liền bảo: “Kẻ nói dối, nói rỗng, đó là lời của thiện tri thức năm trăm người.” Như vậy “Qui Chơn” là trở về chỗ ấy, trở về cái chân thật. Chỗ an ổn của ngài Sa-di Cao cũng là ở chỗ đó, chỗ đó lúc nào cũng an ổn. Sở dĩ chúng ta không an ổn là tại trong tâm ta lăng xăng, còn ở mắt, ở tai đâu có lăng xăng. Tai nghe tiếng rồi tâm chạy theo tiếng, mắt thấy sắc tâm liền duyên theo sắc, nên chúng ta mới lăng xăng dao động, còn ở tai ở mắt có bao giờ lăng xăng đâu. Sống với cái không động tịnh bao giờ, nên ngài Sa-di Cao được luôn luôn an ổn. Như vậy, khi nhận ra được kho báu nhà mình thì sung sướng suốt đời, không còn nghèo khổ. Nếu không nhận ra được thì khi nghe ai nói nơi nào có Phật, chúng ta liền chạy đến tìm cầu, không ngờ mình đã vác Phật đi cầu Phật.
Khi nhớ lại những câu chuyện vừa kể trên, chúng tôi nhận thấy pháp tu thiền của chúng ta theo hai cách thức, tạm dùng danh từ là tu toàn phần và tu cục bộ. Đó là điều quan trọng chúng tôi cần phải nói rõ.
Thế nào là tu toàn phần? Chúng tôi dẫn lời của ngài Đại An nói với môn đệ: “Tất cả các ngươi đều có viên ngọc quí thường phóng quang ra sáu cửa gọi là phóng quang tam-muội.” Như vậy nếu chúng ta trong các động tác hằng ngày đi đứng nằm ngồi nói nín trông nghe đều nhớ được viên ngọc quí của chính mình thường phóng quang ra sáu cửa, đó gọi là tu toàn phần. Tu toàn phần là sống với ánh sáng do viên ngọc quí phóng ra, không lệ thuộc vào sáu trần, ánh sáng ấy không phải động, không phải tịnh vì vượt ngoài vòng đối đãi động tịnh. Trong quyển “Yếu Chỉ Thiền Tông”, chúng tôi gọi lối tu toàn phần này là tu nhớ Ông chủ, nghĩa là trong mọi hoạt động đi đứng nằm ngồi, chúng ta hằng nhớ ánh sáng của viên ngọc quí phóng ra sáu cửa, không bao giờ quên việc ấy. Trong nhà thiền gọi đó là trưởng dưỡng Thánh thai hay là nuôi lớn Thánh thai của chính mình.
Tổ Lâm Tế có nói:
Tôi lại nhớ đến hai thí dụ trong kinh Pháp Hoa: thí dụ Cùng tử và thí dụ Hệ châu.
Các đệ tử lớn của đức Phật, sau khi ngộ được Tri kiến Phật, mới trình lên thí dụ “Cùng tử”, để đức Phật ấn chứng. Cùng tử từ thuở nhỏ, đã bỏ cha trốn đi lang thang ở xứ người, sống chật vật nghèo khổ. Khi tuổi đã lớn, chàng tình cờ về đến cố hương. Gặp lại cha sống trong cảnh giàu sang quyền quí, chàng không dám nhìn cha. Vì không nhận ra ông Trưởng giả đầy thế lực kia là cha mình, nên cùng tử hoảng sợ bỏ chạy, khiến ông Trưởng giả phải khổ nhọc sai ngưởi đi dụ dỗ. Sau cùng chàng chịu trở về với tư cách làm thuê cho ông Trưởng giả, chớ không dám tự nhận mình là con. Lần lần về sau, nhờ sự khôn ngoan khéo léo, nên đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc lại, mới tuyên bố rằng: “ngươi thật là con ta, ta thật là cha ngươi…” và trao cả sự nghiệp cho chàng. Từ đó cùng tử mới thấy mình thật là con ông Trưởng giả và thừa hưởng sự nghiệp của cha.
Qua thí dụ trên, chúng ta nhận thấy chàng cùng tử đi lang thang, khi trở về không dám nhận ông Trưởng giả là cha, nên hoảng sợ bỏ chạy. Và khi được dụ dỗ mới trở lại. Nếu chàng cùng tử ấy ngay khi trở về liền tự nhận mình là con thì chắc khỏi bận tâm người cha.
Đến thí dụ “Hệ châu”. Đây là hình ảnh một người cùng khổ đói rét về thăm bạn thân, rồi say rượu nằm ngủ. Người bạn thương, cột trong chéo áo của anh một hạt châu quí nhưng vì say nên anh không hay biết. Người bạn bận việc phải đi, anh chàng say khi tỉnh dậy bèn đi lang thang xứ này xứ khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc. Một hôm, người bạn thân gặp lại anh bèn nói: “Ngày xưa tôi đã tặng anh một hạt châu quí, giá trị vô luợng, cột trong chéo áo của anh, nếu anh đem ra dùng thì sẽ thành một cự phú, đâu phải sống lang thang đói rét đến thế này.” Người bạn mới chỉ thẳng hạt châu cho anh. Nhận ra hạt châu, anh chàng kia liền hết thiếu thốn, nghèo khổ.
Qua thí dụ trên chúng ta thấy chỉ cần một phen nhận lại mình có hạt châu thì hết nghèo; nếu quên mình có hạt châu thì đói khổ, nhớ mình có hạt châu thì giàu có.
Như vậy cái giàu có và nghèo khổ cách nhau bao nhiêu. Chỉ giữa tỉnh và mê. Ví như cùng tử khi gặp lại cha, nhận ngay cha mình là ông Trưởng giả, lúc ấy tuy chưa thay đổi y phục nhưng còn thấy mình là cùng tử hay không? Và anh chàng có sẵn hạt châu trong chéo áo, vừa nhớ lại mình có hạt châu, lúc ấy tuy còn đội nón lá, mặc áo rách, nhưng anh còn thấy mình nghèo chăng? Cái nghèo của cùng tử và của gã say, lỗi tại chỗ nào? Chỉ tại quên mình là con ông Trưởng gia, chỉ tại quên mình là người có hạt châu.
Kinh Pháp Hoa rất cao siêu, thuộc về Đại thừa đốn giáo, đốn nghĩa là nhanh. Nhớ mình là con ông Trưởng giả, nhớ mình có hạt châu, liền thấy mình giàu. Quên mình là con Trưởng giả, quên mình có hạt châu, là kẻ bần cùng. Chỉ trong tích tắc đồng hồ bỏ nghèo thành giàu, chỉ trong tích tắc đồng hồ chuyển mê thành ngộ. Đó là chỗ cao siêu đốn ngộ của kinh Pháp Hoa. Đó cũng chính là chỗ nhận ra kho báu nhà mình của Thiền sư Huệ Hải. Chỉ ngay câu nói của Mã Tổ, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình vốn tự đầy đủ, chưa từng thiếu thốn, không phải đi lang thang cầu pháp nơi này nơi khác. Chỉ một phen nhận ra một cách nhanh chóng kho báu nhà mình liền trở thành người giàu có, đó gọi là đốn ngộ. Còn quên gọi là mê, mê lộ là quên đường. Chỉ vì quên kho báu của chính mình nên chúng ta lang thang đi trong luân hồi sanh tử không biết bao nhiêu kiếp. Cho đến ngày nay, tuy đôi lúc tỉnh giác trở về với đạo, nhưng vẫn còn thấy mình nghèo thiếu, nên đi học hỏi nơi này nơi kia, tìm cầu bên ngoài, nếu nhớ lại thì hết đói khát thiếu thốn. Đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông, là tinh thần “truyền đốn pháp” trong bài kệ của Lục Tổ, cũng là tinh thần đốn ngộ của kinh điển Đại thừa.
Pháp đốn ngộ này không có thời gian, như câu chuyện Long nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa. Long nữ là con gái của vua rồng, mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ thấy rõ các pháp, được ngài Văn-thù-sư-lợi hóa độ nên chứng được quả Vô thượng Bồ-đề mau chóng. Ngài Xá-lợi-phất không tin việc này. Vô lý, thân nữ lại thuộc loài súc sanh, mà được thành Phật, việc này khó tin. Long nữ có một hạt châu quí báu, đem dâng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Tôn giả Xá-lợi-phất: Tôi dâng châu báu, đức Thế Tôn nhận lấy, việc này trong khoảng bao lâu? Đáp: Trong chốc lát. Long nữ nói: Tôi thành Phật cũng nhanh như vậy.
Thật vậy, nếu chúng ta nhận mình là con ông Trưởng giả thì trong chớp mắt mình không còn là kẻ lang thang đói rách nữa. Nếu chúng ta biết mình có hạt châu trong chéo áo, dù có ai chê cười mình là kẻ ăn mày nghèo khổ, mình vẫn thản nhiên vì biết mình là cự phú. Nhận rõ được điều này, chúng ta không còn lo sợ thiếu thốn. Nghĩ như vậy tôi cảm thấy vui vì năm nay chúng ta đều là những người giàu có, là những cự phú ngày mai.
Kinh điển Đại thừa thường hay nói mê và ngộ nhanh như trở bàn tay. Vì sao? Vì mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Hạt châu đã sẵn trong túi áo, chỉ cần nhớ lại mình có hạt châu là thành kẻ giàu, cái nhớ lại chỉ trong khoảnh khắc, không thể nói thời gian được. Tuy chúng ta chưa bán hạt châu để sắm xe cộ, nhà cửa v.v… nhưng chúng ta chắc chắn không phải kẻ nghèo khổ. Cũng như vậy, một phen ngộ rồi chúng ta là Phật tương lai không nghi ngờ gì, ngộ rồi chúng ta không còn là chúng sanh lang thang nữa. Trong nhà thiền thường nói mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Chỉ mê và ngộ thôi, cũng như chỉ nhớ và quên thôi. Nhớ và quên còn mau hơn cả cái tích tắc đồng hồ, không thể định thời gian được. Đó gọi là đốn ngộ, nghĩa là ngộ nhanh không tưởng được. Mê thì Phật là chúng sanh, quên mình có hạt châu, thấy mình là kẻ ăn mày. Ngộ thì chúng sanh là Phật, chính kẻ ăn mày nhận ra hạt châu trong chéo áo, thấy mình là tay cự phú.
Nhưng thử hỏi, vì sao chúng ta không giác ngộ, mà cứ mãi si mê như vậy? Đó là câu hỏi mà người tu hành vẫn thường thắc mắc. Lỗi tại đâu mà chúng ta không ngộ, mà cứ mê hoài? Sau đây là câu chuyện của ngài Sa-di Cao. Sa-di Cao đến với Thiền sư Dược Sơn. Dược Sơn hỏi: “Ta nghe nói ở Trường An ồn ào lắm phải chăng?” Sa-di Cao trả lời : “Xứ con an ổn.” Qua câu trả lời, chúng ta thấy ngài Sa-di Cao là kẻ giàu phải không? Và tại sao giàu? Ngài Dược Sơn hỏi tiếp: “Ngươi do đọc kinh mà được hay do thưa hỏi được?” Sa-di Cao thưa: “Không do đọc kinh cũng không do thưa hỏi.” Dược Sơn bảo: “Những người khác không đọc kinh, không thưa hỏi, tại sao họ không được?” Sa-di Cao thưa: “Không phải họ không có, tại vì họ không chịu nhận thôi.” Chính vì những người khác không nhận cái ấy sẵn có nơi mình, nên làm kẻ nghèo lang thang. Chỉ một phen nhận ra, từ đó về sau đi đứng nằm ngồi không bao giờ quên, không bao giờ thấy mình là kẻ nghèo đói thiếu thốn nữa.
Khi nghe hỏi Trường An ồn ào lắm phải chăng, ngài Sa-di Cao trả lời: Xứ con an ổn. Vậy xứ Ngài là xứ nào? Vì Trường An là kinh đô ồn náo, xứ của Ngài có phải ở trong đồng hoang rừng vắng chăng? Nếu ai chỉ được chỗ ấy là biết xứ của Ngài. Để chỉ người dám chỉ, chúng tôi xin dẫn câu chuyện của ngài Qui Chơn. Qui Chơn đến với Tổ Qui Sơn. Tổ hỏi: “Ngươi tên gì?” Đáp: “Dạ con tên Qui Chơn.” Tổ hỏi: “Qui Chơn ở chỗ nào?” Ngài trả lời không được, rồi từ giã Tổ xuống núi, và gặp ngài Ngưỡng Sơn đang chăn trâu. Ngưỡng Sơn hỏi: “Sao Thượng tọa lên núi xuống mau vậy?” Qui Chơn đáp: ‘Tại vì cơ duyên không hợp.” Hỏi: “Vậy Hoà thượng hỏi gì?” Đáp: “Hoà thuợng hỏi tôi tên gì, tôi nói Qui Chơn, rồi Hoà thượng hỏi Qui Chơn ở đâu, tôi trả lời không được nên xuống núi.” Ngưỡng Sơn nói: “Thôi Thượng tọa trở lên thưa: Con nói được. Hoà thượng hỏi ở đâu, Thượng tọa chỉ đáp “trong mắt, tai, mũi…” Qui Chơn vội vã trở lên thưa: “Con trả lời được.” Tổ hỏi: “Qui Chơn ở đâu?” Ngài liền đáp: “Trong mắt, tai, mũi…” Tổ Qui Sơn liền bảo: “Kẻ nói dối, nói rỗng, đó là lời của thiện tri thức năm trăm người.” Như vậy “Qui Chơn” là trở về chỗ ấy, trở về cái chân thật. Chỗ an ổn của ngài Sa-di Cao cũng là ở chỗ đó, chỗ đó lúc nào cũng an ổn. Sở dĩ chúng ta không an ổn là tại trong tâm ta lăng xăng, còn ở mắt, ở tai đâu có lăng xăng. Tai nghe tiếng rồi tâm chạy theo tiếng, mắt thấy sắc tâm liền duyên theo sắc, nên chúng ta mới lăng xăng dao động, còn ở tai ở mắt có bao giờ lăng xăng đâu. Sống với cái không động tịnh bao giờ, nên ngài Sa-di Cao được luôn luôn an ổn. Như vậy, khi nhận ra được kho báu nhà mình thì sung sướng suốt đời, không còn nghèo khổ. Nếu không nhận ra được thì khi nghe ai nói nơi nào có Phật, chúng ta liền chạy đến tìm cầu, không ngờ mình đã vác Phật đi cầu Phật.
Khi nhớ lại những câu chuyện vừa kể trên, chúng tôi nhận thấy pháp tu thiền của chúng ta theo hai cách thức, tạm dùng danh từ là tu toàn phần và tu cục bộ. Đó là điều quan trọng chúng tôi cần phải nói rõ.
Thế nào là tu toàn phần? Chúng tôi dẫn lời của ngài Đại An nói với môn đệ: “Tất cả các ngươi đều có viên ngọc quí thường phóng quang ra sáu cửa gọi là phóng quang tam-muội.” Như vậy nếu chúng ta trong các động tác hằng ngày đi đứng nằm ngồi nói nín trông nghe đều nhớ được viên ngọc quí của chính mình thường phóng quang ra sáu cửa, đó gọi là tu toàn phần. Tu toàn phần là sống với ánh sáng do viên ngọc quí phóng ra, không lệ thuộc vào sáu trần, ánh sáng ấy không phải động, không phải tịnh vì vượt ngoài vòng đối đãi động tịnh. Trong quyển “Yếu Chỉ Thiền Tông”, chúng tôi gọi lối tu toàn phần này là tu nhớ Ông chủ, nghĩa là trong mọi hoạt động đi đứng nằm ngồi, chúng ta hằng nhớ ánh sáng của viên ngọc quí phóng ra sáu cửa, không bao giờ quên việc ấy. Trong nhà thiền gọi đó là trưởng dưỡng Thánh thai hay là nuôi lớn Thánh thai của chính mình.
Tổ Lâm Tế có nói:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp
Nhậm vận trước y xiêm.
Nhậm vận trước y xiêm.
Dịch:
Tùy duyên tiêu nghiệp cũ
Hồn nhiên mặc áo xiêm.
Hồn nhiên mặc áo xiêm.
Chúng ta vẫn sống bình thường như bao nhiêu người, những nghiệp cũ lần lần lặng bớt. Ăn cơm, mặc áo đều hồn nhiên, không có những suy nghĩ lăng xăng chen vào, đó gọi là sống với Ông chủ. Sống được như vậy gọi là người nhớ, người tỉnh. Còn những ai sống chạy theo sáu trần, phân biệt sáu trần, gọi là người quên, người mê. Tỉnh với mê chỉ là sống được với Ông chủ, hay chạy theo sáu trần.
Đó là lối tu toàn phần, nói một cách tổng quát, nếu muốn thực hành chúng ta phải tu như thế nào? Vọng tưởng chúng ta còn quá nhiều, tâm ý cứ mãi lăng xăng, không hằng sống được với Ông chủ, chúng ta muốn tu toàn phần phải làm sao? Như khi chúng ta đang đi, bỗng nhớ lại chuyện năm trước, chúng ta chỉ cần nhắc lại một câu: “Đi chỉ là đi.” Những ý tưởng lăng xăng liền dừng lại. Khi chúng ta đang ngồi chơi, vọng niệm vừa khởi, chúng ta liền nhắc lại “ngồi chơi chỉ là ngồi chơi”. Hoặc khi chúng ta đang làm việc gì như bửa củi hay nấu cơm, những ý nghĩ lăng xăng vừa mống lên, liền tự nhắc: “bửa củi chỉ là bửa củi”, “nấu cơm chỉ là nấu cơm” v.v… nghĩa là nhắc lại những việc mình đang làm, tự nhiên những ý nghĩ lăng xăng sẽ dứt hết.
Thật ra, người tu toàn phần phải gan dạ vô cùng vì không thấy ngồi thiền, coi như là ở không, biếng nhác, bê trễ. Nhưng đúng ra các Tổ khi xưa, ít khi ngồi thiền vì các ngài sống trong hành động nào cũng là nhớ, cũng là tỉnh, cần gì phải ngồi thiền. Nhưng riêng chúng tôi vẫn ngồi thiền, vì ngồi thiền có lợi, tránh được sương gió, bệnh hoạn, nhất là vào buổi khuya hay đầu hôm khi khí trời lành lạnh. Ngồi thiền phải như thế nào? Chúng ta ngồi đúng phương pháp đàng hoàng, mắt nhìn xuống vừa tầm, hơi thở điều hòa, tâm trí lặng lẽ tỉnh táo, vừa dấy niệm liền nhắc: “ngồi thiền chỉ là ngồi thiền”, thì tự nhiên sẽ được thảnh thơi. Ngồi thiền chỉ chừng ấy việc thôi, không thêm cái gì khác nữa. Pháp tu này thật là nhàn hạ.
Ngoài giờ ngồi thiền, trong các hoạt động đi đứng nằm ngồi cho đến vào nhà vệ sinh, vào nhà tắm chúng ta cũng hằng nhớ “đi cầu chỉ là đi cầu, đi tắm chỉ là đi tắm v.v…” không thêm cái gì khác nữa. Tu như vậy cả ngày, chúng ta sẽ thấy thảnh thơi, nhàn nhã. Chủ yếu của việc tu này chỉ nhớ đừng quên, nhớ lại là mình giàu, quên đi thành kẻ nghèo, chỉ chừng ấy việc để ứng dụng tu trong mọi trường hợp.
Thế nào là tu cục bộ? Tu cục bộ tức là tu một bộ phận. Chúng tôi xin dẫn ra đây một thí dụ. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật chủ yếu dạy ngài A-nan ngộ đạo. Đến phần đức Phật giải thích về thất đại, ngài A-nan liền ngộ và phát thệ nguyện. Sau đó Ngài thưa với đức Phật: “Con cũng như kẻ nghèo nàn, bỗng dưng được nhà vua tặng cho một ngôi nhà lầu đẹp, mà không biết làm sao vào, cúi xin Thế Tôn chỉ cho con cửa vào trong ngôi nhà ấy.” Đức Phật liền hỏi pháp môn tu của hai mươi lăm vị Thánh và cuối cùng Phật bảo ngài Văn-thù tuyển chọn pháp nào phù hợp với căn cơ chúng sanh cõi này. Ngài chọn pháp môn “Phản văn văn tự tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm làm cửa vào. Đây là một phương tiện rất phù hợp với chúng sanh ở cõi Ta-bà, và ngài Văn-thù dùng pháp môn này chỉ cho ngài A-nan tu. Việc chủ yếu là sau khi ngộ đạo rồi phải tu, ở đây là tu một bộ phận trong sáu bộ phận, nghĩa là trong sáu căn chỉ lấy Tánh nghe để trở về. Vì vậy mà chúng tôi tạm gọi là tu cục bộ.
Từ trước đến nay những vị tu theo pháp Phản văn văn tự tánh thường hay lầm, mà chính chúng tôi cũng bị lầm. Chúng ta cứ nghĩ nghe lại Tánh nghe thì nghe làm sao? Chúng tôi kinh nghiệm nhiều lần, nếu ngồi lại nghe cái mình hay nghe, một lúc sau lỗ tai bắt đầu nhức. Có vị nghe trở vô trong, về sau bị ran ngực, lâu ngày thổ huyết thành bệnh. Tu lối phản văn như vậy là một lầm lẫn quá lớn.
Vậy muốn tu pháp Phản văn phải tu làm sao cho đúng? Muốn dạy tu pháp Phản văn phải dạy những người nào? Không phải những ai vừa học kinh Lăng Nghiêm sơ qua đều tu được pháp “Phản văn văn tự tánh”. Chính ngài A-nan sau khi ngộ rồi, đức Phật mới dạy tu pháp ấy. Ngài A-nan ngộ rồi, thấy được tánh mình trùm khắp mười phương. Nhưng nếu một lúc ứng dụng cả sáu căn thì hơi khó, nên dùng một phương tiện thôi, tức là Tánh nghe để tỉnh và nhớ mãi. Vì vậy Phật mới dạy Phản văn văn tự tánh.
Phản văn nghĩa là gì? Từ trước đến nay, cái nghe của chúng ta là theo âm thanh bên ngoài, gọi đó là tùy lưu. Nếu chúng ta không trôi theo thanh trần mà chỉ nhớ lại tánh nghe, gọi đó là phản văn. Tánh nghe như thế nào và ở đâu? Khi nói nghe lại Tánh nghe, chúng ta nghĩ là Tánh nghe ở tại lỗ tai, rồi chúng ta nghe một lúc lâu, lỗ tai bắt đầu nhức. Phải nhớ Tánh nghe trùm khắp mười phương, không kẹt ở lỗ tai mới không bị nhức, không sanh bệnh. Tánh nghe không có tướng mạo nên nó không bị hạn chế hay ngăn cách. Chúng ta luôn luôn nhớ thẳng Tánh nghe của mình trùm khắp mười phương, đó gọi là tu Phản văn văn tự tánh.
Tu toàn phần hay tu cục bộ đều là lối tu chung của thiền giáo. Trong kinh dạy Bồ-tát Quán Thế Âm đã tu phản văn, mà chính tông Tào Động hiện nay đã tu lối Phản văn này. Khi học kinh Lăng Nghiêm chúng ta cố gắng nhận ra lối tu này, do đó mới biết rõ rằng đường lối tu thiền đã được dạy trong kinh. Nhưng muốn tu như vậy là phải ngộ trước, sau mới tu. Tu toàn phần hay tu cục bộ chủ yếu ở một chữ nhớ. Nhớ thì mình là con ông Trưởng giả, nhớ thì mình là người giàu có; còn quên thì mình là gã cùng tử, quên thì mình là kẻ ăn mày. Chỉ nhớ và quên, đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông cũng là của Đại thừa. Chỉ một chữ nhớ thôi là chuyển phàm thành Thánh, còn quên là đem Thánh vào phàm. Đốn ngộ là như vậy.
Dù tu toàn phần hay tu cục bộ, chúng ta phải đủ lòng tin, như ngài Đại Mai trong câu chuyện sau đây: Ngài Đại Mai, sau khi ngộ đạo với Mã Tổ liền lên núi Đại Mai ở ẩn. Mã Tổ nghe Ngài ở núi bèn sai một vị Tăng đến thăm dò. Vị Tăng hỏi: “Hoà thượng đến Mã Tổ được cái gì mà về ở núi này?” Ngài đáp: “Ta nghe Mã Tổ nói tức tâm tức Phật, ta liền về ở núi.” Tăng nói: “Gần đây Mã Tổ lại dạy phi tâm phi Phật.” Ngài bảo: “Ông già mê hoặc người không có ngày thôi, mặc ông nói phi tâm phi Phật, ta chỉ biết tức tâm tức Phật!” Vị Tăng trở về thuật lại, Mã Tổ nói: “Trái mai đã chín”, tức là ngài Đại Mai đã nhận ra cái tức tâm tức Phật ấy.
Tin như ngài Đại Mai gọi là xác tín, nghĩa là tin một cách không lung lay. Chính vị thầy đã dạy mình ngộ đạo, cũng chính vị thầy ấy ngày sau dạy khác đi, mà niềm tin của Ngài vẫn vững chắc không bị lung lay, huống nữa là người nào khác.
Còn chúng ta, vì không đủ niềm tin, nên hôm nay nghe ai bảo pháp tu này hay, ngày mai nghe người khác bảo pháp tu kia hay, chúng ta liền hưởng ứng theo, thật ra chúng ta có tin chi đâu. Chúng ta phải tin, phải nhận ra cho đúng, không ai lay chuyển được, mới có thể tu toàn phần hay cục bộ. Muốn ứng dụng hai pháp tu này, phải có lòng tin không lung lay như ngài Đại Mai, phải ngộ đạo rồi tin như ngài A-nan nhận ra Pháp thân trùm khắp mười phương.
Nếu chưa được như ngài A-nan và ngài Đại Mai, chúng ta phải tu cách nào? Đó là điều chúng tôi thấy cần chỉ cho quí vị biết rõ đường lối tu hành từ trước đến nay của Thiền viện.
Các Tăng Ni đến đây nhận sự hướng dẫn tu hành của chúng tôi ít nhất phải học ba năm. Học ba năm để làm gì? Chủ trương của tôi y theo đường lối chư Tổ dạy là “Kiến tánh khởi tu”, tức là nhận ra Bản tánh của mình, rồi sau đó ứng dụng tu. Như phần trước chúng tôi đã nói, nhận ra nơi mình có viên ngọc quí phóng ánh sáng ra sáu cửa. Nhận ra như vậy rồi mới tu toàn phần hay cục bộ, tức là nhận ra được Bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, rồi mới ứng dụng tu.
Muốn nhận ra Bản tánh bất sanh bất diệt phải làm sao? Khi xưa chư Tổ cho đồ đệ đi tham vấn các nơi, gọi là đi tham thiền để một ngày nào phát minh, phát ngộ. Nhưng ngày nay chúng ta không có phương tiện như vậy, nên chúng tôi dùng phương pháp giảng kinh, luận và sử các Thiền sư. Khi nghe giảng lâu ngày quí vị tự thầm nhận, thầm nhận là tự ngộ một cách nhẹ nhàng, nhận ra nơi mình có viên ngọc quí hằng phóng quang ra sáu cửa. Khi nhận được như vậy tạm gọi là kiến tánh, kiến tánh này là lóe thấy thôi chớ không phải là hằng sống. Lóe thấy rồi bắt đầu ứng dụng tu hằng nhớ, hằng nhớ chúng ta có viên ngọc quí luôn luôn, hoặc tu toàn phần, hoặc tu cục bộ. Vì vậy chúng tôi chủ trương phải học ba năm.
Nếu chưa nhận ra được Bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, chúng ta phải tu bằng cách nào? Chúng tôi chỉ quí vị ứng dụng lối tu của Tổ Huệ Khả trong câu chuyện sau đây:
Ngài Huệ Khả hỏi Tổ Bồ-đề-đạt-ma: “Tâm con không an, xin Thầy dạy con phương pháp an tâm.”
Tổ Đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.”
Ngài Huệ Khả xoay lại tìm, tìm một lúc không được, Ngài thưa: “Con tìm tâm không được.”
Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.”
Ngay nơi đó ngài Huệ Khả biết cách an tâm. Đây là biết cách an tâm chớ chưa phải ngộ.
Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận rõ rằng sở dĩ chúng ta bất an vì lầm vọng tưởng là tâm, các vọng tưởng ấy làm chúng ta xao xuyến âu lo mãi, nên gọi đó là tâm bất an. Để giải cái lầm này, chúng ta phải nhớ các tư tưởng lăng xăng là vọng tưởng chớ không phải tâm. Vì vậy đầu tiên chúng tôi chủ trương lối tu biết vọng. Thay vì ngày xưa cho đó là tâm, ngày nay chúng ta biết đó là vọng. Như vậy chúng ta đã tỉnh được một chút trong cơn mê, mê là vì cho vọng tưởng là tâm mình, tỉnh là vì biết đó là vọng tưởng chớ không phải tâm.
Tại sao chúng tôi quả quyết như vậy? Vì chúng tôi thấy rõ vọng tưởng mà chúng ta đang chạy theo chỉ là bóng dáng của sáu trần. Tỉ dụ: Ban sáng khi xuống chợ, chúng tôi thấy một người ăn mày đáng thương và chú ý đến họ. Chiều về khi ngồi chơi, bỗng nhiên hình ảnh người ăn mày hiện ra khiến chúng tôi suy nghĩ về họ. Như vậy, hình ảnh người ăn mày là sẵn nơi mình hay từ đâu đến? Đó là cái bóng ở bên ngoài, cái bóng của khi sáng. Duyên theo cái bóng ấy, chúng ta suy nghĩ, thành ra suy nghĩ những gì chúng ta đã nghe, đã thấy là suy nghĩ theo bóng, nó đâu phải là mình. Cho đó là tâm mình là lầm, mà tất cả chúng ta lâu nay đều lầm như vậy.
Chúng ta phải nhớ những suy nghĩ duyên theo bóng dáng sáu trần là vọng, vừa dấy niệm suy nghĩ liền biết đó là vọng. Biết như vậy vừa tránh khỏi lầm, vừa dừng được vọng, tức là dừng được động. Động dừng gọi là định. Đường lối tu như vậy rất đơn giản, không có gì phiền phức. Đó là đường lối của Tổ sư đã dạy cho người chưa ngộ.
Khi chúng ta biết được vọng mà vọng quá mạnh cứ chạy lung tung kéo lôi mình không dừng, chúng ta phải làm sao đây? Tỉ dụ chúng ta có một số tiền để dành, mà quên không nhớ cất nó ở đâu, tìm mãi chưa ra. Đến khi ngồi thiền, cứ nhớ không biết tiền để ở đâu. Chính khi nhớ đó, biết là vọng mà dừng không được, vì vọng quá mạnh lôi kéo mình hoài. Để dừng được loại vọng này, chúng ta phải áp dụng lối tu mạnh hơn, là tìm lại xem vọng này xuất phát từ chỗ nào. Tìm một lúc mới nhận thấy chúng không cội rễ, và tự chúng mất đi. Đây cũng là trường hợp ngài Huệ Khả tìm tâm mình ở đâu, khi tìm lại thì thấy nó không có, đó gọi là an tâm. Và chúng tôi đã ứng dụng tu theo phương pháp an tâm của Tổ Huệ Khả ngay từ buổi đầu. Hai lối tu biết vọng và tìm vọng được áp dụng hỗ tương cho nhau trong lúc chúng ta ngồi thiền. Đây cũng là lối tu cục bộ xoay trở lại Tánh biết của ý. Sự diễn tiến của lối tu này cụ thể hóa bằng mười bức họa chăn trâu. Vì thế lối tu này cũng gọi là Chăn trâu.
Ngoài giờ ngồi thiền, chúng ta phải tu như thế nào? Chúng ta phải ứng dụng tinh thần Bát-nhã trong hai phép quán: một là quán thân năm uẩn không thật, hai là quán sáu trần không thật. Tất cả trần cảnh đều là tướng duyên hợp như huyễn, thân này cũng là duyên hợp như huyễn. Chúng ta phải hằng quán như vậy, thấy các pháp như huyễn để phá tan những mê chấp về thân, tâm và cảnh giới.
Phép tu quán các pháp như huyễn đều được dạy trong các kinh điển Đại thừa. Càng học kinh chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa tu như vậy. Trong kinh, Phật dạy các Bồ-tát đem thân như huyễn cứu độ hữu tình như huyễn v.v… Vì sao Phật dạy như vậy? Tại vì, như chúng ta nhận xét, phàm những gì do duyên hợp đều như huyễn. Những hiểu biết của chúng ta và những lời Phật dạy đều rất phù hợp có thể ứng dụng ngay trong cuộc sống. Càng học kinh càng sáng tỏ việc tu. Vì vậy mà chúng tôi chủ trương đường lối tu ở đây là Thiền Giáo đồng hành. Giáo là kinh, Thiền là ứng dụng tu thiền, hai việc đồng hành. Học kinh để chúng ta biết rõ đường lối tu thiền, tu thiền để chúng ta sáng tỏ được ý kinh, Thiền và Giáo hỗ tương cho nhau là như vậy.
Trong phần thực hành, chúng ta phải biết ứng dụng linh động ba phép tu: biết vọng, tìm vọng và quán các pháp như huyễn. Khi ngồi thiền chúng ta dùng phương pháp nhẹ là biết vọng thường xuyên, phương pháp mạnh hơn là tìm vọng xem nó xuất phát từ đâu. Dùng lối tu biết vọng lâu ngày, nhất là khi nhập thất đôi ba tháng, do tu chăm quá chúng ta bị đau đầu, mặt mày buồn xo, tánh tình dễ cau có, nhìn qua là biết ngay người này đang cố gắng thái quá trong khi tu biết vọng. Đến giai đoạn này, chúng ta phải chuyển lại dùng phép quán thân như huyễn, quán cảnh như huyễn, nhìn trời nhìn nước đều như huyễn, chúng ta cười nhẹ nhàng thoải mái. Do nhìn ra ngoại cảnh biết các pháp như huyễn như hóa, chúng ta bớt cố gắng kềm ở bên trong, tinh thần thư giãn, lần lần không kềm nữa. Đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng biết các pháp như huyễn nên tâm trí chúng ta sẽ được thảnh thơi.
Nhìn ra ngoại cảnh biết như huyễn, đến một lúc tâm bắt đầu loạn, bị ngoại cảnh lôi cuốn, chúng ta phải xoay vào bên trong biết đó là vọng, tâm sẽ an ổn trở lại. Ứng dụng linh động các phép tu như vậy sẽ không bệnh hoạn, buồn bực và cáu kỉnh nữa. Đó là kinh nghiệm chúng tôi đã thấy rõ trong khi tu hành.
Đối với người sơ cơ chưa nhận ra Ông chủ, chúng tôi ứng dụng tinh thần Bát-nhã vào việc tu. Vì vậy mở đầu chúng tôi giảng kinh Bát-nhã và kinh Kim Cang, dùng Trí tuệ Bát- nhã làm cửa vào nhà thiền. Dùng trí tuệ ấy mãi đến bao giờ khi nghe kinh Phật dạy, hoặc học sử các Thiền sư, chúng ta tin chắc rằng nơi mình có viên ngọc quí, không còn nghi ngờ gì nữa. Sau khi nhận ra Ông chủ rồi, từ đó về sau chúng ta sẽ tu hoặc toàn phần hoặc cục bộ.
Theo tinh thần Bát-nhã, đức Phật dạy chúng ta phá tất cả chấp, chấp về thân và tâm v.v… mà không chỉ ra cái chân thật. Đó gọi là tinh thần giá thuyên, một danh từ chuyên môn trong nhà Phật. Giá là ngăn, thuyên là nói, tức là dạy bằng cách ngăn không cho chấp trước, danh từ hiện nay gọi là phủ định. Còn dùng lối tu toàn phần hay cục bộ là theo tinh thần biểu thuyên, tức là nói rõ ra, hay cũng gọi là khẳng định. Nghĩa là chỉ thẳng nơi mình có Ông chủ, và quyết định rằng Ông chủ đó là mình, không còn nghi ngờ gì nữa.
Phần tu phá các chấp trước thuộc về hệ thống các kinh Bát-nhã. Phần tu chỉ thẳng cái chân thật nơi mình thuộc về hệ thống các kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm. Nhân theo các lối tu, giáo lý đức Phật được chia thành thời Bát-nhã, gọi là trung kỳ Phật giáo, và thời Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, gọi là hậu kỳ Phật giáo.
Nhân đây, chúng tôi thấy rõ Thiền Giáo không hai. Bên kinh nói rộng, bên thiền chỉ tắt nên thấy dường như có khác. Bởi chỉ tắt nên quá cô đọng, khi nói rộng nên rất thênh thang, chúng ta phải học suốt năm này qua năm khác. Nhưng thật ra cái thênh thang của Giáo, các Thiền sư cô đọng lại trong một hai câu thôi. Nếu một hai câu nhận ra thì biết cái thênh thang này, cũng như nhờ học cái thênh thang mà biết cái cô đọng kia, hai bên Thiền Giáo hỗ tương cho nhau.
Tóm lại, ở Thiền viện chúng tôi ứng dụng tu thiền theo hai lối: một là tu biết vọng hay tìm vọng, đồng thời quán các pháp như huyễn, lối tu này dành cho người sơ cơ; hai là tu toàn phần hay cục bộ dành cho người đã nhận ra Ông chủ hay viên ngọc quí hằng phóng quang ra sáu cửa, người này phải đủ lòng tin vững chắc không lay chuyển. Đường lối tu của Thiền viện đã rõ ràng, y cứ theo kinh điển làm bằng, không phải đặt suông.
Chúng tôi nhận thấy một cách chắc chắn không nghi ngờ rằng: Tất cả chúng ta có sẵn viên ngọc quí hằng phóng quang ở sáu cửa. Nhận ra điều này và nhờ một thời gian dài tĩnh tu, chúng tôi đã ứng dụng và có kinh nghiệm chín chắn. Vì vậy chúng tôi cảm thấy vui, vui vì có viên ngọc quí mà mình dùng được nên trở thành giàu có. Chúng tôi giàu và tin rằng mọi người cũng đều giàu như vậy nên năm nay tôi lạc quan muốn nói nhiều với quí vị.
Để kết thúc, không gì hơn chúng tôi chúc tất cả Tăng Ni và Phật tử sang năm mới sẽ là người nhận ra kho báu nhà mình, là con ông Trưởng giả, là người có viên ngọc quí vô giá, trở thành người cự phú để từ đây về sau khỏi lang thang vất vả nữa.
Đó là lối tu toàn phần, nói một cách tổng quát, nếu muốn thực hành chúng ta phải tu như thế nào? Vọng tưởng chúng ta còn quá nhiều, tâm ý cứ mãi lăng xăng, không hằng sống được với Ông chủ, chúng ta muốn tu toàn phần phải làm sao? Như khi chúng ta đang đi, bỗng nhớ lại chuyện năm trước, chúng ta chỉ cần nhắc lại một câu: “Đi chỉ là đi.” Những ý tưởng lăng xăng liền dừng lại. Khi chúng ta đang ngồi chơi, vọng niệm vừa khởi, chúng ta liền nhắc lại “ngồi chơi chỉ là ngồi chơi”. Hoặc khi chúng ta đang làm việc gì như bửa củi hay nấu cơm, những ý nghĩ lăng xăng vừa mống lên, liền tự nhắc: “bửa củi chỉ là bửa củi”, “nấu cơm chỉ là nấu cơm” v.v… nghĩa là nhắc lại những việc mình đang làm, tự nhiên những ý nghĩ lăng xăng sẽ dứt hết.
Thật ra, người tu toàn phần phải gan dạ vô cùng vì không thấy ngồi thiền, coi như là ở không, biếng nhác, bê trễ. Nhưng đúng ra các Tổ khi xưa, ít khi ngồi thiền vì các ngài sống trong hành động nào cũng là nhớ, cũng là tỉnh, cần gì phải ngồi thiền. Nhưng riêng chúng tôi vẫn ngồi thiền, vì ngồi thiền có lợi, tránh được sương gió, bệnh hoạn, nhất là vào buổi khuya hay đầu hôm khi khí trời lành lạnh. Ngồi thiền phải như thế nào? Chúng ta ngồi đúng phương pháp đàng hoàng, mắt nhìn xuống vừa tầm, hơi thở điều hòa, tâm trí lặng lẽ tỉnh táo, vừa dấy niệm liền nhắc: “ngồi thiền chỉ là ngồi thiền”, thì tự nhiên sẽ được thảnh thơi. Ngồi thiền chỉ chừng ấy việc thôi, không thêm cái gì khác nữa. Pháp tu này thật là nhàn hạ.
Ngoài giờ ngồi thiền, trong các hoạt động đi đứng nằm ngồi cho đến vào nhà vệ sinh, vào nhà tắm chúng ta cũng hằng nhớ “đi cầu chỉ là đi cầu, đi tắm chỉ là đi tắm v.v…” không thêm cái gì khác nữa. Tu như vậy cả ngày, chúng ta sẽ thấy thảnh thơi, nhàn nhã. Chủ yếu của việc tu này chỉ nhớ đừng quên, nhớ lại là mình giàu, quên đi thành kẻ nghèo, chỉ chừng ấy việc để ứng dụng tu trong mọi trường hợp.
Thế nào là tu cục bộ? Tu cục bộ tức là tu một bộ phận. Chúng tôi xin dẫn ra đây một thí dụ. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật chủ yếu dạy ngài A-nan ngộ đạo. Đến phần đức Phật giải thích về thất đại, ngài A-nan liền ngộ và phát thệ nguyện. Sau đó Ngài thưa với đức Phật: “Con cũng như kẻ nghèo nàn, bỗng dưng được nhà vua tặng cho một ngôi nhà lầu đẹp, mà không biết làm sao vào, cúi xin Thế Tôn chỉ cho con cửa vào trong ngôi nhà ấy.” Đức Phật liền hỏi pháp môn tu của hai mươi lăm vị Thánh và cuối cùng Phật bảo ngài Văn-thù tuyển chọn pháp nào phù hợp với căn cơ chúng sanh cõi này. Ngài chọn pháp môn “Phản văn văn tự tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm làm cửa vào. Đây là một phương tiện rất phù hợp với chúng sanh ở cõi Ta-bà, và ngài Văn-thù dùng pháp môn này chỉ cho ngài A-nan tu. Việc chủ yếu là sau khi ngộ đạo rồi phải tu, ở đây là tu một bộ phận trong sáu bộ phận, nghĩa là trong sáu căn chỉ lấy Tánh nghe để trở về. Vì vậy mà chúng tôi tạm gọi là tu cục bộ.
Từ trước đến nay những vị tu theo pháp Phản văn văn tự tánh thường hay lầm, mà chính chúng tôi cũng bị lầm. Chúng ta cứ nghĩ nghe lại Tánh nghe thì nghe làm sao? Chúng tôi kinh nghiệm nhiều lần, nếu ngồi lại nghe cái mình hay nghe, một lúc sau lỗ tai bắt đầu nhức. Có vị nghe trở vô trong, về sau bị ran ngực, lâu ngày thổ huyết thành bệnh. Tu lối phản văn như vậy là một lầm lẫn quá lớn.
Vậy muốn tu pháp Phản văn phải tu làm sao cho đúng? Muốn dạy tu pháp Phản văn phải dạy những người nào? Không phải những ai vừa học kinh Lăng Nghiêm sơ qua đều tu được pháp “Phản văn văn tự tánh”. Chính ngài A-nan sau khi ngộ rồi, đức Phật mới dạy tu pháp ấy. Ngài A-nan ngộ rồi, thấy được tánh mình trùm khắp mười phương. Nhưng nếu một lúc ứng dụng cả sáu căn thì hơi khó, nên dùng một phương tiện thôi, tức là Tánh nghe để tỉnh và nhớ mãi. Vì vậy Phật mới dạy Phản văn văn tự tánh.
Phản văn nghĩa là gì? Từ trước đến nay, cái nghe của chúng ta là theo âm thanh bên ngoài, gọi đó là tùy lưu. Nếu chúng ta không trôi theo thanh trần mà chỉ nhớ lại tánh nghe, gọi đó là phản văn. Tánh nghe như thế nào và ở đâu? Khi nói nghe lại Tánh nghe, chúng ta nghĩ là Tánh nghe ở tại lỗ tai, rồi chúng ta nghe một lúc lâu, lỗ tai bắt đầu nhức. Phải nhớ Tánh nghe trùm khắp mười phương, không kẹt ở lỗ tai mới không bị nhức, không sanh bệnh. Tánh nghe không có tướng mạo nên nó không bị hạn chế hay ngăn cách. Chúng ta luôn luôn nhớ thẳng Tánh nghe của mình trùm khắp mười phương, đó gọi là tu Phản văn văn tự tánh.
Tu toàn phần hay tu cục bộ đều là lối tu chung của thiền giáo. Trong kinh dạy Bồ-tát Quán Thế Âm đã tu phản văn, mà chính tông Tào Động hiện nay đã tu lối Phản văn này. Khi học kinh Lăng Nghiêm chúng ta cố gắng nhận ra lối tu này, do đó mới biết rõ rằng đường lối tu thiền đã được dạy trong kinh. Nhưng muốn tu như vậy là phải ngộ trước, sau mới tu. Tu toàn phần hay tu cục bộ chủ yếu ở một chữ nhớ. Nhớ thì mình là con ông Trưởng giả, nhớ thì mình là người giàu có; còn quên thì mình là gã cùng tử, quên thì mình là kẻ ăn mày. Chỉ nhớ và quên, đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông cũng là của Đại thừa. Chỉ một chữ nhớ thôi là chuyển phàm thành Thánh, còn quên là đem Thánh vào phàm. Đốn ngộ là như vậy.
Dù tu toàn phần hay tu cục bộ, chúng ta phải đủ lòng tin, như ngài Đại Mai trong câu chuyện sau đây: Ngài Đại Mai, sau khi ngộ đạo với Mã Tổ liền lên núi Đại Mai ở ẩn. Mã Tổ nghe Ngài ở núi bèn sai một vị Tăng đến thăm dò. Vị Tăng hỏi: “Hoà thượng đến Mã Tổ được cái gì mà về ở núi này?” Ngài đáp: “Ta nghe Mã Tổ nói tức tâm tức Phật, ta liền về ở núi.” Tăng nói: “Gần đây Mã Tổ lại dạy phi tâm phi Phật.” Ngài bảo: “Ông già mê hoặc người không có ngày thôi, mặc ông nói phi tâm phi Phật, ta chỉ biết tức tâm tức Phật!” Vị Tăng trở về thuật lại, Mã Tổ nói: “Trái mai đã chín”, tức là ngài Đại Mai đã nhận ra cái tức tâm tức Phật ấy.
Tin như ngài Đại Mai gọi là xác tín, nghĩa là tin một cách không lung lay. Chính vị thầy đã dạy mình ngộ đạo, cũng chính vị thầy ấy ngày sau dạy khác đi, mà niềm tin của Ngài vẫn vững chắc không bị lung lay, huống nữa là người nào khác.
Còn chúng ta, vì không đủ niềm tin, nên hôm nay nghe ai bảo pháp tu này hay, ngày mai nghe người khác bảo pháp tu kia hay, chúng ta liền hưởng ứng theo, thật ra chúng ta có tin chi đâu. Chúng ta phải tin, phải nhận ra cho đúng, không ai lay chuyển được, mới có thể tu toàn phần hay cục bộ. Muốn ứng dụng hai pháp tu này, phải có lòng tin không lung lay như ngài Đại Mai, phải ngộ đạo rồi tin như ngài A-nan nhận ra Pháp thân trùm khắp mười phương.
Nếu chưa được như ngài A-nan và ngài Đại Mai, chúng ta phải tu cách nào? Đó là điều chúng tôi thấy cần chỉ cho quí vị biết rõ đường lối tu hành từ trước đến nay của Thiền viện.
Các Tăng Ni đến đây nhận sự hướng dẫn tu hành của chúng tôi ít nhất phải học ba năm. Học ba năm để làm gì? Chủ trương của tôi y theo đường lối chư Tổ dạy là “Kiến tánh khởi tu”, tức là nhận ra Bản tánh của mình, rồi sau đó ứng dụng tu. Như phần trước chúng tôi đã nói, nhận ra nơi mình có viên ngọc quí phóng ánh sáng ra sáu cửa. Nhận ra như vậy rồi mới tu toàn phần hay cục bộ, tức là nhận ra được Bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, rồi mới ứng dụng tu.
Muốn nhận ra Bản tánh bất sanh bất diệt phải làm sao? Khi xưa chư Tổ cho đồ đệ đi tham vấn các nơi, gọi là đi tham thiền để một ngày nào phát minh, phát ngộ. Nhưng ngày nay chúng ta không có phương tiện như vậy, nên chúng tôi dùng phương pháp giảng kinh, luận và sử các Thiền sư. Khi nghe giảng lâu ngày quí vị tự thầm nhận, thầm nhận là tự ngộ một cách nhẹ nhàng, nhận ra nơi mình có viên ngọc quí hằng phóng quang ra sáu cửa. Khi nhận được như vậy tạm gọi là kiến tánh, kiến tánh này là lóe thấy thôi chớ không phải là hằng sống. Lóe thấy rồi bắt đầu ứng dụng tu hằng nhớ, hằng nhớ chúng ta có viên ngọc quí luôn luôn, hoặc tu toàn phần, hoặc tu cục bộ. Vì vậy chúng tôi chủ trương phải học ba năm.
Nếu chưa nhận ra được Bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, chúng ta phải tu bằng cách nào? Chúng tôi chỉ quí vị ứng dụng lối tu của Tổ Huệ Khả trong câu chuyện sau đây:
Ngài Huệ Khả hỏi Tổ Bồ-đề-đạt-ma: “Tâm con không an, xin Thầy dạy con phương pháp an tâm.”
Tổ Đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.”
Ngài Huệ Khả xoay lại tìm, tìm một lúc không được, Ngài thưa: “Con tìm tâm không được.”
Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.”
Ngay nơi đó ngài Huệ Khả biết cách an tâm. Đây là biết cách an tâm chớ chưa phải ngộ.
Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận rõ rằng sở dĩ chúng ta bất an vì lầm vọng tưởng là tâm, các vọng tưởng ấy làm chúng ta xao xuyến âu lo mãi, nên gọi đó là tâm bất an. Để giải cái lầm này, chúng ta phải nhớ các tư tưởng lăng xăng là vọng tưởng chớ không phải tâm. Vì vậy đầu tiên chúng tôi chủ trương lối tu biết vọng. Thay vì ngày xưa cho đó là tâm, ngày nay chúng ta biết đó là vọng. Như vậy chúng ta đã tỉnh được một chút trong cơn mê, mê là vì cho vọng tưởng là tâm mình, tỉnh là vì biết đó là vọng tưởng chớ không phải tâm.
Tại sao chúng tôi quả quyết như vậy? Vì chúng tôi thấy rõ vọng tưởng mà chúng ta đang chạy theo chỉ là bóng dáng của sáu trần. Tỉ dụ: Ban sáng khi xuống chợ, chúng tôi thấy một người ăn mày đáng thương và chú ý đến họ. Chiều về khi ngồi chơi, bỗng nhiên hình ảnh người ăn mày hiện ra khiến chúng tôi suy nghĩ về họ. Như vậy, hình ảnh người ăn mày là sẵn nơi mình hay từ đâu đến? Đó là cái bóng ở bên ngoài, cái bóng của khi sáng. Duyên theo cái bóng ấy, chúng ta suy nghĩ, thành ra suy nghĩ những gì chúng ta đã nghe, đã thấy là suy nghĩ theo bóng, nó đâu phải là mình. Cho đó là tâm mình là lầm, mà tất cả chúng ta lâu nay đều lầm như vậy.
Chúng ta phải nhớ những suy nghĩ duyên theo bóng dáng sáu trần là vọng, vừa dấy niệm suy nghĩ liền biết đó là vọng. Biết như vậy vừa tránh khỏi lầm, vừa dừng được vọng, tức là dừng được động. Động dừng gọi là định. Đường lối tu như vậy rất đơn giản, không có gì phiền phức. Đó là đường lối của Tổ sư đã dạy cho người chưa ngộ.
Khi chúng ta biết được vọng mà vọng quá mạnh cứ chạy lung tung kéo lôi mình không dừng, chúng ta phải làm sao đây? Tỉ dụ chúng ta có một số tiền để dành, mà quên không nhớ cất nó ở đâu, tìm mãi chưa ra. Đến khi ngồi thiền, cứ nhớ không biết tiền để ở đâu. Chính khi nhớ đó, biết là vọng mà dừng không được, vì vọng quá mạnh lôi kéo mình hoài. Để dừng được loại vọng này, chúng ta phải áp dụng lối tu mạnh hơn, là tìm lại xem vọng này xuất phát từ chỗ nào. Tìm một lúc mới nhận thấy chúng không cội rễ, và tự chúng mất đi. Đây cũng là trường hợp ngài Huệ Khả tìm tâm mình ở đâu, khi tìm lại thì thấy nó không có, đó gọi là an tâm. Và chúng tôi đã ứng dụng tu theo phương pháp an tâm của Tổ Huệ Khả ngay từ buổi đầu. Hai lối tu biết vọng và tìm vọng được áp dụng hỗ tương cho nhau trong lúc chúng ta ngồi thiền. Đây cũng là lối tu cục bộ xoay trở lại Tánh biết của ý. Sự diễn tiến của lối tu này cụ thể hóa bằng mười bức họa chăn trâu. Vì thế lối tu này cũng gọi là Chăn trâu.
Ngoài giờ ngồi thiền, chúng ta phải tu như thế nào? Chúng ta phải ứng dụng tinh thần Bát-nhã trong hai phép quán: một là quán thân năm uẩn không thật, hai là quán sáu trần không thật. Tất cả trần cảnh đều là tướng duyên hợp như huyễn, thân này cũng là duyên hợp như huyễn. Chúng ta phải hằng quán như vậy, thấy các pháp như huyễn để phá tan những mê chấp về thân, tâm và cảnh giới.
Phép tu quán các pháp như huyễn đều được dạy trong các kinh điển Đại thừa. Càng học kinh chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa tu như vậy. Trong kinh, Phật dạy các Bồ-tát đem thân như huyễn cứu độ hữu tình như huyễn v.v… Vì sao Phật dạy như vậy? Tại vì, như chúng ta nhận xét, phàm những gì do duyên hợp đều như huyễn. Những hiểu biết của chúng ta và những lời Phật dạy đều rất phù hợp có thể ứng dụng ngay trong cuộc sống. Càng học kinh càng sáng tỏ việc tu. Vì vậy mà chúng tôi chủ trương đường lối tu ở đây là Thiền Giáo đồng hành. Giáo là kinh, Thiền là ứng dụng tu thiền, hai việc đồng hành. Học kinh để chúng ta biết rõ đường lối tu thiền, tu thiền để chúng ta sáng tỏ được ý kinh, Thiền và Giáo hỗ tương cho nhau là như vậy.
Trong phần thực hành, chúng ta phải biết ứng dụng linh động ba phép tu: biết vọng, tìm vọng và quán các pháp như huyễn. Khi ngồi thiền chúng ta dùng phương pháp nhẹ là biết vọng thường xuyên, phương pháp mạnh hơn là tìm vọng xem nó xuất phát từ đâu. Dùng lối tu biết vọng lâu ngày, nhất là khi nhập thất đôi ba tháng, do tu chăm quá chúng ta bị đau đầu, mặt mày buồn xo, tánh tình dễ cau có, nhìn qua là biết ngay người này đang cố gắng thái quá trong khi tu biết vọng. Đến giai đoạn này, chúng ta phải chuyển lại dùng phép quán thân như huyễn, quán cảnh như huyễn, nhìn trời nhìn nước đều như huyễn, chúng ta cười nhẹ nhàng thoải mái. Do nhìn ra ngoại cảnh biết các pháp như huyễn như hóa, chúng ta bớt cố gắng kềm ở bên trong, tinh thần thư giãn, lần lần không kềm nữa. Đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng biết các pháp như huyễn nên tâm trí chúng ta sẽ được thảnh thơi.
Nhìn ra ngoại cảnh biết như huyễn, đến một lúc tâm bắt đầu loạn, bị ngoại cảnh lôi cuốn, chúng ta phải xoay vào bên trong biết đó là vọng, tâm sẽ an ổn trở lại. Ứng dụng linh động các phép tu như vậy sẽ không bệnh hoạn, buồn bực và cáu kỉnh nữa. Đó là kinh nghiệm chúng tôi đã thấy rõ trong khi tu hành.
Đối với người sơ cơ chưa nhận ra Ông chủ, chúng tôi ứng dụng tinh thần Bát-nhã vào việc tu. Vì vậy mở đầu chúng tôi giảng kinh Bát-nhã và kinh Kim Cang, dùng Trí tuệ Bát- nhã làm cửa vào nhà thiền. Dùng trí tuệ ấy mãi đến bao giờ khi nghe kinh Phật dạy, hoặc học sử các Thiền sư, chúng ta tin chắc rằng nơi mình có viên ngọc quí, không còn nghi ngờ gì nữa. Sau khi nhận ra Ông chủ rồi, từ đó về sau chúng ta sẽ tu hoặc toàn phần hoặc cục bộ.
Theo tinh thần Bát-nhã, đức Phật dạy chúng ta phá tất cả chấp, chấp về thân và tâm v.v… mà không chỉ ra cái chân thật. Đó gọi là tinh thần giá thuyên, một danh từ chuyên môn trong nhà Phật. Giá là ngăn, thuyên là nói, tức là dạy bằng cách ngăn không cho chấp trước, danh từ hiện nay gọi là phủ định. Còn dùng lối tu toàn phần hay cục bộ là theo tinh thần biểu thuyên, tức là nói rõ ra, hay cũng gọi là khẳng định. Nghĩa là chỉ thẳng nơi mình có Ông chủ, và quyết định rằng Ông chủ đó là mình, không còn nghi ngờ gì nữa.
Phần tu phá các chấp trước thuộc về hệ thống các kinh Bát-nhã. Phần tu chỉ thẳng cái chân thật nơi mình thuộc về hệ thống các kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm. Nhân theo các lối tu, giáo lý đức Phật được chia thành thời Bát-nhã, gọi là trung kỳ Phật giáo, và thời Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, gọi là hậu kỳ Phật giáo.
Nhân đây, chúng tôi thấy rõ Thiền Giáo không hai. Bên kinh nói rộng, bên thiền chỉ tắt nên thấy dường như có khác. Bởi chỉ tắt nên quá cô đọng, khi nói rộng nên rất thênh thang, chúng ta phải học suốt năm này qua năm khác. Nhưng thật ra cái thênh thang của Giáo, các Thiền sư cô đọng lại trong một hai câu thôi. Nếu một hai câu nhận ra thì biết cái thênh thang này, cũng như nhờ học cái thênh thang mà biết cái cô đọng kia, hai bên Thiền Giáo hỗ tương cho nhau.
Tóm lại, ở Thiền viện chúng tôi ứng dụng tu thiền theo hai lối: một là tu biết vọng hay tìm vọng, đồng thời quán các pháp như huyễn, lối tu này dành cho người sơ cơ; hai là tu toàn phần hay cục bộ dành cho người đã nhận ra Ông chủ hay viên ngọc quí hằng phóng quang ra sáu cửa, người này phải đủ lòng tin vững chắc không lay chuyển. Đường lối tu của Thiền viện đã rõ ràng, y cứ theo kinh điển làm bằng, không phải đặt suông.
Chúng tôi nhận thấy một cách chắc chắn không nghi ngờ rằng: Tất cả chúng ta có sẵn viên ngọc quí hằng phóng quang ở sáu cửa. Nhận ra điều này và nhờ một thời gian dài tĩnh tu, chúng tôi đã ứng dụng và có kinh nghiệm chín chắn. Vì vậy chúng tôi cảm thấy vui, vui vì có viên ngọc quí mà mình dùng được nên trở thành giàu có. Chúng tôi giàu và tin rằng mọi người cũng đều giàu như vậy nên năm nay tôi lạc quan muốn nói nhiều với quí vị.
Để kết thúc, không gì hơn chúng tôi chúc tất cả Tăng Ni và Phật tử sang năm mới sẽ là người nhận ra kho báu nhà mình, là con ông Trưởng giả, là người có viên ngọc quí vô giá, trở thành người cự phú để từ đây về sau khỏi lang thang vất vả nữa.
Các bài mới
- Bỏ tất cả là được tất cả - 17/11/2011
- Cương yếu để tu - 27/10/2011
- Sanh tử sự đại - 12/08/2011
- Phản quan tự kỷ - 10/05/2011
- Thiền là cội gốc của đạo Phật - 29/04/2011
Các bài đã đăng
- Ý nghĩa xuất gia - 12/03/2011
- Gần và xa niết bàn - 27/02/2011
- Một ngọn núi ba con đường - 14/02/2011
- Giải thoát là cốt lõi của Đạo Phật - 28/12/2010
- Ý nghĩa Phẩm Thí dụ và Tín giải trong Kinh Pháp Hoa - 08/11/2010
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 05193
- Online: 43