Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức ( Phần 10): Vào thiền đường phải tùy chúng
14/01/2018 | Lượt xem: 4242
ĐĐ.Thích Khế Định giảng tại TVTL Phụng hoàng - Đà Lạt
10. Vào Thiền Đường Phải Tùy Chúng
Trong hai mươi bốn bài oai nghi có những bài dạy về phép tắc oai nghi, nhưng bài thứ mười này chỉ thẳng vào phương pháp thiền đốn ngộ, để quý thầy lưu ý vào thiền đường mình phải làm gì.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nhiếp tâm mà chẳng phân tán gọi là thiền. Chỗ mài giũa của bậc anh hiền gọi là đường.”
Nhiếp tâm chẳng loạn gọi là thiền. Chỗ mài giũa của các bậc hiền đức, chỗ mài giũa thành Phật tác Tổ gọi là đường. Quý thầy vào trong đó mài giũa những gì? Mài giũa những tính chất cù cặn trong tâm thức của mình như tham, sân, si, tật đố, ích kỷ. Quý thầy lên thiền đường với tâm niệm như vậy thì tu rất tiến. Lên thiền đường mình có tâm niệm đây không phải là chỗ đơn giản, chỗ mình giỡn cười mà là chỗ thành Phật tác Tổ mai này.
Thiền sư Phương Tụ Thành Trứ nói về Mười Bảy Pháp Tham Thiền:
Một:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Cần nhất đừng lựa chọn,
Chẳng rơi vào Thánh, phàm,
Đâu chia chúng sanh, Phật.
Tham thiền không hẳn là ngồi thiền, tham thiền ở đây chính là đi, đứng, ngồi, nằm. Pháp tham thiền quá thù thắng, không pháp nào thù thắng bằng. Mười phương chư Phật nhờ công phu thiền định nên mới thành Phật tác Tổ, cho nên ngài nói pháp tham thiền bậc nhất. Mà cần nhất là gì? Cần nhất đừng lựa chọn, chẳng rơi vào Thánh, phàm. Ở đây mình học qua phần đốn giáo. Tại sao nói chẳng rơi vào Thánh, phàm? Thánh là gì? Mà phàm là gì? Mình đừng nghĩ người chứng quả vị, đạt đến quả A-la-hán gọi là Thánh, còn mình chưa chứng quả gọi là phàm. Trong pháp tham thiền này không phải như thế.
Có những lúc quý thầy ngồi yên tịnh, tâm lặng thông suốt, mình cho là rơi vào chỗ tịch lặng, đó là Thánh. Còn ngồi mà luôn dấy niệm tật đố, ích kỷ, xan tham thì cho là phàm. Nghĩ như thế là rớt vào Thánh hoặc rớt vào phàm.
Thiền sư Triệu Châu nói: “Chỗ không Phật phải mau chạy qua, chỗ có Phật cũng đừng lưu luyến.” Chỗ không Phật có nghĩa là chúng ta khởi niệm dấy động liên tục, mình phải mau chạy qua, phải mau buông bỏ. Nhưng mà chỗ yên tịnh thì sao? Thì cũng đừng lưu luyến. Một người vợ rất đẹp và thùy mị ở ngoài đời mình có thể bỏ được, nhưng một người bước vào sơ thiền thì rất khó bỏ. Bởi vì cảnh giới tịch lặng quá, yên ổn quá cho nên mình lưu luyến, mình đắm chấp. Vì thế vào cảnh giới thiền tông thì các ngài nói: “Chỗ có Phật cũng đừng lưu luyến.”
Trong Pháp Ngữ Thiền Sư Hư Vân có dạy:
“Giả sử tám muôn bốn ngàn tạp niệm sanh diệt, người nào không thủ, không xả thì niệm niệm đều thành ánh sáng trí tuệ Bát-nhã.”
Có nghĩa là giả sử trăm ngàn muôn cảnh đến cùng một lúc nhưng chúng ta không thủ không xả thì niệm niệm đều thành ánh sáng trí tuệ Bát-nhã.
Qua phần này quý thầy thấy phương pháp tri vọng của Hòa thượng rất là khế hợp với đường hướng của các vị Thiền sư ngày xưa. Giả sử tám muôn bốn ngàn tạp niệm sanh diệt đến cùng một lúc thì cái gì thấy được những tâm niệm đó? Mình không thủ, có nghĩa là không giữ lại; không xả, có nghĩa đừng giống như khi bị một áp lực đè nén xuống mình phải buông xả, thì niệm niệm đều thành ánh sáng trí tuệ Bát-nhã.
Theo phương pháp tri vọng của Hòa thượng, quý thầy ngồi thiền khi có vọng, khi không vọng đều biết hết. Trong khi biết, người nào lanh trí biết công phu, không có tác ý trên vọng thì không có đối đãi. Không có đối đãi thì chẳng rơi vào Thánh phàm, đâu chia chúng sanh, Phật. Bao nhiêu vọng niệm sanh diệt đều không thoát khỏi cái biết, đều nằm trong ánh sáng trí tuệ Bát-nhã. Cho nên nắm bắt được phương pháp Hòa thượng dạy thì tu hành rất là tiến, công phu một thời gian quý thấy thấy có một điểm dừng, ăn uống ngủ nghỉ tự nhiên nó nhàm chán.
Thiền sư Mã Tổ hỏi Thiền sư Thạch Củng:
- Một mũi tên ông bắn được bao nhiêu?
Ngài Thạch Củng đáp:
- Một mũi tên tôi bắn được một con.
Thiền sư Mã Tổ:
- Ông bắn thua tôi rồi, một mũi tên tôi bắn một bầy.
Đây là chỗ công phu của mình. Chỉ cần một cái biết thôi là mình bắn hết một bầy, bao nhiêu niệm sanh diệt không ngoài vòng kiểm soát của tri kiến Bát-nhã. Chẳng hạn quý thầy ngồi thiền, niệm có, niệm không, niệm phải, niệm quấy, niệm gì cũng biết nhưng không ngoài ánh sáng Bát-nhã, thì như vậy một mũi tên bắn được một bầy. Còn Thiền sư Thạch Củng thì sao? Niệm vừa dấy lên ngài tỉa rớt xuống, bắn có một con, như vậy rất mệt. Cho nên người ngồi thiền mà biết công phu thì họ tu rất nhàn, rất an ổn; đi đứng, ngồi nằm, nói năng, động tịnh họ công phu được hết. Chứ quý thầy bắn tỉa từng con thì rất là nhọc.
Nhưng nhớ kỹ một điểm là đừng có hôn trầm. Nghe bắn một bầy quý thầy cho một bầy nó đến luôn thì dung túng vọng, mà dung túng vọng là đồng với phàm phu. Đây tôi dẫn chứng một câu chuyện nữa:
Có một vị tăng hỏi Thiền sư Lâm Tế:
- Chỉ như hành giả trong nhà đá đạp cối giã gạo mà quên giở chân thì nhằm chỗ nào mà đi?
Người xưa hay lắm, nói không giống như mình, chẳng hạn đến nhà trù, nhà bếp, họ nói cái gì cũng ra đạo lý hết. Mà ông thầy phải biết. Chẳng hạn họ hỏi câu trên thì quý thầy trả lời sao? Trong nhà đá giã gạo là sao? Chỉ như hành giả trong nhà đá là vào thiền đường tham thiền, đạp cối giã gạo tức là đang công phu. Giã gạo mà quên giở chân thì nhằm chỗ nào mà đi? Quý thầy đạp xuống thì cái cần nó nhỏng lên, mà quên giở chân, cái cần nó không hạ xuống thì gạo làm sao giã trắng được?
Thiền sư Lâm Tế đáp:
- Chìm dưới suối sâu.
Có nghĩa là đạt đến chỗ lặng quá nên chìm luôn, mơ mơ màng màng không biết gì hết, niệm có niệm không quý thầy cũng không biết, trong giờ phút thực tại này không có tri kiến Bát-nhã chiếu rọi vào cái niệm đó cho nên ngài nói là Chìm dưới suối sâu. Quý thầy nhớ là chỗ đó không được, phải vươn lên, phải vượt thoát lên thì lần lần quý thầy thấy pháp tham thiền này rất là thù thắng.
Cho nên chiều nay chúng ta học qua phần công phu này để nắm bắt được phương pháp thiền của Hòa thượng. Tôi hay rằng có một số quý thầy ở đây nắm bắt phương pháp thiền của Hòa thượng không được, cho nên bây giờ tu mù mờ rồi tu đủ thứ pháp hết. Chính đó là xung đột về pháp. Xung đột về pháp rồi mai kia quý thầy ra hướng dẫn Phật tử không được. Phật tử bây giờ họ tu rất có kết quả, cho nên quý thầy phải nắm bắt cho kỹ.
Sư nói tiếp:
Chỉ có người đến mà không thiếu sót y, đều biết chỗ đến của y thì đúng.
Có nghĩa là cho quý thầy chìm vào chỗ lặng lẽ yên ổn, không có vọng khởi nhưng không thiếu sót y. Đến chỗ đó lúc nào cũng có y. Y là gì? Là cái chánh tri kiến Bát-nhã, là cái biết. Cái biết này là chơn trí của Bát-nhã. Đều biết chỗ đến của y tức là niệm có, niệm không, niệm phải, niệm quấy, tất cả mọi thứ niệm đều biết rõ hết, Tổ nói như vậy mới là đúng. Trước sau gì mình cũng phải đến chỗ này. Thiền đốn giáo của Hòa thượng chỉ dạy, các ngài khẳng định luôn là toàn tướng, là toàn tánh. Ngay chỗ đương niệm là chơn, tức là vọng vừa khởi quý thầy biết được đó là chơn. Đó là pháp tham thiền thù thắng nhất các bậc Tổ sư để lại.
Hai:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Đâu nhớ tháng năm gì,
Đến bí lối, cùng đường,
Thề chẳng ngộ chẳng nghỉ.
Vào thiền đường là như vậy đó. Người tu đến giai đoạn quyết liệt thì ngày tháng, giờ giấc các ngài ít để ý đến.
Một hôm vua Lý Thái Tông hỏi Thiền Lão Thiền sư:
- Thầy trụ núi này bao lâu rồi?
Ngài nói:
- Chỉ biết ngày tháng này, ai hay xuân thu trước.
Tức là tu quyết liệt!
Ba:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Cần phải sớm ra sức,
Sanh tử gấp đến nơi,
Ăn năn e chẳng kịp.
Pháp tham thiền thứ ba ngài nói Cần phải sớm ra sức, phải dụng công miên mật, tức là chánh niệm không xen hở. Ngài sợ gì? Sanh tử gấp đến nơi, ăn năn e chẳng kịp. Quý thầy thấy, chỉ là bệnh cảm hơi nặng một chút tu cũng không được nữa, nằm mà rên thôi chứ đừng nói sanh tử đến! Sanh tử đến các ngài nói mình giống như con cua bò trong chảo nước sôi vậy, tay chân co rút lại hết. Tùy theo nghiệp, năng lực nghiệp nó đẩy mình đến cảnh giới xấu ác, thọ thân lục đạo. Đừng tưởng tu rồi chắc chắn là tái sanh về cảnh giới lành.
Cho nên phải công phu miên mật. Công phu một thời gian những tâm niệm tham ái tự nhiên rơi rụng. Chẳng hạn ngày xưa quý thầy thương huynh đệ nhưng có niệm luyến ái trong đó. Tu một thời gian mình cũng thương, cũng quý nhưng không còn luyến ái như ngày xưa nữa, thì mình biết rằng những hạt giống tham ái rơi rụng lần lần. Rồi ăn, quý thầy có gì ăn cũng được chứ không phải thèm muốn như ngày xưa, hạt giống thèm ăn cũng rơi dần dần. Uống cũng vậy, có gì uống cũng được, chiều nay có sữa uống cũng được mà không có sữa thì cũng vui. Những hạt giống tham ái rớt dần dần hết thì sanh tử làm sao đưa quý thầy đến những cảnh giới đó. Trong kinh diễn tả, người khát ái về ăn, khát ái về uống, vừa tắt thở thì nghiệp nó đẩy đến những cảnh giới đói khát chẳng hạn ở châu Phi, Afghanistan…
Tôi xem Kinh Hoa Nghiêm, tức là cảnh giới viên dung vô ngại pháp giới của chư Phật, các ngài nói là những pháp giới mầu nhiệm trùng trùng duyên khởi. Như Trời Đế Thích, Phật không thể nào làm ra. Mười phương chư Phật cũng không tác động ra, mà do nghiệp lực, nghiệp chủng của chúng sanh. Nghiệp lực tức là sức mạnh từ nghiệp của chúng sanh đẩy đến thì tự nhiên nó biến hiện ra cảnh giới. Chẳng hạn có những nơi không bao giờ bị bão lụt, có những nơi thì bão lụt liên tục. Đó là do nghiệp lực của chúng sanh tạo ra chứ không phải trời đất nào tạo ra hết. Đốn cây, đốn rừng, rồi đào vàng, đào mỏ. Đào quá nhiều bây giờ trái đất nó bọng, nó sụp xuống, rồi sóng thần cuộn lên. Do nghiệp lực của chúng sanh tạo ra, quý thầy thấy rất là rõ. Cho nên ở đây nói sanh tử gấp đến rồi thì ăn năn hối hận không kịp. Chi bằng bây giờ mình ra sức mình tu, mình tham thiền.
Tổ Lâm Tế dạy:
“Này Đại đức, ba cõi không an giống như nhà lửa, đây chẳng phải là chỗ dừng ở lâu dài. Quỷ vô thường giết người chỉ trong chớp mắt, chẳng lựa sang hèn, già trẻ. Ông muốn cùng với Phật Tổ không khác thì chỉ đừng tìm cầu bên ngoài.”
Ngài dạy ba cõi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới cũng không an ổn gì, cũng luân hồi, cũng đau khổ. Cho nên phải nhảy cho gấp, đây chẳng phải là chỗ dừng ở lâu dài được. Muốn cùng với Phật Tổ không khác thì chỉ đừng tìm cầu bên ngoài thôi.
“Ngay một tâm niệm sáng suốt thanh tịnh là Phật pháp thân trong nhà của các ông”
Có nghĩa là mình ngồi thiền mà yên ổn đó là Phật pháp thân.
“Ngay một tâm niệm sáng suốt không phân biệt là Phật báo thân trong nhà của các ông. Ngay một tâm niệm sáng suốt không sai khác là Phật hóa thân trong nhà của các ông. Ba thứ thân này chính là người đang nghe pháp ở trước mặt của các ông.”
Chứ không có ở đâu hết, đừng tìm cầu ở đâu hết. Chính trong giờ phút đang nghe pháp này, với cái tâm thuần nhất thanh tịnh thì ba thân tự đầy đủ.
“Chỉ vì không hướng bên ngoài tìm cầu nên có được công dụng như thế.”
Tức là luôn luôn phản tỉnh, thu thúc sáu căn thì tự nhiên ba thân ứng hiện chứ không tìm ở đâu hết.
Bốn:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Chẳng hoãn cũng chẳng gấp,
Chánh niệm chẳng hở thưa,
Công phu phải miên mật.
Chánh niệm của các ngài tức là vô niệm. Công phu theo tinh thần của thiền sư Lai Quả là mình không dính dáng gì hết, dầu cho muôn pháp cùng một lúc đến thì cũng không dính dáng gì. Người xưa công phu như mèo rình chuột, như gà ấp trứng vậy. Mèo rình chuột, con mắt nó lúc nào cũng nhắm con chuột. Các ngài dạy mình phải công phu đến giai đoạn đó, tức là luôn luôn phải chánh niệm miên mật. Như gà ấp trứng, con gà ấp trứng chẳng hạn ba ngày nở, mới hai ngày nó bước xuống thì gà con chết, không nở được. Cũng vậy, có lúc quý thầy siêng năng ngồi thiền ngày đêm, rồi có lúc bỏ ngồi thiền đắp mền ngủ. Ở đây ngài dạy chánh niệm chẳng hở thưa, công phu phải miên mật.
Năm:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Cảnh duyên không dính mắc,
Khoảng chớp mắt tình sanh,
Liền khiến cho trí cách.
Cái này cũng rất là khó. Đừng nói gì cao xa, chẳng hạn quý thầy xuống nhà bếp gặp trái táo để trên bàn, nhìn qua nhìn lại không có ai thì tình nó sanh chưa? Tình sanh liền! Nhưng nếu trong giờ phút thực tại này mà mình có tâm chánh niệm, có tâm giới luật miên mật, có tâm tàm quí thì tự nhiên tình không sanh mà trí tuệ Bát-nhã xuất hiện. Còn lấy trái táo bỏ vô túi thì tình sanh mà trí thì cách!
Cho nên Tổ Lâm Tế nói:
“Chỉ trong tất cả thời đừng cho gián đoạn, chạm mắc đều là phải. Chỉ vì tình sanh, trí cách, tưởng dấy nên thể bị sai khác cho nên luân hồi trong ba cõi, chịu các thứ khổ. Nếu theo chỗ thấy của sơn tăng thì không có gì là không thâm sâu, không có gì là không giải thoát.”
Bây giờ chúng ta học qua công phu của chư Tổ để có sự khích lệ trên đường tu. Ngài nói chỉ trong tất cả thời đừng cho gián đoạn, bản thân tôi kinh nghiệm, sở dĩ chúng ta hay phạm giới điều của Phật vì mình hay cho nó gián đoạn. Còn mình luôn tâm niệm vào đây tu tức là dứt bỏ hết: bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ người thân quyến thuộc. Vào chùa rồi thì tiền đâu mà nuôi cha mẹ, không nuôi được thì chỉ nhờ công đức tu hành của mình thôi. Mai kia đủ nhân đủ duyên quý thầy có một ngôi chùa lớn hay nhỏ gì cũng được, rước cha mẹ về nuôi, hướng dẫn tu tập sám hối thì cũng trả được cái ơn.
Đừng cho chạm mắc đều là phải. Đừng chạm mắc cái gì thì cũng đều là phải. Chỉ vì tình sanh, trí cách, vừa dấy niệm là tưởng nó dấy lên rồi. Cái thể nó sai khác cho nên luân hồi trong ba cõi chịu các thứ khổ não. Nếu theo chỗ thấy của sơn tăng thì không có gì là không thâm sâu, đều là Phật pháp, đều giải thoát hết. Không phải mình lên ngồi thiền mới là tu, xuống nhà bếp quý thầy lặt rau, không dấy niệm mà chỉ biết lặt rau, chỉ biết làm thôi thì giải thoát rồi, là thâm sâu Phật pháp rồi.
Sáu:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Nhướng mày mở mắt to,
Chẳng phải do người tìm,
Ngộ chính nơi tự kỷ.
Tức là ngộ ở nơi mình chứ không ở đâu hết. Bồ-tát Long Thọ nói người tu thiền cần nhất chỗ này, ngài khẳng định giới luật là da, định là thịt, trí tuệ là xương, ngộ ra diệu tâm của chính mình đó gọi là tủy.
Bảy:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Lấy ngộ làm chuẩn tắc,
Múa mỏ cùng khua môi,
Có gì là dính dấp?
Học giáo lý suông thì không dính dáng gì hết. Cho nên ở đây nói: “Pháp tham thiền bậc nhất, lấy ngộ làm chuẩn tắc.” Ngộ là ngộ cái gì? Quý thầy vào thất có ngộ cái gì không? Ở đây mình đừng nói đại ngộ như các ngài, nói tiểu ngộ thôi. Chẳng hạn ở ngoài đời quý thầy quý cái thân này lắm, sợ làm, ghét làm, mà bây giờ vào đây xả thân vì đại chúng thì quý thầy ngộ ra thân này không có thật, thân này vô ngã, nó không phải là mình. Là ngộ rồi. Lấy ngộ làm chuẩn tắc là từ cái ngộ đó quý thầy bước vào công phu rất là yên, tức là ngộ đến chỗ vô ngã.
Có ông người Mỹ đang tu ở Thiền viện, ngồi thiền rất giỏi, ngồi như pho tượng, lưng thẳng đứng. Thầy Tĩnh Đàm hỏi:
- Ông ngồi thiền hai tiếng có đau không?
Ông nói:
- Đau lắm chứ. Nhưng khi đau tôi tự hỏi ai đau, hỏi vậy tự nhiên hết đau.
Nghĩa là cũng có phương pháp. Ông nói ông ngồi đến một tiếng rưỡi, đau nhức chịu không nổi thì ông phản quan lại: Ai đau? Cái gì đau? Tự nhiên một hồi hết đau.
Thiền sư Trung Phong nói:
“Chưa ngộ phải thường lo niệm.”
Ngài nói mình chưa thật sự ngộ, trong tích tắc, trong một khoảng sát-na mình chưa nhận diện ra được đạo, thì chưa ngộ phải thường lo niệm. Tức là phải luôn tha thiết nghĩ về đạo, luôn nghĩ mình vào đây tu để làm gì.
Ngài nói tiếp:
“Đã ngộ càng phải giữ gìn như bưng đĩa nước, như giữ tròng con mắt, như đi trong chỗ nguy hiểm, như cầm vật báu, như đối trước vua, trước Thầy, đây là giữ gìn đạo vậy. Giữ gìn tức là tu, phải thấy đạo rồi mới tu, chẳng thấy đạo làm sao mà tu?”
Đây là vị thiền sư nổi tiếng nhất đời nhà Tống, là đệ tử của thiền sư Cao Phong rất nổi tiếng về pháp môn đốn giáo.
Ngài nói chưa ngộ phải thường lo niệm, đã ngộ càng phải giữ gìn… Có những vị hành giả sơ ý chỗ này, chẳng hạn có một lúc nào đó quý thầy thấy được chỗ đến đó rồi thì ỷ lại xông pha, tức là “thõng tay vào chảo” luôn, phỏng mình phỏng mẩy hết. Ngộ rồi như giữ tròng con mắt, phải luôn luôn chánh niệm thu thúc, đừng nghĩ mình biết chút ít về đạo rồi thì buông thả tự do, tự đại. Thấy đạo rồi mới tu, chẳng thấy đạo làm sao mà tu? Quý thầy có đủ nhân duyên được Thầy Trụ trì cho vào thất bốn mươi chín ngày, hoặc hai mươi mốt ngày phải ráng cố gắng tu để thấy một điểm. Một điểm là tôi tạm nói, chứ quý thầy tìm một điểm là trật. Nghĩa là có niềm tin về đạo rồi thì quý thầy mới ở suốt đời trong tùng lâm được. Nếu không còn đủ duyên ở đây, mà đi chỗ khác thì suốt cuộc đời quý thầy cũng cạo đầu nửa tháng một lần. Còn không thấy đạo, tu một thời gian quý thầy sẽ thấy chán. Tu chừng mười năm trở lên mà không thấy đạo thì tu cũng cứ lờ lờ, rất dễ muốn hoàn tục.
Có người hỏi ngài: “Đã ngộ rồi đâu cần phải tu.” Ngài đáp: “Tập khí do nhiều kiếp huân tập, không thể nhất thời mà sạch hết nên cần phải tu, tu đến vô tu, sau đó mới đồng với chư Phật, vì thế cái tu này là một điều rất khó.”
Ngài nói rất là rõ. Có những hành giả ra trình kiến giải với Hòa thượng, với Thầy Trụ trì thì đồng như chư Phật vậy, nhưng rồi đến hỏi Hòa thượng sao có lúc cũng còn tham, cũng còn sân? Họ không biết tập khí mình vẫn còn. Phật nói giống như giấy gói con cá, bỏ con cá ra giấy cũng còn tanh. Rồi một bó hương gói lại, bỏ bó hương ra giấy cũng còn thơm. Tập là nhóm họp, khí là hơi hám. Hơi hám nhóm họp vô lượng kiếp rồi bây giờ gạt lần lần ra. Tu chỉ bấy nhiêu thôi, chỉ là gạn lọc vọng tưởng chứ không cần gì nữa hết. Tu đến chỗ vô tu rồi thì đồng với chư Phật, tức là giữ giới mà không thấy giữ giới nữa. Lúc nào quý thầy cũng ở trong cảnh giới mô phạm của mười phương chư Phật, thì lúc đó giới cũng không cần, oai nghi phép tắc cũng bỏ hết.
Tám:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Vốn không bày hình thức,
Mỗi duyên ngộ khác nhau,
Chẳng câu nệ kiểu cách.
Pháp tham thiền rất thù diệu, đặc sắc. Thiền ở Ấn Độ là thiền Ấn Độ, nhưng qua Trung Quốc là thiền của Trung Quốc, qua Nhật Bản là thiền của Nhật Bản, đến Việt Nam là thiền Việt Nam, thiền của Sơ Tổ Trúc Lâm Đại Đầu-đà.
Chỗ này rất là đặc biệt, vốn không bày hình thức, chẳng hạn chiều lại quý thầy đi yên tịnh lim dim cặp mắt mà vọng tưởng quá chừng cũng không được. Không bày hình thức mà mỗi duyên ngộ khác nhau. Đức Phật thấy sao mai ngộ, nhưng Lục Tổ nghe câu kinh “Bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm, ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, ngài ngộ ra và tìm đến Ngũ Tổ.
Đừng nghĩ rằng Lục Tổ nghe kinh ngộ, mình cũng phải làm cách gì đó đọc kinh cho ngộ, mỗi duyên nó khác. Mỗi hình thức, mỗi địa phương, mỗi sự tu tập, hành pháp của mỗi người thì mỗi duyên ngộ nó không đồng. Thiền sư Linh Vân thấy hoa đào nở mà ngộ đạo:
Tam thập niên lai tầm kiếm khách,
Kỷ hồi lạc diệp kỷ trừu chi,
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu,
Trực đáo như kim bất cánh nghi.
Ba mươi năm qua tầm kiếm khách tức là tìm ông chủ. Những sanh diệt vô thường của muôn pháp đến ngài cũng chưa ngộ, chỉ khi thấy hoa đào ngài mới ngộ. Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn nghe tiếng sỏi ngộ đạo. Thiền sư Lâm Tế thì bị ngài Hoàng Bá đánh ba gậy. Hôm nào quý thầy xuống nhà bếp làm việc chậm bị thầy tri khố mắng mà tâm thức quý thầy rỗng rang không có niệm thứ hai thì đó là ngộ rồi.
Năm 1998 chúng tôi lên đây, khí thế tu thiền ở đây giống như thời Tổ Lâm Tế, thời Tổ Hoàng Bá vậy. Quý thầy lớn ở đây tu là phải ngộ đạo. Cũng có những vị ngộ đạo nhưng ra làm việc sớm quá cho nên bị mất mình. Ngộ rồi còn phải trưởng dưỡng nữa.
Chín:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Tâm không quên tự kỷ,
Nếu núi ngã mạn cao,
Không có ngày liễu thoát.
Cái này rất khó. Cổ Đức nói, trong các thứ chướng nạn của sự tu, ngã mạn là chướng đạo nhất. Chẳng hạn quý thầy học luật, Phật dạy người phạm giới trộm cắp trong tùng lâm sẽ bị đọa địa ngục hay đọa lạc những cảnh giới xấu ác, quý thầy liền khởi niệm: “Để tôi thử coi, tôi vô kho lấy đồ thử xem có bị đọa địa ngục không.” Đó là đại chướng đạo, chắc chắn trong giờ phút thực tại đó, quý thầy đã che lấp đi cái tự tánh thanh tịnh của mình, mà các cửa độc hại nhất sẽ mở ra đón nhận sự độc hại đó. Cho nên ở đây nói: Nếu núi ngã mạn cao, không có ngày liễu thoát.
Thiền sư Đạo Nguyên nói:
“Học Phật là học quên chính mình, học chính mình tức là quên chính mình.”
Quên ở đây nghĩa là cái núi ngã mạn của mình càng ngày càng thấp xuống, phải kính trên, nhường dưới, ai nhờ việc gì cũng làm: nấu cháo cảm, nấu cá cho chó ăn, quét thiền đường, bữa củi, nấu cơm… Nếu mình có sức, sẵn sàng làm tất cả việc mà chúng nhờ thì tự nhiên cửa giải thoát sẽ mở ra. Không phải mình lên thiền đường mới giải thoát. Lên thiền đường ngồi hai tiếng mà ngủ một tiếng rưỡi làm sao giải thoát? Chi bằng vừa làm vừa tu.
Tôi cũng nói thẳng điều này, chẳng hạn quý thầy được phân công làm việc, quý thầy không bệnh nhưng lại báo là có bệnh để khỏi làm thì bị nhân quả liền. Tôi kinh nghiệm điều này: Ở Thường Chiếu từng có những thầy sau này nói rằng rất hối hận, nhưng hối hận thì đã muộn. Nếu báo bệnh mà bệnh thật thì không sao, chứ quý thầy báo dối là bảo đảm dính nhân quả.
Mười:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Là con đường thẳng tắp,
Đập vỡ nát Lao quan,
Đáng là trang tuấn kiệt.
Chỗ này hơi cao một chút, chưa làm được nhưng phải học. Quý thầy học qua tinh thần của Thiền sư Lai Quả rồi thì bảo đảm từ đó về sau không ai dám bắn bổng nữa. Xem ngữ lục của ngài thì có nước lo tu chứ không dám nói gì hết.Pháp tham thiền bậc nhất tức là thù thắng lắm, là con đường thẳng tắp, là đi máy bay chứ không phải đi xe lửa.
Lao quan là gì? Quan là cửa. Trong Ngữ Lục của Thiền sư Lai Quả có chia ra ba cửa cho người học: Sơ quan, Trùng quan, Lao quan.
1- Sơ quan:
Hằng ngày đối với muôn pháp quý thầy tỉnh ráo không dấy niệm, nhưng tối ngủ mơ thì lại phạm giới. Chẳng hạn người xuất gia có ai đưa đùi gà thì không bao giờ ăn, nhưng tối ngủ mơ, có người kể lại mơ thấy ăn đùi gà, thậm chí uống rượu luôn. Có người còn mơ thấy ăn thịt chó lá mơ… Có người nói bốn năm đầu đều nằm mơ thấy ăn mặn, năm thứ năm mới dứt. Đó là Sơ quan, cửa thứ nhất bước qua không nổi.
2- Trùng quan:
Qua cửa thứ hai này quý thầy thức ngủ như nhau. Nhưng ngài nói cũng chỉ là bờ mé của ý thức sinh tử.
3- Lao quan:
Qua cửa thứ ba này phàm Thánh đều buông hết, tức là không một niệm nào, không dấy niệm là mình ngộ đạo. Cho nên Lục Tổ nói: “Tình còn một niệm ngộ, sao lụy kiếp mê xưa.”
Cửa này khó nhất gọi là núi bạc, vách sắt. Các vị Thiền sư giải thích núi đó dựng đứng, quý thầy bám vào đi lên, gần tới đích tự nhiên tuột tay rớt xuống tan thân, nát mạng. Các ngài nói là tuyệt hậu tái tô thì một phen mới sống dậy. Đó là bước vào con đường thứ ba tức là cửa Lao quan. Khó như vậy cho nên mình chỉ có nước tu thôi chớ hết dám “bắn bổng”, nói thiền nói đạo không dính dáng gì các ngài hết. Cho nên ở đây nói đập vỡ nát Lao quan, đáng là trang tuấn kiệt.
Một hôm, Thiền sư Đam Nguyên hỏi Ma Cốc:
- Quan Âm mười hai mặt là phàm hay là Thánh?
- Là Thánh.
Đam Nguyên bèn đánh Sư một cái, bảo:
- Biết ông chẳng đến cảnh giới ấy.
Có nghĩa là phàm thì bước qua được rồi, ngay chỗ thức ngủ như nhau rồi mà một niệm chưa bước qua cửa Lao quan. Hỏi, là phàm hay Thánh? Thánh! Rớt trong cảnh giới Thánh liền. Cho nên Thiền sư Đam Nguyên đánh Thiền sư Ma Cốc một cái, nói biết ông chẳng đến cảnh giới ấy, tức là còn chưa bước qua cảnh giới niệm duyên phân biệt đó. Cho nên cái cửa Lao quan của ngài Lai Quả khó có người bước qua được.
Cửa thứ hai, thức ngủ như nhau mà còn chưa được. Chẳng hạn như tôi, tôi phát tâm bất cứ giá nào cũng giữ giới không ăn phi thời. Một thời gian, tối tôi nằm mộng thấy buổi chiều khoảng sáu giờ người ta bưng cho tôi một tô canh bún. Nằm mơ mà y như thật vậy, tôi ăn, ăn rồi tôi hối hận nói mình hứa mà phạm rồi. Giựt mình dậy biết là ngủ mơ. Ban ngày giữ được mà tối lại thấy mình ăn một tô bún, giữ không được. Lần thứ hai sau đó một tháng, tôi nằm mộng thấy người ta bưng vô một rổ bánh cuốn, tôi ăn ngon lành, ăn rồi cũng hối hận. Đến lần thứ ba thì mới hơi tỉnh tỉnh, vừa bưng vô tôi nói thôi không dám ăn nữa đâu. Giựt mình dậy biết mình nằm mộng. Quý thầy thấy khó lắm chứ không phải đơn giản. Mà chuyện ăn là chuyện dễ nhất, huống chi chuyện tình cảm ngày xưa quý thầy quen biết ở ngoài đời.
Cho nên ngày xưa chúng tôi nhập thất ra là Hòa thượng dạy pháp này. Hòa thượng kể câu chuyện:
Có ông Tăng đến thất của Thiền sư Mã Tổ ngủ. Tối nghe Thiền sư Mã Tổ ngáy, sáng ra ông nói:
- Hòa thượng nói Hòa thượng là bậc thầy của tám mươi bốn vị thiện tri thức mà sao ngủ Hòa thượng lại ngáy?
Thiền sư Mã Tổ nói:
- Ông biết lúc đó tôi ngủ hay thức?
Các ngài đạt đến cảnh giới thức ngủ như nhau, ngáy vậy chứ cảnh đến các ngài biết liền, các ngài làm chủ được.
Thiền sư Ngưỡng Sơn nằm mộng thấy lên cung trời Đâu Suất, bước lên tòa thứ ba, là tòa giảng ngày hôm đó, đánh trống, nói pháp. Đến trình ngài Qui Sơn, ngài nói: “Ông bước vào dòng Thánh rồi, ngủ mà ông còn làm chủ được như vậy huống chi ông thức.” Bước vào dòng Thánh, có nghĩa là thức ngủ giống như nhau.
Mười một:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Đầy đủ đại oai lực,
Quét ngoại đạo thiên ma,
Không còn chút dấu vết.
Mười hai:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Sạch trọi trơn mới sạch.
Vừa khởi niệm mảy may,
Đã tự chịu tủi nhục.
Mười ba:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Như sấm nổ điện chớp.
Đập bể nát hư không,
Quét sạch trần sa kiếp.
Pháp tham thiền này rất thù thắng, ngộ thì ngộ ngay tức khắc, như sấm nổ điện chớp. Không ngộ thì tủi nhục cả đời.
Thiền thoại có ghi:
Có một vị Tăng không đọc kinh sách mà ngồi thiền suốt ngày, vị Tạng chủ nói:
- Sao không xem kinh sách mà ngồi thiền không vậy?
Vị Tăng nói:
- Tôi không biết chữ.
- Ông không biết chữ thì ông phải tìm người dạy để đọc sách Phật, xem kinh Phật, xem các ngữ lục của Thiền sư để lại chứ.
- Tôi không biết hỏi ai để chỉ cho tôi.
Vị Tạng chủ nói:
- Ông cần biết chữ tôi dạy cho ông.
Ngày xưa người nào giỏi lắm mới làm Tạng chủ.
Vị Tăng thộp ngực ông Tạng chủ hỏi:
- Chữ này là chữ gì?
Vị Tạng chủ không trả lời được.
Cho nên ở đây nói là như sấm nổ điện chớp, chớp mắt là các ngài ra thủ thuật liền.
Có dịp nào quý thầy ra nhà khách, gặp những người hiểu giáo lý rất nhiều nhưng quý thầy nhớ đừng chạy theo. Bữa nọ tôi tiếp một người ở Pháp về, ông này rất giỏi giáo lý, pháp môn nào cũng biết, nhưng ông ấy gọi Thầy tôi bằng tên, Sư Bác Sơn Thắng ông cũng gọi bằng tên, tôi nói:
- Ông tu ra đời phải không?
Ông giựt mình hỏi:
- Sao thầy biết?
Tôi nói:
- Mấy vị lớn mà ông chỉ gọi bằng tên nên tôi biết ông tu ra đời.
Quả thật hồi xưa ông xuất gia ở Huệ Nghiêm, bây giờ ra đời. Tôi nói với ông cái hiểu của ông chưa dính dáng gì đâu, coi chừng ông tổn phước. Tuy rằng ngày xưa các ngài tu cùng lượt với ông nhưng người ta tu suốt cả cuộc đời ba, bốn chục năm rồi. Ông tu có mười mấy năm ông hoàn tục mà bây giờ ông tưởng các ngài cũng là huynh đệ với ông. Nói một chập thì ông hiểu. Tôi nói ông học trên ý thức sanh diệt, thật ra một chữ thiền ông chưa biết, tôi khẳng định như thế. Cho nên ở đây nói: Như sấm nổ điện chớp.
Cho nên Lục Tổ thị hiện không biết chữ để tiêu biểu cho pháp này. Pháp này không phải thông minh trí tuệ mà nhận biết được, chỉ những người căn cơ ứng hợp với thiền thì khả dĩ mới nhận được. Tổ Đạt-ma sau khi thọ ký cho Tổ Huệ Khả làm Tổ, ngài trao bốn quyển kinh Lăng Già cho Tổ Huệ Khả và nói: “Đời mạt pháp chúng sanh sống trên tướng danh tự rất nhiều, chia chẻ học thức nhưng một chữ thiền cũng không nắm bắt được.”
Quý thầy thấy rất rõ, đời này học bằng cấp rất nhiều nhưng nói về công phu thì bế tắc. Quý thầy có túc duyên được Hòa thượng hướng dẫn, rồi có môi trường tốt được ở trong nội viện tu, gia công tu tập thì có chỗ đứng. Có chỗ đứng trong nhà thiền rồi thì giống như sấm nổ điện chớp, ai nói mặc ai, không ai làm gì được quý thầy hết. Nhưng mà phải có công phu. Có công phu thì quý thầy rất tự tin. Mai kia có đủ duyên người ta mời qua Mỹ, qua Pháp mướn hội trường giảng đông nghẹt, quý thầy cũng bình thường. Bởi vì sao? Nói lại cũng bao nhiêu đó thôi mà do công phu năng lực của mình.
Như Lục Tổ Huệ Năng thị hiện, ngài có năng lực rất lớn. Khi Ni sư Vô Tận Tạng cầm quyển Kinh Niết Bàn hỏi chữ, ngài nói:
- Chữ thì không biết nhưng nghĩa thì tôi biết.
Ni Sư nói:
- Chữ còn chẳng biết sao hiểu được nghĩa?
Ngài nói:
- Lý mầu nhiệm của chư Phật chẳng quan hệ gì với văn tự.
Mười bốn:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Tốt hơn tự quyết trạch,
Việc Nam Tuyền chém mèo,
Việc Bách Trượng cuốn chiếu.
Tốt hơn tự quyết trạch có nghĩa là tự phản quan lại, chứ không phải suốt ngày thắc mắc: “Nam Tuyền chém mèo là sao? Tại sao chém? Ngài Bách Trượng cuốn chiếu chi vậy?” Mất mình luôn! Ở đây muốn nói luôn luôn phải phản quan lại mình thì mới đúng.
Mười lăm:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Đâu phải ở tại ngoài,
Mỗi vật mỗi phân minh,
Thấu suốt khó dối gạt.
Ở đây ứng hợp với thiền, tức là không phải ở ngoài mà đi, đứng, nằm, ngồi mỗi cái mình phân minh, thấu suốt rõ ràng thì không ai dối gạt được hết.
Mười sáu:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Đèn tâm soi sáng rực,
Phóng ra vô lượng quang,
Phá đêm dài tối mịt.
Thời Đức Phật, vua Ba-tư-nặc cúng đèn dầu cho Phật rất nhiều nhưng cây đèn dầu của một bà lão cúng dường, tôn giả Mục-kiền-liên dùng hết năng lực thần thông thổi không tắt.
Phần nhiều mọi người nói là do bà lão quá nghèo nên bà cắt tóc bán lấy tiền mua dầu, của thì ít nhưng do tâm thành cho nên ngài Mục-kiền-liên thổi cách mấy cũng không tắt. Đây là theo tinh thần nói về phương pháp bố thí, cúng dường. Nhưng tôi nói kiến giải của tôi cho quý thầy thông cảm, bà lão thắp cái đèn này từ nơi tự tâm của bà, từ tâm Phật của bà ứng tác ra thì không có gì làm tắt được. Cho nên ở đây nói đèn tâm soi sáng rồi thì phóng ra vô lượng quang phá đêm dài tối mịt. Tức là đêm dài vô minh, tật đố, ích kỷ, xan tham, ngay trong giờ phút thực tại đó tự nhiên nó tan biến hết, mà phải từ nơi năng lực đèn tâm soi sáng của chính mình.
Mười bảy:
Pháp tham thiền bậc nhất,
Không có gì kỳ đặc,
Lúc đói thì ăn ngay,
Mệt, ngủ liền một giấc.
Không có gì kỳ đặc, đói xuống ăn cơm, mệt thì ngủ khỏi ngồi thiền đúng không? Quý thầy nhớ câu “đói thì ăn, mệt thì ngủ” ở đâu không? Đa phần mình nói trong bài “Cư Trần Lạc Đạo” của Sơ Tổ Trúc Lâm:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Nhưng đến giai đoạn này là trong tinh thần Tứ Liệu Giản của Tổ Lâm Tế.
Một hôm Tổ thượng đường dạy chúng:
Có khi đoạt nhơn không đoạt cảnh,
Có khi đoạt cảnh không đoạt nhơn,
Có khi đoạt nhơn và cảnh,
Có khi người, cảnh đều chẳng đoạt.
Có vị Tăng bước ra hỏi:
- Thế nào là “đoạt người không đoạt cảnh?”
Tổ đáp:
Bình minh ló dạng bày đất gấm,
Trẻ thơ xõa tóc trắng như tơ.
Có những lúc quý thầy phải kiểm soát cái tâm miên mật, ngoại cảnh không dính dáng gì hết, cho nên ở đây nói bình minh ló dạng bày đất gấm, có nghĩa là vạn pháp bày ra muôn cảnh, muôn hình vạn trạng thì cũng không dính gì đến mình. Trẻ thơ xõa tóc trắng như tơ là luôn luôn phản chiếu lại mình, công phu chính mình thì đó gọi là đoạt nhơn mà không đoạt cảnh.
- Thế nào là đoạt cảnh không đoạt người?
Tổ đọc kệ:
Lệnh vua đã ban khắp thiên hạ,
Tướng quân ngoài ải dứt bụi mù.
Đoạt cảnh là gì? Quý thầy tránh duyên vào đây tu lo tham thiền, sám hối, luôn luôn sợ cảnh.
- Thế nào là đoạt cả người, cảnh?
Tổ nói:
Tịnh phần bặt tin,
Ở riêng một chỗ.
Tịnh phần là nói về chỗ quê hương. Đoạt cả người và cảnh là bặt tin tức, ở riêng một chỗ.
- Thế nào là người, cảnh đều chẳng đoạt?
Tổ nói:
Vua lên điện báu,
Lão quê ngợi ca.
Đạt đến chỗ này rất khó. Vua lên điện báu, lão quê ngợi ca tức là thiên hạ thái bình rồi thì mọi người đều ca hát, không còn chiến tranh tức là không còn vọng tưởng điên đảo gì nữa. Chỗ này tâm cảnh nhất như thì đồng với “Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.”
Qua phần này quý thầy thấy tinh thần Tứ Liệu Giản của Tổ Lâm Tế không phải chuyện đơn giản. Nghe nói đói thì ăn, quý thầy đói lúc nào ăn lúc đó thì trật. Rồi mệt lúc nào cũng ngủ hết thì không đúng, trái thanh qui của Thiền viện.
Hòa thượng Tiếu Ân nói:
Cháo xong lễ bái sau uống trà,
Phóng tham diệt sạch chớ xướng ồn,
Vào đường ra cửa thanh qui hợp,
Mới thấy tùng lâm có tác gia.
Vào thiền đường tu tập đúng với thanh qui rồi thì bảo đảm trong tùng lâm có bậc tác gia kiệt xuất, cơ dụng thông minh.
“Trên đơn chẳng được giũ áo mền nổi tiếng, bụi bay khiến người gần đơn động niệm.”
Mình ngủ trên đơn với đại chúng không được giũ áo mền, thứ nhất là thô tháo, thứ hai là bụi bay nhơ người, thứ ba là khiến người động niệm.
“Phàm vào nhà thiền phải đủ năm pháp: 1-Tâm phải yêu kính, tôn trọng mọi người. 2- Phải thấp mình khiêm tốn như khăn lau bụi. 3- Phải biết khi ngồi, khi dậy, khi cúi, khi ngước phải thời. 4- Ở trong Tăng chúng chẳng được nói bậy. 5- Những việc không thể nhẫn cũng phải im lặng.”
1- Tâm phải yêu kính, tôn trọng mọi người: Vào thiền đường cũng gọi là vào Tăng đường, phải có đủ năm pháp, thứ nhất là phải yêu kính tôn trọng người khác. Chẳng hạn người ta đang học, đang tu mình đừng có giỡn cười. Có tâm tôn trọng như thế mai kia ra đời mới gặp Phật pháp tiếp.
2- Phải thấp mình khiêm tốn như khăn lau bụi: Thấp mình với đại chúng chớ đừng cống cao ngã mạn.
3- Phải biết khi ngồi, khi dậy, khi cúi, khi ngước phải thời: Chứ không phải bạ đâu cũng ngồi, cũng đứng, cũng dậy, lăng xăng lộn xộn trong Tăng đường thì không được.
4- Ở trong Tăng chúng chẳng được nói bậy: Tức là nói chuyện đời, chuyện này chuyện kia.
5- Những việc không thể nhẫn cũng phải im lặng: Thầy tôi dạy những việc không nhẫn được thì mình phải im lặng tránh chỗ khác. Ngài ví dụ, như một chiếc thuyền chuẩn bị ra khơi mà giông tố ào ạt nổi lên quý thầy dám giong thuyền ra không hay là tránh vào bờ? Việc ở trong chúng cũng vậy, nếu không nhẫn được thì im lặng mà rút liền chớ đừng đứng đó, sợ có lúc mình sanh tâm không tốt.
Đó là những phương pháp người xưa dạy cho mình.
Khi xuống đơn thầm tưởng bài kệ:
“Từ sớm giờ Dần thẳng đến tối,
Tất cả chúng sanh lánh giữ mình,
Bằng ở dưới chân tan thân hình,
Cầu ngươi bấy giờ sanh Tịnh Độ.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Người cùng với chúng sanh hình thể tuy có khác mà tánh thật không khác. Người hoạt động, chúng sanh cũng hoạt động; người thở, chúng sanh cũng thở. Song ta tuy không có tâm tổn hại mà cũng thiết yếu chính mình trước phải giữ mình, nếu ở dưới chân mà có tan thân mất mạng thì nguyện các chúng sanh này cũng sanh nơi cõi Phật.”
Tinh thần đạo Phật luôn lấy từ bi làm gốc. Mình phải phát nguyện lỡ đạp chúng sanh nào, con trùng, con kiến, con ốc gì đó thì đều hồi hướng chúng được sanh về cõi Phật. Mình có căn duyên phúc đức cho nên gặp được Phật phápmình tu, chứ tu theo phương pháp nào không biết mà dính vào con đường ăn mặn thì cái khí ngày càng trệ, càng chìm xuống.
Kinh Phân Biệt Công Đức ghi:
“Thứ nhất quán niệm Phật là việc gì? Thân Phật là Kim cang, không bị rót phiền não vào. Khi Đức Phật đi, chân cách mặt đất bốn tấc, lành tướng ngàn châu hiện dấu nơi đất, các loài trùng dưới chân bảy ngày được an ổn, nếu nó mạng chung đều được sanh về cõi trời.”
Mình phải quán được năng lực thù thắng của Đức Phật, ngài đi đến đâu thì lành tướng ngàn bánh xe hiện ra, các loài trùng kiến được bảy ngày an ổn, nếu mạng chung được sanh về cõi trời Đao Lợi. Cho nên trong từng bước đi mình phải chánh niệm. Một vị Thiền sư nói, đang đi kinh hành mà thất niệm thì giống như giết hại một con trùng chớ không cần phải đạp mới là giết hại. Các ngài miên mật đến mức độ như vậy. Có nghĩa là mỗi một niệm mà chúng ta không tỉnh giác, không chánh niệm là giết hại một con trùng.
Phương pháp kinh Kim Cang dạy rất rõ.
Trưởng lão Tu-bồ-đề thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn! Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề nên làm sao trụ, làm sao hàng phục được tâm?
Đức Phật nói:
- Lành thay! Lành thay! Tu-bồ-đề, đúng như lời ông nói, Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát.
Trong kinh Kim Cang, trở về thật tướng là Đức Phật sáng cũng đắp y mang bình bát vào thành khất thực, về cũng rửa chân. Nhưng tại sao có những kinh Đại thừa nói Đức Phật đi cách mặt đất bốn tấc, Kinh Kim Cang thì nói Đức Phật đi khất thực về rửa chân rồi mới thọ trai? Ở đây ngầm ý Đức Phật đi là luôn luôn sống trong giờ phút thực tại, ngay tại đây và bây giờ. Cho nên nói khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, có nghĩa là thấy được thân tướng, năng lực của Đức Phật đi thì các Thầy Tỳ-kheo tự nhiên thu thúc sáu căn đi chánh niệm như Đức Phật.
Có một lần tôn giả La-hầu-la đi theo Đức Phật khất thực bị mấy đứa con nít chọc ghẹo, quậy phá, tôn giả dấy niệm hoàn tục để về làm vua rồi trở lại xứ này giết sạch hết. Vừa khởi niệm Đức Phật thấy liền, Ngài nói: “Này La-hầu-la! Ông phải thu thúc sáu căn của ông lại, chánh niệm tỉnh giác.” Rồi đến gốc cây, Phật dạy về phương pháp quán niệm hơi thở. Trong khi quán niệm hơi thở, tôn giả La-hầu-la kiến đạo, đi vào dòng Thánh.
Thu thúc sáu căn, quán niệm trong giờ phút thực tại đó, ở đây nói là Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát, có nghĩa là trong bốn oai nghi Đức Phật đều:
Hành như phong.
Lập như tùng.
Ngọa như cung.
Tọa như chung.
1- Hành như phong:
Nghe nói hành như phong, quý thầy đi vút vút như gió là trật, không có oai nghi. Hành như phong có nghĩa đi rất chậm, rất nhẹ, đi lúc nào cũng nhẹ nhàng như gió thoảng, không kéo lê đôi dép gây ra tiếng động.
2- Lập như tùng:
Đứng thẳng giống như cây tùng. Những người mô phạm họ đứng, họ đi phải khác người thường.
3- Ngọa như cung:
Nằm kiết tường, không thẳng mà cũng không cong quá.
4 - Tọa như chung:
Ngồi vững như chuông.
“Chẳng được cao tiếng nói lớn.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Thiền đường chính là chỗ khám nghiệm rồng, rắn. Phàm vào trong Thiền đường, tất cả cần yếu phải nương vào qui củ. Nếu cao tiếng nói lớn tựa như không có người khác, thái độ như cuồng, huống nữa một người lớn tiếng mọi người đồng theo thì Thiền đường ồn náo làm trở ngại công phu của người kia thì tội chẳng phải là lớn ư? Phàm làm Sa-môn buông lời nói, nói phải kính dè, tiếng phải dịu hòa mới xứng hợp oai nghi dòng họ Thích.”
Tổ Tuyên Luật Sư dạy Thiền đường chính là chỗ khám nghiệm rồng, rắn. Có nghĩa là vào Thiền đường mình biết đây là rồng con, còn đây là rắn mà là rắn già, lớn tiếng ồn ào mất oai nghi phép tắc.
Hồi xưa ở Thường Chiếu có một thầy vào Thiền đường chừng năm, mười phút là ngã lăn nằm dài ra ngủ, chúng nói không nghe ai hết. Thầy giáo thọ Sư Bác đắp y tề chỉnh lên lạy ba lạy, ngày hôm sau thầy đó hoàn tục ra đời luôn. Người lớn dạy mình hết nổi rồi thì có nước người ta đắp y lạy mình. Bây giờ nói một người không nghe, mà các ngài độ một lần ba, bốn trăm chúng, cái đức rất lớn, năng lực tu của các ngài nhiều kiếp nữa, mà các ngài bữa nào đắp y kêu quý thầy lên: “Thôi bây giờ cho con đảnh lễ các ngài!” Bảo đảm quý thầy chết liền!
Ngày xưa chúng tôi bảo vệ trật tự ở Thường Chiếu, mặc hậu đàng hoàng đi ra bảo vệ. Lúc đó người ta buôn bán đông lắm, canh hoài họ cũng cứ nhào vô, buôn bán như vậy ồn náo Hòa thượng giảng không được. Chúng tôi mặc hậu vô lạy, họ bỏ thúng bánh chạy mặt mày tái mét chứ không còn cãi nữa. Còn quý thầy nói chừng nào họ càng làm dữ chừng nấy, chỉ còn cách lạy họ thôi chứ không làm gì họ hết.
Hồi đó ở Trúc Lâm cũng có một thầy nói ngộ đạo, đang ngồi thiền bật ngửa ra nằm, Hòa thượng chỉ quở một tiếng là đi luôn. Người lớn mà quở thì rất tổn đức, cho nên mình phải kiêng dè đừng ỷ lại. Các ngài thương mình nên không dám quở nặng. Hòa thượng nói: “Tôi không dám quở nặng mấy chú, sợ mấy chú buồn tu không được.” Thật ra là mình tổn phước, tu không được.
“Nhẹ tay thả sáo phải đỡ tay sau, chẳng được kéo dây có tiếng. Chẳng được ho khạc có tiếng lớn. Chẳng được gần đơn dụm đầu kề tai luận nói chuyện đời. Có ba nghĩa, tức là mất oai nghi, sợ hiềm nghi, mất chánh niệm.”
“Hoặc có bạn học, tình quen thăm nhau, trong nhà thiền chẳng được nói lâu. Đem nhau dưới rừng, bên suối mới có thể hết lòng luận mà nói.”
Ở đây có nhà khách mình nói chuyện, chớ ngày xưa không được nói trong Tăng đường mà xuống rừng cây, suối vắng nói chuyện.
Tổ Tuyên Luật Sư nói:
“Bạn học, tình quen thăm nhau vốn là thiên tính, trí hậu, không có lỗi đối với cha mẹ. Nay đã từ thân học đạo phải lấy đạo bạn làm thân, hết lòng đàm luận. Phải là cố nhơn thì mới có thể tận tâm giảo lược tức là xét nghiệm, so sánh về sự tu học đó.”
Có những lúc bạn bè đến thăm thì quý thầy nói chuyện không có cấm. Nhưng không được nói chuyện trong Tăng đường mà chỉ nói ở nhà khách.
“Nếu đàm luận việc đời chẳng những ô nhiễm môi mép mà cũng sợ ô uế suối rừng.”
Quý thầy thấy khó không? Có nghĩa mình gặp bạn ngoài đời chỉ nói chuyện tu học thôi chứ không nói chuyện đời. Người xưa nói:
Cao sơn lưu thủy thâm thâm ý,
Tự cỗ tri âm chiếu điểm đầu.
Nghĩa:
Núi cao nước chảy ý sâu kín,
Tự có tri âm mỉm gật đầu.
Bạn thân gặp nhau chỉ nói về đạo lý thôi. Chẳng hạn có một số thầy ở đây xuất chúng, sau này nếu có duyên gặp lại thì quý thầy chỉ hỏi bây giờ tu học ở đâu hoặc cất cốc tu thế nào chứ đừng hỏi những chuyện như mua xe gì… Quý thầy để ý, chuyện đời mình thích nói hơn là chuyện đạo lý, cho nên rất khó cho sự tu học.
“Hoặc xem kinh phải vững mình, lóng thần ngầm xét, chẳng được ra tiếng.”
Ở trong Tăng đường xem kinh không đọc lớn tiếng làm người kế bên dễ sanh tâm phiền não. Nhưng sâu hơn nữa, trong Sa Di Học Xứ Tổ Tuyên Luật Sư dạy:
“Trong Tăng đường xem kinh phải im lặng mà biết, tức là tột, tâm chẳng tán loạn.”
Lúc xem kinh nếu chưa hiểu thì mình ít nói, xem kinh mà hiểu chút ít rồi thì mình mắc phải bệnh thích nói kinh điển. Ngày xưa chúng tôi cũng mắc phải bệnh này. Gặp đâu cũng nói, có những người thích nghe, nhưng cũng có những người không thích. Bệnh thứ hai là đem kinh ra cãi. Trong Tăng đường mà cãi lý về thiền tức là tâm tán loạn rất nhiều. Cho nên chư Tổ dạy xem kinh điều cần yếu là phải thấu tột nghĩa lý trong kinh rồi hành chớ không phải đem kinh ra cãi.
Thiền thoại có ghi:
Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo là đệ tử của Thiền sư Viên Ngộ. Khi mới xuất gia, chưa ngộ đạo nhưng hiểu biết chút ít, ngài thường ở trong Tăng đường nói chuyện đạo. Một hôm Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo đến trước Thiền sư Viên Ngộ nói Phật, nói pháp, Thiền sư Viên Ngộ xoay đi chỗ khác không nhìn Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo. Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo ngạc nhiên nói:
- Bạch Thầy! Con hay nói thiền, nói đạo mà con để ý thấy Thầy không vui.
Thiền sư Viên Ngộ nhân đó chỉ dạy:
- Ta biết ông thiếu thốn rất nhiều, người nào thiếu cái gì thì hay nhắc cái đó.
Ngay trong giờ phút thực tại đó Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo sực tỉnh.
Sau khi ngài Đại Huệ Tông Cảo ngộ đạo, ngài thương người hậu học, học hiểu rồi nói chớ không có hành, cho nên ngài đốt bộ Bích Nham Lục. Học hiểu rồi nói, rồi cãi mà không chịu tu, cũng giống như người nghèo khổ đi đâu cũng nhắc tới tiền, còn nhà tỷ phú thì không khi nào nói về tiền bạc.
Theo tinh thần Thiền tông trực chỉ, các vị Thiền sư thường đánh, dẹp các đệ tử hay nói về cảnh giới ngộ. Trong kinh Hoa Nghiêm nói, có một vị Bồ-tát bước vào sơ địa, tức là hoát nhiên chợt nhận ra được pháp giới Hoa tạng, có tư tưởng là sự chứng đắc, trí tuệ của mình Phật không bằng. Cho nên chư Tổ sợ hàng hậu học, sợ đệ tử của mình xem kinh hiểu, hoặc tu hơi được một chút rồi nhiều khi nghĩ chắc gì Hòa thượng hay Thầy mình bằng mình. Có những người như vậy đó.
Quý thầy nghiệm lại, người mới học đàn cũng chơi đàn được, nhưng so với người chơi đàn hai ba chục năm thì hai bản nhạc hay hai bản hòa tấu khác nhau rất xa. Hoặc như người mới học võ thì tay chân ngứa ngáy thích đánh nhau, nhưng lên cỡ thần đai nhất đẳng, nhị đẳng rồi thì sợ không dám đánh ai hết. Bởi vì thấy có người giỏi hơn mình, năng lực lớn hơn mình nên chùn lại.
Cũng vậy, người có công phu tu tập thì họ ít dám nói về Phật pháp, còn người mới vào Thiền viện hoặc mới biết chút ít về Phật pháp thì hay cãi về Phật pháp. Ngày xưa chúng tôi ở Tăng đường một, ngồi thiền xong về Tăng đường toàn nói chuyện thiền, chuyện đạo, nói mà cãi chớ không phải chia sẻ. Cho nên ở đây nói: “Phải im lặng mà biết, tức là tột, tâm chẳng tán loạn.”
Trong Cổ Học Tinh Hoa có câu chuyện:
Vua Tuyên Tông sai Kỷ Sảnh nuôi một con gà, được mười hôm vua hỏi:
- Con gà đó đem chọi được chưa?
Kỷ Sảnh thưa:
- Chưa được, gà còn hăng lắm, chưa thấy gà khác là đã muốn chọi rồi.
Giống như người mới học đạo vậy, mở miệng ra là nói thiền, nói đạo. Chẳng hạn hỏi: “Bông này là bông gì?” Trả lời: “Bông là bông thôi.” Nhưng hỏi tới thì không biết gì hết.
Cách mười hôm sau vua lại hỏi:
- Gà đã đem chọi được chưa?
Kỷ Sảnh thưa:
- Chưa được, gà còn hơi hăng, trông thấy gà khác là đã muốn chọi rồi.
Mười hôm sau nữa vua lại hỏi:
- Gà đã đem chọi được chưa?
Kỷ Sảnh thưa:
- Được rồi, gà bây giờ trông thấy tựa như gà gỗ mà đủ các ngón hay, gà khác coi thấy là đủ sợ, phải lùi chạy.
Quý thầy nghiệm lại giống đường tu của mình không? Đường tu đến chỗ rốt ráo, giống như trong võ thuật gọi là vô chiêu mà thắng hữu chiêu. Chẳng hạn quý thầy thích nói thiền, nói đạo, thích cãi nữa, nhưng Hòa thượng hoặc Thầy Trụ trì nhìn thấy chỉ cười. Trông thấy tựa như gà gỗ, Thánh nhân mà đạt đến trình độ tâm linh lớn rồi thì các ngài như ngu ngơ, như không biết gì, nhưng các ngài có đầy đủ năng lực lớn đi vào cuộc đời này. Mà đủ các ngón hay, gà khác coi thấy là đủ sợ, phải lùi chạy, cho nên các ngài giáo hóa chúng sanh đâu cần nói nhiều. Thấy hình tướng các ngài, thấy năng lực, hành động của các ngài thì tự nhiên người ta kính.
Quý thầy học thì phải tiêu, các ngài nói mình xem kinh không khéo thì cam lồ biến thành độc dược. Đem kinh ra cãi thì cam lồ biến thành độc dược rồi.
Cho nên Tổ Lâm Tế dạy, một người xem kinh mà được tiêu dung rồi thì:
“Một tâm đã không thì tùy chỗ giải thoát.”
Có nghĩa là rỗng không vô nhất vật thì chỗ nào cũng là giải thoát hết.
“Sơn tăng nói thế ấy, ý ở chỗ nào? Chỉ vì các ông không dừng được tất cả tâm đuổi tìm mà cứ giẫm lên cảnh suông của người xưa.”
Tổ Lâm Tế nói chúng ta không được tùy chỗ giải thoát là vì hay cãi. Chẳng hạn chữ Bồ-đề, người này nói Bồ-đề là giác, người kia nói không phải. Nếu trong giờ phút thực tại đó, mỗi người tâm rỗng không thì chính là Bồ-đề rồi. Mà mình không chịu, mình phân tích, chia chẻ rồi khái niệm lý luận. Hoặc như trong Kinh A Hàm, Phật nói: “Cảnh giới Niết-bàn không có đất, nước, gió, lửa”, hai người tranh cãi nói tại sao Niết-bàn mà không có đất, nước, gió, lửa. Nhưng tu một thời gian quý thầy mới nghiệm ra, bởi vì cảnh giới Niết-bàn không có tứ đại, ngũ uẩn. Vậy mà mình đem ra cãi. Tổ nói sở dĩ mình không được tùy chỗ giải thoát là vì luôn giẫm lên cảnh suông của người xưa rồi đem phân tích, chia chẻ.
Ngày xưa vào thời Đức Phật, ngoại đạo rồi các Thầy Tỳ-kheo hay nhóm họp tranh cãi. Cho nên một hôm Phật họp lại nói câu chuyện người mù rờ voi:
Ngày xưa có một ông vua rất thông minh trí tuệ. Một hôm ông cho quan cận thần mời tất cả người bị mù từ nhỏ, tức là chưa hề nhìn thấy gì hết, về nhóm trước cung điện. Vua cho dắt ra một con voi, yêu cầu mỗi người miêu tả hình dáng con voi. Người sờ chân voi thì tả con voi giống như cái cột nhà, người sờ tai voi thì nói con voi giống cái quạt, người sờ đuôi voi thì nói voi giống sợi dây thừng… Rồi tranh nhau mà cãi, cuối cùng đánh lộn!
Trong kinh Niết Bàn Phật ví dụ, mình tưởng Phật nói chơi, nhưng trong cuộc sống giữa đời thường tôi đã chứng kiến: Hai người đứng trước chánh điện cãi về việc Tổ Bồ-đề Đạt-ma quảy chiếc dép, cãi một hồi rồi ra sau chánh điện cãi tiếp. Một người nói sở dĩ Tổ còn một chiếc dép là vì ngày xưa Tổ từ Ấn Độ sang Trung Hoa, giữa đường gặp cướp, Tổ đá một cái bay mất một chiếc dép còn một chiếc! Người kia nói Tổ vì thương chúng sanh nên lấy một chiếc dép có giá trị bán cho vua, bây giờ chỉ còn một chiếc! Tôi đi ngang qua chính tai tôi nghe nhưng tôi để cho cãi luôn, chớ mình chen vô làm chi. Tìm hiểu ra thì người nói Tổ gặp cướp đá bay mất một chiếc dép là thầy võ sư Thiếu Lâm Tự dạy ở Sài Gòn. Quý thầy thấy có những chuyện không không mà người ta cũng cãi, trong chúng mình không khéo cũng có trường hợp đó.
Tổ Lâm Tế dạy tiếp:
“Thời nay người học đều không biết pháp, giống như con dê đụng đâu ngửi đó, gặp vật gì cũng để vào miệng, quý tiện chẳng rõ, chủ khách không phân.”
Giống mình không? Tổ Lâm Tế cơ phong ngài rất mạnh, ngộ cũng rất sâu, cho nên ngài nói rất mạnh. Thời nay mình học mình gom góp rất nhiều, học Phật pháp không đủ còn học thêm thế pháp. Có những người cho rằng không biết nhiều về thế pháp thì không phải chơn chánh xuất gia học đạo. Nhưng Tổ nói ngược lại:
“Những bọn như thế tâm tà vào đạo, gặp chỗ huyên náo liền vào, không được gọi là người chơn chánh xuất gia mà quả thật là người thế tục.”
Tổ quở mình đó. Cái tâm ban đầu vào đạo để mình học hiểu rồi tu, nhưng bây giờ ngược lại gặp chỗ huyên náo mình vào. Bây giờ có những quý thầy học đại học văn chương, rồi kinh tế, học đủ thứ hết, đó gọi là tâm tà vào đạo, không phải là người chơn chánh xuất gia mà quả thật là người thế tục. Nếu chúng ta không gặp được Hòa thượng chỉ dạy phương pháp cương yếu về thiền thì mình cũng giống như những người khác, cũng học kinh tế, học văn chương nhưng công phu, tu tập để chuyển hóa nội tâm thì không biết cách.
“Phàm người xuất gia phải rõ được cái thấy biết chơn chánh, bình thường. Rõ Phật rõ ma, rõ thật rõ giả, rõ phàm rõ Thánh. Nếu rõ được như thế gọi là người chơn chánh xuất gia.”
Chẳng hạn mình học kinh điển, tu tập các việc thiện pháp, thì biết đây là việc tốt. Làm những việc xấu ác mình biết đây là việc không được, tức là rõ về ma. Cái nào thật, cái nào giả phân biệt được hết, có một tri kiến như thật đi vào cuộc đời này, biết rõ hết.
“Nếu ma, Phật mà chẳng rõ thì chính là ra nhà này mà vào nhà nọ.”
Tổ dạy rất là hay! Nếu mình không phân biệt cái nào chánh, cái nào tà, cái nào là ma, cái nào là Phật - tưởng cái nào cũng giống giống nhau - thì mình cũng cạo tóc, cũng xuất gia mà gọi là cái nghiệp thầy chùa, bỏ nhà này vào nhà khác thôi chớ thật ra không giải thoát gì, cũng không biết tu tập, chuyển hóa gì. Cho nên Tổ nói tiếp:
“Gọi là chúng sanh tạo nghiệp.”
Bây giờ mình không tạo nghiệp thế tục nữa mà tạo nghiệp về pháp xuất thế. Chưa biết cách chuyển hóa, thì cũng không vượt thoát ba cõi.
“Chẳng được gọi là chơn xuất gia. Chỉ như hiện nay ma, Phật đồng thể không phân, như nước hòa với sữa, phải là con ngỗng chúa mới uống được.”
Có nghĩa là trong giờ phút thực tại quý thầy tọa thiền thì rõ ràng ma, Phật không phân, như sóng và nước. Một vọng niệm điên đảo khởi lên từ chơn tánh thanh tịnh của mình, nhưng làm thế nào giống như con ngỗng chúa uống sữa chừa lại nước, rất là khó. Tinh thần công phu thiền tập cũng vậy, sống như thế nào phải tột được chỗ tri kiến như thật, không dung túng vọng tưởng như phàm phu nhưng mà rõ biết hết.
“Như người sáng mắt, ma Phật đều đánh. Ông nếu mến Thánh, chán phàm thì chìm nổi trong biển sanh tử.”
Tinh thần của Tổ Lâm Tế là: “Phùng Phật sát Phật, phùng ma sát ma.” Đến chỗ rốt ráo này Tổ dạy mình giống như người sáng mắt, ma, Phật đều dẹp hết. Có những người ngồi thiền yên một thời gian thấy Phật đến xoa đầu. Chấp vào cái đó, vui với cảnh đó thì sanh bệnh.
Rồi có những người sanh niệm kiến giải, nghĩ rằng chư Tăng là phải tu khổ hạnh, hành Bồ-tát đạo, trong chúng ai cũng phải là Thánh hết. Thấy còn phàm thì chán chịu không nổi nên xin về không tu nữa. Đó gọi là mến Thánh mà chán phàm, là chìm nổi trong biển sanh tử.
Thiền thoại có ghi:
Thiền sư Động Sơn cơ phong rất sâu, năng lực rất lớn, Thổ địa kính lắm mà không biết cách gì để đến đảnh lễ vì ba mươi năm tìm ngài không thấy.
Có nghĩa là ba mươi năm ngài chưa từng dấy niệm, cho nên thân ngũ uẩn ngài sờ sờ đó mà Thổ địa tìm không được. Quý thầy để ý, ma quỷ mà nhập vào mình có nghĩa là mình hay dấy niệm vọng tưởng điên đảo. Chiều lại mà quý thầy đi lang thang rồi tơ tưởng thì mấy chú dưới sông, dưới biển nhập vào cái một.
Một hôm ngài xuống nhà bếp thấy chư Tăng làm đổ nhiều bún gạo ngài khởi niệm quở, tức khắc Thổ địa đến nói: “Ba mươi năm con tìm ngài không thấy.”
Vừa khởi niệm tư tưởng là Thổ địa thấy liền.
Câu chuyện thứ hai:
Thiền sư Đạo Ưng ở Vân Cư tuy ở trong chúng nhưng ngài cất thảo am. Thiền sư Động Sơn hỏi:
- Sao tới giờ cơm không lên ăn?
- Bạch Hòa thượng! Trưa có chư thiên đến cúng dường con.
Như mình mà được chư thiên cúng dường là mình mừng rồi.
Thiền sư Động Sơn nói:
- Ta bảo ngươi vẫn còn kiến giải. Ngươi rảnh chiều đến.
Chiều Thiền sư Đạo Ưng đến, Thiền sư Động Sơn nhìn thẳng vào mặt nói:
- Ưng ông chủ, không nghĩ thiện, không nghĩ ác là cái gì?
Thiền sư Đạo Ưng về ngồi thiền đến sáng thiên thần không thấy được.
Nghe như thế bữa nào quý thầy khai thị huynh đệ cũng không ngộ, tại sao Thiền sư Động Sơn tác động đến ngài ngộ? Người ngộ đạo có năng lực rất lớn, các ngài phủ làn sóng vào tâm thức của mình tự nhiên mình rung động, lúc này thiện ác bặt hết, thiện ác bặt hết thì quỷ thần không thấy.
Khi nào đủ duyên quý thầy vào thất tu thanh tịnh, bữa nào thèm bún thì quả tình thầy tri khố làm món bún. Vài hôm lại thèm cơm tấm, tự nhiên thầy tri khố làm cơm tấm. Nhiều người kể như vậy. Tôi kể câu chuyện có thật, ngày xưa ở Thường Chiếu có một thầy lớn tuổi xuất gia, một thời gian thầy nhập thất. Đang nhập thất một hôm thầy thấy một cô chừng hơn hai mươi tuổi đi ngang qua, thầy kể thầy khởi niệm thích cô đó. Chiều lại chính cô đó đến trước cửa thất của thầy ngoắc thầy ra. Hoảng hồn, thầy vô thất khóa cửa lại.
Vừa khởi niệm lên là ma nó thấy liền. Hồi hôm quý thầy nghe Hòa thượng giảng đến phần tham vấn, Hòa thượng nói ma vương quyến rũ mình thiệt ra là nội ma bên trong. Có nghĩa là tư tưởng mình dấy niệm thế nào ma nó thấy. Ma họ cũng có thần thông, có phước lực, thèm cái gì ma lấy cái đó để dụ mình. Có người vào thất thích cái máy nghe, khởi niệm liên tục tự nhiên có người cúng cái máy. Quý thầy mới tu thật ra chỉ là ma vong nó thử mình, người sắp bước vào Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì lúc này ma vương mới xuống thử.
Cho nên Tổ nói gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma, quét sạch hết không còn tư tưởng tạp niệm nào nữa thì được, còn tư tưởng tạp niệm là bị hết.
Có một vị Tăng hỏi Thiền sư Tử Thuần ở Đơn Hà:
- Ngưu Đầu khi chưa thấy Tứ Tổ thì thế nào?
Sư đáp:
- Cúc vàng vừa nở ong đua hút.
Bông hoa cúc vừa nở thì ong đua nhau hút, có nghĩa là quý thầy mới vào chùa chưa có năng lực, chưa có tiếng tăm gì thì ong không hút. Nhưng quý thầy tu mười năm, hai chục năm, có tiếng tăm, đạo đức, có mô phạm, oai nghi phép tắc đi ra mặt mày hồng hào rồi thì ong nó đến hút. Tư tưởng mình dấy niệm thèm cái gì là nó hút hết.
- Rồi sau khi gặp Tứ Tổ thì thế nào?
Sư đáp:
- Mầm khô hoa rụng rõ không nương.
Đến chỗ này rồi thì khô héo, rơi rụng hết, không chỗ nào nương, không chỗ nào gá được. Đến giai đoạn này rồi thì trong Tăng đường xem kinh phải im lặng mà biết, tâm chẳng tán loạn thì đúng, tức là tự mình khán nghiệm, tự mình tu tập. Tu một thời gian quý thầy sẽ thấy, chẳng hạn tu ba, bốn năm thì mình còn hăng lắm, nhưng đến năm thứ sáu, thứ bảy tự nhiên hết hăng. Tại sao? Bản thân chúng tôi kinh nghiệm, bởi vì cái học, cái hiểu của mình thì ở trên trời mà hành động của mình thì ở dưới đất. Nói khác hơn, cái hiểu của mình rất là tột nhưng mà những nghịch duyên, nghịch cảnh đến mình giải quyết nó lại khác. Rồi chướng duyên, chướng nạn cũng nhiều hơn, cho nên bây giờ cố gắng làm công đức, phước thiện rồi tu tập chớ không dám nói nữa.
“Nếu đọc tụng ra tiếng thì nghĩa kinh không tự tư duy. Vậy nên phải lắng tâm im lặng mà thể hội.”
Tổ dạy tiếp, xem kinh phải lắng thần tư duy. Giống như vua Trần Thái Tông, xem kinh Kim Cang đến đoạn: Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ngài ngẫm đi ngẫm lại rồi tư duy, buông quyển kinh xuống ngài ngộ.
Vào đời nhà Tống có một vị Thiền sư xem kinh Hoa Nghiêm, đến đoạn Hoa tạng pháp giới ngài nhập định bảy ngày bảy đêm, thể nhập pháp hội và chứng kiến được Đức Phật Thế Tôn đang thuyết giảng kinh Hoa Nghiêm. Thì do tinh thần tư duy lắng tâm để lãnh hội.
“Thứ nhất nghĩa kinh từ đây mà thấu suốt, thứ hai là trí huệ từ đây mà phát sanh, nên chẳng được ra tiếng.”
Tổ dạy tiếp, lắng tâm xem kinh không đọc ra tiếng được hai công đức lớn là thấu suốt nghĩa kinh và phát sanh trí huệ.
“Phàm học kinh, xem giáo lý mỗi câu đều phải uyển chuyển soi về nơi chính mình. Tất cả ngôn giáo chỉ làm sáng tỏ tánh giác hiện nay của chính mình.”
Tổ Bá Trượng dạy mình xem kinh, xem giáo lý Đại thừa mỗi câu, mỗi chữ phải uyển chuyển soi về nơi chính mình chớ không ở đâu khác hết. Như trong kinh Pháp Hoa nói về Bồ-tát Văn-thù xuống Long cung giáo hóa gặp đệ tử là Long Nữ, mình nghe mình tưởng tượng có một vị Bồ-tát thật đi giáo hóa. Như vậy gọi là y kinh giải nghĩa thì Tam thế Phật oan, tức là mình y chỗ này giải ra có Bồ-tát Văn Thù xuống Long cung giáo hóa. Mà lìa kinh một chữ thì đồng với ma, như vậy ở đây mình hiểu thế nào?
Kinh Pháp Hoa tiêu biểu cho tri kiến Phật, Bồ-tát Văn-thù tiêu biểu cho căn bản trí, mà căn bản trí từ đâu có? Chẳng hạn bây giờ quý thầy muốn tìm được tri kiến Phật, là căn bản trí, là thật trí của mình hay nói khác hơn là Phật tâm, Phật tánh, vậy tìm ở đâu? Phải tìm trong biển không? Biển gì?
Ái hà thiên xích lãng,
Khổ hải vạn trùng ba.
Tức là:
Sông ái ngàn thước sóng,
Biển khổ muôn sóng ngàn.
Biển là biển tham ái, biển vô minh, biển tật đố. Chỉ cần chuyển thì tức khắc Long nữ hiện lên, hiểu được thì đúng kinh Đại thừa. Ở đây nói Bồ-tát Văn-thù xuống Long cung là lặn sâu vào trong từng tâm thức của vọng niệm thì thấy được tri kiến. Mà tìm ở đâu? Ngay vọng tức chơn là theo tinh thần của thiền.
“Nghe đánh bảng hai, mau phải sớm tới nhà giảng đường. Lúc về đơn thầm tưởng bài kệ:
Thẳng mình ngồi vững,
Cầu cho chúng sanh,
Ngồi tòa Bồ-đề,
Tâm không đắm nhiễm.”
Trong Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên Luật Sư ghi:
“Tòa Bồ-đề tức là cái tòa tự giác bổn hữu không vương, tòa này người người đều vốn đủ.”
Có nghĩa là tòa Bồ-đề này mọi người đều có.
Cho nên Đại sư Liên Trì dạy:
Phật ở Linh Sơn chớ cầu xa,
Linh Sơn vốn tại ở tâm ta,
Người người có tòa Linh Sơn báu,
Hướng vào tâm tu sẽ tiến xa.
Linh Sơn ở nơi tâm mình, mình ráng tu tập, ráng chuyển hóa thì sẽ thấy.
Thiền sư Lâm Tế dạy:
“Này các ông! Có một bọn trọc liền hướng trong đó gắng công định cầu pháp xuất thế. Lầm rồi! Nếu người cầu Phật thì người ấy mất Phật, nếu người cầu đạo thì người ấy mất đạo, nếu người cầu Tổ thì người ấy mất Tổ. Đại đức chớ lầm, ta chẳng cần ông thông hiểu kinh luận, ta cũng chẳng cần ông quan quyền chức tước, ta cũng chẳng cần ông biện luận như thác đổ, ta cũng chẳng cần ông thông minh trí huệ.”
Ở đây Tổ dạy thêm, sau khi về đơn thầm tưởng bài kệ thẳng mình ngồi vững, rồi cầu cho chúng sanh ngồi tòa Bồ-đề, tâm không đắm nhiễm, thì tự nhiên mình hình dung ra một cái gì đó để mong cầu, chẳng hạn cầu làm Phật, cầu làm Tổ, cầu được đạo. Hễ mong cầu là mất. Tổ cũng dạy chẳng cần mình thông hiểu kinh luận, quan quyền chức tước hay biện luận như thác đổ mà chỉ cần thấy biết chơn chánh.
“Này các ông! Dù hiểu được một trăm bổn kinh luận cũng chẳng bằng một ông thầy vô sự. Ông hiểu được liền khinh thường người khác, hơn thua như A-tu-la, vô minh nhân ngã tăng thêm nghiệp đọa địa ngục.”
Mình thông minh, hiểu kinh điển nhiều Tổ cũng không cần. Tổ nói hiểu nhiều thì mình khinh thường người khác rồi hơn thua như A-tu-la, vô minh nhân ngã, tăng thêm nghiệp địa ngục chứ đâu có lợi ích gì. Tự biết, tự tu, Tổ chỉ cần mình thấy biết chơn chánh. Một người hiểu sâu Phật pháp thì tự nhiên họ ứng tác ra hành động phổ vào cuộc sống hàng ngày, nhìn là biết người đó hiểu Phật pháp.
“Chẳng được đi ngang qua nhà thiền. Lên đơn xuống đơn đều phải tế hạnh chớ để người gần đơn động niệm. Chẳng được trên đơn viết chép văn tự trừ khi đại chúng xem kinh luật. Chẳng được trên đơn xúm nhau bày tiệc trà đêm ngồi nói bậy.”
Học oai nghi mình thấy toàn là bệnh của mình. Trong luật có ghi không được đi ngang thiền đường bởi vì có khi mình mang những đồ nhơ uế cho nên phải đi đằng sau. Lên xuống đơn phải tế hạnh, nhiều khi mình không chánh niệm tỉnh giác mình giở đơn kêu rầm rầm làm người gần đơn mất chánh niệm sanh phiền não.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Trên đơn xúm nhau bày tiệc trà đêm ngồi nói bậy có ba lỗi:
1- Động tâm niệm người khác.
2- Tán tâm mình.
3- Phạm phi thời.
Dầu có uống thuốc phi thời cũng chẳng đêm ngồi mà nói bậy, huống nữa việc chính mình chưa biện rõ, đâu được nói chuyện rỗng vô ích.”
“Chẳng được trên đơn may vá áo quần. Chẳng được nằm ngủ cùng người gần đơn nói chuyện động chúng.”
Kinh Thập Giới nói:
“Ăn thời không nói, nằm thời không luận, ngồi thời thiền định, dậy thời tụng kinh. Giới hạnh như đây mới thật là đệ tử của Phật.”
Ngoài bốn cái này là đệ tử của ma. Nếu vừa ăn vừa nói, nằm cũng luận bàn, ngồi thì không thiền định, đứng dậy không chịu tụng kinh thì khi chết mình sẽ vào cảnh giới của ma, không phải ma vương mà là ma nữ, hoặc là ma vong.
Thiền sư Trung Phong khai thị chúng:
“Phàm cử chỉ động tịnh phải có oai nghi, mỗi mỗi phải tuân theo. Chớ nói ta là người hành đạo đại ngộ chẳng chấp tiểu tiết, ngặt vì ông chưa có ngộ.”
Ngặt vì ông chưa ngộ nên phải cần học oai nghi.
“Đâu thể nói chẳng tuân theo qui củ. Bởi do cái chánh niệm về đạo chẳng thiết tha, vì thế cử chỉ không đàng hoàng cho đến phá phạm luật nghi, tự mất chánh nhơn, bị người khác khinh mạn.”
Các vị Thiền sư không chỉ đánh, hét để khai thị, mà các ngài còn dạy mình oai nghi phép tắc.
Đâu thể nói chẳng tuân theo qui củ. Phải tuân theo qui củ, không phải quý thầy muốn cười giỡn, ăn uống sao cũng được. Bởi do gì? Bởi do cái chánh niệm về đạo chẳng thiết tha, có nghĩa là đối với đạo mình không thiết tha như thuở ban đầu nữa.
Hôm trước chúng tôi họp cư sĩ lại chúng tôi nói thẳng, Hòa thượng không mời các vị đến đây tu, Thầy Trụ trì cũng không mời, cha mẹ cũng không kêu mình đi tu, một số cha mẹ còn khóc lóc không cho. Nếu trong giờ phút này mà người nào cảm thấy làm không muốn làm, học không muốn học, tu cũng không muốn tu, có nghĩa là bốn thời ăn, mặc, ngủ, nghỉ đều trái qui củ; không có tiền tôi sẵn sàng cho tiền về chớ ở đây không ép, quý vị phải suy nghĩ cho kỹ.
Tất cả mọi người chúng ta ai cũng có những hạt giống xấu ác. Có những người lúc còn cư sĩ rất tốt, vào tu một, hai năm tự nhiên nhân quả, nghiệp báo ngày xưa mình tạo bây giờ sống dậy. Nếu chúng ta biết cách chuyển hóa, thu thúc sáu căn, rồi tu tập oai nghi phép tắc thì chuyển thành con người tốt, không thì bị sa lầy.
Vì thế cử chỉ không đàng hoàng cho đến phá phạm luật nghi, tự mất chánh nhơn, bị người khác khinh mạn. Có nghĩa là cái ban đầu quý thầy phát tâm xuất gia là việc chơn chánh mà mười phương chư Phật đều tán thán. Trong kinh diễn tả, người chuẩn bị cạo tóc là tam thiên, đại thiên thế giới chấn động. Bây giờ tự mất chánh nhơn, tức là bỏ cái nguyện ban đầu của mình chạy theo việc phá phạm luật nghi của nhà Phật, bị người khác khinh mạn.
Các bài mới
- Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức ( Phần 9): Vào chùa am - 13/01/2018
- Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức ( Phần 8): Tập học Kinh điển - 12/01/2018
- Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức (Phần 7): Thính pháp - 11/01/2018
- Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức (Phần 6): Phép Lễ Bái - 08/01/2018
- Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức ( Phần 5): Tùy chúng thực - 27/12/2017
Các bài đã đăng
- Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức ( Phần 4): Nhập chúng - 23/12/2017
- Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức (Phần 3): Theo Thầy ra đi - 23/12/2017
- Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức ( Phần 2): Phép thờ Thầy - 19/12/2017
- Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức (Phần 1): Kính Bậc Đại Sa môn - 15/12/2017
- Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức: Dẫn nhâp - 11/12/2017
Kinh - Luật - Luận
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 04940
- Online: 9