Oai nghi - Con đường của sự tỉnh thức ( Phần 2): Phép thờ Thầy

19/12/2017 | Lượt xem: 6355

ĐĐ.Thích Khế Định giảng tại TVTL Phụng Hoàng - Đà Lạt

2. Phép Thờ Thầy

Thờ thầy thì phải làm gì? Phải dậy sớm.

Thiền sư Đạo Giản núi Vân Cư ở Nam Khang, triều Tống, ban đầu tham kiến Thiền sư Đạo Ưng. Đạo Ưng đàm thoại với ngài ba ngày đã tán thán căn khí của ngài, bảo ngài nên khắc khổ nhẫn nại phục vụ đại chúng. Từ đó ngài gánh nước, bửa củi, giã gạo, nấu cơm, lo liệu các việc trong chùa mà trong chúng không ai hay biết.

Phép thờ thầy, trong đây ngầm ý sâu nữa là phép thờ đại chúng luôn. Ngài làm hết tất cả các hạnh, cả những lúc tham thiền luận đạo, bàn luận cổ kim, mọi người vẫn không ai biết ngài là một vị tăng tài kiệt xuất ẩn giấu trong tùng lâm. Ngài hầu hạ thầy rất cung kính.

“Muốn vào cửa, trước phải khảy móng tay ba lần. Bằng có lỗi, Thầy Hòa thượng, Thầy A-xà-lê dạy răn đó chẳng được nói trả lại.”

Sa Di Học Xứ ghi:

“Người học có thầy cũng như cây mà có gốc.”

Chẳng hạn, quý thầy ra làm Phật sự, Phật tử hỏi: Hồi xưa thầy xuất gia ở đâu? Quý thầy nói tôi không xuất gia ở đâu hết! Như vậy là Sa-môn gì? Gọi là cư sĩ trọc hay cư sĩ chim chuột, nghĩa là hễ thấy chim thì xòe, gặp chuột thì úp cánh lại. Gọi ông thầy chim chuột là không có gốc, có ngọn gì hết.

Chỗ mình có vị Hòa thượng đàng đầu, ngài có năng lực lớn, có tâm hạnh Bồ-tát lớn. Ai hỏi mình xuất gia ở đâu, mình nói: Tôi xuất gia ở Trúc Lâm, thọ pháp với Hòa thượng. Lời mình nói người ta tin chừng hai mươi phần trăm thôi, nhưng nhờ ở với thầy, mà thầy mình có năng lực lớn thì người ta tin thêm tám mươi phần trăm nữa là đủ, mình nói người ta nghe. Chúng tôi làm Phật sự nên biết, có những người học có bằng cấp, nói rất hay nhưng hỏi ra không biết nguồn gốc ở đâu thì người ta cũng không tin nhiều.

Người học có thầy cũng như cây có gốc. Chẳng hạn như Hòa thượng truyền xuống Thầy Trụ trì, Thầy Trụ trì truyền xuống cho quý thầy, quý thầy truyền xuống cho đệ tử, đâu đó có lớp có lang, có tổ có tông. Có ai hỏi:

- Thầy xuất gia ở đâu?

Đáp:

- Tôi xuất gia ở... với Thầy...

- Ờ, Thầy đó giỏi, răn dạy đệ tử rất kỹ, thầy ở đó rất là có phước.

“Song đại trí đã thành lại hay thành tựu tiểu trí, giống như cội cây sanh con, con lại sanh cội cây, chuyển chuyển cùng nhau mà sanh, chủng loại chẳng mất. Nên Tác Trì nói: Thầy dùng mở đường trở lại để mài giũa, pháp khí thế gian và xuất thế gian hoàn toàn trở lại nhờ Thầy, nên phải kính trọng.”

Nhờ Thầy, mình mới được thành tựu nên phải kính trọng thầy. Người xưa hay nói: Nhứt tự chi sư, bán tự chi sư. Một chữ là thầy mà nửa chữ cũng là thầy. Hay nói: Nhứt nhựt vi sư, chung thân vi phụ. Một ngày làm thầy thôi là trọn đời mình xem như cha mẹ vậy. Phải kính trọng Thầy như vậy mới đúng, mới không tổn phước. Bị thầy rầy mà trợn mắt lên hay là nói xấu, nói lỗi của Thầy là trật.

Kinh A Nan Vấn Sự Phật Kiết Hung có nói:

“Chẳng nên có ác ý với thầy. Phật bảo: Này A-nan! Phàm làm người phải nên yêu thích đức độ của người khác, vui mừng điều lành của người khác, chẳng nên ganh tị.”

Chẳng hạn, Phật tử thỉnh quý thầy nói một bài pháp thoại. Lựa huynh đệ trong chúng không ai nói pháp được, hoặc quý thầy cử ra ai đó mà nói không trúng đường nào hết thì có phải Phật tử khinh dễ mình không? Còn nếu cử vị thầy nào mà họ nói đúng, có bài bản, lớp lang, khai thị cho người ta ngộ nhập được bài pháp thì cũng hãnh diện. Đối với người có đạo đức, có năng lực mà mình ganh tị là trật. Đây mới nói đạo làm người chứ chưa đến bậc Hiền, bậc Thánh. Mà tu là tu đến con đường Hiền, đến con đường Thánh. Cho nên, thấy trong chúng người nào có năng lực, diệu lực, có sức sống mà nói về thiền thì quý thầy phải hoan hỉ. Như vậy bản thân mình tạo phước điền lớn lắm.

“Có ác ý đối với thầy, với người có đạo đức chẳng khác nào có ác ý đối với Phật.”

Ganh tị với người có đạo đức thì cũng giống như ganh tị với Phật. Chiều nào quý thầy cũng lên sám hối, lạy Phật. Lạy thì lạy mà ganh tị không bỏ cũng như không.

“Hãy thử lấy muôn hòn đá lắp vào nỏ bắn vào thân xem có đau không? Ngài A-nan đáp: Bạch Đức Thế Tôn, rất đau. Người mang ác ý đối với người có đạo đức, đối với Thầy của mình đau đớn kịch liệt như bị nỏ bắn vào thân.”

Phật đưa ví dụ nỏ bắn vào thân thì rất đau. Ganh tị với người có đạo đức, có ác ý với thầy thì cũng đau như vậy. Bây giờ, có những người ở với thầy lại đi ra nói xấu thầy. Phật nói những người này không có đạo đức.

“Phận làm đệ tử chẳng nên khinh mạn Thầy mình, chẳng nên có ác ý với người có đạo đức. Phải xem người có đạo đức như Phật, chẳng nên ganh ghét và chê bai.”

Kinh Trường A Hàm ghi:

“Đệ tử kính thờ sư trưởng có năm điều:

1- Hầu hạ cung cấp đồ cần dùng.

Thầy cần gì, mình cung cấp cho đầy đủ. Nhiều khi thầy bệnh cần dùng món gì đó, mình nói: Thầy tu mà không khổ hạnh gì hết. Chẳng hạn bắt ăn muối không hay ăn xì dầu không, thì không được. Phải hầu hạ và cung cấp đồ cần dùng trong tinh thần lục hòa, gọi là “Lợi hòa đồng quân.” Nhưng nên nhớ, lợi hòa đồng quân trên tinh thần của lý nhân quả. Chẳng hạn, mình mới xuất gia, phước đức chưa có, năng lực, công đức cũng không . Lại chưa dìu dắt người nào hết thì cái mùng hay cái mền mình dùng hơi cũ một chút cũng được. Bắt buộc phải lợi hòa đồng quân giống như Thầy Trụ trì thì không ổn. Các ngài tu nhiều năm, dìu dắt không biết bao nhiêu người mà phải đồng như mình là trật rất xa.

Quý thầy có túc duyên, vừa thọ giới xong được học luật, học oai nghi liền nên tránh được những lỗi lớn. Nhiều vị lớn tuổi không chịu học, vào tu là thọ giới liền, không biết luật, không biết cái gì hết rất dễ bị sa đọa trong ba đường ác.

2- Lễ kính cúng dường.

3- Tôn trọng và chiêm ngưỡng.

4- Thầy có dạy bảo điều gì, kính thuận chẳng có trái.

Chẳng hạn mình không có năng lực làm tri khố, thầy bảo làm tri khố, nếu trái lời thầy dạy thì mất phép oai nghi và phạm luật. Ngày xưa, Thầy chúng tôi mới có ba mươi mấy tuổi mà Hòa thượng cắt làm trụ trì ở Thiền viện Thường Chiếu là phải kính thuận, vâng lời làm tới bây giờ luôn. Cô Như Đức cũng vậy, mới hai mươi mấy tuổi bảo làm trụ trì Thiền viện Viên Chiếu là phải làm, không dám trái, không dám cãi. Hòa thượng cắt chúng tôi làm Phật sự tại nước ngoài, biết mình chưa đủ năng lực mà Hòa thượng cắt nên phải đi. Làm không được rồi về thì không có tội. Còn cãi lại nhất định không đi thì lại khác.

Hòa thượng Hư Vân đến tùng lâm chùa Cao Mân, chùa cắt ngài làm tri sự, ngài không làm bị đánh tám chục hèo chảy máu miệng. Sau biết ngài bệnh nên tha không đánh nữa. Pháp tùng lâm mạnh lắm, chỉ xuống là phải làm liền. Không làm không được, tác pháp Yết-ma cử tội. Pháp tùng lâm bây giờ hơi dễ. Hồi xưa trong tùng lâm có bốn vị trưởng lão, dưới có bảy vị nữa. Năng lực đại chúng rất lớn, cắt cử mà không làm là tác pháp Yết-ma cử tội. Khó lắm chứ không phải dễ.

5- Theo Thầy nghe pháp ghi nhớ chẳng quên.

Này Thiện Sanh! Phận làm đệ tử phải thực hiện năm pháp này, phải kính thờ Sư trưởng thì Sư trưởng mới được an ổn.”

Chẳng hạn Thầy Trụ trì bị bệnh, Thầy cử người làm tri khố, tri khách hay thư ký… mà không ai chịu làm thì Thầy có an ổn được không? Còn nếu có người hy sinh chịu làm thì sư trưởng mới được an ổn, tự tại.

“Kính thờ sư trưởng thì sư trưởng được an ổn. Sư trưởng cũng phải thực hiện năm điều để chăm nom đệ tử:

1- Theo pháp mà điều phục, chế ngự.

Theo pháp mà điều phục, chế ngự là phải có thầy. Chiều lại mà thấy Thầy Trụ trì đi tăng đường, nhà bếp, đó là đi tuần liêu để kiểm soát chúng, là dùng pháp điều phục, chế ngự. Muốn làm cái gì đó mà nhìn thấy hình dáng sư trưởng là mình sợ. Đó là pháp điều phục từ năng lực của thầy.

2- Dạy điều đệ tử chưa biết.

Quý thầy nhỏ phải tu, phải học, phải có kinh nghiệm trong pháp hành, mai kia làm thầy mới dạy đệ tử được. Nhận đệ tử cho đông mà đệ tử hỏi mình không biết gì hết. Chẳng hạn hỏi:

- Thế nào là Phật?

- Mày nhỏ mày biết gì mà Phật, Phật! Đi!

Hoặc hỏi:

- Bạch thầy! Tại sao Tổ xách một chiếc dép?

- Mày biết cái gì? Tổ gì? Một chiếc dép gì? Còn một chiếc ổng bỏ túi đó!

Đại khái vậy. Có người kể tôi nghe những trường hợp như vậy. Đệ tử hỏi mà ông thầy không biết gì hết. Không học, không biết làm sao chỉ dạy.

3-Tùy theo chỗ hỏi mà khéo giải nghĩa.

4- Chỉ cho bạn lành.

Thầy nhìn, biết người nào đệ tử không nên thân cận. Chỉ cho đệ tử biết bạn lành có học, có tu, nên đi theo để học hỏi.

5- Dạy hết những điều mình biết không chút xan tiếc.

Biết tới đâu dạy hết tới đó.

Này Thiện Sanh! Sư trưởng đối với đệ tử như thế thì đệ tử mới được an ổn, không có lo sợ.”

Kinh Tạp A Hàm ghi:

Phật trụ ở thành Vương Xá trong vườn trúc của ông Ca-lan-đà. Lúc bấy giờ có người chủ tụ lạc chuyên môn tập ngựa đến chỗ Phật cung kính thăm hỏi, lui qua ngồi một phía. Phật hỏi ông chủ rằng:

- Có bao nhiêu phương pháp điều phục ngựa?

Bạch Cù Đàm! Có ba phương pháp: thứ nhất là dịu dàng, thứ hai là cứng rắn, thứ ba là vừa dịu dàng vừa cứng rắn.

Phật nói:

- Nếu áp dụng ba phương pháp này mà ngựa chẳng chịu khuất phục thì làm sao?

Người chủ ngựa nói:

- Giết nó đi.

Ông chủ này cũng lại hỏi Phật:

- Bạch Cù Đàm! Trong pháp của Phật dùng bao nhiêu pháp để điều phục?

Phật cũng nói:

- Ta cũng có ba phương pháp: thứ nhất là dịu dàng, thứ hai là cứng rắn, thứ ba là vừa dịu dàng vừa cứng rắn.

Ông chủ ngựa nói:

- Nếu dùng ba phương pháp này điều phục chúng sanh không được thì sao?

- Đem đi giết!

Ông chủ tụ lạc giật mình liền nói:

- Trong pháp của Cù Đàm chẳng cho sát sanh, sát sanh là bất tịnh, sao ngài lại nói không điều phục được thì giết đi?

Phật nói:

- Đúng như lời ông nói, trong pháp Như Lai sát sanh là bất tịnh, Như Lai chẳng nên sát sanh. Này chủ tụ lạc! Nhưng ta dùng ba pháp điều ngự trượng phu mà họ chẳng điều phục thì chẳng cùng họ nói chuyện, chẳng còn dạy bảo họ, chẳng răn nhắc họ nữa, không phải giết là gì?

Ở trong chúng thầy dịu dàng dạy bảo: “Con đừng đi chơi game nữa nha, ráng tu, ráng ngồi thiền, tụng kinh.” Không nghe, thầy cứng rắn: “Kỳ này không nghe là thầy đem ra nhà khách đó.” Mình sợ, mình tu khá khá chừng một tháng rồi xuống trở lại. Thầy thấy dạy không nghe nên bỏ không dạy nữa, muốn làm gì thì làm, như vậy cũng giống như giết mình rồi; đại chúng gặp mình bỏ đi chỗ khác không nói chuyện. Ở trong chúng mà bị Thầy Tổ, bạn bè bỏ rơi thì rất đau khổ.

Kinh Pháp Cú nói:

“Người thực hành lễ phép thường kính bậc trưởng lão, bốn phước tự nhiên tăng: đẹp, mạnh, thọ và an.”

Quý thầy mà thực hành lễ phép, kính dường bậc sư trưởng, kính dường Hòa thượng, Thầy Trụ trì, những bậc thầy lớn, đừng nói xấu gì hết thì bốn phước tự nhiên tăng trưởng hồi nào không hay.

Thứ nhất là đẹp: Quý thầy kính dường Hòa thượng, các bậc Thầy lớn, đừng nói xấu gì hết, lâu ngày con người mình trở nên thanh thoát, thoát tục, người ta nhìn thấy khác liền.

Thứ hai là mạnh: Mạnh ở đây không phải sức mạnh thân thể mà có sức mạnh về năng lực tiềm tàng bên trong.

Thứ ba là thọ.

- Thứ tư là an ổn.

Phật kể câu chuyện đầu rắn và đuôi rắn:

Trong khu rừng nọ có một con rắn đang bò. Đuôi rắn suy nghĩ rồi nói với đầu rắn:

- Bữa nay anh phải cho tôi đi trước dẫn đường, lâu nay anh toàn đi trước.

Đầu rắn nói:

- Tôi phải đi trước. Anh không có mắt, có mũi, làm sao anh đi trước được.

Đuôi rắn không chịu bèn quấn vô gốc cây. Cái đầu không đi được, không đi được thì đói, đành phải nhường cho cái đuôi đi trước. Cái đuôi không thấy đường bò nên toàn thân rắn rớt xuống hố chết.

Phật nói mình cũng giống như vậy. Mình tưởng mình hay hơn thầy, nhưng lọt hầm lọt hố chết hồi nào không biết. Nhà thiền phân tích rất sâu: trong thế giới đang bình ổn, thanh tịnh, mình khởi niệm đây là đầu rắn, đây là đuôi rắn. Cũng như đang tu học an ổn, bình yên, tự nhiên mình khởi niệm: Thầy này không đủ năng lực dạy dỗ mình nữa, thôi mình đi cất cốc, hoặc đi tu học ở đâu đó. Chưa đủ năng lực, chưa đủ phước đức là rớt, phạm giới ra đời hoàn tục. Có rất nhiều người bị như thế. Chính điểm đó giống câu chuyện đầu rắn và đuôi rắn.

Phật dạy:

“Đệ tử cũng vậy, nói Thầy già cả thường ở trước, tôi là người trẻ tuổi phải nên dẫn đầu. Người tuổi trẻ giới luật còn sơ sài, còn phạm nhiều lỗi, do đó kéo dắt nhau vào địa ngục.”

Trong kinh Bách Dụ Phật kể rất rõ. Đệ tử thấy thầy đã già, nghĩ mình phải dẫn đầu mới được: Thầy già rồi thầy nghỉ đi, chuyện này phải tôi làm mới được. Nhưng Phật nói người trẻ tuổi thì giới luật còn sơ sài và rất dễ phạm, phải nhờ rất nhiều vào kinh nghiệm của thầy. Tu một năm thì có kinh nghiệm một năm, tu hai năm có kinh nghiệm hai năm. Cho nên người càng nhiều tuổi đạo thì càng có nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên, có kinh nghiệm mà phải có tu, có học nữa.

Sa Di Học Xứ ghi:

“Vả lại còn có tâm kiêu mạn thì một đời phước huệ tiêu diệt.”

Chẳng hạn mình có tâm ngã mạn, mình nghĩ: Thầy này không có bằng cấp, không có học lực như mình. Khởi tâm kiêu mạn thì một đời phước huệ tiêu hết. Phước và huệ không còn thì kiếp sau không gặp Phật pháp, không gặp thầy nữa. Cho nên phải răn nhắc như vầy:

“Như Thường Đề bán tim gan mà học Bát-nhã. Thế Tôn vì cầu nửa bài kệ mà buông xả toàn thân.”

Bồ-tát Thường Đề, tiếng phạn gọi là Bồ-đà Ba-lô, vì cầu đại pháp Bát-nhã nên khóc lóc suốt bảy ngày bảy đêm. Chư thiên hiện thân xuống hỏi Bồ-tát cần cầu cái gì. Bồ-tát nói muốn bán tim gan để cần cầu học Bát-nhã.

Cho nên phải xả thân cầu pháp. Ý nghĩa sâu trong nhà thiền: Bồ-tát Thường Đề bán thân, bán tim gan, nghĩa là không còn chấp ngã thì mới học Bát-nhã được. Đến với thầy, mình phải kính trọng và buông cái ngã, còn ngã mạn cống cao thì không được.

Đức Phật khi còn làm Bồ-tát, vì cầu có hai câu kệ mà phải hy sinh thân. Lúc đó Bồ-tát ở trong một hang động trên núi, trời Đế Thích thấy cái ghế nóng lên, biết ngài phát nguyện lực lớn nên hiện ra thân hình quỷ dạ-xoa và đọc hai câu kệ:

Chư hành vô thường

Thị sanh diệt pháp.

Các hành là vô thường, là pháp sanh diệt, mọi pháp hữu vi đều sanh diệt. Bồ-tát ngồi trong động nghe thấy hay quá nên đi ra xem, gặp quỷ dạ-xoa ngài hỏi:

- Bài kệ vừa rồi có phải ngài đọc không?

Quỷ dạ-xoa nói:

- Phải, chính tôi.

Ngài nói:

- Bài kệ hay quá. Nhưng một bài kệ phải có bốn câu, xin ngài đọc tiếp hai câu sau, tôi sẽ cảm tạ.

Quỷ dạ-xoa nói:

- Tôi bị đói mấy ngày, bây giờ không có hơi để đọc.

Ngài hỏi:

- Ông ăn thức ăn gì?

- Ăn máu tươi, thịt sống. Nếu ông có thể hy sinh cho tôi ăn thì tôi đọc cho ông nghe.

Ngài nghĩ nếu hy sinh cho quỷ ăn thì làm sao nghe, nên nghĩ ra một cách và nói với quỷ dạ-xoa:

- Tôi sẽ lên tảng đá cao trên kia, ông ở dưới này viết trên đá hai câu kệ cuối. Tôi ở trên cao buông thân xuống. Như vậy ông được ăn, còn tôi cũng được đọc hai câu kệ.

Ý nghĩa ở đây là phải buông xả chấp ngã, không còn tâm kiêu mạn nữa thì mới học Phật pháp được. Hai câu kệ sau là:

Sanh diệt diệt dĩ,

Tịch diệt vi lạc.

Nghĩa là sanh diệt mà dứt hết rồi thì tịch diệt, lặng lẽ là vui nhất.

Kinh Hoa Nghiêm nói:

“Phàm phu vô trí chấp trước nơi ngã, lại chấp ngã kiến, kiêu mạn cống cao, chẳng hổ thẹn không trí, vọng tưởng tự tôn tự đại.”

Có nghĩa là mình vọng tưởng mình hơn thầy chứ thiệt ra mình không hơn. Trang Tử nói: Không thể nói về biển với ếch nằm ở đáy giếng. Nhiều khi mình tự tôn tự đại, tự cho mình là hơn chứ thiệt ra mình giống như ếch nằm đáy giếng vậy. Tu một thời gian mình sẽ thấy Thầy hơn mình mọi mặt. Đức hạnh, giới pháp, giới phẩm Thầy đều hơn mình. Không thể nói về tuyết với ve sầu. Ve sầu đến mùa đông là chết hết. Không thể nói về đạo với kẻ hẹp hòi, chấp ngã.Những người cống cao ngã mạn không thể tiếp thu và thâm nhập được đạo lý vô thượng.

“Thấy thiện chẳng theo, che đậy răn nhắc, đối với bậc Hiền chẳng thân nên trái đạo rất xa. Luật nói: Đệ tử theo Hòa thượng phải đủ bốn tâm: thứ nhất là thân ái, thứ hai là kính thuận, thứ ba là sợ khó gặp, thứ bốn là tôn trọng.”

- Thứ nhất là thân ái.

Thứ hai là kính thuận.

Thứ ba là sợ khó gặp.

Kiếp này nếu mình không tu, xuất chúng rời tùng lâm thì làm sao gặp. Không gặp kiếp này, kiếp sau làm sao gặp. Hôm nay quý thầy được túc duyên gặp Hòa thượng, gặp bậc tôn trưởng thì phải tôn trọng, hầu hạ, cung dưỡng như việc quân thần, phụ tử. Nhà nho nói: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” Vua kêu chết cũng phải chết. Ngày xưa vua đã vậy, huống chi bậc tôn trưởng là bậc xuất thế gian, mình mà cãi thì bị tổn phước. Phép thờ thầy rất khó, chẳng hạn thầy bảo mai đi nhận chùa là mình phải đi. Hoặc không biết làm thư ký, bảo ra làm thư ký cũng phải làm, làm không được tính sau. Như vậy thì đúng pháp tùng lâm, đúng phép thờ thầy.

Mạc Đĩnh Chi được cử đi sứ sang Trung Quốc vào đời nhà Nguyên. Vua Nguyên ra câu đố, nếu trả lời được mới cho về nước: “Thuyền chìm, trên thuyền có ba người: vua, cha và thầy. Trong ba người này cứu ai trước?” Nếu cứu vua thì bất hiếu với cha và bất nghĩa với thầy. Cứu thầy thì bất trung với vua và bất hiếu với cha. Cứu cha thì bất trung và bất nghĩa. Mạc Đĩnh Chi trả lời: “Khi bơi ra sông, thấy người nào trước thì cứu người đó trước.”

Đây là trong tinh thần quyền biến phương tiện. Thầy cắt làm việc mình biết làm không được nhưng mình vẫn nhận. Sau đó mình gặp thầy: “Xin Thầy cho con sám hối, năng lực con không đủ, con làm thử nhưng không được.” Đó là quyền biến phương tiện, như vậy không có lỗi.

“Coi thầy Hòa thượng và thầy A-xà-lê cũng như Phật.”

Năm hạ trở lên gọi là A-xà-lê.

Sa Di Học Xứ ghi:

“Chư Phật đã quá khứ, vị lai còn chưa đến. Hiện tại nói pháp làm khuôn mẫu dạy chúng trong ba cõi, thay Phật diễn nói chánh pháp, sanh giới thân huệ mạng cho ta, nuôi huệ mạng cho ta chỉ có Hòa thượng và thầy A-xà-lê, nên ta kính trọng coi cũng như Phật.”

Phật đã quá khứ, nhập Niết-bàn rồi. Phật vị lai là Bồ-tát Di Lặc chưa ra đời. Người dạy giáo pháp của Phật, chỉ đường đi nước bước, khuôn mẫu cho mình chính là Hòa thượng và thầy A-xà-lê. Cho nên phải kính các ngài như kính Phật.

Sau này quý thầy lớn lên, được mười hay mười lăm hạ gì đó, chúng Sa-di làm trái, mình nói: Ông phải coi tôi giống như Phật vậy! Được không? Như vậy là mình ngã mạn rồi, giống ma chứ không phải Phật. Hòa thượng và A-xà-lê ởđây nói là những người có khuôn phép, giới hạnh tinh nghiêm. Còn không có, chúng xá mình phải tránh chứ không mặc tình ngồi yên cho xá là tổn phước. Cho nên học Phật pháp mình phải kỹ những điểm này.

Thiên Qui Kính chép:

“Nên biết sơ tâm của đàn hậu tiến hẳn phải nương tựa vào Sư trưởng và bạn lành. Nay phải nương tựa về Tam bảo, luôn thích gần gũi.”

Đại Trí Độ Luận chép:

“Nếu hàng Bồ-tát chưa vào được pháp vị, xa lìa chư Phật e sẽ bị hư hoại các căn lành, đắm chìm trong phiền não. Mình không thể độ được thì đâu hay độ người.”

Có nghĩa là quý thầy nếu chưa kiến tính, kiến đạo thì khoan rời tùng lâm. Ráng ở năm, mười, mười lăm hay hai chục năm. Kiến đạo rồi, thấy được chân thật từng tâm niệm của mình rồi thì quý thầy vào núi tu, nhập thất cũng được. Nếu chưa kiến đạo mà ra thì có khi hư nát hết các căn lành. Có những người, ra ở thất một thời gian tự nhiên nhiễm theo thế tục ăn thịt uống rượu giống như người thế tục vậy. Nói là đã thành tựu rồi, bây giờ thõng tay vào chợ. Đó là thõng tay vào chảo chứ không phải thõng tay vào chợ. Chảo gì? Chảo nước sôi! Nhờ đại chúng, làm gì sai đại chúng thấy nhắc nhở, cho nên pháp lành tăng trưởng không bị hư hoại.

“Vì thế không được xa lìa chư Phật, ví như con thơ không thể xa lìa cha mẹ, như người đi đường không thể thiếu lương thực, như gặp trời nóng không thể thiếu gió, như lúc trời rét không thể thiếu lò sưởi, như qua sông không thể lìa thuyền, như bệnh nặng không thể lìa thuốc.”

Lúc nào cũng phải nương tựa, qua sông phải cần thuyền. Nương sư trưởng, nương thầy cũng vậy.

“Bởi thế Bồ-tát thường không lìa xa chư Phật. Vì sao? Vì cha mẹ, thân hữu, người trời, vua chúa, các người ấy không thể đem lợi ích cho ta vượt khỏi biển khổ. Chỉ có chư Phật, Thế Tôn mới có thể khiến cho ta ra khỏi biển khổ sanh tử. Vì thế thường nghĩ không nên xa lìa chư Phật.”

Các bậc Hòa thượng, A-xà-lê cũng giống như Phật đã khai thị cho mình, nên phải luôn luôn gần gũi những bậc này. Vì sao? Cha mẹ, vua chúa không đem mình ra khỏi biển khổ sanh tử, mà chỉ có Hòa thượng, vị Thầy A-xà-lê mới dìu dắt mình ra khỏi biển khổ này, cho nên mình không được xa lìa.

Kinh Trung Tâm nói:

“Thành đạo mới biết ơn thầy. Thấy thầy liền hầu hạ, chẳng thấy thì nghĩ đến lời răn nhắc của thầy như đứa con chí hiếu nhớ cha mẹ.”

Sau này quý thầy thành tựu đạo nghiệp, ra làm Phật sự mà có được năng lực lớn, được người ta kính tín, lúc này mình mới biết ơn thầy. Nói khác hơn, ngộ đạo rồi mình mới nhớ ơn Thầy. Còn bây giờ thì chưa biết đâu. Nhiều thầy giận, xách gói đi không cần xin tiền, thậm chí không thưa trình gì hết, đó là chưa thành đạo. Thầy Trụ trì Thường Chiếu, thầy Trụ trì Trúc Lâm, rồi những vị thầy lớn luôn luôn kính thuận Hòa thượng vì các ngài đã thành tựu đạo nghiệp.

Như câu chuyện, Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, hỏi trăm đáp ngàn, nhưng Tổ Quy Sơn hỏi một câu không biết. Tổ hỏi: “Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sanh xem?” Ngài mờ mịt, không đáp được nên cầu xin Tổ Quy Sơn nói phá nhưng Tổ không nói. Sau khi ngộ đạo, ngài tắm gội, thắp hương, nhắm hướng núi Quy đảnh lễ, ca tụng rằng: “Hòa thượng từ bi ơn như cha mẹ, khi trước nếu vì con mà nói thì làm gì có ngày hôm nay.”

Người thấy được đạo rất kính Thầy. Trong luật, trong kinh nói, thờ thầy đúng mức thì tự có phép tắc, oai nghi, người ngoài nhìn là biết. Còn khinh dễ, kiêu mạn thì không đúng phép thờ thầy.

Trong Thiên Thành Phạm có nói:

“Sa-di ở với thầy thường có tâm kính sợ.”

Không có tâm kính sợ thì tu không tiến. Chẳng hạn tối nay mình mệt, muốn nghỉ sám hối nhưng vì có tâm kính sợ nên không dám nghỉ. Hoặc muốn bỏ ngồi thiền mà vì sợ thầy nên không dám bỏ.

Sa-di mới xuất gia xác định ai là bổn sư của mình? Hòa thượng hay thầy Trụ trì? Nhiều khi mình ỷ lại, nói Hòa thượng mới là bổn sư của mình, còn thầy Trụ trì không phải nên mình không có tâm kính sợ.

Năm 1994 Hòa thượng Trúc Lâm chưa nhận người vào tu, chỉ tuyển chọn các thầy ở Thường Chiếu hoặc các Chiếu gởi lên. Sau này có một số cư sĩ phát tâm công quả xin xuất gia, Hòa thượng nói người nào xuất gia ở đây, tuy để tôi là bổn sư nhưng đều là đệ tử của thầy Trụ trì hiện tại, là Thầy thượng Thông hạ Phương. Thầy luôn gần gũi, nhắc nhở và nâng đỡ mình. Coi Thầy như là bổn sư thì mình mới có tâm kính sợ, như vậy tu mới tiến.

Thuận theo ý của thầy, thường biết xấu hổ, lo đền bốn ơn, cứu giúp ba cõi.”

Lo đền bốn ơn: Ơn thầy Tổ, ơn cha mẹ, ơn đàn-na tín thí, ơn tổ quốc. Rồi cứu giúp ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Thành tựu đạo nghiệp thì mới cứu giúp được. Thường biết xấu hổ thì mới lo đền bốn ơn, cứu giúp ba cõi.

Kinh nói:

“Nói xấu thầy, chê bai thầy, hủy nhục thầy, ghét hại thầy, tật đố với thầy, ấy là trong pháp đại ma, là hạt giống của địa ngục.”

Không thích hầy, mình đi chỗ khác nói xấu thầy, mình nói thầy không tu, thầy khó…, rồi chê bai, hủy nhục, ghét hại, tật đố với thầy, như vậy là mình gieo hạt giống địa ngục. Những chủng tử này nằm trong tàng thức, khi chết, những hạt giống này đẩy mình đến những cảnh giới xấu hoặc sanh nơi biên địa, hoặc sanh trong gia đình không biết Phật pháp.

Trong Quản Luật ghi:

“Tiết đường nói: Người học mà khí thắng chí là tiểu nhơn, chí thắng khí là đoan nhân chính sĩ, khí với chí ngang nhau là Hiền Thánh đắc đạo. Người cứng cỏi chẳng chịu tuân theo qui củ và lời can gián đó là bị khí nó sai khiến.”

Có nghĩa là phép tắc, nội qui, thanh qui trong tùng lâm không theo, ai dạy cũng không chịu nghe. Cứng cỏi, chẳng chịu tuân theo qui củ của thiền môn, đó là bị khí sai khiến.

“Kẻ sĩ đoan chánh dẫu có bị cưỡng bách làm việc bất thiện thì dẫu chết cũng chẳng hai lòng, đó là chí nó đưa đến như thế vậy.”

Kinh Hoa Nghiêm dạy:

“Coi thầy Hòa thượng, thầy A-xà-lê như thiện tri thức vậy. Cần cầu thiện tri thức thân tâm đừng sanh mệt mỏi.”

Thiện tri thức là gì? Chữ Hán thiện là khéo, nghĩa là người này khéo biết được tâm niệm và năng lực của mình. Người đó nhìn biết đường đi nước bước mình đến đâu, cho nên giúp ích mình, dạy dỗ mình, đưa mình đến con đường đạo. Vì vậy cần cầu thiện tri thức thân tâm đừng sanh mệt mỏi.

Thấy thiện tri thức đừng sanh lòng nhàm chán.”

Học hỏi với thiện tri thức đừng sợ khó nhọc, gần gũi thiện tri thức đừng thối lui, cúng dường thiện tri thức đừng cho gián đoạn, tùy thuận theo lời dạy dỗ của thiện tri thức mà đừng có chống trái.”

Ngày xưa khi còn ở ngoài đời, quý thầy có xem kinh sách của Hòa thượng, đọc những lời dạy của Hòa thượng. Bây giờ vào đây tu, mình gặp Hòa thượng, gặp thầy Trụ trì, mình biết chắc đây là thiện tri thức. Các ngài dùng năng lực tháo đinh nhổ chốt cho mình, thì phải thuận theo lời dạy dỗ của thiện tri thức đừng có chống trái.

“Những công đức của thiện tri thức đừng sanh lòng nghi, khi thiện tri thức diễn nói phải quyết định mở cửa lòng ra mà nghe.”

Hòa thượng giảng, mình phải lắng lòng nghe. Chứ giảng ở trên mà dưới coi sách coi vở, hay coi gì đó là trật. Cần cầu thiện tri thức là như thế. Để mai này ra làm Phật sự, quý thầy giảng dạy người khác mới nghe. Nhân quả rất rõ.

“Nhân thấy thiện tri thức tùy thuận theo hạnh phiền não đừng sanh lòng hiềm quái.”

Thầy Trụ trì thấy quý thầy ngồi uống trà, nói chuyện thị phi nên sanh phiền não rầy la. Thấy vậy mình nói: Thầy Trụ trì sao cũng còn phiền não! Mà không biết đó là thiện tri thức tùy thuận theo hạnh phiền nãoĐừng sanh lòng hiềm quái, nghĩa là đừng nghi kỵ. Đó là nộ về đạo để dìu dắt chúng sanh, cho nên mới thị hiện ra phương pháp đó.

“Đối với thiện tri thức phải lòng tin vững chắc, đừng biến đổi. Tại sao? Vì Bồ-tát nhờ thiện tri thức mà được học hỏi các hạnh Bồ-tát, do đó mới được thành tựu tất cả công đức của Bồ-tát và được xuất sanh đại nguyện cùng là trí huệ quang minh rực rỡ. Này thiện nam tử, Bồ-tát nhờ sự giúp đỡ của thiện tri thức mà chẳng sa đọa vào ác thú.”

Nhờ tu học mới biết sám hối, tọa thiền, biết làm các việc thiện pháp. Có năng lực lớn nên không sa đọa vào những ác thú, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Đó là nhờ bậc thiện tri thức chỉ dạy.

Nương nhờ sự thành tựu của thiện tri thức mà được tự tại thọ sanh, nương nhờ sức mạnh của thiện tri thức mà phá tan nghiệp báo, nhờ mặc áo giáp nhẫn nhục của thiện tri thức mà chẳng bị một lời nói xấu ác, và nương nhờ sự sanh trưởng của thiện tri thức mà tiêu diệt được các tội lỗi kiêu mạn vậy.”

Quý thầy nghiên cứu kỹ kinh Hoa Nghiêm sẽ thấy rất rõ, trong kinh toàn nói về việc thiện tri thức nâng đỡ, giúp đỡ mình. Bởi các ngài có năng lực rất lớn, nhờ gần gũi thiện tri thức nên mình có sức nhẫn nhục lớn. Như Hòa thượng, nếu không có sức nhẫn nhục thì làm Phật sự không được. Noi theo công hạnh của các ngài, từ đó mình ra làm Phật sự mà có chướng ngại, nghịch cảnh đến thì theo gương đó quyết tiếp tục tu hành và làm các việc Phật sự lớn. Cho nên nói là nương nhờ sự sanh trưởng của các thiện tri thức mà tiêu diệt được các tội lỗi kiêu mạn.

Hoặc thầy sai đổ đồ bất tịnh không được khạc nhổ, không được sân hận.”

Không hẳn là thầy Trụ trì bệnh rồi mình đổ đồ bất tịnh mà có khi, những vị thầy lớn hoặc huynh đệ bị bệnh nằm một chỗ không đi được, mình đến nuôi bệnh, đổ đồ đại tiện hoặc tiểu tiện thì đừng khạc nhổ, đừng khởi tâm sân hận. Tâm sân hận nổi lên thì mình không có phước nữa.

Sa Di Học Xứ ghi:

“Thế nào là đồ bất tịnh? Đồ đại tiện, đồ tiểu tiện, ống nhổ. Thế nào là không được khạc nhổ? Không nên sanh tâm nhờm gớm mà khạc đờm, nhổ nước miếng. Phải nghĩ rằng thân tứ đại này là một kho chứa các đồ dơ bẩn, dù thánh hay phàm, ta và người khác không ai là không khỏi có cái chỗ đó hết.”

Có nghĩa là chúng ta quán chiếu, tư duy (lúc này dùng quán chứ không dùng chỉ nữa) để nhớ rằng thân và thân của các vị thánh; của ta và người không ai là không có cái bất tịnh này. Quán chiếu tư duy sâu sắc như thế tự nhiên mình không còn nhờm gớm nữa.

Trừ được cái bất tịnh này tức là trừ được chấp ngã, ba độc phiền não, có nghĩa là tham, sân và si. Nếu hay tư duy chắc thật như thế thì mình, người đều tịnh. Ấy là đồ bất tịnh mà sanh ra cái pháp chơn chánh vậy.”

Ngay chỗ bất tịnh đó tự nhiên chuyển hóa thành pháp chơn chánh. Như trường hợp Tế Công Hòa thượng, ai bệnh ngài khạc cục đờm, nhổ vô mặt tự nhiên hết bệnh. Ngay chỗ không khởi niệm, không dấy tâm mà thành pháp chơn chánh.

Thiền thoại có ghi:

Thiền sư Quang Đạo là bậc chơn tu đắc đạo, lập hạnh đầu đà, chuyên ở trong hang động. Một hôm có vị thiền khách tên là Tề Quân đến tham kiến. Hang động rất chật, lúc này Thiền sư đang nấu cháo. Cháo chín, nhìn qua nhìn lại không thấy tô chén gì hết, thấy cái sọ người, ngài múc cháo vào rồi đưa Tề Quân. Tề Quân đang chần chừ chẳng dám nhận thì ngài nói: “Ông đem tâm nhơ sạch, thương ghét đến đây cầu đại pháp làm sao mà kham nhận được.”

Đổ đồ bất tịnh mà không sanh tâm gớm ghiếc, sân hận thì ngay chỗ đó là chỗ công đức, phước điền cho người nuôi bệnh. Vừa khởi tâm thương ghét, có không, phải quấy thì lúc này cầu đại pháp không được. Mà chính trong giờ phút thực tại này đó là đại pháp, là chánh pháp, đó là chơn chánh của người xuất gia. Khó quá phải không? Phải quán chiếu tư duy rất sâu, những hạt giống thương ghét, có không, ta người, chủ khách không còn nữa mới được. Hiện tại, mình chưa chắc gì được đâu. Ở đây, mình học cho biết thế nào là: Không được khạc nhổ và sanh tâm sân hận.

Nếu lễ bái, thầy tọa thiền không nên lễ, thầy kinh hành không nên lễ, thầy ăn cơm, thầy giảng tinh, thầy đánh răng, thầy tắm rửa, thầy ngủ nghỉ đều không nên lễ. Thầy đóng cửa không nên đứng ngoài lễ vào, muốn vào phòng để lễ nên gõ cửa ba tiếng, thầy không đáp nên lui.”

Trong Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên Luật Sư nói Tông Thiên Thai dạy như sau:

“Pháp tứ nghi thì gọi là lễ, thân nghiệp cung kính gọi là bái.”

Đứng xá một cái thì gọi là lễ, chứ không phải là bái. Thân nghiệp cung kính có nghĩa là đắp y, mặc hậu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất gọi là bái. Thân nghiệp không cung kính không gọi là bái.

Như câu chuyện trong kinh Pháp Bảo Đàn:

Tăng Pháp Đạt đến lễ Lục Tổ mà đầu không sát đất. Tổ nói:

- Ông lễ mà đầu không sát đất chi bằng đừng lễ. Như vậy trong tâm ông ắt chứa vật gì.

Nghĩa là lúc này thân nghiệp không cung kính. Mà thân nghiệp không cung kính là do ý nghiệp tác động đến. Lễ Phật mà đầu không sát đất, tâm không cung kính thì không có phước. Thân nghiệp phải cung kính thì mới gọi là bái.Cho nên Tổ quở:

- Lễ vốn chặt cờ ngã mạn, sao đầu không sát đất? Có ngã tội liền sanh, quên công thì phước vô tỉ.

Lúc này thiền sư Pháp Đạt nói tụng kinh 3.000 bộ!

Sở dĩ ông lễ mà không có thân cung kính tức là có cái gì bên trong. Hoặc đến lễ mà trong tâm mình chất chứa sự nghiệp lớn thì lễ là lễ vậy thôi chứ thân và tâm không cung kính.

- Tại sao thầy tọa thiền không nên lễ bái?

Sa Di Học Xứ ghi:

“Sợ loạn công đức thiền định nên không lễ bái.”

Lễ bái sợ loạn tâm thầy nên không cần lễ, lễ cũng không có phước gì. Không chỉ thầy Tổ của mình mà huynh đệ ngồi thiền yên tịnh, có chuyện gì cũng không được kêu, sợ làm loạn tâm thiền định. Người ngồi thiền, tâm hướng về làm Phật nên mình không được phá. Chẳng hạn quý thầy làm tri sự, công việc nhiều quá mà chúng đang ngồi thiền ở thiền đường, quý thầy kêu là tổn phước. Phải chờ hết giờ, xả thiền xong mới được đến nhờ.

Thầy chúng tôi kể, Hòa thượng Trí Tịnh đi đâu xa về mà thấy chúng đang ngồi thiền, ngài bỏ cái đãy xuống, nhẹ nhàng ngồi kế bên, không dám động đại chúng. Đại chúng đang tọa thiền là đang làm Phật. Phá những người đang tọa thiền, đang chiêm nghiệm về thánh thái của Phật là pháp của ma, gọi là ma Ba Tuần.

Kinh A Hàm có ghi câu chuyện:

Sa-di Thông Trí theo thầy là tôn giả Xá-lợi-phất đi khất thực. Trên đường đi ngài thấy người ta vét mương để dẫn nước vào ruộng, rồi thấy người uốn cung tên, thấy thợ mộc đẽo những thanh gỗ để làm bánh xe. Ngài nghĩ những vật vô tri như nước, cung tên, gỗ mà người ta có thể uốn nắn để sử dụng theo người ta. Vậy tại sao mình không uốn nắn tâm mình để đến được con đường Niết-bàn.

Nghĩ như vậy ngài xin phép thầy về trước không đi khất thực nữa. Ngài quyết định trong ngày hôm nay phải chứng quả A-la-hán. Đức Phật biết được, sợ rằng nếu tôn giả Xá-lợi-phất khất thực về kêu chú Sa-di này ra mở cửa thì quả vị không đến được, nên Đức Phật ra đón và hỏi chuyện, mục đích ngăn tôn giả Xá-lợi-phất vào phòng để không làm gián đoạn công phu của Sa-di Thông Trí.

- Tại sao thầy đi kinh hành không nên lễ?

Sa Di Học Xứ ghi:

“Sợ trở ngại chánh niệm nên không lễ bái.”

Thầy đi kinh hành luôn luôn thu thúc sáu căn, chánh niệm. Nếu lễ bái thì thầy ngó lại, mất chánh niệm của Thầy cho nên không cần lễ bái.

Kinh A Hàm Phật dạy có năm lợi ích của việc đi kinh hành:

1- Người đi kinh hành sẽ có sức chịu đựng bền bỉ để đi đường xa.

Vào thời Đức Phật, các ngài vừa đi khất thực vừa đi kinh hành luôn. Hiện giờ có một vị sư ở Thiếu Lâm Tự, đã chín mươi lăm tuổi mà vẫn còn giống như bốn mươi tuổi vậy. Hỏi ra thì biết hằng ngày ngài đều đi kinh hành. Các vị khất sĩ lớn tuổi, có kinh nghiệm khi đi khất thực thường các ngài mang bình bát đi một đoạn đường, rồi cất bình bát vô đãy. Đi một đoạn xa mới lấy bình bát ra. Đi kinh hành rất lợi ích, quý thầy muốn ít bệnh phải đi kinh hành.

2- Người đi kinh hành sẽ có sự chịu đựng bền bỉ trong khi hành thiền.

Đi kinh hành thường xuyên thì ngồi thiền dẻo dai hơn những người không đi kinh hành.

3- Sự quân bình giữa đi và ngồi, giúp có sức khỏe tốt.

4- Thiền hành cũng giúp cho sự tiêu hóa được dễ dàng.

Vừa ăn cơm xong mà nằm ngủ liền thì nguy hiểm, dễ sinh bệnh đau dạ dày. Nhiều người nói sao tu mà bệnh dữ vậy. Tìm hiểu nguyên nhân là do không chịu đi kinh hành, không chịu tập thể dục, dẫn đến sinh bệnh.

5- Kinh hành tạo nên sự định tâm bền vững.

Các thiền sư nói thân mình giống như chiếc xe, chuẩn bị chạy thì xe phải khởi động. Trước khi ngồi thiền, đi kinh hành một vòng để tâm an ổn rồi vào ngồi thiền rất dễ định tâm.

- Tại sao thầy ăn cơm không được lễ?

Sa Di Học Xứ ghi:

“Sợ tạp loạn đối với pháp quán nên không có lễ.”

Tại sao thầy nói kinh không được lễ?

“Sợ đoạn dứt pháp nghĩa nên không được lễ.”

Chẳng hạn thầy đang nói tinh cho Phật tử nghe, mình đến xá một cái, thầy phải xoay qua thì mất cái nghĩa lý trong lúc đang nói.

- Tại sao thầy đánh răng không nên lễ?

“Sợ bỏ dở kệ chú nên không có lễ”

Đang đánh răng thầy thầm đọc chú mà mình lễ, thầy ngó lên nhiều khi quên mất chánh niệm.

- Tại sao thầy tắm rửa không nên lễ?

“Sợ hình nghi không tề chỉnh nên không lễ.”

Ngày xưa nhà tắm không kín như bây giờ, mà chỉ ngang nửa người, nhìn vào là thấy. Thầy đang tắm mà xá thì không lịch sự. Mình học để biết, chứ bây giờ nhà tắm kín, không phải như ngày xưa.

- Tại sao thầy ngủ nghỉ không nên lễ?

“Sợ kinh động giấc nên không có lễ.”

“Thầy cạo tóc, thầy rửa chân hoặc có việc không rảnh, thầy đóng cửa không nên đứng ngoài mà lễ vào. Muốn vào phòng để lễ nên gõ cửa ba tiếng.”

Chẳng hạn như Hòa thượng Trúc Lâm, ngài rất bận, hoặc có khi bệnh nên không cho vào. Có những vị, tôi nghĩ là không có học oai nghi, đứng ngoài lễ vào. Theo tinh thần oai nghi, đứng ngoài cửa mà lễ là không thành tâm cung kính. Nếu không vào được thì thôi, không được làm như thế. Cho nên học, biết oai nghi phép tắc rồi mình nhớ đem ra thực hành. Oai nghi rất cần cho người tu sĩ.

“Đem thức ăn cho thầy phải dâng hai tay. Thầy ăn xong thu dọn bát đĩa phải chậm rãi từ từ.”

Đây là cho những thầy thị giả.

Sa Di Học Xứ ghi:

“Hầu hạ thầy ăn uống đồng như là cúng Phật.”

Thức ăn dâng Thầy không phân biệt ngon dở gì, rau luộc cũng được nhưng phải sạch sẽ, phải có tâm cung kính thì mới tăng trưởng phước đức. Còn làm cho có thì không được.

Bộ Thành Phạm nói:

“Nấu đồ ăn cho Thầy không luận ngon hay dở đều phải sạch sẽ và vừa ý Thầy. Phàm dâng nước trà chẳng được nhúng ngón tay vô trong chén. Phải hai tay co bốn ngón, dùng sáu ngón, bợ hông chén bằng phẳng cho Thầy. Thầy dùng xong như pháp trước mà rước lấy.”

Trong Kinh Chi Bộ có ghi:

Tôn giả Mục-kiền-liên một hôm du hành trên hư không thì thấy một con quỷ thân hình gầy ốm, lửa bốc lên ngùn ngụt. Hỏi nguyên nhân thì nó nói, ngày xưa vào thời Đức Phật Ca-diếp, nó làm thị giả cho một vị Hòa thượng, hầu Thầy mà ăn bớt thức ăn của Thầy, cho nên bây giờ tái sanh làm quỷ đói.

Nấu thức ăn hầu Thầy phải sạch sẽ và đúng như pháp. Đúng như pháp là không ăn hớt của Thầy. Đem thức ăn cho Thầy thấy ngon quá bốc ăn trước, kiếp sau thành quỷ đói. Quý thầy làm trực nhật, hành đường cũng vậy, ăn trước cũng thành quỷ đói.

“Hầu Thầy không được đứng đối diện, không được đứng chỗ cao. Không được đứng quá xa để Thầy nói nhỏ nghe được, khỏi hao sức Thầy. Đứng đối diện, chỗ cao đều mất vẻ cung kính.”

Thiên Thành Phạm nói:

“Chẳng được đứng trong bóng thầy.”

Đi với thầy chẳng được đứng trong bóng thầy. Nhưng những vị thị giả phải đi kế bên để dìu Hòa thượng, nếu đi vào canh trưa thì chắc chắn bị đạp bóng thầy. Trường hợp đó mình phải làm sao?

“Chẳng được đứng trên gió.”

Tại sao chẳng được đứng trên gió? Nhiều khi chột bụng đánh hơi thì tổn phước. Hoặc có khi hai, ba ngày chưa tắm, thân không được sạch sẽ, thanh tịnh.

“Chẳng được xoay mình, cúi đầu nói nhỏ, giỡn cười. Phải thân tâm nghiêm kính. Đứng bên thầy chẳng được đứng xụi hai tay.”

Phải đứng cung thủ, cũng không đứng xụi lơ.

“Ở trước mặt thầy không được cào, gãi đầu, chà mặt. Chẳng được mang giày, rửa chân trước thầy. Chẳng được hiện tướng mỏi mệt, cũng chẳng được như người tục rũ tay mà đứng. Ở trước mặt thầy chẳng được nói lời vô ích.”

Nói những lời có ích thì được chứ nói chuyện thế gian, chuyện hình sự… thì không được. Nói lời gì để thầy nhắc nhở cho sự tu hành của mình. Cho nên được hầu thầy rất có lợi. Chẳng hạn khi tôi đi gần Hòa thượng một đoạn đường, Hòa thượng chỉ dạy Phật pháp rất nhiều điều có ích. Nhưng nếu không hiểu, mình nói những lời vô ích, thầy hoặc Hòa thượng quở thì mình tổn phước. Những lời quở trách của một vị thầy, một vị Hòa thượng, hay vị A-xà-lê, của bậc thiện tri thức đều là những lời có ích. Các ngài thương mới rầy. Còn các ngài bỏ rồi là thôi, không nói tới nữa.

Thiền thoại có ghi:

Đại sư Ngộ Tân, trụ trì chùa Vân Nham, hay lớn tiếng trách mắng người xuất gia đến chùa tham học. Do đó một số người tham học rất là nể sợ, thường kính nhi viễn chi. Kính mà xa không dám gần. Trong chúng có một vị thị giả là thiền sư Huệ Phương thấy thế nên nói:

- Làm một vị thiện tri thức thì phải hành đại đạo của Phật Tổ, hiệu lệnh đưa ra trời, người tuân theo. Đáng lý phải xem người học như con đỏ, lấy tâm từ bi để mà cư xử với họ và phải thường an ủi, chứ đâu mà động một chút lại nổi giận chửi mắng giống như oán cừu đã chất chứa như biển sâu không khác.

Đại sư nghe xong nói:

- Kiến giải của ông như vậy thì tương lai, nếu hoằng pháp ở một phương sẽ chỉ mị để phụng sự những người có quyền thế. Cẩu thả, dựa vào bọn cường hào mua bán đại pháp của Như Lai và dối gạt bọn phàm phu tục tử. Ta không nhịn nổi bọn người ngu si theo đời, không phát tâm dõng mãnh, không rõ Phật đạo này. Do đó phải dùng lời nặng nề để khích lệ họ cho họ biết liêm sĩ, tự mình sửa đổi lỗi lầm hầu mong làm sư phạm cho trời, người. Đây mới là tâm từ bi chân chánh, lo lắng và bảo bọc thương yêu chân chánh.

Thầy la mắng mình chính là mài giũa cho mình. Mài giũa tâm kiêu mạn, bản ngã chấp trước, thì tự nhiên mình có năng lực lớn. Sau này chúng ta ra làm Phật sự sẽ thấy rất rõ.

“Nếu thỉnh hỏi nhân duyên Phật pháp phải sửa y lễ bái, quỳ gối chắp tay. Thầy có dạy trăm lần nghe kỹ, nhớ in sâu vào.”

Lắng nghe gọi là văn huệ, tư duy là tư huệ, thâm nhập là tu huệ.

Khổng Tử nói:

“Có ba bậc nghe pháp: Dùng thần nghe pháp tức là bậc thượng. Dùng tâm nghe pháp gọi là bậc trung. Dùng tai nghe pháp là bậc hạ.”

Đến nghe pháp với tâm mệt mỏi, chán chường thì không có phước đức gì hết, mà cũng không biết thầy nói chuyện gì.

Lão Tử nói:

“Bậc thượng mà nghe pháp là thấm vào tứ chi, phổ ra hành động.”

Những lời thầy Tổ dạy thấm vào tứ chi là thấm vào thân thể, ngũ uẩn của mình rồi phổ ra hành động. Học oai nghi, phép tắc, học về đường hướng của thầy Tổ chỉ dạy mà làm đúng như vậy, đó gọi là bậc thượng.

“Bậc trung nghe pháp thì thoạt nhớ, thoạt quên.”

Nghe thì nghe chứ về nhà không biết thầy nói gì, đó là bậc trung.

“Bậc hạ nghe pháp thì cười to bỏ đi. Nếu không như thế thì đâu còn gọi là Đạo nữa.”

Bậc hạ nghe pháp cười to bỏ đi, là không cần nghe thầy dạy gì hết. Nếu không như thế thì đâu còn gọi là Đạo nữa, nghĩa là Đạo rất khó nghe, khó thâm nhập.

Sa Di Học Xứ ghi:

“Phàm muốn cầu pháp phải chiết phục tâm chấp ngã.”

Muốn cầu đại pháp phải bẻ gãy tâm chấp ngã, lúc đó đại pháp mới vào tâm thức được. Khi thâm nhập vào Phật pháp rồi thì những hạt giống phiền não, cù cặn trong tâm thức của mình cũng được chuyển hóa.

Bây giờ kinh sách, băng giảng rất nhiều. Ngày xưa các ngài chỉ cần nghe một câu là tâm thức rúng động, chuyển hóa ngay. Bởi các ngài nghe với tâm mong mỏi cầu pháp, chiết phục tâm chấp ngã. Thành ra quý thầy đừng nghĩ mình biết tiếng Anh, tiếng Pháp gì đó rồi mình có tâm ngã mạn. Tôi có người em đang tu học bên Ấn Độ, biết rất nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Trung Quốc, Nhật, Ấn Độ. Tôi hỏi, tôi học một thứ tiếng không nổi sao ông học được nhiều vậy? Em tôi nói, học được tiếng Anh hay tiếng Pháp rồi thì mấy thứ tiếng khác học rất nhanh. Tại mình không đủ duyên để học chứ thực ra ai học cũng biết hết. Phải chiết phục tâm chấp ngã của mình. Tâm ngã mạn cống cao phải dẹp hết thì đại pháp mới rót vào tâm thức được.

“Tư duy thánh đạo, chịu bỏ cái khí tiết của mình. Thấp mình mà lễ, kính vị sư trưởng, nghĩa là tôn sư trọng đạo thì lúc này mới gọi là chân chính học đạo.”

Người chân chính học đạo phải thấp mình thưa hỏi, kính vị sư trưởng. Sư trưởng thời này, có những vị học không bao nhiêu mà ta kính các ngài là kính gì? Kính đạo đức, kính oai nghi phép tắc mô phạm. Một người tu sĩ mà có tâm ngã mạn các ngài nhìn biết liền. Đây tôi giấu tên, ngày xưa có một vị Ni sư học lấy được hai, ba cái bằng về khoe Hòa thượng, là Thầy của Ni sư ngày trước, Hòa thượng cầm cái bằng ném ra. Ngài biết vị Ni sư này có tâm ngã mạn. Vừa học vừa tu để dẹp tâm chấp ngã. Mà dẹp tâm chấp ngã thì đạo mới vào được.

Trong Pháp Uyển Châu Lâm, quyển thứ 24 ghi:

Có năm trường hợp hỏi mà không nên đáp:

1- Hỏi thử: Do tâm kiêu mạn nên họ dùng sự hiểu biết để hỏi thử xem mình có biết hay không.

Tôi làm nhà khách hay gặp trường hợp này. Hỏi xong là tôi biết liền, tôi cười không trả lời gì hết. Hỏi thử là do cái tâm kiêu mạn. Hỏi pháp mà khởi tâm kiêu mạn, quý thầy nhìn vào khuôn mặt họ là biết. Trong chúng cũng vậy, họ gặp mình hỏi giống như hỏi thử là không bao giờ đáp.

2- Không thắc mắc mà hỏi.

Cũng không trả lời. Phải rất là kính, phải chiết phục tâm ngã mạn thì mình mới trả lời.

3- Không quỳ sám hối lỗi đã phạm mà hỏi.

Tức là có phạm tội đối với giới luật mà không sanh tâm sám hối lại đặt ra câu hỏi. Phạm tội trộm cắp, rồi nói tôi ăn cắp mà ai thấy, ai biết, ai nghe? Đặt vấn đề, đưa ra nghi vấn mà chưa sám hối thì cũng không trả lời.

4- Hỏi vặn.

Đã biết không có khả năng trả lời mà cố tình cật vấn, hỏi tới, cũng không trả lời.

5- Không để ý nghe mà hỏi. Đã nghe nói rồi mà không để ý lại hỏi nữa.

Như trong giờ thầy Trụ trì giảng, họ nghe qua rồi quên hay gì đó, đứng lên hỏi thì cũng không trả lời.

“Phàm muốn cầu đại pháp phải chiết phục cái tâm chấp ngã, tư duy thánh đạo, chịu bỏ cái khí tiết của mình, thấp mình mà lễ.”

Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có ghi:

Thiền sư Huệ Nam ở Hoàng Long, phủ Long Hưng. Sư họ Chương, quê ở Tín Châu, theo thiền sư Trừng tại Lạc Đàm chiêu đồ giáo hóa, tiếp độ chúng tăng. Ngài giáo hóa đồ chúng rất đông, tiếng tăm vang dội bốn phương. Nhưng khi gặp thiền sư Duyệt ở Vân Phong, thiền sư nói:

- Tuy ông hiểu vậy nhưng cái thiền đại pháp ông chưa chứng ngộ. Muốn chứng ngộ được thì nên đến tham vấn thiền sư Từ Minh.

Ngài đến gặp thiền sư Từ Minh, thiền sư biết Huệ Nam có tâm chấp ngã rất lớn vì đã từng đi giáo hóa, là pháp sư nổi tiếng, nên hỏi gì thiền sư cũng không trả lời. Huệ Nam khẩn cầu tha thiết, khóc lóc suốt ba, bốn ngày liên tục. Lúc này Từ Minh mới bảo:

- Thầy học thiền Vân Môn ắt khéo biết yếu chỉ của Vân Môn. Như nói tha Động Sơn ba gậy là có phần ăn gậy hay là không phần ăn gậy?

Sư đáp:

- Có phần ăn gậy.

Từ Minh nghiêm sắc mặt bảo:

- Từ sáng đến chiều ông nghe quạ kêu, chim hót đều nên ăn gậy.

Lúc này thiền sư Từ Minh mới chấp nhận cho lễ bái. Từ Minh lại hỏi:

- Triệu Châu thường nói bà già ở Đài Sơn bị ta khám phá. Hãy thử chỉ ra chỗ khám phá xem.

Sư mồ hôi xuất hạn không thể đáp lời nào. Hôm sau Sư lại đến thì bị Từ Minh mắng chửi. Sư nhìn đồ chúng hai bên và nói:

- Chính vì không hiểu nên mới cầu để giải quyết nghi. Còn mắng chửi thì đâu phải là quy củ từ bi thí pháp.

Ngài Từ Minh nói:

- Ông hiểu là mắng chửi ư?

Ngay câu ấy Sư liền đại ngộ.

Câu chuyện này cho thấy, tuy ngài Huệ Nam đi hoằng pháp lợi sanh rất nhiều, nhưng chưa ngộ nhập đại pháp của thiền nên phải đến khẩn cầu, lễ bái thiền sư Từ Minh. Từ Minh biết người này còn chấp trước sự nghiệp giảng pháp nên khi nêu ra chỗ ăn gậy hay không ăn gậy, ngay chỗ có và không thì Huệ Nam mắc kẹt.

Trong sử 33 vị Tổ, Thiền sư Thần Quang đến cầu pháp Tổ Bồ-đề Đạt-ma mà Tổ không xoay lại là có lý do. Bởi Thần Quang là một tay kiếm khách học rộng nghe nhiều, giỏi lý diệu huyền. Học, nhiều khi mình không hiểu, rồi chặt tay như ngài thì không được. Đứng trong tuyết lạnh mà chặt tay cầu đại pháp là chặt cái tay của tâm chấp ngã, tâm phiền não, tâm kiêu mạn, bởi vì học biết quá nhiều rồi.

Cho nên Đại sư Liên Trì nói:

Tổ thứ hai được trao truyền tâm pháp là ngài tâm thành đến cực điểm, cơ duyên đã thành thục, giống như nam châm hút sắt, một cái là hợp, một điểm là không, không nhất định là phải chặt cánh tay đâu. Những người ngu si muốn bắt chước Thần Quang không biết học tinh thần ấy mà chỉ tính chuyện chặt tay. Ôi! Nếu truyền pháp mà cứ phải chặt tay thì các Tổ sư ai cũng cụt một tay hết! Muốn làm Phật mà phải thiêu mình vậy thì tiên, thánh, hậu, hiền không ai còn sống!”

Ngài bình rất là hay. Trong Kinh Pháp Hoa diễn tả hai vị Bồ-tát thiêu thân là Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát Dược Thượng. Hai vị thiêu mình là thiêu phần tưởng ấm. Hòa thượng dạy rất rõ. Mà nghe nói chặt tay, thiêu mình rồi cũng chặt, cũng thiêu. Ngày xưa có một thầy định thiêu, nói để cúng dường chư Phật. Hòa thượng Trúc Lâm quở, làm vậy là không đúng.

Ngài bình tiếp:

“Chân thật chặt tay là chặt cánh tay phiền não.”

Bình rất là hay. Ngài nói muốn chặt tay là phải chặt cái phiền não chấp trước, ngu si, ngã mạn của mình. Chặt cái đó thì đúng, còn chặt cánh tay là không đúng.

Thiêu thân là đốt cái thân vô minh của mình. Mong chư vị thiền giả phải lấy điểm này nhắc nhở nhau.”

Chẳng hạn như Hòa thượng Sư cố (HT. Thiện Hoa), trên trán Sư cố đâu có đốt liều, mà ngài làm Phật sự hết mình. Từ khi xuất gia, hiểu đạo rồi ngài làm Phật sự suốt quãng đời của ngài. Rồi đến Hòa thượng Trúc Lâm, ngài có đốt liều gì đâu mà làm Phật sự không ai bằng. Có những người thiêu thân, làm đủ thứ chuyện mà không hiểu điểm này. Có những trường hợp các ngài thiêu thân vì những mục đích khác thì không bàn đến, nhưng ở đây mình phải biết chặt tay, đốt thân là chặt tay phiền não, đốt thân vô minh. Đó là theo tinh thần của Đại sư Liên Trì, ngài giảng giải rất rõ.

Tại sao chúng ta cầu đại pháp với Sư trưởng lại tâm thành đến thế?

Trong Sa Di Học Xứ có ghi lời thiền sư Vĩnh Gia dạy:

“Chánh đạo lặng lẽ tuy có tu mà khó hội. Tà đồ ồn náo, tạp loạn chính là không tập mà dễ thành.”

Chánh pháp đại thừa rất khó thâm nhập. Phải cần cầu đại pháp, phải thành tâm cung kính thì mới thâm nhập được. Trong bài Sám Hối Sáu Căn, Nghiệp Căn Tai:

Ghét nghe chánh pháp, thích lắng lời tà,

Mê mất gốc chơn, đuổi theo ngoại vọng.

Sáo đàn inh ỏi, bảo khúc long ngâm,

Văng vẳng mõ chuông, coi như ếch nhái.

Nhiều vị tu lâu thì lâu chứ hôm nào xuống phố, đi trên xe có mở nhạc nghe vẫn thấy thích. Họ nói, pháp Hòa thượng nghe suốt, bây giờ đi tham quan phải mở băng cải lương hay ca nhạc gì đó thì mới vui.

Cho nên, chánh đạo yên tịnh rất khó thâm nhập, còn cái ồn náo, tạp loạn thì rất dễ. Lúc nào thử học bài Chứng Đạo Ca xem. Chắc cũng phải năm hoặc ba ngày mới thuộc. Còn bài hát nào hay, học chừng nửa tiếng là thuộc hết. Kinh điển hỏi thì ít ai nhớ, nhưng bài hát, hỏi bài nào cũng thuộc!

Đến sư trưởng cần cầu đại pháp là có mục đích, có lý do. Xa xôi, lặn lội lên cầu pháp của Hòa thượng thì phải cung kính, và phải bẻ gãy tâm ngã mạn của mình.

“Bằng hỏi việc thường trong chùa chẳng buộc lạy, quỳ. Chỉ đứng vững bên Thầy cứ thật tình mà thưa. Hoặc Thầy thân tâm mỏi mệt, dạy lui phải lui, chẳng nên tâm tình chẳng vui hiện bày sắc mặt.”

Chẳng hạn thầy tri khố hay thầy tri sự lên xin thầy tiền bạc, hoặc thưa trình việc gì, khỏi cần quỳ lạy, chỉ đứng thưa thật tình thì đúng pháp oai nghi. Nếu thầy nói thôi bây giờ tôi mệt quá, xuống đi, để mai tính. Nghe vậy rồi bực bội, sắc mặt thay đổi, hiện nét không vui là không đúng, là mình bị tổn phước.

Luật Ngũ Phần Thập Tụng ghi:

“Làm đệ tử thường mến đức của thầy, chớ nên soi mói lỗi nhỏ.”

Ở với thầy phải mến đức thầy mới ở được. Còn soi mói từng lỗi nhỏ thì lúc nào đó sẽ thấy lỗi của thầy. Có những lỗi không đáng cũng moi ra được, thầy chưa chứng quả vị A-la-hán mà. Làm vậy là bị chướng ngại rất nhiều và rất khó tu, gặp thầy ở đâu mình cũng tránh. Không thích thì sao mà ở được. Cho nên, đệ tử phải coi thầy giống như cha mẹ thì mới ở suốt đời được. Còn không mình ở chừng một, hai hay ba năm rồi cũng kiếm đường nhảy.

“Thuận theo thì được lợi ích, mà tìm lỗi thì vướng khổ đau.”

Rất là rõ. Thuận theo lời dạy của thầy thì được lợi ích, tìm lỗi thì vướng khổ đau. Vướng khổ đau về cho mình! Thầy không tổn gì hết mà mình tổn trước, tu không được, ngồi thiền không được. Lúc ngồi thiền, hình ảnh đó hiện ra, rất là khó tu, vậy là vướng khổ đau về cho mình!

Kinh Pháp Luật Tam Muội ghi:

“Người ngu si ở thế gian chỉ thấy người khác ác mà chẳng tự biết mình ác.”

Người ngu thấy người khác ác mà thấy mình lúc nào cũng thiện. Thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình.

“Chỉ thấy mình thiện chẳng thấy người khác thiện. Kẻ tự xưng mình là người trí đều chẳng phải là trí, người tự cho mình sáng suốt là kẻ rất u mê. Người nói tôi biết Kinh cũng là lầm vậy. Người nói tôi biết đại pháp mà chẳng phụng sự Sư trưởng thì chẳng thể tin được.”

Nói ngộ đạo, ngộ thiền gì không biết, mà đối với bậc sư trưởng, đối với bậc thầy có tâm khinh thường thì đó là nói dối.

“Trí Phật rộng lớn chẳng thể đo lường. Người thấy nghe được chút ít cho là đủ rồi sanh lòng cống cao, là người trí được ư?”

Kinh Xuất Diệu Phẩm Quán thứ 24 ghi:

Khéo xét lỗi của mình, lỗi mình chẳng lộ ra; người khác tự có lỗi, như bụi nhỏ tung bay.”

Mình không có, mình lúc nào cũng thiện, cũng tốt hết. Còn lỗi người thì như bụi nhỏ tung bay, cũng thấy hết.

“Nếu tự xưng không lỗi, hai việc đều cùng đến, tức là chẳng thấy lỗi mình mà thấy lỗi người. Hễ thấy lỗi của người, hằng ôm lòng nghi hại, thấy xa chẳng thấy gần.”

Kinh Thiện Cung Kính Phật dạy:

“Đệ tử ở chỗ thầy chẳng đặng nói lời thô. Có lỗi, thầy quở trách chớ nên nói trả lại. Thầy không mở lời hỏi chẳng được vội nói. Phàm thầy sai khiến chớ nên trái mạng. Bằng ở chỗ thầy không có tâm cung kính và nói tốt xấu của sư Tăng, người ngu thế đó phải y pháp trị tội. Hoặc thầy có lỗi còn không nên nói huống chi thầy không có lỗi. Tuy không ở với thầy nhưng không cung kính cũng phải bị đọa làm thân bốn đầu trong địa ngục Trì phát, toàn thân phát ra lửa dữ, tợ như đống lửa đốt mãi không ngừng. Ở nơi ngục ấy lại bị trùng độc nhỏ nhọn như móc câu thường mổ vào lưỡi. Ra khỏi địa ngục sinh làm súc sanh ăn phân cứt. Hết thân súc sanh, tuy được làm người nhưng sinh vào nơi biên địa, màu da đen, người chẳng giống người, luôn bị khinh dễ phỉ báng lăng nhục, xa Phật xa Pháp, mê ám ngu si. Sau khi mạng chung lại đọa địa ngục, chịu vô lượng vô biên khổ nạn.”

“Nếu lỡ phạm giới không được giấu diếm, mau đến trước thầy cầu xin sám hối. Thầy tha thứ rồi tha thiết phát lộ, chân thành hối cải, lại được thanh tịnh. Sám nói đủ là sám-ma nghĩa là nhẫn, tức là mong được người khác tha tội. Hối nghĩa là trung chi hối, hối quá, tức là hối hận tội ở quá khứ, tỏ bày lỗi lầm của mình trước Phật, Bồ-tát, Sư trưởng hay đại chúng với mục đích mong được diệt tội gọi là sám hối.”

Nếu lỡ phạm giới, bất cứ tội gì: trộm cướp, tà dâm, nói dối, vọng ngữ…, không được giấu diếm mà phải mau đến trước Thầy và đại chúng tha thiết cầu sám hối.

Theo Kinh Kim Quang Minh Văn Cú quyển ba, có ba loại sám hối:

1- Tác pháp sám hối:

Sám hối được thực hành theo tác pháp Phổ Luật Nghi. Chẳng hạn phạm giới Tăng tàn, nếu đã thọ giới Tỳ-kheo thì phải đến trước hai chục thầy Tỳ-kheo thanh tịnh sám hối thì tội mới hết. Hoặc phạm tội đột-kiết-la thì quý thầy phải đến trước bốn vị thầy thanh tịnh, gọi là tác pháp sám hối.

2- Thủ tướng sám hối:

Quý thầy phạm tội mà sợ quá không dám đến trước Thầy, cũng không dám đến trước đại chúng thì phải dùng pháp thủ tướng sám hối, là pháp quán tưởng tướng hảo của Phật để diệt tội. Nghĩa là quý thầy phải như lý tác ý vào hình tượng của Phật, 32 tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.

Như khi Hòa thượng hay quý Thầy lớn bệnh, quý thầy ngồi thiền để hồi hướng công đức. Phải như lý tác ý, lúc này không đoạn trừ vọng tưởng mà tâm thức duyên theo đối tượng, gọi là như lý tác ý vào đối tượng muốn hồi hướng công đức tu tập.

Ngày xưa bà Thanh Đề bị đọa địa ngục, các ngài phải dùng phương pháp như lý tác ý, dùng năng lực mà các vị đã chứng quả A-la-hán rồi tác động đến, thì lúc đó bà mới tỉnh ngộ chuyển hóa.

Phương pháp thủ tướng sám hối cũng vậy, mình như lý tác ý vào hình tượng Phật, tự nhiên thấy hình tượng Phật khác hơn ngày thường. Ngài hiện ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp rõ ràng. Quý thầy quán chiếu thì những hạt giống phiền não, cù cặn rơi rụng hết gọi là đắc pháp nhẫn, lúc này tội chướng mới trừ được.

Quý thầy phạm tội nhỏ, như làm bể ly, bể tách thì đến sám hối với Thầy. Còn phạm trọng tội, chẳng hạn như tội Tăng tàn, thì nhiều khi Thầy không đủ năng lực nên không dám chứa mình. Nhưng mình tha thiết được ở trong chúng, thành ra thực hành thủ tướng sám hối là biến khắp mười phương thế giới thì tội mới dứt, rồi phải nhớ là không được tái phạm.

Phương pháp thủ tướng sám hối rất thù thắng, nếu đủ duyên vào thất là quý thầy phải dùng phương pháp sám hối này. Quán tưởng về đức Phật, về công hạnh của các Ngài, sẽ thấy tại sao công đức của các Ngài lớn như thế, tâm hạnh và đại nguyện của các Ngài rộng như thế mà mình lại quá nhỏ bé, hẹp hòi. Lúc này tâm thức quý thầy sẽ phát triển rộng ra.

Tuy nhiên phương pháp sám hối này phải ngủ nằm mộng thấy hảo tướng của Phật, hoặc thấy Phật xoa đầu, thấy mười phương chư Phật, hoặc ngồi trên hoa sen, bay lên hư không, thấy điềm lành, điềm lạ thì mới hết tội, đây gọi là tội Ba-la-di.

Kinh Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật có nói ai mà thành kính sám hối, tối nằm mộng thấy đi qua một cái cầu lớn là biết mình đã diệt tội một vạn kiếp. Đêm thứ hai, thấy trời mưa là cũng hết tội, rồi thấy được người cho trái cây ăn thì tu hành sẽ thành tựu đạo nghiệp. Rồi mộng thấy, đi vào hội chúng toàn là Bồ-tát thì lúc này mới biết chắc chắn mình được diệt tội.

Phân tích tinh thần sám hối, giống như ra khơi. Đi trên một chiếc thuyền không có buồm thì không đi được. Có buồm thì gió thổi thuyền chạy rất nhanh. Phương pháp sám hối này tiêu biểu cho cái buồm, muốn đi nhanh đến đích là phải cần sám hối.

Ngày xưa, thấy người ta sám hối tôi nói tu thiền cần gì sám hối. Sau này lớn lên, tu một thời gian, bệnh tật, nghịch cảnh, nghịch duyên đến thì thấy rất cần sám hối. Tôi làm nhà khách, nghỉ một ngày, sám hối một ngày, cho nên tôi tranh thủ mười giờ rưỡi sáng lên thiền đường nhà khách sám hối nửa tiếng.

Có lúc đang sám hối tôi phát minh: cái thân ngũ uẩn của mình rất dơ, phiền não, sân si từ vô lượng kiếp, phải dùng nước sám hối súc thì nó mới sạch. Cũng như cái ly dơ phải rửa sạch thì mới rót nước uống được. Cái bình ngũ uẩn được súc sạch rồi thì chánh định, chánh thọ và đại định, đại pháp mới rót vào được. Tôi thấy vậy nên khuyên quý thầy phải cần sám hối. Sám hối rồi thân tâm nhẹ nhàng, an ổn. Tuy nhiên, phải biết phương pháp chứ không phải lên sám mà không biết gì. Phương pháp sám hối nó có tướng, nhưng từ tướng nó đi vào cái vô tướng chứ không phải như thiền định.

3- Vô sanh sám hối:

Là pháp sám hối bằng cách quán lý thật tướng, nhớ nghĩ tướng của tội là vô sanh:

Tánh tội vốn không do tâm tạo,

Tâm nếu diệt rồi tội sạch trong.

Tội trong tâm diệt cả đều không,

Thế ấy mới là chơn sám hối.

Tức là quán chiếu đến mức độ tánh tội đều là rỗng không thì tội dứt. Cần phải sám hối phương pháp này cho thuần thục. Mỗi ngày tụng kinh xong quý thầy nên bỏ ra khoảng 10 đến 15 phút thực tập phương pháp sám hối này. Quán chiếu sâu sắc “Tánh tội vốn không do tâm tạo” để khi hấp hối, những tội từ vô lượng kiếp không hiện ra, không tạo tác, không đưa quý thầy đến cảnh giới dữ, không đọa vào ba đường ác. Dù cho quá khứ chúng ta phạm giới mà nhờ phương pháp này, tương lai cũng được sạch tội, bởi vì tội nó vốn không, giống như đám mây vậy. Tuy nhiên phải nhớ, sám hối rồi không được tái phạm chứ sám, mà vẫn tạo là không được.

Trong Kinh Tịnh Nghiệp Chướng có ghi:

Vào thời quá khứ rất xa xưa có một Tỳ-kheo tên Dõng Thi, vô tình phạm bốn trọng tội căn bản trong giới cấm của Phật là sát sanh, trộm cắp, dâm dục và nói dối. Ngài biết chắc chắn sẽ đọa địa ngục nên đem ba y treo lên tích trượng rồi kêu lên:

- Tôi phạm trọng tội, ai vì tôi mà sám hối?

Ngài xướng như thế nhưng không ai dám sám hối cho.

Mình đừng nghĩ, có tội gì cũng đứng trước thầy trình hết, để rồi thầy tha. Thầy nghe vậy hoảng luôn không dám chứa nữa. Người mà đứng ra sám hối cho mình toàn là những bậc đại Bồ-tát.

Ngài đến tinh xá gặp một vị tôn giả tên là Tỳ-cúc-đa-la, tôn giả nói:

- Truy tìm tánh của tội trọn không thể được.

Tỳ-kheo Dõng Thi hoát nhiên suốt thân đại ngộ, liền qua thế giới phương Nam thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác hiệu là Bảo Nguyệt Như Lai cho đến mãi ngày hôm nay.

Tại sao ngài không sanh về phương Bắc, phương Tây, phương Đông mà lại về thế giới phương Nam? Phương Nam tiêu biểu cho cung Ly, Ly thuộc Hỏa, Hỏa thuộc về tâm, nhận ra được tâm thức thì xong. Sau khi ngộ được tâm thức của mình, tìm lại “Ba thuở tìm tâm, tâm chẳng được; Tấc lòng kiến vọng, vọng hoàn không” thì đúng. Tìm lại thì không thấy mà ngay lập tức ngộ đạo, chứ không phải bay về phương Nam thành Phật.

Thường xuyên sám hối như thế, khi cận tử nghiệp đến phải nhớ. Phạm bốn trọng tội mà khi ngộ được tâm thức, nhìn lại tìm nó không có, không có thì hết tội. Mà phải là người đại dõng mãnh, đại tinh tấn mới được.

Như câu chuyện Ngài Duy-ma-cật khai thị:

Có hai thầy Tỳ-kheo đi khất thực, một người vào rừng đang nằm ngủ thì bị cô gái đốn củi đi ngang thấy vậy đến hành dâm.

Ngày xưa, coi đến đoạn này tôi không tin. Sau này tôi có người em tu bên Khất sĩ biết, mặc cái y hạ mà giở lên là thấy hết.

Thầy Tỳ-kheo bị cô gái đến hành dâm rồi giựt mình dậy thấy đồ bất tịnh dính trên người nên kể cho thầy Tỳ-kheo bạn vừa về nghe. Người này nghe xong bèn rượt theo cô gái, cô sợ quá rớt xuống hố chết. Hai thầy đến ngài Ưu-ba-ly trình thì Ưu-ba-ly nói:

Một ông phạm tội dâm, một ông phạm tội sát, sẽ đọa địa ngục, tôi không dám sám hối.

Ngài Duy-ma-cật quán sát căn cơ hai Tỳ-kheo này tu tập đại thừa đã lâu, đâu đem nước biển cả mà đựng vào dấu chân trâu được, cho nên ngài khai thị:

- Xét cùng tột thì tánh của tội hoàn toàn không thể tìm được, không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Mé trước chẳng đi, mé sau không lại, mé giữa không dừng, truy tìm trong ba khoảng thời gian hoàn toàn không thể được.

Ngay tức khắc hai vị Tỳ-kheo ngộ nhập được tri kiến Phật và phát tâm đại thừa dũng mãnh, sau này thành Phật.

Qua câu chuyện này, quý thầy thấy người ngủ như vậy có phạm tội không? Tại cô gái đốn củi đi ngang qua thấy, rồi vào chứ thầy Tỳ-kheo có rủ rê gì đâu. Rồi người rượt theo chỉ muốn hỏi cho ra sự tình chứ đâu có nói là rượt cho chết, không ngờ cô gái sẩy chân chết. Theo tinh thần của Nguyên thủy thì chắc chắn một người phạm tội dâm và một người phạm tội sát, nhưng mà tìm tột cái tánh tội thì không có. Đây là phương pháp vô sanh sám hối.

Theo Tứ Phần Luật Yết Ma Sớ, sám hối chia làm ba loại:

1- Chúng pháp sám hối:

Thực hành sám hối trước Tăng chúng từ bốn vị trở lên.

2- Đối thú sám hối:

Thực hành sám hối trước một vị Sư trưởng.

3- Tâm niệm sám hối:

Thực hành sám hối trước Bổn Tôn, tức là trước hình tượng Phật.

Theo Kinh Đại Thừa Lục Tình Sám Hối, Phật dạy:

“Sám hối trước hình tượng Phật phải niệm công đức chư Phật không thể nghĩ bàn, thường tư duy thật tướng thì tiêu trừ chướng nghiệp.”

Đến trước tượng Phật Thích-ca Mâu-ni phải niệm công đức chư Phật, người ta xin mắt cho mắt, xin đầu cho đầu, xin cái gì cho cái nấy. Tất cả công đức lành của chư Phật làm, quý thầy phải biết, phải nhớ. Lúc này quán chiếu công đức của chư Phật không thể nghĩ bàn. Rồi tư duy thật tướng của Phật, mà tư duy thật tướng thì thể nhập vô tướng, thể nhập vô tướng thì tiêu trừ chướng nghiệp.

“Quy mạng phổ khắp lục đạo chúng sanh không bờ mé, quy mạng mười phương vô lượng chư Phật. Chư Phật chẳng khác mà cũng chẳng một, một tức tất cả, tất cả tức là một.”

Có nghĩa là như lý tác ý, là quán tưởng một vị Phật, rồi thấy hằng hà sa số chư Phật trước mặt, trong hằng hà sa số mới nhập lại thành một. Đây là quán chiếu về sự.

“Tuy không có chỗ trụ mà thảy đều trụ, tuy không có chỗ làm mà thảy đều làm. Mỗi mỗi tướng hảo, mỗi mỗi lỗ chân lông biến khắp vô biên cõi tận đời vị lai, không chướng, không ngại, không có sai khác, giáo hóa chúng sanh không có dừng nghỉ.”

Quán chiếu từng lỗ chân lông của đức Phật, thấy những lỗ chân lông của Phật biến chiếu ra khắp tam thiên đại thiên thế giới.

“Vì cớ sao? Vì mười phương thế giới một trần một niệm, sanh tử Niết-bàn không hai không khác. Đại Bi, Bát-nhã chẳng thủ chẳng xả, được thì chẳng cùng pháp tương ưng. Nay đối với chỗ này là thế giới Hoa tạng, Phật Lô-xá-na ngồi trên đài Liên Hoa phóng vô biên ánh sáng, nhóm vô lượng chúng sanh, chuyển bánh xe pháp đại thừa mà không có chỗ chuyển, đại chúng Bồ-tát biến khắp mười phương cảm thọ vui thích chánh pháp đại thừa mà không có chỗ cảm thọ.”

Mình rúng động, có một sự cảm thọ trong lúc sám hối mà không chấp vào đó thì đúng tinh thần thủ tướng sám hối.

“Các tội như thế chẳng có thể biết hết. Chư Phật, hiền thánh vì con chứng biết, các tội đã làm thật tâm sám hối, chỗ chưa làm lại không có dám làm. Các tội này thật không có chỗ có, các duyên hòa hợp giả danh làm nghiệp.”

Sau khi quán chiếu thật tướng về sám hối rồi, những tội mình đã làm bây giờ không tiếp tục tạo nữa, mới dứt hết tâm sám hối.

“Thầy nói chưa xong không được nói, nghĩa là thầy nói chưa xong không được cắt ngang để nói ý mình. Bởi ấy thầy không dạy nữa mình mất lợi ích, lại mất sự tôn kính. Cũng không được nói lý tranh hơn thua.”

Nghe qua thấy đơn giản, nhưng trong Kinh Tạp Thí Dụ Phật kể:

Trong Tăng Đoàn có một thầy Tỳ-kheo hay cướp lời các vị trưởng lão. Chẳng hạn trưởng lão Xá-lợi-phất, trưởng lão Mục-kiền-liên đang nói Phật pháp thì vị thầy đó cướp lời. Nhân đó Phật kể câu chuyện:

Ngày xưa ở vương quốc nọ, có một vị tể tướng hay cướp lời vua nên vua rất phiền lòng. Một hôm, vua đi vào rừng, gặp một chú bé bị liệt hai chân nhưng có tài búng sỏi rất chính xác. Vua thấy hay quá nên mời về cung. Vua sắp xếp một buổi họp quan trọng, bảo chú lấy phân dơi và dặn:

- Khi nào Trẫm đang nói chuyện mà quan tể tướng chen vào, thì cho phép nhà ngươi búng một cục phân dơi vào miệng vị tể tướng.

Quả tình, khi vua đang nói thì quan tể tướng cướp lời. Vừa mở miệng, chưa kịp nói thì bị chú bé núp sau cái màn, bí mật búng một cục phân dơi vào miệng. Vị tể tướng rất đỗi ngạc nhiên, sau buổi họp đến thưa với vua:

- Hôm nay không hiểu tại sao mỗi lần thần mở miệng định nói thì có một vật gì rất nhỏ bay vào họng.

Vua cười nói:

- Vì khanh hay nói hớt lời, nên ta mới bí mật làm như thế, như thế…

Người hay nói hớt lời người khác thì không được lợi ích như những người lắng thần nghe, giống như vị quan tể tướng, chẳng những không được lợi ích mà còn đau khổ. Có người nói chuyện mà mình lắng thần nghe, dù người ta nói hay, nói dở gì, tự mình cũng có một cái pháp an lạc riêng của mình.

Bữa nọ tôi dắt thầy Công Phúc đi mổ mắt, vào bệnh viện gặp một vị cư sĩ. Vị này nói về Phật giáo, về thiền rất hay, cũng có nghiên cứu sách của Hòa thượng. Như ngày xưa, họ vừa nói là tôi muốn nói theo, còn bây giờ tôi lắng thần chiêm nghiệm. Cho dù mình biết chắc rằng người đó công phu chưa có gì, nhưng họ nói về Phật pháp, về chánh pháp, về chỗ thấy của họ thì mình đừng chen vào, đừng nói gì hết, chỉ lắng thần nghe thì cũng được lợi ích trong cuộc sống tu hành. Còn hay tranh cãi là không lượm lặt được những pháp hành của người cư sĩ, không biết họ hành như thế nào để rút tỉa kinh nghiệm và truyền đạt cho người khác.

Nếu có người bạn đồng tu đến chia sẻ giáo pháp với mình, quý thầy cứ chịu khó lắng nghe. Gặp người có chiều sâu tâm thức, hoặc hay hơn, hoặc không hay hơn thì mình cũng chịu khó thực tập và sửa chữa. Còn người ta vừa nói, mình đã muốn cướp lời, về nhà họ phiền não, rồi mình cũng biết sai nên luôn bị trạo cử hối hận. Cho nên lắng thần nghe thì mình được lợi lạc, huống chi là nghe thầy Tổ của mình.

Tinh thần của Bồ-tát Quán Thế Âm là tinh thần lắng nghe. Có người nào đó đến tâm sự, mình phải tập như Bồ-tát Quán Thế Âm, lắng nghe nỗi niềm đau khổ của chúng sanh. Quý thầy một khi làm trụ trì phải tập phương pháp này. Hoặc làm nhà khách mà không lắng nghe, không chia sẻ nỗi khổ của người khác thì không thể nào làm tròn được. Qua thời gian nhập thất, rồi làm Phật sự, làm nhà khách tiếp xúc rất nhiều người, bây giờ tôi có chỗ thấy khác hơn ngày xưa. Chịu chịu khó lắng thần nghe, và nghe trong chiều sâu thẳm của tâm thức, có cái chiếu diệu vào thì tu rất nhẹ nhàng, an ổn.

Thiền thoại có ghi:

Thiền sư Nam Lợi lúc còn là Sa-di, đến cầu thiền sư Mạc Lôi chỉ về công án Tiếng Vỗ Một Bàn Tay. Đây là công án của thiền sư Bạch Ẩn, một vị thiền sư rất nổi tiếng. Bởi vì ngài thấy chư Tăng ngày nay học hỏi rất nhiều, chính cái học hỏi đó là kiến thức, là ý thức sanh diệt. Ý thức sanh diệt thì chia chẻ, phân biệt, là khái niệm, trừu tượng mà không đạt đến chỗ tâm thức của ngộ. Thiền đòi hỏi phải ngộ, phải thấu suốt chiều sâu tâm tức, hoặc thân, hoặc tâm hoặc pháp giới. Mà bây giờ học nhiều quá, đó là chướng ngại cho đường công phu. Cho nên ngài đưa ra công án Tiếng Vỗ Một Bàn Tay. Một bàn tay làm sao vỗ?

Vị Sa-di này tức là ngài Nam Lợi đến thỉnh thiền sư Mạc Lôi:

- Bạch Hòa thượng! Cho con một công án.

Thiền sư Mạc Lôi nói:

- Ông hãy về lắng thần nghe tiếng vỗ của một bàn tay.

Chú Sa-di mới mười ba, mười bốn tuổi nhưng có căn khí rất cao, lúc đang ngồi thiền chú phát hiện ra điều gì, vui mừng đến gặp thiền sư:

- Bạch Hòa thượng! Con đã nghe được tiếng vỗ của một bàn tay.

- Ông nghe cái gì?

- Bạch Hòa thượng! Con nghe tiếng nhạc khí diễn tấu.

- Không phải.

Chú Sa-di về công phu tiếp, ba tháng sau lại đến gặp thiền sư:

- Bạch Hòa thượng! Con biết rồi, con hiểu rồi.

- Ông hiểu như thế nào?

- Bạch Hòa thượng! Con nghe tiếng nước suối chảy.

Thiền sư cũng nói không phải. Sau đó chú Sa-di tiếp tục đến trình: nghe tiếng gió, tiếng dế, tiếng mèo gào…, nghe tiếng gì chú cũng đều cho là tiếng vỗ một bàn tay, gần ba năm liên tục như thế. Tất cả các tiếng thiền sư đều lắc đầu. Đến năm mười tám tuổi, chú Sa-di quyết định rời tất cả, rời Thầy Tổ, huynh đệ vào ẩn sâu trong núi tu. Một hôm chú siêu việt tất cả âm thanh và chợt nhiên đại ngộ. Ngài nói: “Té ra âm thanh của thế gian đều là vô thường, chỉ có âm thanh mà không có tiếng mới thật là tiếng vỗ của một bàn tay.”

Đến trình thì thiền sư gật đầu:

- Đúng! Đó là tiếng vỗ của một bàn tay.

Té ra âm thanh của thế gian đều là vô thường. Lời của thầy, của huynh đệ mình nói ra, hoặc khen, hoặc chê, quý thầy nghiệm xem có đúng là vô thường không? Nhưng mà vừa khen hay chê là ý thức nắm bắt liền. Cái ý thức nắm bắt đó nó có tướng, chính cái tướng đó làm chúng sanh chìm đắm trong ba cõi tham, sân và si. Đó là cảnh của Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

Ở đây, ngài nghe được trong cái âm thanh đó, hoặc tiếng khen hoặc tiếng chê, tiếng suối chảy hoặc tiếng gió, tiếng dế, tiếng trùng… đều là vô thường. Chỉ có âm thanh không có tiếng mới thật là tiếng vỗ của một bàn tay. Một vị thiền sư người Nhật nói: “Trong các thứ âm thanh, chỉ có âm thanh im lặng là vi diệu nhất.”

Có lúc nào đó, quý thầy ngồi lắng thần chiêm nghiệm, cái nghe, cái bị nghe đồng thời có mặt trong giờ phút thực tại, là lúc mình cảm nghiệm: “A! Trong thế giới này có một cái vi diệu vượt bực” thì đúng tinh thần thiền. Mình tu, mình tin chắc rằng có lúc nào đó chợt nhận ra được. Chư Phật chư Tổ chỉ cho mình biết là của nơi mình chứ không đâu khác hết, cho nên gọi là chợt nhận ra. Chợt nhận ra thì khác ngộ ra. Ngộ ra là cái gì bên ngoài, còn chợt nhận ra được, là nó có sẵn.

Không có vọng tưởng, không phân biệt gì hết thì cảnh giới rất an ổn. Chính cái yên lặng là vô niệm, mà vô niệm luôn luôn có sẵn. Đa niệm thì bên ngoài, là phóng tâm. Thiền nguyên thủy quán sát rất tường tận, khi đóng cửa biết đang đóng mạnh hay nhẹ, tâm thức duyên vào, quán chiếu, biết đang thực tập. Cửa mà đóng cái rầm thì trong giờ phút thực tại đó đang phóng niệm. Phóng niệm liên tục thì không bao giờ ngộ được chỗ tiếng vỗ của một bàn tay. Cho nên, công phu oai nghi thấy đơn giản, nhưng toàn bộ đều nằm trong cảnh giới thực tập quán niệm về thân, quán niệm về tâm.

“Chẳng được ngồi chơi chỗ thầy, cùng mặc áo mão của thầy.”

Sa Di Học Xứ ghi:

“Đệ tử thọ học phải tôn kính chỗ của thầy, hoặc dùng cái tâm đùa giỡn mà ngồi thì tội lỗi chẳng ít. Kính chỗ ngồi của thầy tức là kính thầy vậy. Phàm thân cận với sư trưởng phải ôm lòng tôn kính.”

Đây là chỗ thị giả cần phải học. Kính thầy, phải kính cả chỗ ngồi của thầy. Ghế của những vị tôn túc ngồi quý thầy dám ngồi lên không? Ghế hoặc võng của Hòa thượng, của thầy Trụ trì mình ngồi lên thì mất sự tôn kính. Hòa thượng đâu có quở mình, nhưng vì các ngài luôn luôn có những vị hộ pháp theo, trong những đó có ông thiện và ông ác. Ông thiện thì bỏ qua nhưng ông ác thì không chịu.

Chính chúng tôi chứng kiến, và để ý theo dõi, ngày xưa ở Thường Chiếu có một thầy đố như thế này:

- Đố ai dám ngồi ghế Hòa thượng?

Một thầy khác nói:

  • - Ngồi thì ngồi chứ sợ gì!

Nói rồi vị thầy này leo lên ngồi. Thấy rất đơn giản, nhưng trong giờ phút thực tại đó có cái gì chen vào? Có cái ngã! Nếu vô tình ngồi lên ghế thầy Trụ trì thì đâu có gì, nhưng nghe thách đố mà ngồi là có cái ngã mạn nằm trong đó. Chính cái ngã mạn nó chiêu cảm quả báo xấu. Một thời gian sau vị này tu không được phải ra đời. Ra đời rồi khổ nên lại đến một ngôi chùa ở thành phố xin làm công quả để sau này xuất gia. Sân thượng của ngôi chùa này nhìn qua cái sân banh. Một hôm trong lúc xem đá banh trên sân thượng, vị cư sĩ này vỗ tay la lên rồi rớt từ sân thượng xuống đất chết! Ba năm sau mới chiêu cảm quả khổ này, còn lúc mới làm thì không ai thấy hết.

Cho nên kính thầy là phải kính cả chỗ ngồi của thầy.

Thiền thoại có ghi:

Thiền sư Phật Quang khi thuyết pháp khai thị đồ chúng thường ngồi trên bảo tòa. Bảo tòa tượng trưng cho pháp, tiêu biểu cho ngộ, do đó bảo tòa còn gọi là pháp tòa. Một hôm Thiền sư đi vắng, pháp tòa trống trải không ai ngồi. Vị thị giả vào thấy thầy tri khách, thầy tri sự, thầy duy-na, thầy hương đăng, rồi thầy y bát, thầy điện chủ đến ngồi trên pháp tòa nói cười, đùa giỡn. Vị thị giả không vui nói:

- Tại sao các ngài vào đây ngồi?

Các vị này trả lời:

- Thiền sư vắng nhà thì ngồi chứ có gì đâu!

Thị giả nói:

- Thiền sư không có ở nhà, vậy thì các thầy thay mặt thiền sư làm Trụ trì, trước hết mời các thầy khai thị tiếp tâm cho tôi.

Lúc này các thầy không đáp được.

Qua câu chuyện này mình thấy: pháp tòa của một vị Hòa thượng đàng đầu, của một vị Trụ trì, cho dù sau này đủ duyên tiếp tâm độ chúng, cũng không được lên pháp tòa ngồi cái ghế của các ngài, huống nữa là ngồi trên đó nói chuyện.

Áo mão của thầy cũng không được mặc, ly nước của Hòa thượng đàng đầu cũng không được cầm uống. Cái bát, cái quạt, cái nón, cái khăn, bất cứ vật dụng nào của các ngài cũng đều tiêu biểu cho pháp, tiêu biểu cho ngộ, để mà thờ kính chứ không được dùng. Khi các vị thị giả đem cho đồ dùng của các vị Thầy lớn, chẳng hạn đôi giày hoặc cái y, cái áo của Hòa thượng… người nhận chỉ đem về thờ thôi chứ không dám mang, không dám mặc. Như vậy mới đúng là kính dường bậc sư trưởng. Mình không biết mình mặc, mình mang… đều bị tổn phước. Cho nên tinh thần Hai Mươi Bốn Oai Nghi, quý thầy làm thị giả cho những bậc tôn túc cần phải học kỹ.

“Thầy dạy đem thơ tín chẳng được riêng mình mở coi, cũng chẳng được cho người khác coi. Đến khi có hỏi đáng trả lời thì cứ thật tình mà trả lời, không đáng trả lời thì khéo lời mà lui. Người cầm không được ở lại, phải một lòng nhớ Thầy mà trông về.”

Bây giờ thư bỏ bưu điện nên không có chuyện này. Nhưng ngày xưa toàn đi bộ, có khi phải đi cả năm. Thầy dạy đi đưa thư thì không được mở ra xem, điều này oai nghi không cho phép. Hoặc trên đường đi có người chận lại hỏi, mình nói đem thư của thầy, người ta tò mò đòi xem, mà mở ra cho xem là không đúng. Các ngài đưa thư, có trường hợp là nhờ đạo hữu khai thị cho đệ tử, hoặc xem người đệ tử đó đã ngộ nhập được chưa. Các ngài biết, nhưng muốn để người bạn mình khám phá nữa.

Trong Thiền Sư Trung Hoa Tập Một có ghi câu chuyện:

Khi Thiền sư Thanh Nguyên sai thiền sư Hy Thiên đem thơ sang thiền sư Hoài Nhượng, ngài dặn:

- Ngươi giao thơ xong về thật nhanh, ta có một chiếc búa nhỏ để cho ngươi ở núi.

Hy Thiên đến Thiền sư Hoài Nhượng, chưa trình thơ đã nói như thế này:

- Khi chẳng mộ chư Thánh, chẳng trọng tánh linh mình thì thế nào?

Thiền sư Hoài Nhượng đáp:

- Ngươi hỏi tột cao xanh, sao không hỏi trở xuống?

Thiền sư Hy Thiên trả lời:

- Thà chịu vĩnh kiếp trầm luân chứ chẳng mộ chư Thánh giải thoát.

Thiền sư Hoài Nhượng gật đầu, nói người này đã ngộ, được quyền ở núi.

Thiền sư Thanh Nguyên sai đem thơ là để Thiền sư Hoài Nhượng kiểm nghiệm đệ tử của mình. Qua câu chuyện đối đáp này, mình thấy đâu có gì mà sao nói ngộ? Thiền sư Hy Thiên nói: “Khi chẳng mộ chư Thánh, chẳng trọng tánh linh mình thì thế nào?” Nếu mình chưa phải là chủ, mà chỉ là khách tăng hay thiền khách, chưa ngộ thì mình sẽ trả lời như thế này như thế nọ. Nhưng Thiền sư Hoài Nhượng đã gài bẫy Thiền sư Hy Thiên: “Ngươi hỏi tột cao xanh, sao không hỏi trở xuống?” Hỏi tột cao xanh là cao, sao không hỏi trở xuống là thấp. Nghĩa là giữa cái cao, cái thấp mình phải siêu việt, phải tột đến cảnh giới này. Thiền sư Hy Thiên trả lời: “Thà chịu vĩnh kiếp trầm luân chứ chẳng mộ chư Thánh giải thoát” thì vượt thoát, mà vượt qua cảnh giới đó thì Thiền sư Hoài Nhượng gật đầu.

Thiền sư Hy Thiên về đến chùa, Thiền sư Thanh Nguyên hỏi:

- Ngươi đi không lâu, đem thơ đến chăng?

Thiền sư Hy Thiên đáp:

- Kinh cũng chẳng thông, mà thơ cũng chẳng có đến.

Ngài đưa thơ rồi mà nói như vậy, ở đây là cảnh giới gì? Là cảnh giới của Kim Cang Bát-nhã: “Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ cố danh Như Lai.” Có nghĩa là chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu, đó là người đem thơ chân chánh. Người được Thầy sai đưa thơ không phải tầm thường, mà thầy muốn người bạn gạn lại đệ tử của mình xem cái cảnh giới đó đệ tử đến như thế nào, tột như thế nào.

Hy Thiên thuật lại việc gặp Thiền sư Hoài Nhượng cho Thiền sư Thanh Nguyên nghe, và thưa:

- Khi đi nhờ Hòa thượng hứa cho chiếc búa, tiện đây xin nhận lấy.

Sư liền duỗi một chân, Hy Thiên lễ bái và từ đó từ giã về núi tu.

Thấy duỗi một chân mình ngạc nhiên: “Con xin Thầy chiếc búa mà Thầy duỗi chân chi vậy?” thì trật rồi. Nhưng ở đây vừa duỗi một chân lễ bái liền.

Qua câu chuyện này, nhớ chuyện lúc Thế Tôn nhập Niết-bàn rồi, tôn giả Ma-ha Đại-ca-diếp vừa đến lễ lạy thì Thế Tôn duỗi chân ra, đâu khác gì đưa cành hoa sen lên. Tức là cái thấy chiếu diệu vào trong cảnh giới Bát-nhã. Trong cảnh giới này cũng chính là tiếng vỗ của một bàn tay.

Vừa duỗi chân ra lễ bái liền, đó là công nhận ông ngộ rồi, có quyền ở núi. Bây giờ quý thầy mới tu chừng một, hai năm gì đó tự nhiên cất cốc ở núi rất là nguy hiểm. Ngày xưa ngộ nhập vào chỗ tri kiến Bát-nhã rồi, các ngài thấy tột được rồi mới dám cho ở núi. Còn chưa ngộ mà ở núi thì sanh tâm sân hận và chìm đắm trong dục lạc.

Kinh Thập Giới nói:

“Phải đi ngay về thẳng, phải nhớ lời thầy dặn, và cũng phải nhớ lời người nói để về thưa lại với thầy.”

Thiền thoại có ghi:

Thiền sư Tông Nguyên được Thầy là Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo sai đi đưa thơ cho vị quan thượng thư. Ngài buồn không muốn đi và than:

- Tham học hai mươi năm chưa ngộ, bây giờ còn phải đi xa nữa.

Thiền sư Đạo Khiêm nói:

- Ông cứ đi đi, tôi sẽ đi theo ông. Trên đường đi nếu cần làm việc gì tôi sẽ làm thay, nhưng ngoại trừ năm điều tôi không làm thay được: thứ nhất là mặc áo, thứ hai là ăn cơm, thứ ba là đại tiện, thứ tư là tiểu tiện, thứ năm là bước đi. Ngay trong giờ phút đó thiền sư Tông Nguyên đại ngộ, ngài vui vẻ bình thản ra đi. Ngài đi đưa thơ năm tháng trở về, từ xa Thiền sư Tông Cảo Đại Huệ nhìn khuôn mặt người đệ tử biết là đã đại ngộ, đã trút được gánh nặng rồi.

Thiền sư Đạo Khiêm khai thị: Tôi làm gì cũng được nhưng mặc áo anh phải tự mặc. Mặc áo biết đang mặc áo, ăn cơm, đại tiện, tiểu tiện, bước đi đều theo dõi tiến trình tâm niệm của tâm thì tu rất có kết quả.

Ngày xưa, bên Trung Quốc, chiều lại người đệ tử vào thất Hòa thượng trình kiến giải một ngày tu tập. Thầy hoặc đánh, hoặc hét, khai thị thì mới ngộ được. Bây giờ, vào thất dù chỉ hai mươi mốt ngày cũng phải trình để cho thầy chỉ, mà trình công phu tức là có tu. Dầu cho công phu dở cách mấy cũng phải trình. Ngày xưa chúng tôi nhập thất ba tháng, mà nửa tháng phải ra trình Hòa thượng rồi: “Công phu con đến giai đoạn này tự nhiên bế tắc, xin Hòa thượng chỉ giùm.” Hòa thượng chỉ, rồi tu rất là tiến.

Năm 1998, lúc đó vào thất như phong trào vậy, người nào cũng hồ hởi. Vào thất là công phu hết cỡ chứ không phải vào mà ăn rồi ngủ. Ai vô thất rồi ra đều thấy mình được tu giống như mười năm, hai mươi năm, con người tự nhiên chuyển đổi. Tuy ở ngoài lăng xăng, lộn xộn, nhưng vào thất chuyển hóa được rất nhiều. Những niệm tham dục, sân hận, ích kỷ, tật đố… ở ngoài bận rộn không thấy nhưng vào thất ngồi yên lặng nên thấy rất rõ. Lúc đó mới đứng vững và chuyển hóa nội tâm của mình.

Có một thầy nhập thất ba tháng xong ra nói: “Mình ngày xưa ở ngoài do không biết nên làm việc nhiều quá rồi đụng rất nhiều người. Bây giờ ra đây mình thấy ngày xưa mình sai rất nhiều.” Bao nhiêu đó thôi là đã ngộ rồi. Ngộ ra được tình người, hoặc nói, ngộ ra được pháp giới tánh, nó phải là trong trạng thái như thị. Đó là ngộ rồi, đâu cần nhiều.

“Thầy nói chuyện với khách, ta đứng chỗ thường là hoặc bên thầy hoặc sau thầy, phải cho tai mắt tiếp nhau hầu thầy khi cần dùng.”

Sa Di Học Xứ ghi:

“Bình thường hầu thầy phải hết lòng cung kính để trọn hiếu đạo.”

Bộ Thành Phạm ghi:

“Phàm thấy khách đến phải sanh tâm cung kính, đừng sanh tâm biếng lười và khinh dễ. Phải lau ván, nấu trà và các việc.”

Các vị thị giả phải nhớ chỗ này.

Thiền sư Từ Thọ Thanh có ghi:

Dưới hiên gặp Tăng cần hỏi thăm,

Trước cửa gặp khách mời gọi nhau,

Xuất gia hình thái nên khiêm nhượng,

Chớ học người ngu lễ số không.

Quý thầy làm nhà khách, tri khách hoặc làm thị giả, nếu gặp một vị tăng hay vị khách nào đó đến Thiền viện, mình phải xá xuống hỏi: “Thầy ở đâu đến? Đến đây cần chuyện gì? Thầy ăn cơm chưa?” Tiếp đón niềm nở thì mình tăng trưởng công đức. Có một hôm khoảng mười hai giờ rưỡi trưa, tôi gặp bốn vị thầy ở Sài Gòn lên, tôi xá xuống hỏi quý thầy ở đâu đến, dùng cơm chưa. Quý thầy nói chưa, tôi lật đật dọn bốn phần cơm mời quý thầy. Hỏi ra mới biết quý thầy là những vị có năng lực lớn trong tăng đoàn hiện nay.

Mình tiếp duyên, mình ân cần thăm hỏi tự nhiên họ có cảm tình. Còn mình không tiếp đón niềm nở, thứ nhất mình tổn đức, thứ hai họ chê trách Thiền viện, cho là Hòa thượng hay Thầy Trụ Trì dạy thế nào mà quý thầy không có oai nghi phép tắc, lễ nghĩa gì hết.

Xuất gia hình thái nên khiêm nhượng. Không phải mình xá, mình hỏi thăm, mời cơm rồi người ta cúng dường. Đừng nghĩ như thế. Đem tâm khiêm nhường, tâm học hỏi, tâm vì lợi ích chung ra tiếp người thì trước hết mình có phước đức. Không phải một bữa cơm mà họ cúng dường, họ thấy tâm mình ân cần, niềm nở, khiêm nhường nên tự nhiên họ có tâm với mình. Họ đến xin cúng dường tôi, tôi nói quý thầy lên cái chuông ở Tam bảo, cúng dường bao nhiêu tùy hỉ.

Chớ học người ngu lễ số không. Lễ Phật lễ Tổ thành kính lắm mà không chịu thực tập thì cũng như số không thôi, không được gì hết. Tu mới là quan trọng, rất quan trọng!

“Thầy có tật bệnh, mọi việc hết lòng nuôi dưỡng: phòng nhà, mền nệm, thuốc thang, các việc điều trị.”

Thầy có bệnh phải hết lòng săn sóc. Như lúc Hòa thượng bệnh, không chỉ Thiền viện Trúc Lâm mà tất cả các Thiền viện: Thường Chiếu, Viên Chiếu, Linh Chiếu, Phổ Chiếu… đều lo hết. Vì sao?

“Thầy chính là cha mẹ của pháp thân.”

Cha mẹ mình sanh ra thân này nhưng thầy Tổ sanh ra pháp thân.

“Con trẻ ở thế gian chẳng có thể một ngày mà không có cha mẹ.”

Thầy bệnh mình cũng rất lo, mình tưởng mình thương Thầy chứ thật ra mình thương chính mình. Mới xuất gia mà thầy ra đi thì ai nuôi mình? Chắc gì sư huynh nuôi mình bằng thầy. Người xưa nói mình chỉ ở được với thầy thôi, chứ đến tá túc với sư huynh, sư đệ không chắc được đâu, ở cho vui một hai năm rồi cũng ra đi. Còn với thầy ở cả đời cũng được. Bị bất cứ lỗi nhỏ nào, thầy cũng bỏ qua. Chẳng hạn mình ăn cắp, thầy kêu lên rầy rồi thôi, vì thầy có lòng thương, bây giờ đuổi nó biết đi đâu. Nhưng mà sư huynh thì không bỏ qua đâu. Mình ở với Hòa thượng, với thầy Trụ Trì được, nhưng nếu sư huynh hay sư đệ lên làm trụ trì thì có chắc mình ở được hay không. Chừng đó khó lắm, tôi kinh nghiệm bản thân rồi.

Ngày xưa trong chúng có một số người lớn tuổi, chùi cầu tiêu không được, quét sân không được, mà cũng không chịu học, không chịu tu. Tôi nói thầy ráng tu, ráng học đi, tuy không làm gì được nhưng kiến thức có, tu tập có, ngồi thiền hai tiếng được, rồi thầy sẽ đôn lên. Lớn tuổi đời, năm mười tuổi đạo rồi mà hỏi đạo pháp không biết, ngồi thiền hai tiếng cũng ngồi không nổi. Nhìn xuống đàn em mình ngồi thiền hai tiếng khỏe re, hỏi Phật pháp, kiến giải gì nó cũng biết hết nên buồn tủi ra đi.

Cho nên Thầy chính là cha mẹ của pháp thân. Con trẻ ở thế gian chẳng có thể một ngày mà không có cha mẹ. Mình rất cần Thầy. Tôi làm nhà khách, người ta đến cúng dường lúc nào cũng cúng dường Hòa thượng hoặc thầy Trụ trì để nuôi chúng, chứ không bao giờ cúng dường cá nhân. Cho nên phải nhờ Thầy, mình mong Thầy sống lâu để mình nương cho tới trưởng thành.

“Mà con trẻ xuất thế chẳng có thể một ngày không có Pháp sư trưởng.”

Luôn luôn phải nhờ thầy nhắc nhở. Tôn kính thầy nên thầy nói mình mới nghe, còn sư huynh sư đệ nhắc nhở thì không nghe đâu.

“Nên kính thuận Pháp Sư trưởng như vị cha mẹ, nếu có bệnh tật phải dụng tâm điều trị. Hoặc trong lúc Thầy bệnh có trách mắng cũng phải vui vẻ mà nhận chịu. Thủy chung phụng sự chớ sanh chán bỏ. Phải niệm thân là gốc khổ, có thân thì phải khó thoát khỏi cái bệnh tật này. Phải quán niệm như thế thì mới hầu Thầy chu đáo.”

Ngài Liên Trì kể:

Pháp sư Trúc Pháp Quảng ở núi Thế Thanh, nhà Tấn, người Hạ Bì, xuất gia với Pháp sư Đàm Ấn, có lần Thầy ngài mắc trọng bệnh thập tử nhất sinh, ngài thành tâm lễ bái liên tục bảy ngày đêm, sám hối ngồi thiền hồi hướng công đức cho Thầy. Đến đêm thứ bảy Hòa thượng Đàm Ấn thấy tia sáng năm màu từ hư không phóng qua cửa phòng sáng rực, Hòa thượng cảm thấy nhẹ nhàng, an ổn, từ đó về sau hết bệnh. Tâm thành cảm đến mức độ như vậy.

Hôm hay tin Hòa thượng bệnh, tất cả các Chiếu đều ngồi thiền. Ngồi thiền hồi hướng có năng lực chứ không phải là không có. Trong lúc ngồi thiền có năng lực, tự nhiên người thân của mình cũng cảm thấy được an ổn, nhẹ nhàng.

Trong “Gương Sáng Người Xuất Gia”, Đại sư Liên Trì kể:

Thiền sư Thiện Ngộ trụ trì chùa Vân Cư nhà Tống, mỗi khi nghe có người mắc trọng bệnh bị đưa đến Diên Thọ Đường là ngài lo lắng mãi giống như chính mình mắc bệnh. Sớm tối đến thăm hỏi, tự thân lo liệu ăn uống, sắc nấu thuốc thang. Khi nấu thuốc ngài luôn nếm trước, không có độc tính hoặc tác dụng phụ mới an tâm đưa cho người khác uống. Trời hơi lạnh ngài liền hỏi một cách âu yếm: Áo mặc có ít quá không? Trời nóng, quan sát sắc mặt hỏi: Có nóng quá không? Khi bệnh nhân chết, bất luận họ giàu hay nghèo, Tăng thường trụ hay Tăng thập phương đều lo liệu hậu sự cho thật là chu đáo.

Ở Thường Chiếu có thầy Tỉnh Cần, là sư huynh của tôi, mỗi lần sắc thuốc cho Thầy tôi xong là sư huynh uống trước một chút, ngồi một tiếng đồng hồ, thấy không có phản ứng gì mới đưa Thầy tôi uống. Sau đó rửa, cất kỹ để mai nấu tiếp. Mai nấu xong cũng uống thử, chờ một tiếng. Ngày nào cũng vậy, bất cứ thuốc gì cũng đều uống thử trước như thế. Sư huynh tôi không bao giờ đội nón, không mang dép, ngủ không mắc mùng, bố thí cho muỗi mà không bị bệnh gì hết; cảm, sổ mũi, nhức đầu cũng không có. Tôi rất phục. Hầu Thầy phải đúng như vậy sẽ cảm ứng.

Trong Truy Môn Cảnh Huấn nói:

“Trong các thứ khổ, chỉ có bệnh khổ là nặng hơn hết; và trong các thứ việc tác phúc, chỉ có việc chăm sóc bệnh nhân là quý hơn hết. Thế nên cổ nhơn cho người có bệnh là thiện tri thức, và khuyên người lấy việc nuôi bệnh nhân là phúc điền.”

Huống chi người bệnh là thầy của mình. Thầy bệnh khó ăn, nếu ai nấu nướng riêng cho thầy thì phải tùy hỉ chứ đừng sanh tâm tật đố sao thầy không ăn chung với mình, như vậy mình tổn phước. Phải lo liệu, chăm sóc cho thầy khỏe thì mới đúng.

Trong Thiền Sư Nguyệt Đường có ghi:

Thiền sư Hoàng Long Huệ Nam lúc ở Tích Thúy bị bệnh rất nặng, ba tháng không bước ra đến cửa. Thiền sư Chân Tịnh Khắc Văn là người coi sóc viện, lo quá nên làm đủ mọi cách: ban đêm tha thiết cầu đảo, đốt đèn trên đỉnh đầu, đốt tay, ngửa mặt cầu cứu âm tướng, trì chú, tụng kinh… để cầu cho ân sư mình bớt bệnh.

Sau khi Hoàng Long Huệ Nam bớt bệnh, nghe như vậy ngài trách:

- Sanh tử của ta hẳn nhiên là có phần, ông tham thiền mà chẳng được cái lý đó ư?

Thiền sư Chân Tịnh Khắc Văn đối trước mặt Hòa thượng nói:

- Tùng lâm có thể không có Khắc Văn, chẳng có thể không có Hòa thượng.

Tùng lâm này mà thiếu Hòa thượng, thiếu Thầy trụ trì mình thấy sao?

Người xưa bảo hộ chánh pháp. Chẳng hạn, trong Thiếu Lâm Tự, các vị hộ pháp sẵn sàng chết để Hòa thượng sống. Hồi vào đạo tôi cũng có tư tưởng hộ pháp như thế. Mỗi lần Hòa thượng Tôn sư đi giảng xa, thầy Trụ trì Thường Chiếu kêu chúng tôi đi theo, ở gần pháp tòa Hòa thượng giảng. Tôi có tâm niệm nếu lỡ có chuyện gì mình phải sẵn sàng ra chết thế để Hòa thượng sống. Hòa thượng sống để làm lợi ích chúng sanh, chớ cái mạng của mình có lợi ích gì! Đi hộ pháp, hộ vệ cho những vị Hòa thượng lớn là mình phải có tư tưởng đó. Quý thầy đừng sợ, việc làm này đúng, bảo đảm chết tức khắc sanh về cảnh giới lành vì đây là người chơn chánh hộ pháp.

Lúc Thầy tôi mổ thận, tôi đang nhập thất. Ở trong thất mà hay tin Thầy bệnh, phải thành tâm sám hối để hồi hướng công đức lành này cho Thầy. Ở đây quý thầy Trụ trì nào bệnh tôi cũng thường mua chim, cá về phóng sanh. Tuy đây là pháp thế gian nhưng nó trợ duyên cho người bệnh. Tôi cũng phóng sanh, hồi hướng phước lành đến Hòa thượng. Âm thầm làm thôi chứ không phổ biến.

Quý thầy ra làm Phật sự, phải sẵn sàng hy sinh bảo vệ tùng lâm để cho người khác tu. Chẳng hạn, chiều ai cũng ngồi thiền mà cắt quý thầy ra làm bảo vệ trật tự, cứ hy sinh bảo vệ trật tự đi, đó là lập hạnh đại nguyện Bồ-tát đi vào cuộc đời này. Khi đủ duyên vào thất, quý thầy tu hành có kết quả hơn một người trốn chui trốn nhủi không chịu làm gì hết. Người hy sinh cho đại chúng tu tập sẽ có năng lực lớn hơn, họ đi vào chiều sâu tâm thức nhanh hơn. Còn trốn không chịu làm gì hết, khi vào thất sẽ bị chướng ngại rất nhiều. Ở đây tôi nói những người lớn chứ không phải mới xuất gia. Mới xuất gia không làm Phật sự, phải ráng tu thôi.

Quý thầy lớn mà được cắt làm Phật sự, cứ hy sinh đi, tự nhiên có kết quả. Chẳng hạn một thầy được giao làm tri khố ba tháng hoặc sáu tháng, nghĩ làm nhiều vậy chắc tu không được. Nhưng do năng lực lúc làm việc tạo tác phước điền, nên khi vào thất tu có kết quả nhanh hơn, theo bản thân chúng tôi kinh nghiệm.

Nghe câu chuyện này, các bậc thức giả trong thiền môn chẳng những không chê trách mà nói rằng: “Thiền môn nói Chân Tịnh kính thầy, trọng pháp thành tâm chí thành như thế, ắt sau này phải thành bậc đại pháp khí.”

Quả thật sau khi ngài Hoàng Long tịch, ngài Chân Tịnh lên làm trụ trì, tùng lâm rất hưng thịnh, độ một ngàn mấy trăm chúng. Dưới trướng ngài năm mươi mấy người ngộ đạo. Ngài thành bậc đại pháp khí trong tùng lâm bởi vì ngài có tâm hạnh lớn, tâm hạnh Đại thừa Bồ-tát đạo đi vào cuộc đời.

Trong những bộ Đại Tạng, Phật kể những câu chuyện nhỏ, thấy rất đơn giản nhưng đều tạo công đức phước điền trong tùng lâm, tạo năng lực hạt giống cho mình sau này. Chẳng hạn, buổi chiều cho chó, cho cá ăn, thấy rất đơn giản nhưng sau này nó lên làm đệ tử, nói gì nó cũng nghe. Còn mình không kết duyên nhiều khi nó cãi lại.

Bộ Thành Phạm nói:

“Sắp đặt nhà kín, kỵ gió, kỵ ẩm thấp. Giường nệm cho dày và êm. Coi nhan sắc thầy. Lúc ra lúc vào phải dìu đỡ đúng phép. Nêm canh, nấu cơm, sắc thuốc. Thầy có hơi bớt thì sanh tâm vui mừng. Thường đem tâm hiếu thảo và sắc mặt cho vui kính thờ thầy. Khách đến thăm viếng, khéo thế lời Thầy mà nói chứng bệnh, và bớt hay không cho khách biết khỏi phải bận rộn thầy. Cần nên nghiêm tịnh và yên lặng. Bằng thầy mệt, bệnh quá nặng, định tâm nghĩ đến Phật và tìm phương cứu chữa, chớ nên khóc lóc. Rủi thầy viên tịch chớ nên trái lời thầy dạy, trối trước khi. Phải mỗi mỗi y lời dạy mà vâng làm.”

Chẳng hạn như Lục Tổ nói:

Các ông ở lại mà vui. Sau khi tôi diệt độ chớ làm theo thế gian mà khóc lóc như mưa. Nhận lễ vật cúng dường, điếu tang, thân mặc hiếu phục, chẳng phải là đệ tử của tôi, cũng không phải là chánh pháp.

Trước khi viên tịch ngài đã dặn, nhưng trong chúng ai cũng khóc, các ngài Pháp Hải, Pháp Đạt, Thạch Sương đều khóc. Chỉ có ngài Thần Hội không khóc. Lúc này Lục Tổ nói:

- Các ông ở trong núi hai, ba mươi năm mà thua tiểu sư đệ. Tiểu sư đệ thần tình bất động không than khóc gì hết.

Sư sai cạo tóc xong, đắp y bảo đánh chuông giã từ chúng rồi ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt, Sư chợt mở mắt bảo:

- Người xuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật là tu hành chân chính, sống nhọc tức chết, thương xót có lợi ích gì. Mà mấy ông khóc là khóc cho ai? Nếu tôi không biết đường thì tôi không báo trước. Tôi biết trước tôi báo rõ ràng có nghĩa là tôi biết nhà cửa tôi ở đâu rồi tôi mới báo. Mấy ông khóc phải là khóc cho mấy ông hay không?

Nếu Thầy nói bây giờ Thầy không biết đi đâu, đường trước mờ mờ mịt mịt, thì mình khóc rõ ràng là thương Thầy. Còn Thầy báo ngày mấy, tháng mấy Thầy tịch là Thầy đã biết trước ở đâu rồi thì mình phải mừng. Mình khóc thì Phật, Tổ quở.

Thiền thoại có ghi:

Thiền sư Bảo Phước nói với đại chúng:

- Bây giờ tôi yếu rồi không còn khí lực nữa, tôi sắp lìa cõi đời này rồi.

Đại chúng khóc lóc, ai cũng muốn chết theo Thầy. Lúc này có một vị đệ tử nhỏ, mới Sa-di thôi, bước ra nói:

- Nếu thời hạn đã đến thì Thiền sư đi cũng tốt, ở lại cũng tốt. Mà đủ duyên thì đi!

Thiền sư cười lên ha hả nói:

- Lòng ta muốn nói mà không ngờ bị ngươi trộm nghe hồi nào.

Nói xong bắt chân kiết già thị tịch. Trong tùng lâm có những bậc kỳ đặc như thế.

“Phàm hầu thầy, thầy chẳng dạy ngồi chẳng dám ngồi.”

Chẳng hạn, lên gặp Hòa thượng hoặc thầy Trụ trì, mình xá mình thưa chuyện mà thầy không nói gì hết thì mình phải đứng, chứ mình sà xuống ghế để Thầy mời khách ngồi là không đúng. Chừng nào Hòa thượng nói: “Thôi chú ngồi xuống” thì mình mới ngồi. Còn không nói gì hết thì đứng suốt luôn mới đúng phép hầu thầy.

“Thầy chẳng hỏi chẳng dám thưa, trừ mình có việc cần muốn thưa mới hỏi. Phàm đứng hầu chẳng nên nương vách, dựa ghế. Phải vững mình bằng chân, đứng một bên.”

Bộ Ngũ Thập Tụng có ghi:

“Chẳng nên ở trước thầy thân hiện tướng mỏi mệt, co ngón bẻ lóng tay kêu lách cách, dựa cột, tường vách, và không nên đạp ngạch cửa, đứng dang tay.”

Kinh Bồ Tát Tùng Đâu Suất Há Sanh có ghi:

Thị giả hầu Thầy phải cần đủ tám pháp:

1- Tín tâm kiên cố.

Phải tin Thầy, thương và kính Thầy lắm mới làm thị giả được.

2- Tâm tìm học tấn tu.

Hầu thầy chắc chắn gặp những vị khách Tăng đến thưa hỏi về đạo lý. Mình phải lắng thần nghe khách hỏi thế nào, Thầy giải thích thế nào. Ai đủ duyên, biết được làm thị giả lâu năm cần có cuốn sổ để ghi lại pháp ngữ, thiền ngữ của thầy. Tôi không làm thị giả nhưng mỗi lần đưa khách vào đảnh lễ Hòa thượng, tôi đều ghi lại hết. Hồi xưa tôi ở Thường Chiếu, nhiều lúc khách đông, tôi đứng bảo vệ kề Hòa thượng. Có một người mới xuất gia hỏi:

- Bạch Hòa thượng, Hòa thượng chỉ con làm thế nào tu thành Phật nhanh trong một đời này.

Hòa thượng hỏi lại:

- Hằng ngày chú làm gì?

Bao nhiêu đó thôi, tự trả lời. Tôi ghi lại hết, người đó ở đâu, ngày mấy, tháng mấy. Ghi lại để sau này Hòa thượng tịch mình dồn lại thành một cuốn gọi là Pháp Ngữ Của Hòa Thượng. Lời Hòa thượng dạy rất là hay, mình bỏ qua không ghi lại rất uổng!

Bây giờ có sách học, đều là nhờ những vị thị giả ngày xưa ghi lại hết. Vào thời Đức Phật thì nhờ ngài A-nan, rồi thị giả của ngài Hám Sơn, Ngài Hư Vân đều ghi lại pháp ngữ của các ngài. Sau khi các Ngài tịch, pháp ngữ được in ra thành những quyển sách dày.

3- Thân không có các bệnh.

4- Phải tinh tấn.

5- Đủ tâm thương Thầy.

6- Tâm không kiêu mạn.

Ỷ mình làm thị giả cho Hòa thượng hoặc Thầy Trụ trì rồi coi quý thầy ở dưới không ra gì là sai, phải có tâm thương huynh đệ. Chẳng hạn như sáng Hòa thượng chống gậy ra nhà khách đi dạo, Hòa thượng hỏi: “Chú thấy ông thầy đó sao?” Mình phải nói: “Dạ, thầy đó tốt lắm, siêng lắm” thì cái phước mình nó tăng trưởng. Còn mình nói: “Con thấy thầy đó trốn đi chơi, đi karaoke” là chết người ta luôn. Chính cái tâm này nó giết mình. Học oai nghi phép tắc, rồi học trong luật mình thấy cần phải có tâm thương chúng, thương huynh đệ.

7- Tâm bình tĩnh và định đoạt.

8- Có đủ trí mà nghe.

“Phàm muốn kính lạy, bằng thầy bảo thôi nên nghe lời thầy chớ lạy. Phàm thầy cùng khách đàm luận câu chuyện liên quan đến đạo có ích thân tâm đều phải nhớ lấy.”

Trong Oai Nghi có nói rõ, muốn lạy, Thầy nói thôi đừng lạy mà quý thầy ráng lạy là không có đức, không có phước mà còn bị tổn. Đó là không kính lời Thầy dạy. Mình xá xuống, Hòa thượng nói thôi đừng có lạy thì đứng lên liền. Rồi phàm hầu Thầy mà có khách đàm luận về đạo có ích cho bản thân mình thì phải lắng thần nghe.

Thiên Thành Phạm nói:

“Hoặc thầy hỏi khách đáp, hoặc khách hỏi thầy trả lời, chớ nên nghe lời quái lạ kinh sợ, cũng chẳng được thấy mà cười.”

“Phải biết ý tứ câu nói và lời đúng tôn chỉ để tâm ngẫm nghĩ. Bằng có chỗ kiến giải hay, phải đến thưa thầy chứng nhận hoặc chỉ lại những chỗ sai lầm.”

Chẳng hạn, Hòa thượng nói chuyện với khách mà quý thầy nghe, phát minh được tâm địa thì phải trình Hòa thượng liền: “Hồi nãy Hòa thượng nói với vị khách đó, con thấy tột được chỗ này.” Nếu Hòa thượng thấy chỗ đó sai, ngài sửa lại cho. Đúng thì Hòa thượng chứng nhận: “À, cái pháp đó ông cứ đi đi, tiến đến sẽ tốt cho đường đạo của ông.”

Cho nên khi có khách đến hỏi Hòa thượng về đạo pháp, quý thầy phải lắng thần nghe. Nhiều khi vị khách đó không ngộ mà chính bản thân mình ngộ.

Trong Sa Di Học Xứ ghi:

“Phàm thầy cùng khách đàm luận thảy đều là cơ duyên của Phật pháp. Muốn biết sự thâm diệu trong đó phải quán lời nói đạo lý tầm thường nhựt dụng hằng ngày, ấy là lời nói có đạo, tức là pháp ngữ. Song chấp lao phục dịch ấy là thêm lớn phúc điền. Nghe pháp ghi nhớ chính là tươi mát tâm địa, nên nói có ích cho thân tâm.”

Ở đây Tổ Tuyên Luật Sư nói hằng ngày làm trị nhật, hành đường là chỉ có phước điền thôi, Nghe pháp, ghi nhớ là thêm lớn cho thân tâm, là tưới mát cho tâm địa. Tâm mình tham dục, sân hận dẫy đầy, bây giờ nghe pháp giống như là tưới nước lên vậy. Thầy cùng khách nói chuyện, có khi nói chuyện đời, nhưng chính đó là đạo lý.

Thiền thoại có ghi:

Thiền sư Viên Ngộ tham vấn Thiền sư Ngũ Tổ Pháp Diễn. Nhân có một vị quan đến bàn luận với Ngũ Tổ Pháp Diễn, Ngũ Tổ đọc hai câu thơ:

Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự,

Chỉ yếu đàn lang nhận đắc thinh.

Nghĩa là:

Luôn kêu Tiểu Ngọc nguyên không việc,

Chỉ cốt anh chàng nhận được tiếng.

Ngay đó, Viên Ngộ ngộ được yếu chỉ của thiền.

Hai câu thơ trên trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng. Tần cô nương có tình ý với một chàng trai gần nhà. Một hôm chàng lân la đến nhà cô, ý muốn dò tìm xem phòng cô ở nơi nào, nhưng không biết nên đi lảng vảng bên ngoài. Cô tiểu thơ ở trên gác nhìn thấy mà không dám kêu vì sợ bị lộ. Ngay lúc đó cô nhanh ý gọi người hầu tên Tiểu Ngọc: “Tiểu Ngọc, đi lấy cái bình cho Cô.” Nghe như vậy là anh chàng kia biết cô ở phòng nào rồi.

Tu thiền là vậy, kêu đây nhưng ý đằng kia, ngay chỗ đó ngộ được yếu chỉ của thiền, mà chỉ là chuyện sinh hoạt hằng ngày thôi chứ không có gì lạ hết.

Thiền sư Đức Thiều tham vấn năm mươi bốn vị thiện tri thức mà pháp duyên chưa hợp nên ngài chán nản. Sau cùng ngài đến yết kiến ngài Pháp Nhãn. Do đi khắp Tùng lâm tham vấn mỏi mệt quá nên ngài không cùng chúng thưa hỏi nữa. Một hôm có một vị Tăng đến hỏi Thiền sư Pháp Nhãn:

- Thế nào là một giọt nước ở nguồn Tào?

Thiền sư Pháp Nhãn đáp:

- Là giọt nước ở nguồn Tào.

Vị Tăng ấy mờ mịt, nhưng ngay trong giờ phút đó, Thiền sư Đức Thiều hoát nhiên đại ngộ, đến trình kiến giải với Thiền sư Pháp Nhãn.

Vị Tăng muốn hỏi thế nào là yếu chỉ tâm yếu của Lục Tổ Huệ Năng, Thiền sư đáp lại câu đó, ngài Đức Thiều ngay tức khắc ngộ đạo. Có những câu chuyện mà giữa hai người đối đáp không dính dáng gì mình hết mà chính mình ngộ đạo.

“Thầy có sai khiến phải kịp thời làm xong, chớ nên trái trễ. Phàm ngủ nghỉ chớ nên trước thầy.”

Sa Di Học Xứ ghi:

“Nghĩa là ngồi trên sàn gọi là thùy, nhắm mắt gọi là miên. Ngũ ấm phiền não, đây là đệ nhất.”

“Phàm người hỏi tên húy của thầy phải nói trên chữ, dưới chữ. Phàm đệ tử phải lựa minh sư gần gũi thật lâu, chớ nên lìa thầy quá sớm. Bằng thầy không thật hiểu Phật pháp, phải rời riêng cầu ông lương đạo.”

Chẳng hạn, ai đến hỏi thầy Trụ trì tên gì, hoặc ông là đệ tử của ai, mình phải nói Hòa thượng thượng Thanh hạ Từ hoặc thầy thượng Thông hạ Phương.

Xưa Thiền sư Đoan Nhai dạy chúng rằng: “Ta thân cận Hòa thượng Cao Phong hai, ba mươi năm, thường thường đã chịu cốt nghĩ chưa từng khởi một tâm niệm xa lìa, người xưa tâm hạnh như thế.” Thiền sư Đoan Nhai hầu Thiền sư Cao Phong hai, ba chục năm mà chưa từng khởi một niệm bỏ chúng ra đi, luôn luôn hầu thầy và học hỏi thầy.

Tuy nhiên, nếu thầy không thật hiểu Phật pháp thì không nên nấn ná, phải rời đi để hầu thầy khác có tâm đạo pháp, có con mắt pháp nhãn.

Trong Kinh A Hàm Phật dạy:

“Thân cận Sư trưởng có bốn thứ:

1- Có pháp, có thực gọi là vui mà trụ.

2- Có pháp, không thực gọi là khổ mà trụ.

3- Có thực, không pháp, sám hối mà đi.

4- Không pháp, không thực, chẳng từ biệt mà ra đi.”

Chẳng hạn, ăn uống đầy đủ, có Phật pháp thầy Tổ dạy nữa thì mình vui mình ở. Lỡ ở chỗ nào có pháp mà không có thức ăn thì khổ cũng phải ráng mà ở. Còn có ăn mà không có pháp thì phải đắp y sám hối thầy Trụ trì rồi ra đi chớ đừng có bỏ ngang, bởi vì thầy cũng lo lắng cho mình. Không pháp, mà cũng chẳng có thức ăn thì quý thầy tự động ra đi không có lỗi.

Trong Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên Luật Sư nói cổ đức dạy:

“Chim dừng ở ắt chọn rừng, người cầu đạo ắt lựa chọn thầy. Vì thầy là người mô phạm, mô phạm đoan chánh ắt sản sinh ra bậc pháp khí thượng thừa.”

Ngày còn là cư sĩ, nếu đọc được đoạn này chắc chúng tôi không phải đi lang thang, ba chìm bảy nổi rồi mới gặp được Hòa thượng, gặp được thầy Trụ trì Thường Chiếu. Đúng ra, cư sĩ mới phát tâm cầu đạo cũng cần được học Hai Mươi Bốn Oai Nghi chứ không phải chỉ chư Tăng mới cần.

Đệ tử phải lựa chọn minh sư, tức là vị thầy sáng mắt mà gần gũi cho thật lâu, chứ không phải mới xuất gia một hai năm gì đó rồi buồn buồn cất thất tu một mình.

Có một thầy xuất gia khoảng năm năm, nói rằng lớn tuổi rồi nên ra cất thất gần biển tu. Nhập thất hai tháng đầu rất là tinh tấn, đến tháng thứ ba đang ngồi thiền mới nửa tiếng xả ra, cho rằng ngồi cũng thiền, đi cũng thiền. Đi một hồi tự nhiên khởi niệm đi Sài Gòn chơi, rồi đi Sài Gòn thật. Rốt cuộc tu không được. Cuối cùng chịu không nổi, thầy phải xin ra Trúc Lâm Yên Tử nhập chúng tu học. Lớn tuổi cũng bị vọng tưởng nó lừa như thường.

Đừng nghĩ mình lớn tuổi, chán ngán việc đời rồi, thôi bây giờ cất thất tu. Muốn cất thất tu ở yên một mình, giống như Quốc sư Huệ Trung, là phải đạt đến trình độ kiến tính, tức là nhận ra được bản thể của mình. Các ngài ngồi thiền là luôn luôn ở trong cảnh giới tam muội, tức là ở trong cảnh giới chánh định. Các ngài lấy cảnh thiền duyệt làm vui, là tự thân thọ dụng. Thọ dụng pháp chánh định thì các ngài ngồi yên mới được. Còn ở chúng mà có nhiều lúc còn bỏ ngồi thiền, huống chi là ở một mình trong thất!

Lựa thầy sáng mắt để mình gần gũi học hỏi, bắt chước cung cách và cuộc sống của thầy. Thầy mô phạm thì chắc chắn mai kia mình cũng trở thành mô phạm. Chẳng hạn, thầy Trụ trì giữ giới luật rất tinh nghiêm, mình muốn xin đi đâu cũng khó. Có như thế mình mới dồn hết năng lực vào việc tu hành, sau này mới thành bậc pháp khí. Bậc pháp khí là bậc làm lợi ích cho Tam bảo, làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Lúc mới phát tâm tu hành, tự túc duyên của quý thầy thôi thúc phải lên Trúc Lâm gặp Hòa thượng xin tu? Nếu do quý thầy tự tìm đến chứng tỏ túc duyên quý thầy sâu lắm, rất tốt. Còn như chúng tôi, đi lang thang đầu này đầu nọ rồi có người giới thiệu thì chỉ là bậc hạ thôi, chưa phải bậc thượng. Quý thầy tu học rồi mà muốn kiếp sau gặp Hòa thượng nữa, gặp một vị thầy sáng mắt dìu dắt cho mình thì phải tu hành như thế nào, chớ không phải có túc duyên tốt rồi tu xìu xìu thì chắc chắn kiếp sau cũng khó mà gặp được.

Nên Thiền sư Pháp Nhãn nói:

“Phàm là người tham học đã vào tùng lâm phải chọn lựa thiện tri thức, kế là phải gần gũi bạn lành. Bậc tri thức quan trọng là ở chỗ chỉ đường, bạn lành quý ở nơi mài giũa cho mình.”

Nếu mai kia không còn ở trong tùng lâm nữa, đi chỗ khác, mình phải chọn lựa thiện tri thức. Chọn lựa thiện tri thức chỉ là phần đầu, người mài giũa cho mình thành tựu bậc pháp khí là phải nhờ bạn. Chẳng hạn sáng, trưa, chiều, tối bạn rủ đi uống trà, đi ăn bánh ngọt rồi nói chuyện này chuyện kia thì làm sao thành bậc pháp khí? Bạn tốt họ chỉ mình: “Nè, sư huynh! Sư huynh sáng không tu, rồi trưa, chiều, tất cả mọi thời sư huynh đều không tu, suốt ngày sư huynh uống trà nói dóc thì sao thành bậc pháp khí được?”

Được bạn thẳng thắn mài giũa cho thì mới thành được bậc mô phạm, không thì chìm đắm mãi trong dục lạc. Cho nên nói, bạn lành quý là ở nơi mài giũa cho mình, mà thành tựu sau này cũng đều là nhờ nơi bạn.

“Chỉ muốn rảnh rang thân mình thì lấy gì mở mang cho hậu học, phát huy tông giáo, tiếp vật lợi sanh, ý để chỗ nào?”

Rảnh rang nghĩa là không chịu tu, không chịu học, không chịu mài giũa. Tối mình bỏ tụng kinh, bỏ ngồi thiền thì khỏe lắm, sướng cái thân lắm, nhưng như vậy lấy gì để chỉ cho người sau, cho đàn em của mình? Rồi lấy gì mà phát huy tông giáo, tiếp vật lợi sanh? Phải tu, phải học, phải mài giũa tập khí. Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói, chừng nào tập khí hết, trí huệ Bát-nhã vô lậu mới phát huy được. Còn không thì phải sám hối, tụng kinh, ngồi thiền, làm đủ hết.

Ở đây có câu chuyện xa Thầy quá sớm. Ngũ Đăng Hội Nguyên có ghi:

Hòa thượng Ngổ Quang ở Tuyền Châu lúc còn làm thị giả cho Thiền sư Đức Sơn, một hôm cùng Đức Sơn vào núi đốn củi. Thiền sư Đức Sơn bưng một chén nước đưa cho Sư, Sư tiếp lấy liền uống. Đức Sơn hỏi:

- Hội chăng?

Sư thưa:

- Chẳng hội.

Hôm nào đi với Hòa thượng mà Hòa thượng rót nước đưa mình uống là mình biết Thầy khai thị cho mình. Nhưng ở đây vị này chẳng hội.

Trong Thiền Sư Trung Hoa Tập 1 có câu chuyện:

Thiền sư Sùng Tín Long Đàm đến học với Thiền sư Đạo Ngộ ba năm mà không chỉ dạy gì hết. Một hôm, Thiền sư Sùng Tín Long Đàm đến thưa với Thầy:

- Con vào đây tu học, đinh ninh rằng thầy sẽ chỉ dạy tâm yếu cho con, nhưng đến giờ đã ba năm rồi mà chưa từng được chỉ dạy.

Thiền sư Đạo Ngộ nói:

- Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận. Ngươi xá lui, ta vì ngươi mà gật đầu, chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?

Ngay tức khắc Thiền sư Sùng Tín Long Đàm ngộ nhập được. Có nghĩa là đưa ra thì cái gì biết tiếp, biết nhận, biết gật đầu nếu không có chỗ đó?

Thêm một câu chuyện nữa:

Thiền sư Hư Vân đi hành cước, lúc bị kiết lỵ thì gặp Văn Cát, Văn Cát cho uống thuốc rồi đưa ly nước lên hỏi: “Hội Chăng?” Thiền sư Hư Vân mờ mịt. Sau khi ngộ đạo, ngài nói trong quyển Ngữ Lục: “Giá mà ngay trong giờ phút này thì ta đá bay ly nước.”

Tại sao đoạn đầu không đá mà đoạn này ngài dám đá? Có những giây phút nào đó tâm chúng ta tĩnh lặng, tự nhiên ngộ nhập được chỗ này. Có chỗ sống thực sự rồi thì đá cái ly là không nằm trên bình diện nhân quả. Bởi dùng tâm Phật tiếp tâm Phật, dùng tâm Không tiếp tâm Không, ngay trong thực tại dùng vô ngã tiếp cái vô ngã. Cho nên các ngài mới khẳng định rằng hạt cải chứa đựng núi Tu-di, núi Tu-di thì nhét trong hạt cải. Tâm Phật tiếp tâm Phật, tâm vô ngã tiếp vô ngã, dùng tâm Không tiếp tâm Không thì tội ở chỗ nào?

Câu chuyện tịnh bình của Thiền sư Bá trượng:

Thiền sư Bá Trượng đưa cái tịnh bình lên nói:

- Không được gọi là tịnh bình, vậy gọi là gì?

Thiền sư Hoa Lâm nói:

- Không thể gọi là cây lủng.

Tiếp đó Bá Trượng yêu cầu Linh Hựu trả lời. Linh Hựu không nói gì, lấy chân đá đổ tịnh bình rồi đi.

Thiền sư Bá Trượng dùng thuật ngữ “đây là cái gì”, “cái gì” đó thì còn nằm trong bình diện tâm hữu, tức là có cái tâm để phán xét. Nhưng Thiền sư Quy Sơn lấy chân đá đổ tịnh bình, ngay đó dùng tâm Không mà tiếp Tổ nên không bị nhân quả, mà được làm chủ núi Quy.

Đức Sơn lại đem một chén nước nữa đưa cho sư, sư tiếp lấy liền uống. Đức Sơn hỏi:

- Hội chăng?

Sư thưa:

- Chẳng hội.

Đức Sơn bảo:

Sao không cởi bỏ mà thể nhận lấy cái chẳng hội đi?

Sư thưa:

- Chẳng hội lại cởi bỏ cái gì?

Đức Sơn bảo:

- Ông giống hệt cây cọc sắt.

Tức là nói sao y vậy chứ không phát huy được năng lực thiền bên trong.

Về sau, Sư trụ trì Tuyết Phong tìm đến thăm hỏi Sư Ngổ Quang về câu chuyện trong lúc uống trà. Tuyết Phong hỏi:

- Khi ấy ở tại Đức Sơn, nhân duyên đốn củi ra sao?

Sư đáp:

- Tiên sư khi ấy chấp nhận cho tôi.

Qua câu chuyện quý thầy thấy có chấp nhận chưa? Chưa chấp nhận mà Sư ra trụ trì, nói là ngày xưa tôi đã ngộ bên ngài Đức Sơn rồi.

Thì Tuyết Phong nói:

- Hòa thượng xa Thầy quá sớm!

Tức là chưa ngộ nhập được tri kiến mà vội đi trụ trì rồi. Quý thầy thấy giống mình không? Tu mới có năm năm, ai thỉnh mình đi trụ trì, nhận cái chùa nào tốt tốt, đẹp đẹp là lên đường đi trụ trì.

Ngay lúc đó trước mắt chợt thấy một chén nước, Tuyết Phong bảo đem nước đến, Sư bèn đưa nước cho Tuyết Phong, Tuyết Phong nhận liền tạt đi. Ngay đó Sư cũng không khế nhập được.

Ở đây Thiền sư Tuyết Phong khai thị thêm một bước nữa mà Sư cũng không nhận được. Bởi vì ngày xưa lầm chấp đã ngộ nhập rồi thì bây giờ cũng lầm chấp ngay chỗ đó. Cho nên ngài Tuyết Phong mới nói “Hòa thượng xa Thầy quá sớm.”

Chúng ta học cũng vậy. Đến ở với Hòa thượng, với Thầy Trụ trì, tệ lắm cũng phải mười năm, hai chục năm, tốt nữa thì ba chục năm, đừng có đi sớm. Đi sớm nhiều khi mình tưởng rằng mình ngộ đạo rồi chứ thật ra chưa ngộ.

“Dẫu có lìa thầy nhưng cũng nhớ lời thầy dạy, chẳng nên luân tình tự ý theo người thế tục làm việc bất chánh.”

Chẳng hạn, ở trong chúng mà bị phiền não hay bức xúc với huynh đệ, mình bỏ đi qua tùng lâm khác. Cũng phải luôn luôn nhớ lời thầy dạy, chẳng nên luân tình tự ý theo người thế tục làm việc bất chánh.

Đại sư Liên Trì kể câu chuyện:

Pháp sư Pháp Ngộ ở chùa Trường Sa, Kinh Châu, triều Tấn, là học trò lớn của Pháp sư Đạo An, sau trụ trì chùa Trường Sa ở Giang Lăng. Đệ tử theo học với ngài rất đông, có đến hơn bốn trăm người. Một hôm trong chúng có một thầy uống rượu, ngài chỉ phạt nhẹ, không có đuổi đi. Thiền sư Đạo An ở xa nghe được, liền gửi đến cho ngài một cây roi bỏ trong ống tre. Pháp sư Pháp Ngộ mở ra thấy cây roi bèn nói: “Đây là do việc vị tăng uống rượu nên mới xảy ra việc này.” Ngài gióng chuông tập họp đại chúng và mang cây roi để ngay trước mặt, đốt hương chí thành và nằm xuống khóc lóc rồi lệnh cho thầy duy-na cầm roi đánh ba roi vừa khóc vừa trách mình.

Quý thầy thấy không? Trụ trì một phương xa rồi nhưng vẫn kính lời của Thầy. Khi Thiền sư Đạo An gửi cây roi đến, ngài biết rằng Thầy trách mình đã không xử phạt nghiêm minh, nên nằm xuống sai thầy duy-na đánh ba roi, vừa khóc vừa tự trách mình. Người xưa tu hành kín nhiệm hơn mình nhiều lắm.

Câu chuyện thứ hai cũng do Đại sư Liên Trì kể:

Thiền sư Hoài Trí người Kim Hoa, triều nhà Tấn, thời trẻ học pháp giảng kinh hoằng dương chánh pháp. Nhờ sự kích phát của thiền giả, Thiền sư đã ngộ, bỏ việc giảng kinh rồi đi tứ phương tham thiền học đạo. Sau đến đạo tràng Động Sơn gặp được Thiền sư Chơn Tịnh mà ngộ đạo, theo hầu Thiền sư Chơn Tịnh khá lâu. Một hôm khi ngài sắp rời Thiền sư, Thiền sư bảo: “Thiền học của ông tuy là hơn đời nhưng ông không có nhân duyên độ chúng, nếu sau này ông miễn cưỡng độ chúng, chỉ dẫn đến sự chửi mắng, ngược lại còn tạo nghiệp.” Ngài vâng mạng bái biệt khắc ghi trong lòng.

Đừng nghĩ rằng ráng tu để mai kia trụ trì cái chùa lớn. Có những bậc thiền giả tu ở núi mà tôi từng tiếp xúc, cơ phong của các ngài, cái thấy biết, cái tri kiến, kiến giải của các ngài rất là sâu kín, nhưng các ngài nói rằng không có duyên độ chúng. Mà miễn cưỡng ra độ chúng là chúng họ chửi.

Quý thầy có tin, chúng mà chửi thầy không? Có ông thầy hồi xưa cũng ở Trúc Lâm, sau này về Đồng Tháp nhận một cái chùa và hai đệ tử. Hai đệ tử bỏ thầy đi mà còn chửi thầy. Chửi mà thâu băng gửi về cho ông thầy. Không có nhân duyên độ chúng mà miễn cưỡng độ là chúng chửi. Chửi rồi tức, chửi lại thì tạo nghiệp xấu, thầy trò cùng đi xuống.

Trong Cao Tăng Truyện có kể:

Có một vị thiền tăng rất giỏi, được thầy dặn là sau khi thầy tịch thì muốn ở với sư chú, sư bác, sư huynh, sư đệ gì cũng được nhưng nhất định đừng nhận trụ trì. Sau khi thầy tịch, ngài ở với sư huynh. Cơ phong của ngài rất cao, kiến giải, thiền pháp của ngài cao vút. Sau khi sư huynh tịch, trong chúng đưa ngài lên làm trụ trì, ngài không chịu. Rồi đến sư cháu tịch mà ngài vẫn còn sống, nên đại chúng, kể cả các quan trong triều đều đề nghị ngài. Cuối cùng ngài phải bỏ pháp hội đó mà đi. Đến một tỉnh khác, vị thừa tướng ở đó quá mến mộ thiền phong của ngài nên cất chùa. Thỉnh ngài sáng ra làm lễ khánh thành, thì tối đó cái chùa cháy mất!

Đến Viên Châu, tín đồ mời ngài trụ trì chùa Dương Kỳ, ngài không làm nhưng không được. Sau du lịch đến Hồ Nam, dãy Cương Giang, Mục Dân Trạch Châu thỉnh ngài trụ trì chùa Thượng Phong hoặc chùa Hóa Thiền nhưng ngài đều cự tuyệt không nhận, bèn ở trong am tranh ở Hành Sơn hai mươi năm. Ngài có bài kệ rằng:

Muôn sự tỏ rõ,

Muôn duyên buông bỏ,

Không tranh với người,

Ngơ ngơ ngáo ngáo.

Vui chơi trong rừng sâu,

Làm bạn cỏ cây, chim thú,

Áo không cần thay,

Tựa tay làm gối.

Những năm cuối đời đại sư tham bái thiền sư Long An Chiếu. Thiền sư Chiếu sắp đặt ngài ở cung An Lạc trong chùa, sư y mệnh đó cho đến khi viên tịch.

Qua bài này, thấy người xưa luôn khắc ghi lời Thầy dạy.

Trong tông môn, Hòa thượng Phước Hảo cũng không có nhân duyên độ chúng. Ngài ở Huệ Nghiêm rồi lên Chơn Không. Đêm nọ, Thầy Đắc Pháp, Thầy Đắc Huyền, Thầy Trụ trì Thường Chiếu nói với Thầy Phước Hảo: “Đại huynh chưa có đệ tử, mai này không biết ai mà nhờ, thôi nhận mấy đứa này đi.” Tôi còn nhớ rõ, đó là năm 1984, năm cư sĩ, gồm có tôi và bốn người nữa chuẩn bị sáng mai được cạo tóc xuất gia thì tối đó người ta đuổi xuống hết không cho ở Chơn Không nữa! Rốt cuộc Thầy không có ai là đệ tử hết.

Túc duyên của Hòa thượng rất sâu, nên dưới trướng của ngài một ngàn mấy trăm đệ tử xuất gia. Hoặc như Thầy Trụ trì Thường Chiếu, bây giờ là ba trăm đệ tử, không phải chuyện đơn giản.

Đại sư Liên Trì nói:

Người đệ tử thời xưa khi Thầy mất rồi niềm tin càng kiên định, càng không trái lời Thầy. Người đệ tử thời nay, Thầy vẫn còn đó, niềm tin đã lung lay, biến đổi. Nguyên nhân do đâu? Quả thật do khi mới xuất gia không thật sự muốn nương tựa bậc có chánh tri kiến để thoát ly sanh tử, mà chỉ nhất thời hay vô tình bái làm Thầy mà thôi.”

Ngài nói người xưa ở với Thầy, nếu Thầy mất thì vẫn luôn nhớ lời Thầy dạy. Còn đệ tử thời nay mặc dù Thầy còn đó mà niềm tin đã lung lay: “Không biết ông thầy này ngộ đạo chưa mà ở?” Rồi kiếm đường đi. Do đâu? Do nhất thời hay vô tình bái làm Thầy, cho nên thấy danh lợi hoặc gặp bạn xấu rủ rê, liền bỏ Thầy lập tức.

Chẳng hạn đang ở với Hòa thượng, với Thầy Trụ trì, có người rủ: “Ông đi với tôi, ông làm phó trụ trì hay trụ trì cũng được, nghe đâu Phật tử đông lắm.” Nếu trong giờ phút đó, mình không biết cách chận, không biết cách chuyển, thì niệm danh lợi sẽ phát khởi: “Ở đây mình chỉ là chúng thường, ra đó làm phó trụ trì oai hơn.”

“Hoặc sai trái điều gì Thầy trách cứ hay đánh đập, hận Thầy bỏ đi nơi khác.”

Bỏ ngồi thiền, bỏ tụng kinh hoặc làm điều gì đó mà giờ thỉnh nguyện, thầy trách một hai câu, chiều cuốn gói liền. Ở một thời gian mới thấy trong đại chúng có nhiều người như vậy. Thầy nói nhẹ thôi nhưng cũng hận mà bỏ Thầy ra đi.

“Thậm chí có kẻ không theo bạn lành, chơi theo bạn ác, giống như từ trên cao mà đi xuống vực vậy, càng đi càng xuống dốc. Cũng không được ở nơi ồn náo như chợ búa, giếng nước.”

Cổ đức nói bậc hạ tu chùa, bậc trung tu chợ, bậc thượng tu trong triều đình, làm quan, làm tướng. Nghe vậy, bỏ chúng ra chợ tu, được không? Báo Giác Ngộ số 398 trang 30, tác giả Đinh Tấn Phước kể: Trong một chương trình ca nhạc ở Sài gòn, ông thấy cô ca sĩ mặc áo quần không kín đáo. Từ xa nhìn lên ông thấy bốn, năm người giành ngồi hàng ghế đầu, ông ngạc nhiên đến gần thì thấy bốn thầy Tỳ-kheo giành cái ghế đẩu để ngồi gần sân khấu! Rồi ông kể trong một lần ông ra Đà Nẵng, ông thấy ba bốn thầy chơi bi da vào lúc mười một giờ đêm! Ông tự hỏi, ở chùa ba giờ rưỡi sáng phải dậy công phu, bây giờ mười một giờ đêm còn thụt bi da thì giờ nào mới dậy để công phu? Ông đem thắc mắc này đăng lên báo Giác Ngộ!

Đọc bài viết này mà thấy đau. Một vị tu sĩ tuy, không biết ở chùa nào nhưng có hành động như thế thì cũng ảnh hưởng đến mình. Người này gọi là phá kiến chúng sanh, tội nặng hơn phá giới, quý thầy nhớ điểm đó.

Cho nên quý thầy còn trẻ mà xuống thành phố tu một thời gian, nếu không có môi trường tốt mà gặp bạn ác nữa thì bảo đảm đi coi hát suốt ngày. Có những vị thầy tôi hay gặp, hễ đi học về tối cỡ chín giờ là đi hát karaoke. Môi trường ở thành phố khó tu lắm, phải là bậc trung căn, thượng căn mới dám ở. Còn tiểu căn, thôi ở rừng núi hay hơn.

Trong Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên Luật Sư nói:

“Ở trong chợ ồn náo tạp loạn nên gọi là chỗ huyên náo, nếu chẳng phải là bậc đại lực lượng thõng tay mà vào, vào mà chẳng có trôi giạt thì mới được vào.”

Tổ Tuyên Luật Sư nói, chỗ ồn náo nếu chẳng phải là bậc đại lực lượng thõng tay mà vào, gọi là thõng tay vào chợ, thì bậc trung căn, tiểu căn không thể vào được.

Như câu chuyện của Đại Đăng Quốc sư, ngài đi đâu các đệ tử không ai biết. Tìm kiếm mười năm trời, vị trưởng tử mới phát hiện ngài sống dưới gầm cầu với những người ăn mày. Ở lại với Thầy, đêm đó người đệ tử phải cùng Thầy đào hố chôn người ăn mày bệnh hủi chết. Quốc sư Đại Đăng vẫn bình thản, nhưng vị đệ tử thì không chịu nổi. Sáng hôm sau người đệ tử đề nghị đi khất thực, Quốc sư nói có chén cháo còn dư của người ăn mày mới chết, hôm nay không cần đi kiếm ăn. Vị đệ tử không thể sống nổi như thế, nên từ giã Thầy ra đi.

Bậc đại lực lượng mới vào được. Sống dưới gầm cầu với những người ăn mày mười năm, ngài thử xem tâm mình còn dấy niệm phân biệt hay không. Tổ Huệ Khả thì vào quán rượu để thử lại tâm mình. Người xưa thử tới mức độ như vậy, còn mình thì thử không được.

Thiền sư Phổ Chiếu, dạy thử tâm bằng cách duyên theo một cảnh nào đó để xem còn niệm hay không. Chẳng hạn hôm nay muốn xuống núi, mình để hình ảnh một cô thiếu nữ trước mặt, rồi duyên thử xem tâm còn động niệm hay không. Nếu còn khởi dục niệm thì ráng ở núi tiếp năm năm nữa. Chừng nào không còn khởi gì thì hãy xuống núi, vì hạt giống tham ái đã. Hạt giống tham ái không còn thì vô công dụng hạnh, tức là ngay trong giờ phút não cũng đều sống trong cảnh giới vô niệm.

Nhiều thầy đã thử như thế mà thấy vẫn còn niệm, nên không dám xuống núi. Nếu thấy đỡ đỡ rồi, quý thầy thử thêm một bước nữa là xuống Thiền viện Tuệ Quang, ở thử một tháng hay mười ngày xem sao. Gần Thiền viện họ hát karaoke, rồi mấy cô bán cà phê đi qua đi lại mà mình không thấy gì hết thì xuống được. Còn khởi niệm liên tục thì biết mình không phải là bậc đại lực lượng, phải chạy liền, chạy lên Trúc Lâm tu tiếp.

Ngày xưa, có một số thầy không muốn ở Trúc Lâm nữa, vì bệnh hay không chịu lạnh được. Tuy nhiên, không dám xin xuất chúng liền, mà xin đi trị bệnh một thời gian. Xuống núi một, hai tháng, đi chỗ này chỗ nọ thử tâm mình, thấy không xong thì chạy lên tu tiếp. Còn nếu xin xuất chúng rồi mà trở về thì Hòa thượng không nhận.

Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo dạy:

“Trần lao thế gian như lửa cháy hừng hực biết đến bao giờ mới tắt, phải ngay trong chỗ náo động mà chẳng quên việc trên ghế chúc bồ đoàn. Trước kia để tâm nơi chỗ tĩnh lặng thì nay ở chỗ náo động phải đem ra dùng. Nếu ở chỗ náo động chẳng đắc lực thì có khác nào chưa từng đã dụng công phu ở nơi tĩnh lặng.”

Ngài dạy trong lúc hạ thủ công phu, ngay chỗ tĩnh lặng mà được bao nhiêu thì ra chỗ náo động, phải đem hết năng lực mà dùng.

“Nếu cho rằng chỗ tĩnh lặng là phải, chỗ náo động là chẳng phải, ấy là hoại tướng thế gian mà cầu thật tướng.”

Chỗ tĩnh lặng mình nói tu được, chỗ náo động mình nói chẳng phải tu được thì hoại tướng thế gian. Theo tinh thần Thiền tông, Thiền Tổ sư là ngay tướng phải nhập vô tướng chớ không phải diệt cái tướng đó, ngay chỗ náo động phải tu, phải chuyển hóa.

Ngày xưa các ngài tu ở núi một thời gian thật lâu rồi các ngài mới xuống núi để thử tâm mình. Còn mình nói ngồi thiền yên tịnh rồi ra chỗ ồn náo nó dậy khởi mình tu không được thì trật, là mình hoại cái tướng thế gian. Tất cả các pháp đều nằm trong thân ngũ uẩn của mình, ngay chỗ tiểu vũ trụ đó là đại vũ trụ, mà ngay chỗ đại vũ trụ đó tức là tiểu vũ trụ.

Theo tinh thần Thiền Tổ sư, các ngài ngay chỗ tướng thế gian mà thể nhập cái vô tướng, cho nên các ngài không bỏ thế gian này. Nếu nói chỗ tĩnh lặng mới tu được, vậy hành đường, trực nhật ồn náo làm sao tu? Một ngày ngồi thiền bốn tiếng đồng hồ mình nói mình tu, còn bao nhiêu buông lung hết thì không được.

Quý thầy mới xuất gia không được ra nhà khách thường xuyên là đúng, nhưng tu năm năm, mười năm bắt buộc phải ra nhà khách thử lửa. Ra để nhìn lại tâm, coi thử cái tâm mình tiếp xúc, chuyển hóa như thế nào. Các Thiền sư nói, ngay tuyết mà thêm sương là trật, cho nên các ngài dạy phải luôn luôn nhìn lại tâm mình. Tâm mình vui mình biết, tâm mình buồn cũng biết, tâm mình khổ…, tất cả các thứ tâm chỉ có một cái tri kiến duy nhất để tìm cách mình chuyển hóa. Chẳng hạn, trong giờ phút thực tại, nhìn cảnh thấy mình còn thèm muốn, thì tối lên bồ đoàn quý thầy phải tìm cách chuyển hóa.

“Lúc thích tĩnh lặng, ghét náo động chính là lúc dụng công tốt nhất.”

Ngay chỗ trạo cử, lăng xăng, dục nhiễm, ngay chỗ tâm thức phát động thì dụng công rất đắc lực. Trải qua sáu tháng ở nhà khách, tôi thấy rất rõ, tại sao ở trong chúng không có mà ra đây lại có cái này? Biết chắc chắn những hạt giống tham ái này vẫn còn thì đừng nên rời Thiền viện. Phải tiếp tục công phu, tiếp tục chuyển hóa. Nhờ hoàn cảnh, nhờ môi trường mình thấy: “À, thì ra mình vẫn còn!” Mình tưởng hết rồi nhưng thiệt ra nó không hết, không hết thì tiếp tục mài giũa. Vào thất bốn mươi chín ngày hoặc ba tháng, quý thầy thấy tâm rất yên, mà tại sao ra đụng đại chúng, đụng huynh đệ? Như vậy, cần tìm cách cách chuyển hóa. Một thời gian, tự nhiên quý thầy thấy rất là nhẹ, thì lúc này công phu tiến.

“Bỗng nhiên ở trong chỗ náo động mà được cái đắc lực của lúc tĩnh lặng, sức mạnh ấy hơn lúc ngồi trên ghế chúc bồ đoàn gấp nghìn vạn lần. Hãy nghe lời tôi, chắc chắn không lừa gạt các ông đâu.”

Quý thầy ở trên bồ đoàn tĩnh lặng được một tiếng, nhưng ra làm việc mà tĩnh lặng được mười phút thôi, thì sức tĩnh lặng đó mạnh hơn gấp trăm gấp ngàn lần. Thiền sư Bạch Ẩn khẳng định, trong chỗ náo động mà dụng công được thì sức mạnh gấp nghìn, vạn lần lúc ngồi tĩnh lặng. Vừa làm việc cho chúng, vừa tu được thì công đức nó tác động, phát huy được năng lực. Tuy nhiên rất là khó, đòi hỏi mình phải từng ở lâu trong chúng.

Ngài dạy tiếp:

“Thường thường người lợi căn thượng trí được nó chẳng phí sức nên sanh tâm khinh dễ, chẳng chịu tu hành.”

Bậc thượng căn túc trí đối với thiền rất nhạy bén, nghe hiểu liền, tu được liền. Nhưng lại nghĩ: đi, đứng, nằm cũng tu được nên bỏ cái ngồi. Như vậy thì không được.

“Họ phần nhiều bị cảnh giới cướp đoạt đem đi, làm chủ không được. Lâu ngày chầy tháng mê muội không phản tỉnh, đạo lực không thắng được nghiệp lực.”

Thấy ở chỗ động mình tu cũng được nên không cần nhập thất, cũng không cần ngồi thiền. Lâu ngày chầy tháng mê muội, phản tỉnh lại không được. Nhiều người, ở trong chúng thì rất hay, nhưng đi ra làm trụ trì, phó trụ trì, hoặc đi làm Phật sự một thời gian lại nghe tin người đó ra đời hoặc phạm giới gì đó. Đó là do đạo lực không thắng được nghiệp lực.

Đạo lực là hiểu đạo, hiểu thiền và có công phu. Rồi nghiệp lực đến, chẳng hạn như Ngài A-nan gặp Ma-đăng-già. Vì nhiều đời nhiều kiếp đã có túc duyên là vợ chồng, nên Ma-đăng-già nhìn thấy A-nan là thương liền. Đây là nghiệp lực. Trong vô số người khác phái, đâu biết được ai là người đã từng là vợ của mình trong kiếp trước. Có nhiều người rất đẹp nhưng nhìn vẫn dửng dưng, còn có người không đẹp, thậm chí xấu, tại sao mình lại thương? Vì có túc duyên nhiều đời nhiều kiếp, tự nhiên nhìn thấy là khởi niệm đó liền. Khởi niệm rồi về trằn trọc ngủ không được, ăn cũng không được. Quý thầy ở trong đại chúng thì không có nhưng ra ngoài sẽ gặp.

Chẳng hạn, hằng ngày có người đó thường đến cúng dường, quý thầy không thấy gì. Nhưng mười ngày, hai mươi ngày người đó ở nhà không đến, quý thầy thấy có cái gì thiếu thiếu là biết mình có túc duyên gì đó, phải chạy liền, ở lại một thời gian là chết!

Đạo lực không thắng được nghiệp lực là chỗ đó. Mình hiểu hết, tu cũng có công phu, nhưng công phu ít, công phu không miên mật thì nghiệp lực đến là bó tay. Chỗ này phải lưu ý.

Như một vị Hòa thượng ở Khánh Hòa, hôm nào ngài giảng pháp mà có cô đó nghe thì ngài giảng rất hay. Một hôm nhìn xuống không thấy cô đó nữa, ngài quên đầu quên đuôi giảng không ra gì hết. Ngài biết rồi, bèn giải tán pháp hội vào núi tu liền.

Có một thầy ngày xưa tu ở Thường Chiếu, giỏi lắm mà rất đẹp người. Sau ra làm Phật sự, cuối cùng lấy một bà đã có bảy người con. Mà thầy là trai mới lớn! Phải là nghiệp lực không? Đạo lực thì hiểu rất rõ: “Vào đó là khổ!” Bây giờ thì chặt củi, đốt than nuôi bảy người con cho bà vợ này!

Nghiệp lực đó chuyển hóa như thế nào? Quý thầy nhớ rằng, không ai lừa dối được mình hết, chỉ có chính mình biết thôi. Như trên tôi nói, thấy động niệm một chút là chạy liền, bất cứ giá nào cũng phải bỏ của chạy lấy người, đừng có ham cái gì hết thì thắng. Đó là mình chuyển hóa nghiệp lực.

“Ma có cơ hội thuận tiện khuấy phá, nhất định họ bị ma nắm lấy sai khiến, đến lúc mạng chung cũng không có đắc lực. Lý thì đốn ngộ, nên vọng tưởng do nơi ngộ mà đều tiêu. Sự phải tiệm trừ, nên tập khí phải theo thứ lớp dần dần mới hết.”

Một người, sau khi ngộ nhập vào tri kiến Bát-nhã rồi thì vọng tưởng lắng. Vọng tưởng lắng, mà tưởng mình được rồi là thua. Sự phải tiệm trừ thì tập khí dần dần mới hết. Cần phải ở trong chúng mài giũa lâu năm thì những tập khí mới hết, tập khí hết rồi thì nghiệp tập, chủng tử cũng hết theo luôn. Khi đó, xuống núi không sợ ai theo nữa. Mà nếu họ có nghiệp lực chăng nữa thì cũng chỉ đến hộ pháp thôi, chứ không có dùng năng lực, quyền lực hay cái gì đó quyến rũ quý thầy được nữa. Vậy là thầy trở thành bậc pháp khí thượng thừa trong tông môn, mà nhờ cái gì? Nhờ ở trong tùng lâm, ở lâu với thầy.

“Cũng chẳng được ở chỗ miếu ông thần.”

Tổ Tuyên Luật Sư dạy:

“Thần là lấy rượu thịt làm cúng tế, thì Tăng Ni há dừng ở chỗ người khinh chê. Nên người xuất gia lúc Phật ở đời nương Phật mà trụ, sau khi Phật diệt độ thì nương nơi tượng Phật mà trụ. Cho nên người trì giới chẳng nên lễ quỷ thần. Vả lại quỷ thần thâm kín, nếu trụ ở miễu quỷ thần thì quỷ thần khinh mạn.”

Lúc xa thầy, cũng không được ở chỗ miếu quỷ thần. Ngài nói, phàm là người xuất gia, lúc Phật còn ở đời thì nương Phật mà trụ. Sau khi Phật diệt độ thì nương nơi tượng Phật mà trụ. Có nghĩa là đến tùng lâm, ở chùa chiền hay ở nơi đâu đều phải thờ tượng Phật. Không được ở miếu, cũng không được đảnh lễ những vị thần.

Cổ đức nói:

Tăng ở thành đô Phật Tổ rầy,

Chư Hiền đều ẩn chốn am mây,

Non cao suối chảy về hạ thế,

Trong vắt y nguyên hóa đục nhầy.

Tăng ở thành đô Phật Tổ rầy, có nghĩa là mình ở chỗ ồn náo, ở chỗ miếu quỷ thần thì Phật, Tổ rất lo và rầy mắng. Chư Hiền đều ẩn chốn am mây, là ở núi cao rừng thẳm. Non cao suối chảy về hạ thế, trong vắt y nguyên hóa đục nhầy. Cái tâm chân thật của mình nếu ở chỗ tốt thì nó tốt, mà ở chỗ xấu một thời gian nó cũng đục, cũng nhơ.

“Chẳng được ở nhà dân, chẳng được ở chùa cô Ni.”

Kinh Pháp Cú kể chuyện ngài A-na-luật trên đường đi gặp lúc trời tối, ngài xin ở nhà tín thí. Cô này thấy ngài tướng hảo nên làm đủ cách để gạ gẫm, ngài phải dùng thần thông bay lên nóc nhà.

Ngay trong giờ phút, đó nếu không có thần thông thì quý thầy làm sao? Tông cửa? Cửa sắt khóa hết làm sao tông? Phật nói, đời hậu thế sau này không có thần thông như ngài A-na-luật thì sao?

Cho nên Phật chế giới không được ở nhà dân. Mà ngủ chỗ nào thì phải có hai thầy trở lên mới được. Tổ Tuyên Luật Sư dạy, thứ nhất là tiêm nhiễm tình sanh, thứ hai là khiến người đời chê bai. Đi trị bệnh mà không có bà con ở thành phố thì tìm đến chùa ngủ. Nếu có nhà người thân trong gia đình, ngủ ở phòng riêng biệt thì không sao.

Tôi kể thêm để quý thầy kinh nghiệm. Có vị thầy ở Sài gòn được một cô Phật tử thỉnh về nhà làm lễ an vị Phật, thầy cũng thiệt tình đến. Vừa đến thì cô này khóa cửa lại hết. Thầy sợ quá nhưng cũng lanh trí nói: “Khoan, mở cửa để thầy ăn sáng xong rồi tính.” Cô này vừa mở cửa là thầy bỏ xe, bỏ đồ chạy luôn. Lúc này phải dùng trí chứ đừng nói là tông cửa!

Người xưa nói “khôn ba năm, dại một giờ”. Trong lúc hạ thủ công phu thì nghiệp nó không đến, nhưng khi nó đến chỉ trong tích tắc. Nghiệp đến mà ở trong chúng thì mới chuyển hóa được. Chẳng hạn cái nghiệp mà ngày này, tháng này, năm này sẽ bị, nhưng nhờ duyên tốt đưa quý thầy vô thất. Trên thì có Hòa thượng, dưới có thầy Trụ trì, chung quanh là đại chúng, tất cả năng lực đó đều phóng ánh hào quang thì làm sao nghiệp đến được.

Tôi biết một vị thầy nhập thất mười hai năm, năm thứ mười ba mở cửa thất chạy xuống làng phạm giới. Tại sao nhập thất mười hai năm không bị mà đến năm thứ mười ba lại bị? Năm thứ mười ba, tự nhiên thầy ngồi nhớ lại cô Phật tử dưới phố ngày xưa. Nhớ suốt chịu không nổi, phải mở cửa thất xuống làng, phạm giới rồi hoàn tục luôn. Đạo lực có nhưng chưa đủ nên không thắng nổi nghiệp lực!

Gặp trường hợp này phải chuyển hóa như thế nào? Phải nhờ huynh đệ, hoặc phải can đảm, lấy dây xích khóa cửa ba vòng, nhốt mình trong đó không cho thấy cảnh vật gì ở bên ngoài, chuyên tu thiền định. Ngồi thiền xuyên suốt, có một lúc cái nghiệp này nó lắng xuống thì vượt qua được, thường phải mất khoảng nửa tháng hoặc một tháng.

Tu mà có dụng công một thời gian sẽ trải qua cảnh giới này, nếu đang ở trong thất thì càng khủng khiếp. Phải tìm cách chuyển hóa chứ không được bước ra khỏi thất, bước ra gặp bất cứ tình huống nào cũng phạm được. Nghiệp lực nó đến, đạo lực không thắng được mà phải nhờ đại chúng, nhờ thầy Tổ. Ở trong thất hai mươi mốt ngày, bốn mươi chín ngày hoặc ba tháng mà được yên ổn là nhờ năng lực hộ niệm của Hòa thượng, của thầy Trụ trì và của đại chúng, rõ ràng như vậy. Chứ tu một mình, nghiệp nó đến chắc không qua được.

“Chẳng được cùng Thầy đồng ở mà làm tất cả các việc ác trong thế gian. Thứ nhất là vì lợi buôn bán, giao kết tới lui. Thứ hai là học tập nghề, hay hát xướng, đóng tuồng. Thứ ba là đi sứ bốn phương đều gọi là việc ác.”

Bài Phép Thờ Thầy cần học để biết phải tu tập và thờ thầy như thế nào cho đúng oai nghi, đúng phép.

 

 

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Đọc nhiều

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 89976
  • Online: 31