Tham Thiền Yếu Chỉ Giảng Giải - Phần 3: Lời Nhắc Khi Tham Thiền

20/06/2025 | Lượt xem: 11

HT.Hư Vân

HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng

PHẦN III: LỜI NHẮC KHI THAM THIỀN

Chánh văn:

Tâm tức là Phật, Phật tức là giác. Một cái giác tánh này chúng sanh và Phật bình đẳng không sai biệt; rỗng lặng trọn không có một vật, không thọ một pháp, không thể tu chứng; sáng suốt mà đầy đủ muôn đức, diệu dụng hằng sa không nhờ tu chứng. Chỉ vì chúng sanh mê muội trầm luân sanh tử trải qua rất nhiều số kiếp, tham, sân, si, ái, vọng tưởng chấp trước nhiễm ô đã sâu dày, bất đắc dĩ mới nói tu nói chứng. Thế nên, nói “tu” cổ nhân cho là một việc chẳng lành, không cách nào hơn mới tạm dùng vậy thôi.

Thứ nói nhập thất. Quý vị nhập thất trải qua hai mươi mốt ngày. Trong hai mươi mốt ngày xét ra thân tâm có phần thuần thục, dụng công sánh với trước được dễ dàng. Quý vị cố gắng đừng để nhân duyên qua mất. Cần yếu trong hai mươi mốt ngày làm sao cho được nước rút đá lộ, phát minh tâm địa mới khỏi cô phụ cái cơ duyên khó gặp này.

Hơn hai mươi ngày nay, quý vị từ sáng đến tối thức sớm ngủ trễ, nỗ lực dụng công, kết quả không ngoài bốn thứ cảnh giới:

1.Có người đường lối không thông, câu thoại đầu khán không đến, mơ mơ màng màng theo chúng ngủ gật, không bị vọng tưởng lăng xăng thì bị hôn trầm lôi kéo.

2. Có người khán đến câu thoại đầu, có chút ít hiểu bèn chấp chặt, chỉ là nắm chết cứng hòn gạch gõ cửa, niệm chấp câu thoại đầu “Niệm Phật là gì?”, thành ra niệm thoại đầu, cho như thế là khởi nghi tình được khai ngộ. Đâu biết đó là dụng tâm tại thoại vĩ. Nó là pháp sanh diệt không thể đến được chỗ một niệm không sanh, tạm dùng còn khả dĩ, nếu chấp cho là cứu cánh thật pháp thì mong gì có ngày ngộ đạo? Gần đây trong thiền tông sở dĩ không có người đạt đạo, phần nhiều do lầm dụng tâm tại thoại vĩ.

3.Có người hiểu khán thoại đầu, hay chiếu cố đến hiện tiền một niệm không sanh. Hoặc hiểu niệm Phật là tâm, tức từ chỗ một niệm phát khởi này thẳng khán đến tâm tướng vô niệm. Theo dõi lần đến chỗ tịch tịnh, những vọng tưởng thô đã dứt, được khinh an, liền có các cảnh giới phát hiện.

Hoặc không biết thân tâm mình đang ngồi chỗ nào. Hoặc biết thân được nhẹ nhàng có thể bay bổng lên trên. Hoặc thấy người, vật đẹp đáng yêu nên sanh tâm hoan hỷ. Hoặc thấy cảnh giới đáng sợ, khởi tâm kinh khủng. Hoặc khởi tâm dâm dục v.v... Nhiều thứ không phải một, cần biết đó đều là ma, chấp nó bèn thành bệnh.

4. Có người nghiệp chướng nhẹ nhàng, đường lối rành rõ, dụng công đúng cách, tiến đúng phương pháp, tâm được thanh tịnh sáng suốt, tất cả vọng tưởng đều dứt, thân tâm tự tại không có cảnh giới nào khác. Đến chỗ này chấn khởi tinh thần theo đường lối trước dụng công, chỉ phải chú ý “cây khô trước hang nhiều lối tẽ”. Có khi đến chỗ này, rồi dừng trụ trong hôn trầm. Có khi đến chỗ này được chút ít tuệ giải, rồi làm thi làm văn, tự cho là đầy đủ, khởi cống cao ngã mạn.

Bốn cảnh giới trên đều là bệnh, tôi sẽ chỉ quý vị phương thuốc đối trị.

1.Như người câu thoại đầu khán không đến, nhiều vọng tưởng hôn trầm, ông nên khán lại chữ gì trong câu “Niệm Phật là gì?”. Khán đến khi nào vọng tưởng hôn trầm còn ít, chữ gì không quên, liền khán đến chỗ một niệm mới phát khởi. Ở đó đợi đến lúc một niệm không khởi tức là được không sanh. Hay khán đến một niệm không sanh, gọi là chân khán thoại đầu

2.Người chấp chặt câu “Niệm Phật là gì?”, dụng tâm tại thoại vĩ, lấy pháp sanh diệt cho là phải, cũng nên theo ý tứ tôi đã chỉ ở trên, tức là nhắm chỗ một niệm phát khởi, khán đến một niệm không sanh.

3. Người quán vô niệm đã được tịch tịnh khinh an mà gặp những cảnh giới khác lạ, ông nên chiếu cố câu thoại đầu cũ, một niệm không sanh, Phật đến Phật chết, ma đến ma chết, một bề không để ý đến, tự nhiên vô sự không rơi vào chúng tà.

4. Người vọng niệm đã dứt, thanh tịnh sáng suốt thân tâm tự tại, nên như cổ nhân nói: “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” Do một bề tiến đến chỗ cùng cực, thẳng tiến lên ngọn núi cao chót vót đứng, xuống tận đáy biển sâu thăm thẳm đi, lại buông tay ngang dọc.

Trở về trước đã nói, đều là đối với người độn căn trong thời mạt pháp mà chỉ phương pháp. Kỳ thật tông môn thượng thượng nhất thừa này chỉ thú do đức Bổn sư Thích-ca-mâu-ni ở trong hội Linh Sơn đưa cành hoa sen lên, biểu thị là Giáo ngoại biệt truyền. Trải qua chư vị tổ sư chỉ truyền tâm, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, không rơi vào giai cấp, không nhờ tu chứng. Trong một lời nói, hoặc nửa câu liền thấu rõ không một pháp có thể được, không một pháp có thể tu, liền đó không khởi vọng duyên tức là như như Phật, đâu cần học nhiều câu ư?

Giảng:

Tâm tức là Phật, Phật tức là giác. Một cái giác tánh này chúng sanh và Phật bình đẳng không sai biệt; rỗng lặng trọn không có một vật, không thọ một pháp, không thể tu chứng; sáng suốt mà đầy đủ muôn đức, diệu dụng hằng sa không nhờ tu chứng. Chỉ vì chúng sanh mê muội trầm luân sanh tử trải qua rất nhiều số kiếp, tham, sân, si, ái, vọng tưởng chấp trước nhiễm ô đã sâu dày, bất đắc dĩ mới nói tu nói chứng. Thế nên, nói “tu” cổ nhân cho là một việc chẳng lành, không cách nào hơn mới tạm dùng vậy thôi.

Thứ nói nhập thất. Quý vị nhập thất trải qua hai mươi mốt ngày. Trong hai mươi mốt ngày xét ra thân tâm có phần thuần thục, dụng công sánh với trước được dễ dàng. Quý vị cố gắng đừng để nhân duyên qua mất. Cần yếu trong hai mươi mốt ngày làm sao cho được nước rút đá lộ, phát minh tâm địa mới khỏi cô phụ cái cơ duyên khó gặp này.

Gọi là nhắc nhở tu cũng là gượng nói, vì chúng ta tập khí sâu dày nên Phật tổ bất đắc dĩ nói có tu có chứng, chứ sự thật ở ngay nơi chính mình, tự thấy tự biết rồi tự chỉnh sửa mà thôi.

Kế đến ngài nhắc những người tu nhập thất. Trong hai mươi mốt ngày đó, phải cố gắng tu làm sao như nước rút đá lộ. Dưới suối có đá nhưng do nước đầy nên không thấy, đến lúc nước rút cạn thì đá bày hiện ra. Cũng vậy, nếu chúng ta buông dẹp phiền não bớt rồi thì tâm chân thật hiện tiền.

Hơn hai mươi ngày nay, quý vị từ sáng đến tối thức sớm ngủ trễ, nỗ lực dụng công, kết quả không ngoài bốn thứ cảnh giới:

1. Có người đường lối không thông, câu thoại đầu khán không đến, mơ mơ màng màng theo chúng ngủ gật, không bị vọng tưởng lăng xăng thì bị hôn trầm lôi kéo.

2. Có người khán đến câu thoại đầu, có chút ít hiểu bèn chấp chặt, chỉ là nắm chết cứng hòn gạch gõ cửa, niệm chấp câu thoại đầu “Niệm Phật là gì?”, thành ra niệm thoại đầu, cho như thế là khởi nghi tình được khai ngộ. Đâu biết đó là dụng tâm tại thoại vĩ. Nó là pháp sanh diệt không thể đến được chỗ một niệm không sanh, tạm dùng còn khả dĩ, nếu chấp cho là cứu cánh thật pháp thì mong gì có ngày ngộ đạo? Gần đây trong thiền tông sở dĩ không có người đạt đạo, phần nhiều do lầm dụng tâm tại thoại vĩ

3. Có người hiểu khán thoại đầu, hay chiếu cố đến hiện tiền một niệm không sanh. Hoặc hiểu niệm Phật là tâm, tức từ chỗ một niệm phát khởi này thẳng khán đến tâm tướng vô niệm. Theo dõi lần đến chỗ tịch tịnh, những vọng tưởng thô đã dứt, được khinh an, liền có các cảnh giới phát hiện. Hoặc không biết thân tâm mình đang ngồi chỗ nào. Hoặc biết thân được nhẹ nhàng có thể bay bổng lên trên. Hoặc thấy người, vật đẹp đáng yêu nên sanh tâm hoan hỷ. Hoặc thấy cảnh giới đáng sợ, khởi tâm kinh khủng. Hoặc khởi tâm dâm dục v.v... Nhiều thứ không phải một, cần biết đó đều là ma, chấp nó bèn thành bệnh.

4.Có người nghiệp chướng nhẹ nhàng, đường lối rành rõ, dụng công đúng cách, tiến đúng phương pháp, tâm được thanh tịnh sáng suốt, tất cả vọng tưởng đều dứt, thân tâm tự tại không có cảnh giới nào khác. Đến chỗ này chấn khởi tinh thần theo đường lối trước dụng công, chỉ phải chú ý “cây khô trước hang nhiều lối tẽ”. Có khi đến chỗ này, rồi dừng trụ trong hôn trầm. Có khi đến chỗ này được chút ít tuệ giải, rồi làm thi làm văn, tự cho là đầy đủ, khởi cống cao ngã mạn.

Ngài nói về bốn cảnh giới của người tu nhập thất. Thứ nhất là chỉ người không thông suốt đường lối, vào thất không tu chỉ lo ngủ gật, không tiến được chút nào. Hạng này tệ số một.

Thứ hai chỉ cho người khán thoại đầu có chút hiểu biết rồi chấp chặt. Như nói, niệm Phật là ai? Niệm Phật là gì? Lấy câu đó làm sở đắc, mà không biết đã thành thoại vĩ. Bởi vì nói thoại đầu là phải tìm tới trước khi dấy niệm, chứ không phải ở trên câu nói. Nếu cứ lặp đi lặp lại câu nói hoài thì gọi là khán thoại vĩ, tức là đuôi chứ không phải đầu.

Thứ ba là khi tu có chút công phu, những vọng tưởng thô đã dứt, được ít khinh an, có các cảnh giới phát hiện sanh ra mừng sợ, từ đó trở thành bệnh hoạn. Đó là sai lầm lớn lao khó mà ra được, nếu biết buông bỏ thì việc tu mới thành công.

Thứ tư là những người nghiệp chướng nhẹ mỏng, dụng công đúng cách nên tiến tu dễ dàng, thân tâm được thanh tịnh, rồi hài lòng tự mãn dừng trụ trong đó, hoặc làm văn làm thơ, khởi cống cao ngã mạn khinh người này chê người kia v.v... Hạng này cũng là bệnh chứ không phải giác ngộ giải thoát.

Bốn cảnh giới trên đều là bệnh, tôi sẽ chỉ quý vị phương thuốc đối trị.

1.Như người câu thoại đầu khán không đến, nhiều vọng tưởng hôn trầm, ông nên khán lại chữ gì trong câu “Niệm Phật là gì?” Khán đến khi nào vọng tưởng hôn trầm còn ít, chữ gì không quên, liền khán đến chỗ một niệm mới phát khởi. Ở đó đợi đến lúc một niệm không khởi tức là được không sanh. Hay khán đến một niệm không sanh, gọi là chân khán thoại đầu

2.Người chấp chặt câu “Niệm Phật là gì?”, dụng tâm tại thoại vĩ, lấy pháp sanh diệt cho là phải, cũng nên theo ý tứ tôi đã chỉ ở trên, tức là nhắm chỗ một niệm phát khởi, khán đến một niệm không sanh.

3.Người quán vô niệm đã được tịch tịnh khinh an mà gặp những cảnh giới khác lạ, ông nên chiếu cố câu thoại đầu cũ, một niệm không sanh, Phật đến Phật chết, ma đến ma chết, một bề không để ý đến, tự nhiên vô sự không rơi vào chúng tà

4. Người vọng niệm đã dứt, thanh tịnh sáng suốt thân tâm tự tại, nên như cổ nhân nói: “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” Do một bề tiến đến chỗ cùng cực, thẳng tiến lên ngọn núi cao chót vót đứng, xuống tận đáy biển sâu thăm thẳm đi, lại buông tay ngang dọc.

Chỗ này nói Phật đến Phật chết, ma đến ma chết, còn ngài Lâm Tế thì nói “gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma”. Bởi vì khi tu gặp các cảnh giới đẹp xấu, thuận nghịch đến đều phải buông, không nên chấp giữ.

Như đang ngồi thiền yên bỗng dưng thấy ma quái tới, hoặc thấy Phật xoa đầu... nên biết đó chỉ là bóng, ảo hóa không thật, một bề không để ý đến, tự nhiên vô sự không rơi vào chúng tà. Nếu không biết lầm nhận thì dễ sanh bệnh, tu không được.

Người vọng niệm đã dứt, do một bề tiến đến chỗ cùng cực, thẳng tiến lên ngọn núi cao chót vót đứng, xuống tận đáy biển sâu thăm thẳm đi, lại buông tay ngang dọc. Tức là phải đi tới chỗ tột cùng tự tại, không dừng kẹt ở một chặng đường nào, mới đến chỗ an lạc giải thoát.

Trở về trước đã nói, đều là đối với người độn căn trong thời mạt pháp mà chỉ phương pháp. Kỳ thật tông môn thượng thượng nhất thừa này, chỉ thú do đức Bổn sư Thích-ca-mâu-ni ở trong hội Linh Sơn đưa cành hoa sen lên, biểu thị là Giáo ngoại biệt truyền. Trải qua chư vị tổ sư chỉ truyền tâm, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, không rơi vào giai cấp, không nhờ tu chứng. Trong một lời nói, hoặc nửa câu liền thấu rõ không một pháp có thể được, không một pháp có thể tu, liền đó không khởi vọng duyên tức như như Phật, đâu cần học nhiều câu ư?

Nếu hiểu thấu được lời dạy của chư tổ, thì liền thấu rõ không một pháp có thể được, không một pháp có thể tu, chúng ta nghe có sợ không? Chỗ này chúng ta cần nghiền ngẫm thật kỹ. Phật tổ cốt chỉ dạy cho chúng ta biết mọi người đều sẵn có tánh giác chân thật, tánh giác ấy không do tạo dựng nên, cũng không phải do gọt giũa mà được. Bởi tánh giác không phải ở đâu đến nên không thể gọi là được. Cần yếu là phải biết buông xả những cảnh duyên hư dối, đừng để vô minh phiền não che lấp thì tánh giác chân thật hiện tiền.

Đức Phật khi đi tu, ngài nguyện tu ngộ đạo để giáo hóa chúng sanh giải thoát sanh tử. Nhưng khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, Phật không chịu đi giáo hóa, đợi chư thiên nài nỉ năm bảy phen ngài mới chấp thuận. Chúng ta hiểu rồi mới thấy việc này không có gì là mâu thuẫn, trái lạ. Bởi vì chỗ Phật thấy ngược với cái thấy của thế gian, nếu đem ra nói người ta đâu chịu nghe, cho nên ngài không muốn nói.

Tất cả kinh điển Phật dạy không phải để cho chúng ta đọc tụng suông mà mục đích là chỉ cho chúng ta nhận ra chân tâm, Phật tánh, hay trí tuệ Bát-nhã sẵn có nơi mỗi người. Cái của chính mình mà không chịu nhận, nên Phật dạy không nghe, Phật chỉ không tìm. Như đức Phật thấy thân này chỉ là một đống nhơ nhớp bẩn thỉu kết tụ lại, không có giá trị. Nhưng người thế gian thì ai cũng thấy thân mình đẹp tốt, nếu nói nhơ xấu họ không chấp nhận.

Đến việc tu cũng vậy, luôn muốn chứng được cái gì linh thiêng mầu nhiệm, nghe nói tu chỉ là trở về chân tâm của mình, không chứng không đắc thì làm sao họ tin được. Chúng ta bây giờ đa số bị các đạo lạ làm lầm là vì lẽ này. Nếu bảo tu muốn gì được nấy, muốn tiền có tiền, muốn sắc đẹp được sắc đẹp... thì tin theo liền, chỉ thỏa mãn những gì ham muốn mà không cần biết đúng sai, tà chánh. Ngược lại Phật răn cấm không cho ham muốn nhiều, vì ham muốn nhiều thì đau khổ nhiều. Đó là lẽ thật nhưng lại trái hẳn thế gian. Cho nên phải năm bảy phen chư thiên nài thỉnh, Phật mới dùng phương tiện giáo hóa. Như vậy phương tiện giáo hóa chỉ là ngón tay chỉ trăng chứ không phải chân lý tột cùng. Nương ngón tay nhìn thấy mặt trăng mới hiểu được tinh thần của đạo Phật, còn bám vào ngón tay rồi tự mãn, cứ sống với lòng ham muốn chạy theo những ảo tưởng đâu đâu thì hoàn toàn không lợi ích.

 

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 64288
  • Online: 16