Tiểu Sử Tổ Bồ Đề Đạt Ma

05/11/2024 | Lượt xem: 643

HT.Thích Phước Tú

I. Thân thế

Tổ Bồ Đề Đạt Ma, người nước Nam Ấn thuộc dòng Sát Đế Lợi, Ngài sinh vào tiền bán thế kỷ thứ V (440). Cha Ngài là vua Hương Chí (Simhavarman II). Mẹ là hoàng hậu Simhavarman II. Ngài có hai anh là: Anh cả là Nguyệt Tịnh Đa La, anh hai là Công Đức Đa La và thứ ba là Ngài có tên là Bồ Đề Đa La. Nhà vua là người thuộc đạo Hindu. Sau gặp Tổ Bát Nhã Đa La mới chuyển qua đạo Phật.

II. Thời niên thiếu

Thuở nhỏ Ngài có đặc tài hùng biện và có chí thoát trần siêu việt. Vua cha là Hương Chí, tuy là người có đạo Hindu nhưng đã gặp Tổ Bát Nhã Đa La - là vị Tổ đời thứ 27 của Ấn Độ - hướng dẫn cho ba vị vương tử về Phật pháp trong một cơ duyên đặc biệt nên nhà vua phát lòng ngưỡng mộ Phật pháp. Trong duyên này hoàng tử Bồ Đề Đa La được gặp Tổ Bát Nhã Đa La.

Sau khóa học, nhà vua đã thỉnh Tổ cúng dường. Trong lễ cúng dường này có một viên ngọc rất quý. Tổ dùng viên ngọc này hỏi ba vị vương tử. Tổ hỏi:

-  Ở đời có vật nào quý báu bằng hạt châu này không?

Vương tử cả là Nguyệt Tịnh Đa La thưa: - Hạt châu là quý tột, ở đời không có gì hơn nó, chẳng phải trong nhà vua thì làm gì có hạt châu này.

Vương tử thứ hai là Công Đức Đa La cùng đồng ý với vương huynh.

Riêng Ngài thưa:

-  Châu này là báu của thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ báu chỉ có Pháp bảo là tột.

Đây là ánh sáng của thế gian, trong các thứ ánh sáng chỉ có ánh sáng Trí Huệ Bát Nhã là tột. Châu này là trong sạch của thế gian, trong các thứ trong sạch chỉ TÂM trong sạch là trên hết. 

Nhưng ánh sáng của hạt châu này không thể tự chiếu, cần nhờ ánh sáng Trí Huệ mới biết được nó. Đã biện rõ mới biết là châu, đã biết là châu mới hiểu cái quý báu của nó. Nếu hiểu cái quý báu của châu, thì quý mà không biết là quý. Nếu biện rõ nó là châu, thì nó châu mà tự chẳng biết châu. Châu mà tự chẳng biết châu, cần nhờ Trí châu mới biện được thế châu. Báu mà chẳng biết báu, cần nhờ Trí bảo mới rõ Pháp bảo. Nhưng mà, thầy tôi có đạo thì báu kia liền hiện. Chúng sanh có đạo thì TÂM báu cũng thế.

Tổ khen ngợi tài biện luận của Ngài. Tổ hỏi thêm:

-  Trong các vật, vật gì Không tướng?

Thưa:

-   Trong các vật, “chẳng khởi” là Không tướng.

-   Trong các vật, vật gì là tối cao?

Thưa:

-     Trong các vật, “Nhơn Ngã” là tối cao.

-     Trong các vật, vật gì là tối đại?

Thưa:

-     Trong các vật, “Pháp TÁNH” là tối đại.

Tổ thầm vui biết Ngài là đại pháp khí sẽ nối dõi cho Tổ sau này.

III. Thời thanh niên

Vua Hương Chí thấy các con mình đã lớn khôn, văn võ toàn tài. Những võ nghệ của giống dân Tamil đã được truyền thụ cho các con trai. Nhà vua rất lấy làm đắc ý, nhất là với người con út là hoàng tử thứ 3 - Bồ Đề Đa La. Nhà vua tấn phong ngôi vị Thái tử cho Bồ Đề Đa La để chuẩn bị lên ngai vàng làm vua. Nhà vua lại muốn lập Thái tử phi (vợ Thái tử) cho Bồ Đề Đa La. Tuy nhiên qua bao người đẹp được tuyển chọn, Bồ Đề Đa La vẫn lạnh lùng không đoái hoài gì đến hương sắc mỹ nữ. Bồ Đề Đa La chỉ một lòng hướng về giáo pháp Phật Đà. Dù rằng Bồ Đề Đa La là đứa con chí hiếu nhưng mà vẫn không thể nghe lời phụ hoàng để lập Thái tử phi. Thái tử Bồ Đề Đa La đã có con đường riêng của mình là hướng về Phật Đạo. Sau đó nhà vua băng hà, hai anh khóc than bi lụy, riêng thái tử Bồ Đề Đa La ngồi im lặng nhập định bên linh cữu phụ hoàng suốt 7 ngày để đưa tiễn phụ hoàng về nơi chín suối. 

IV. Xuất gia

An táng vua cha xong, thái tử Bồ Đề Đa La xin phép mẫu hậu và hai vương huynh, nhường ngôi cho anh và được theo Tổ Bát Nhã Đa La xuất gia. Tổ hoan hỷ làm lễ thế phát xuất gia và truyền giới cụ túc. Tổ bảo:

-  Thái tử đối các Pháp đều thông suốt nên đổi hiệu là “Bồ Đề Đạt Ma”. Từ đây ngài Bồ Đề Đạt Ma luôn hầu hạ bên Tổ Bát Nhã Đa La.

Sau thời gian học tập huân tu, ngài Bồ Đề Đạt Ma đã thể hiện đời sống tinh tấn hành đạo đúng mức, trí tuệ đã phát triển tốt đẹp. Tổ trông rõ trình độ khả năng của Ngài rất xứng đáng được trao Tổ vị.

Một hôm, Tổ gọi Ngài đến dạy:

-   Đại Pháp nhãn tạng của Như Lai lần lượt truyền trao, nay Thầy trao cho con, con hãy khéo truyền rộng ra chớ cho đoạn dứt.

Hãy nghe kệ này:

Tâm địa sanh chư chủng

Nhơn sự phục sanh lý

Quả mãn Bồ Đề viên

Hoa khai thế giới khởi.

Dịch: 

Đất TÂM sanh các giống

Nhơn sự lại sanh lý

Quả đầy Bồ Đề tròn

Hoa nở thế giới sanh.

Tổ lại dặn dò:

- Con giờ tạm giáo hóa ở nước này. Sau đó con hãy qua Trung Hoa mà hoằng hóa, đó mới thật là nhân duyên lớn. Nhưng hãy đợi ta diệt độ 60 năm sau sẽ đi. Nếu đi sớm sau sẽ có việc không tốt.

Những điều kiết hung về sự giáo hóa ở Trung Hoa sau này, Ngài đều được Tổ chỉ dạy. Tổ dùng những lời sấm ký tiên đoán sự kiết hung về vận mệnh Phật pháp ở Trung Hoa, nói có hơn 10 bài kệ.

Truyền Pháp, dặn dò xong Tổ hiện thần biến và thị tịch.

Từ đây Ngài chính thức là vị Tổ đời thứ 28 của Ấn Độ, được truyền nối từ Tổ thứ nhất là Tổ Ca Diếp.

V. Hoằng hóa

A. Trong nước Theo lời dặn dò của Tổ thứ 27, Tổ Bồ Đề Đạt Ma ở tại nước nhà hoằng hóa. Tổ cùng với người huynh đệ đồng sư là Phật Đại Tiên chung sức giáo hóa. Người đương thời gọi hai

Ngài là “mở cửa cam lồ”. Nhưng sau đó môn đồ của Phật Đại Tiên chia làm sáu tông:

1.  Hữu tướng   3. Định huệ        5. Vô đắc

2.  Vô tướng    4.Giới hạnh       6. Tịch tịnh

Sáu tông này tranh nhau truyền bá. Tổ thấy sự chia ly ấy, ngại cho Chánh Pháp suy vi. Vì thế, Ngài dùng phương tiện cảm hóa họ hồi đầu quay về Chánh Pháp.

Vua Nguyệt Tịnh (vương huynh Tổ) băng hà, con là Thái tử Dị Kiến nối ngôi không bao lâu tin theo tà thuyết, bài bác Phật pháp. Tổ sai đệ tử là Ba La Đề đến cung vua để nhiếp hóa. Sau khi được cải tà quy chánh, vua Dị Kiến hỏi ra mới biết Ba La Đề là đệ tử của chú mình. Nhà vua cho thỉnh Tổ về cung giáo hóa.

Nơi cung nội giáo hóa một thời gian, Tổ đã đem lại lòng chánh tín cho bao người trong cửa khuyết, và đã gieo duyên lành cho khắp quan dân sĩ thứ. Phật pháp nơi kinh đô lại được trùng hưng.

Trong thời gian chờ đợi 60 năm để sang Trung Hoa Tổ đã chu du khắp nước Ấn Độ từ Nam chí Bắc. Ngài đã đến miền Bắc để viếng lễ thánh tích của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Từ nước Tamil của Ngài đến xứ Nepal của Đức Phật cách nhau khoảng 3.000 cây số. Ngài đã lễ viếng tất cả thánh tích  của Phật Đà, cả những tháp xá lợi của Đức Phật. Tổ cũng đã gặp được những kỳ tích ở nơi hang động Ajanta có sau thời Phật khoảng 200 năm. Hang động Ajanta và hang động Ellora, thuộc bang Maharashtra, là những nơi Ngài có được những kỳ duyên và gặp được những bậc thế ngoại kỳ nhân để học hỏi thêm những bí cấp về Phật pháp cũng như về võ thuật, y thuật, thiên văn, địa lý, cả công xảo minh cùng thanh minh (ngôn ngữ học)… Ngài trau dồi đủ cả ngũ minh(1). Ngài trở thành một con người có nhiều công năng siêu việt.  

______________________________

(1) Ngũ minh: 

1.  Nội minh (tất cả môn Phật pháp)

2.  Thanh minh (ngôn ngữ học)

3.  Y phương minh (về thuốc, y học)

4.  Nhân minh (các phương pháp luận)

5.  Công xảo minh (các thứ nghề nghiệp)

B. Ra nước ngoài (sang Trung Hoa)

Khi Tổ thấy cơ duyên ra nước ngoài đã đến, Tổ đem lời huyền ký, dặn dò của Tổ Bát Nhã Đa La thuật lại cho vua biết. Tổ quyết định sang Trung Hoa. Nhà vua nghe qua không còn lời gì dám cản ngăn, đành để Tổ thực hiện theo ý nguyện. Nhà vua chuẩn bị sắp xếp cho chuyến ly hương hoằng hóa của Tổ thật chu đáo.Vua chuẩn bị văn thư gửi cho triều đình Trung Hoa về chuyến đi của Tổ xem như là mối bang giao hữu nghị đặc biệt. 

Từ cung thành của nước Tamil ra đến bờ biển Chennai khoảng 40 cây số. Đây là hải cảng thời bấy giờ, ngang với nước Sri Lanka, nằm trong vịnh Bengal của Ấn Độ Dương. Tổ lên thuyền từ đây (521). Đây là thuyền của triều đình chuẩn bị cho Tổ. Trên thuyền có hoa tiêu giỏi, có thủy thủ rành nghề nên chuyến đi rất là thuận lợi. Đường đi này đi qua Thái Bình Dương cập theo nước Việt Nam ngày xưa, có thể qua eo biển miền Trung của Việt Nam (thuở ấy miền Nam Việt Nam chưa có, còn là biển cả). Thuyền đi được êm xuôi, sau 3 năm trên biển cả thuyền qua khỏi hải phận của Việt Nam rồi đến biển Trung Hoa vào Quảng Châu và cập bến nơi này. Lúc bấy giờ vào triều đại nhà Lương niên hiệu Phổ Thông năm đầu (524). Ngày ấy là 21 tháng 9 năm Canh Tý.

Thích sử tỉnh này ra đón tiếp Tổ và dâng sớ về triều tâu cùng vua Lương Võ Đế.

VI. Ở Trung Hoa

Vua Lương Võ Đế có lòng mộ đạo từ lâu. Nghe Tổ từ Ấn đến một lòng hâm mộ bèn xuống chiếu chỉ, sai sứ đến tận nơi thỉnh Tổ về kinh đô Kim Lăng.

Tổ đã được vua Lương tiếp đón trong nội cung với tính cách là quốc khách và cũng là một đạo sư. Vua Võ Đế nói:

-   Trẫm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa (72 ngôi), chép Kinh, độ người làm Tăng – Ni, không biết bao nhiêu. Như vậy có công đức gì chăng?

Tổ đáp:

-   Đều không có công đức.

Vua:

-  Tại sao không có công đức?

Tổ:

- Bởi vì những việc ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người, cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng thật.

Vua:

-   Thế nào là công đức chân thật?

Tổ đáp:

-   Trí thanh tịnh tròn mầu thể tự trong lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu.

Vua:

-   Thế nào là “Thánh đế đệ nhất nghĩa”?

Tổ đáp:

-   Rỗng rang không Thánh.

Vua:

-   Đối Trẫm là ai?

Tổ đáp:

-   KHÔNG BIẾT.

Vua Lương Võ Đế không lãnh ngộ được, ông không được vui, lui về cung nghỉ. Tổ biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại đây ít hôm.

Đến ngày 19, Tổ bỏ vua Lương sang sông qua Giang Bắc. Khi nhập cảnh nước Ngụy,

Ngài đi đến Lạc Dương nhằm đời hậu Ngụy vua Hiếu Minh Đế, niên hiệu Chánh Quang năm đầu ngày 23 tháng 11.

Tổ dừng lại tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn. Ở trong hang động (3x4m) ở lưng chừng núi trọn ngày ngồi xoay mặt vào vách đá im lặng. Tăng chúng đều không hiểu được. Người đời gọi là “Thầy Bà La Môn ngồi nhìn vách” (Bích quán Bà La Môn).

Có vị Tăng tên Thần Quang, học thông các sách, giỏi lý diệu huyền, nghe danh Tổ tìm đến yết kiến. Thần Quang đã đủ lễ nghi mà Tổ vẫn ngồi lặng yên ngó mặt vào vách đá không màng đến. Quang nghĩ: “Người xưa cầu đạo không tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn phần của các Ngài”. Hôm ấy nhằm tiết mùa đông (mùng 9 tháng Chạp), ban đêm tuyết rơi lả tả, Thần Quang vẫn đứng yên ngoài tuyết chắp tay hướng về Tổ. Đến sáng tuyết ngập khỏi đầu gối mà gương mặt Thần Quang vẫn thản nhiên, Tổ thấy người có chí, xoay người hỏi:

-   Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết, ý muốn cầu việc gì?

Thần Quang thưa:

-   Cúi mong Hòa Thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con.

-  Diệu đạo vô thượng của chư Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm được việc khó nhẫn, còn không thể đến thay! Huống là dùng chút công lao nhỏ này mà cầu được Pháp chân thừa?

Thần Quang nghe dạy bèn lấy dao chặt cánh tay trái dâng trước Ngài để tỏ lòng thiết tha cầu đạo. Ngài biết đây là pháp khí, bèn dạy:

-   Chư Phật lúc ban đầu cầu Đạo, vì Pháp quên thân, nay ngươi chặt cánh tay để trước Ta, Tâm cầu đạo cũng khá.

-   Pháp ấn của chư Phật con có thể được nghe chăng?

-   Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà được.

-   Tâm con chưa an, xin thầy dạy pháp an Tâm.

-   Ngươi đem Tâm ra đây, Ta an cho.

-   Con tìm Tâm không thể được.

-   Ta đã an Tâm cho ngươi rồi.

Thần Quang nhơn đây được khế ngộ.

Ngài liền đổi tên Thần Quang là Huệ Khả. (Trong hang động chỗ Tổ ngồi, trước mặt do năng lực của Ngài tỏa năng lượng vào vách đá mà tuyết không phủ được, tạo thành một bóng ảnh trên vách đá. Hang động này cách chùa Thiếu Lâm khoảng 3 cây số về phía trái chùa. Trong thời gian Tổ tọa thiền nơi đây suốt chín năm do công phu hành thiền phát huy khí công thượng thừa mà không phải ăn uống gì).

Từ đây kẻ Tăng người tục đua nhau đến yết kiến Ngài tiếng tăm vang dậy. Ngài trùng hưng lại ngôi chùa Thiếu Lâm Tự và thâu nhận đồ chúng. Vua Hiếu Minh Đế nước Ngụy sai sứ ba phen thỉnh Ngài, Ngài từ chối. Nhà vua càng kính trọng, sai sứ đem lễ vật đến cúng dường: một cây tích trượng, hai y kim tuyến, bình bát…

Ngài khước từ nhiều lần nhưng nhà vua cố quyết cúng dường, rốt cuộc Ngài phải nhận.

                                              *     *     *                                 

Mở cửa phương tiện, Ngài dùng bốn hạnh để giáo hóa môn đồ:

1.  Báo oán hạnh      3. Vô sở cầu hạnh

2.  Tùy duyên hạnh   4. Xứng pháp hạnh

 

Ở Trung Hoa mười hai năm, Ngài thấy cơ duyên đã đến, liền gọi đồ chúng hỏi:

-   Giờ Ta trở về sắp đến, các ngươi mỗi người nên nói chỗ sở đắc của mình.

Đạo phó ra thưa:

-   Theo chỗ thấy của con chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đây là dụng của Đạo.

Ngài bảo:

-   Ngươi được phần da của Ta.

Bà Ni Tổng trì ra thưa:

-   Nay chỗ hiểu của con, như Tổ A Nan thấy nước Phật A Súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại.

Ngài bảo:

-   Ngươi được phần thịt của Ta.

Đạo Dục ra thưa:

-   Bốn đại vốn Không, Năm Ấm chẳng có, chỗ thấy của con không một Pháp có thể được.

Ngài bảo:

-    Ngươi được phần xương của Ta.

Đến Huệ Khả bước ra đảnh lễ Ngài, rồi lui ra đứng yên lặng.

Ngài bảo:

-    Ngươi được phần tủy của Ta.

Ngài gọi Huệ Khả đến dặn dò:

-   Xưa Như Lai đem “Chánh Pháp nhãn tạng” trao cho Tổ Ca Diếp, lần lượt truyền đến Ta. Nay Ta đem trao lại cho ngươi, ngươi phải truyền trao chớ để dứt mất. Cùng trao cho ngươi y Tăng - già - lê và bát báu, để làm pháp tín. Mỗi thứ tiêu biểu cho mỗi việc, ngươi nên biết.

Huệ Khả thưa: 

-    Xin thầy từ bi chỉ dạy mọi việc.

Ngài dạy:

-    Trong truyền Tâm ấn để khế hợp chỗ TÂM chứng, ngoài trao Ca sa để định tông chỉ. Đời sau có nhiều người cạnh tranh nghi ngờ, họ nói “Ta là người Ấn, ngươi là người Hoa, căn cứ vào đâu mà được Pháp, lấy cái gì để minh chứng?”. Ngươi gìn giữ pháp y này, nếu gặp tai nạn, ngươi đem ra làm biểu tín, thì sự giáo hóa không bị trở ngại. Hai trăm năm sau Ta diệt độ, y bát này dừng lại không truyền, vì lúc đó Phật pháp rất thịnh hành. Chính khi ấy người biết Đạo thật nhiều, người hành Đạo quá ít, người nói lý thì nhiều, người ngộ lý thì ít. Tuy nhiên, người thầm thông lặng chứng có hơn ngàn vạn. Người xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ. Nghe Ta nói kệ:

Ngô bổn lai tư độ

Truyền pháp cứu mê tình

Nhất hoa khai ngũ diệp

Kết quả tự nhiên thành.

Dịch:

Ta sang đến cõi này,

Truyền pháp cứu mê tình

Một hoa nở năm cánh,

Nụ trái tự nhiên thành.

Ngài lại bảo:

-   Ta có bộ Kinh Lăng Già bốn quyển, là Phật nói tột pháp yếu, cũng giúp cho chúng sanh Mở, Bày, Ngộ, Nhập kho “Tri Kiến Phật”, nay ta trao luôn cho ngươi. Ta từ Nam Ấn sang đây đã năm phen bị thuốc độc mà không chết, vì thấy xứ này tuy có khí đại thừa mà chưa ứng hợp, nên Ta lặng lẽ ngồi lâu chờ đợi. Nay Ta đã truyền trao xong, đã có thủy ắt phải có chung vậy.

Xong rồi, Ngài cùng đồ chúng đi đến Võ Môn ở chùa Thiên Thanh dừng lại ba hôm.

Quan Thái thú thành này tên Dương Huyễn Chi là người sùng mộ Phật pháp. Nghe tin Ngài đến, liền tới đảnh lễ. Ông hỏi:

-    Thầy ở Ấn Độ được kế thừa làm Tổ, vậy thế nào là Tổ, xin thầy dạy cho?

Ngài đáp:

-    Rõ được Tâm tông của Phật, không lầm một mảy, hạnh và giải hợp nhau, gọi đó là Tổ.

-    Chỉ một nghĩa này hay còn nghĩa nào khác?

-    Cần rõ TÂM người, biết rành xưa nay, chẳng chấp có không, cũng chẳng cố chấp, chẳng hiền chẳng ngu, không mê không ngộ.

Nếu hay hiểu như thế, cũng gọi là Tổ.

Huyễn Chi lại thưa:

-    Đệ tử vì bị nghiệp thế tục, ít gặp được tri thức, trí nhỏ bị che lấp không thể thấy Đạo. Cúi xin thầy chỉ dạy, con phải noi theo đạo quả nào? Dùng tâm gì được gần với Phật Tổ?

Ngài vì ông nói kệ:

Diệc bất đổ ác nhi sanh hiềm

Diệc bất quán thiện nhi cần thố.

Diệc bất xả trí nhi cận ngu

Diệc bất phao mê nhi tựu ngộ.

Đạt đại đạo hề quá lượng.

Thông Phật TÂM hề xuất độ,

Bất dữ phàm thánh đồng triền Siêu nhiên danh chi viết Tổ.

 

Dịch:

Cũng đừng thấy dữ mà sanh chê

Cũng đừng thấy lành mà ái mộ,

Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu,

Cũng đừng ném mê mà về ngộ.

Đạt đạo lớn chừ quá lượng,

Thông Phật TÂM chừ vô kể. Chẳng cùng phàm Thánh đồng vai

Vượt lên, gọi đó là Tổ.

Huyễn Chi nghe dạy hoan hỷ đảnh lễ, lại thưa:

-   Xin thầy chớ vội tạ thế, để làm phước lợi cho quần sanh.

Ngài bảo:

-   Đời mạt pháp, kẻ tệ ác quá nhiều, dù Ta còn ở lâu e chẳng lợi ích, mà thêm tai nạn, làm tăng trưởng tội ác cho người.

-    Từ thầy đến đây ai thường hại thầy, xin thầy chỉ họ, con sẽ sắp xếp.

-    Nói ra ắt có tổn hại, Ta nên đi vậy. Đâu cam hại người để mình được vui.

Huyễn Chi nài nỉ thưa:

-    Con không hại người, chỉ muốn biết đó thôi.

Ngài bất đắc dĩ nói thành bài kệ:

Giang tra phân ngọc lãng,

Quản cự khai kim tỏa,

Ngũ khẩu tương cộng hành, Cửu thập vô bỉ ngã.

Dịch:

Thuyền con rẽ sóng ngọc

Đuốc soi mở khóa vàng

Năm miệng đồng cùng đi

Chín, mười không ta người.

Huyễn Chi nghe rồi ghi nhớ, đảnh lễ Ngài lui ra.

VII. Viên tịch

Ở đây đúng ba hôm. Ngài ngồi an nhiên thị tịch, hôm ấy là ngày mùng 9 tháng mười năm Bính Thìn (536), nhằm niên hiệu Đại Thông năm thứ 2 nhà Lương. Ngài hưởng thọ 97 tuổi. Đến ngày 18 tháng Chạp năm này, làm lễ đưa nhục thân của Ngài nhập tháp tại chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ.

Sau, vua Hậu Ngụy sai Tống Vân đi sứ Ấn Độ về, gặp Ngài tại núi Thông Lãnh, thấy Ngài tay xách một chiếc dép, một mình đi nhanh như bay, Tống Vân hỏi:

-  Thầy đi đâu?

Ngài đáp:

-  Về Ấn Độ.

Ngài lại nói thêm:

-  Chủ ông đã chán đời rồi.

Tống Vân ngẩn ngơ. Từ giã Ngài về triều.

Đến triều thì vua Minh Đế băng hà. Hiếu Trang Đế lên ngôi. Ông đem việc ấy tâu lại, vua ra lệnh mở cửa tháp dỡ quan tài ra, quả nhiên là quan tài không, chỉ còn một chiếc dép. Vua sắc đưa chiếc dép về thờ ở chùa Thiếu Lâm. Đến đời Đường niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 15 (728 sau Tây lịch) môn đồ lại dời chiếc dép về thờ ở chùa Hoa Nghiêm.

Vua phong Ngài niên hiệu Viên Giác Thiền Sư, tháp hiệu Không Quán.

Tập Thiếu Thất Lục Môn nói là tác phẩm của Ngài./.

                                             *      *      * 

Bàn về tuổi thọ của Tổ Bồ Đề Đạt Ma 

Theo truyện Tổ có đoạn vua Hậu Ngụy sai Tống Vân đi sứ Ấn Độ về, gặp Tổ tại núi Thông Lãnh. Thấy Ngài tay xách một chiếc dép, một mình đi nhanh như bay, Tống Vân hỏi:

-  Thầy đi đâu?

Ngài đáp:

-  Về Ấn Độ.

Ngài lại nói thêm:

-  Chủ ông đã chán đời rồi.

Tống Vân ngẩn ngơ từ giã Ngài về triều.

Đến triều thì vua Minh Đế đã băng hà. Hiếu Trang Đế lên ngôi. Tống Vân đem việc ấy tâu lại, vua ra lệnh mở cửa tháp, dở quan tài ra, quả nhiên là quan tài không, chỉ còn một chiếc dép. Vua sắc đưa chiếc dép về thờ ở chùa Thiếu Lâm.

(Vì việc này mà nhà vua cho rằng Tổ không chết, và bao nhiêu người nghe theo).

Việc này được truyền rộng ra cho tới nước Việt Nam của chúng ta. Vào đời nhà Lý Cao Tông có Thiền sư Thường Chiếu đã biết việc này và nói rằng:

“Một con chó sủa láo, cả bầy sủa theo” Lời này có nghĩa ông vua nói (con chó lớn), cả bầy sủa theo (là triều thần quần chúng cùng nói theo). Như vậy Thiền sư Thường Chiếu không chấp nhận Tổ Đạt Ma không chết. Mà cũng phải chết thôi. Và nếu chết vào lần ấy thì chỉ hưởng thọ 97 tuổi.

Ở tại Trung Hoa thì có thêm một thuyết là Tổ sống đến 150 tuổi rồi mới viên tịch lìa đời.

Như vậy tuổi thọ nào là tuổi thọ chính xác?

Theo sử Tổ, chúng ta biết rằng Tổ Bồ Đề Đạt Ma được truyền nối từ Tổ Bát Nhã Đa La.

Tổ Bát Nhã Đa La đã dạy cho Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi còn là hoàng tử, khoảng 14, 15 tuổi. Tổ Bát Nhã Đa La không chỉ truyền dạy Phật pháp cho Tổ Bồ Đề Đạt Ma lúc niên thiếu mà còn truyền dạy cho tọa thiền, luyện khí công. Và hoàng tử còn được phụ hoàng cho học tập võ nghệ của đất nước Tamil rất là tinh xảo với những môn nội công thượng thừa. Sau đó Tổ xuất gia với Tổ Bát Nhã Đa La và được truyền y bát làm Tổ đời thứ 28. Trước khi Tổ Bát Nhã Đa La viên tịch đã căn dặn Tổ Bồ Đề Đạt Ma hãy qua truyền Pháp ở Trung Hoa nhưng phải sau 60 năm Ngài viên tịch. Thì trong thời gian 60 năm Ngài vừa hoằng hóa, Ngài vừa luyện công, lại gặp những bậc thế ngoại kỳ nhân trao truyền công phu luyện khí. 

Như vậy, trong thời gian dài Ngài tập luyện khí công đến trình độ thượng thừa có thể giao tiếp cùng năng lực vũ trụ để trở thành con người siêu việt. Vì vậy, Ngài bị những áp lực trong xã hội của người đồng đạo, được biết đó là Bồ Đề Lưu Chi. Bồ Đề Lưu Chi đã ganh tài với Tổ, dùng thuốc độc trước sau có cả năm lần, muốn Tổ phải chết. Nhưng Tổ có đủ công năng để giải trừ độc dược và khiến cho Bồ Đề Lưu Chi phải tức tối, cùng những thế lực khác đã gây nhiều áp lực cho Ngài. 

Để giải tỏa những mối căng thẳng đó thì Tổ thị hiện nhập Niết Bàn (chết) để làm vui lòng những người hãm hại Ngài bằng công phu sẵn có của mình Tổ viên tịch. Bằng công phu nội tức mà Tổ chịu nằm trong quan tài như bao người khác được tẩn liệm và chôn cất. Việc này có lẽ Ngài cũng kín đáo cho đệ tử thân tín hay biết để yểm trợ Ngài. Với một thời gian nhất định, Ngài có thể sống được trong quan tài một cách bình thường. Đến khi qua nạn thì Ngài tự đội mồ lên và lưu lại một chiếc dép để làm tin. Tất cả những việc này đối với Ngài không có gì là khó khăn cả. Đó là việc đã xa xưa quá cũ kỹ ở vào thế kỷ thứ VI. Với thời đại bây giờ là thế kỷ XXI, mà ở cuối thế kỷ XX đã có những nhà Yogi là những người luyện Yoga Ấn Độ đã thi triển công phu chịu chôn sống suốt 20 ngày trên đất Anh. Hay còn hơn thế nữa mà họ vẫn sống khiến cho các nhà khoa học của Anh phải ngỡ ngàng và bội phục (theo sách “Hành trình về phương Đông” của Nguyên Phong dịch. Tác giả: Spalding).

Thời đại của chúng ta đã biết việc như thế, tự chôn mình với thời gian dài, thì xưa kia với công phu 60 năm tu luyện của Tổ Bồ Đề Đạt Ma thì việc “chết giả” là một việc trong tầm tay của Tổ. Và câu chuyện của Tống Vân gặp

Ngài đi như bay trên ngọn núi Thông Lãnh. Điều này chứng tỏ Ngài đi không phải những bước đi bình thường mà Ngài dùng thuật khinh thân để lướt nhẹ trên đường, gọi là thuật phi hành. Đó cũng là một thứ công phu của võ học, nhất là Ngài đã ngộ Bổn TÂM, Bổn TÁNH và sống được bằng năng lực TÂM TÁNH, đó là năng lực siêu nhiên nên chẳng có chi là lạ. 

* Chuyện Tổ Huệ Năng và Phương Biện (theo kinh Pháp Bảo Đàn)

Trong đời hoằng pháp của Lục Tổ Huệ Năng có câu chuyện gặp gỡ giữa Lục Tổ Huệ Năng và Phương Biện. Tổ Huệ Năng là người ở Tào Khê, Trung Hoa mà Phương Biện cho biết rằng Phương Biện là đệ tử của Tổ Bồ Đề Đạt Ma ở Ấn Độ. Như vậy, Tổ Bồ Đề Đạt Ma không chết ở Trung Hoa mà trở về Ấn Độ để

Phương Biện được gặp gỡ và tôn xưng là Thầy. Như vậy lúc Phương Biện gặp Tổ Bồ Đề Đạt Ma ở Ấn Độ là Tổ 200 tuổi. Điều này để thấy rằng Tổ không chết ở Trung Hoa mà còn sống trên 100 tuổi. Nhưng không xác định tuổi viên tịch của Tổ là bao nhiêu. Với tuổi 150 vì vậy vẫn chưa là chính xác. Khi tấm thân của Tổ đã giao tiếp được năng lực vũ trụ thì tuổi thọ của Ngài không thể lường được. Vì vậy việc sống chết ở Ngài chỉ có Ngài là biết rõ hơn ai hết. Khi Ngài đã thể nhập vào năng lực bất tử không sinh không diệt thì tuổi thọ của Ngài khó mà lường tính, gọi là bất khả tư nghì. Cũng theo sách “Hành trình về phương Đông” cho biết thời ấy đã có người sống đến 400 tuổi trên ngọn núi tuyết Himalaya./.

 

Đạt Ma đi ngược về xuôi

Giăng tay bốn biển quảy hài ngang vai

Đạt Ma hiển hiện xưa nay

Thênh thang trời đất - ai hay là Ngài.

 

Tu học

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Tin mới

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 10705
  • Online: 16