Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ ( Phần 02)
03/03/2025 | Lượt xem: 13
TS.Thiên Cơ
HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng
Hạ thủ công phu tu thiền, nếu được mừng rỡ vui vẻ thì tự nhiên thay đổi dụng công, tự nhiên tinh tấn chẳng lười. Được mừng rỡ vui vẻ rồi, cần phải xem các việc khổ sở sanh già bệnh chết của người đời, đều là cái gương ta chẳng dụng công, vậy tại sao dám lơ là?
Nếu hạ thủ công phu tu được chút ít hỷ lạc, tự nhiên sự tu có thay đổi, có tiến thêm. Khi được vui chút ít, chúng ta cần phải xem lại những việc khổ sanh già bệnh chết của người đời, để lấy đó làm gương mà cố gắng dụng công, không thể lơ là, vì ngày mai chúng ta cũng sẽ chết như những người mới chết ngày nay.
Hạ thủ công phu tu thiền, rất sợ nói lời vô ích, chăm nom việc vô ích. Nói lời vô ích, chăm nom việc vô ích đều khiến tâm người tán loạn, tinh thần dao động, không có lợi lại có hại. Lại đem thời giờ quý báu thả trôi sông. Thật là đáng tiếc!
Người tu không nên nói những lời vô ích. Như kể chuyện năm trên năm dưới với bạn bè, cho như vậy là vui, những việc đó không có ích gì cho mình cho người, chỉ tăng thêm chuyện thị phi phải quấy thôi. Hoặc bị người mạ nhục thì tức trong bụng, kể cho nhiều người nghe, làm vết thương khắc ghi trong tâm càng to dần, muốn hàn gắn lại không phải dễ.
Khi ngồi thiền chúng ta đừng ôn đi ôn lại những chuyện vui buồn, cứ để cho nó qua. Nếu thường nhớ những lời tán thưởng hay phỉ nhục tới già không quên thì chết cũng mang theo. Kiếp sau ra đời sẽ tìm lại những người khen chê mình để trả ân trả oán. Đó là nhân luân hồi sanh tử.
Ai biết tu thì những việc vui buồn đều bỏ qua, coi như trò chơi không có gì quan trọng. Chúng ta chỉ nói đạo lý cần thiết, nếu nói những điều vô ích thì tâm tán loạn, thần dao động. Một giờ sống tỉnh táo sáng suốt quý như vàng ngọc, đừng để thời gian trôi qua vô ích.
Hạ thủ công phu tu thiền, nếu khi dụng công nhiều thì khó khỏi nhọc nhằn, cần phải đi bách bộ thong thả, đi thong thả để nuôi dưỡng tinh thần, đợi tinh thần thơ thới rồi lại khởi dụng công thì tự nhiên sáng suốt giác ngộ. Nếu tinh tấn đến khổ nhọc lừ đừ, đã lừ đừ lại khổ nhọc dụng công, thì không những tánh mờ tối chẳng lanh sáng, mà lại thân thể yếu đuối, bệnh tật phát sanh. Khi bệnh tật phát sanh thì công phu hết, thế là muốn mau mà trở thành chậm.
Nếu tu dụng công nhiều, ngồi thiền kìm chế quá thì xả thiền đầu hơi nặng, khó chịu, phải đi bách bộ thong thả cho tinh thần thanh thản lại, rồi tiếp tục tu, đừng để nhọc nhằn cố gắng kìm mãi mà phát cuồng phát loạn.
Trong kinh có câu chuyện một Tỳ-kheo tinh tấn tu đến quên ăn, bỏ ngủ suốt thời gian dài, mà sao càng ngày càng mờ mịt, ông sanh nghi nên đến hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, tại sao con tinh tấn tu hành như vậy mà càng tu càng lừ đừ, mệt nhọc?” Phật dùng dụ sợi dây đàn: “Nếu dây đàn thẳng quá thì tiếng kêu chát hoặc có khi đứt, còn dùn quá thì không kêu, dây vừa chừng âm thanh mới vi diệu.” Cũng vậy, người tu điều hòa chừng mực, lấy đó làm bước tiến, đừng cố gắng đến mệt nhọc, đừng thả trôi rồi quên lãng.
Người tu làm việc gì cũng phải dụng công đúng mức trung đạo, thái quá không tốt. Trung đạo là không khổ hạnh đến mệt nhọc, cũng không bê tha giải đãi, phải tu vừa chừng thì mới tiến, đó là chỗ quan trọng.
Hạ thủ công phu tu thiền, một ngày qua phải thấy là một ngày tinh tấn. Nếu là lơ thơ lững thững, dù trải qua trăm kiếp ngàn đời cũng không có ngày được thành công. Người xưa khi dụng công, đốt một cây hương, thấy cây hương tàn rồi, liền tự nhắc rằng: “Công phu như trước không có thêm bớt, một ngày bao nhiêu cây hương, một năm bao nhiêu cây hương? Năm tháng dễ qua, ngày giờ không đợi người, việc lớn chưa sáng, ngày nào mới xong?” Do đó, đau xót hối tiếc, lại thêm phần cố gắng. Nhà nho Châu Văn Công nói: “Chớ bảo ngày nay chẳng học còn có ngày mai, chớ bảo năm nay chẳng học còn có năm tới, ngày tháng trôi qua, năm chẳng đợi người. Than ôi! Già rồi, lỗi bởi tại ai?” Công phu tu tập Phật pháp cũng như Nho học này, chỉ hai chữ “thời tập” là thành tựu một đời, chỉ bốn chữ “hãy đợi ngày mai” là sai lầm một đời.
Một ngày qua phải thấy là một ngày tinh tấn. Chúng ta tu phải luôn luôn tiến lên không dừng, ngày nay thấy mình khá hơn hôm qua một chút. Nếu tu cho có chừng, lơ thơ lững thững không cố gắng, biết ngày nào thành công!
Người xưa ngồi tu thắp một cây hương, hương tàn rồi thấy mình không tiến chút nào thì buồn. Còn chúng ta ngày nay ngồi tu coi cây hương tàn chưa, trông hết giờ để xả. Phải cẩn mật, phải thật tu, không nên trông cho hết ngày hết giờ.
Nhà Nho nói: “Chớ bảo ngày nay chẳng học, còn có ngày mai...” Chúng ta hay hẹn lần hẹn hồi, năm nay công việc còn nhiều, để sang năm bớt việc rồi tu, năm nay chức vụ còn nhiều, để hưu trí hãy tu. Cứ hẹn lần như vậy không chịu tu liền, đến khi hưu trí rồi, biết còn khỏe mạnh hay không? Phải biết lúc nào khỏe tu ngay lúc ấy, nếu rảnh thì tu trọn vẹn, không rảnh thì tu từng phần. Một ngày chia ra giờ nào làm việc cho người, giờ nào làm việc cho mình, không được thả trôi.
Chỉ hai chữ “thời tập” là thành tựu một đời. Chỉ bốn chữ “hãy đợi ngày mai” là sai lầm một đời. Thời tập là tu ngay bây giờ thì thành công, hãy đợi ngày mai là sai lầm. Chúng ta hiện giờ sai lầm nhiều hơn thời tập. Bữa nay có việc hẹn ngày mai tu, năm nay không khỏe hẹn năm sau tu... Hẹn lần hồi như vậy không tiến lên được. Phải hằng nhớ nhắc mình: “Tu ngay bây giờ, không đợi ngày mai.”
Hạ thủ công phu tu thiền, tuy không thể dừng chậm, mà cũng không thể quá gấp. Ví như người đi bộ giỏi, mỗi ngày có thể đi bộ được một trăm dặm, mà chỉ đi bộ bảy tám mươi dặm, thì khí lực còn thừa, gân cốt không mỏi; nếu ỷ vào sức mạnh đi hơn trăm dặm tự nhiên phải gắng đi thật nhanh, ắt sanh mỏi mệt thì ngày mai không thể đi nổi. Người hạ thủ công phu thường thường sanh bệnh hoạn đều do như thế.
Người tu phải biết sức của mình, tu vừa sức thì tiến, quá sức sanh bệnh, thả trôi cũng không được. Phải nhìn lại khả năng mà ứng dụng cho đúng là hay nhất.
Hạ thủ công phu tu thiền, nếu thân thể nhọc nhằn, cần phải dùng sức chuyển động hai vai đến trước lại sau, lên xuống vài chục lần thì thân thể điều hòa, huyết mạch lưu thông, tinh thần sảng khoái, chẳng sanh các bệnh. Đây là phương pháp Lộc Lô Song Quan của nhà tu dưỡng, nó cũng hay đuổi được khí lạnh.
Phương pháp Lộc Lô Song Quan là phương tiện tập cho ít bệnh trong khi tu. Mỗi khi xả thiền phải chuyển động hai vai trước sau lên xuống, mỗi động tác năm chục lần. Ngồi thiền lâu, hai bên gân cổ mỏi, lại là hai chỗ gió vô nên dễ bị cảm, tập chuyển động hai vai làm giãn gân cốt, bớt bệnh.
Hạ thủ công phu tu thiền, hoặc có người hỏi: “Chỉ lấy tham ngộ làm chủ, đâu cần bảo dưỡng thân thể?” Tôi sẽ đáp: Đây là mượn giả để tu thật. Ví như nấu trà, nếu không có lò lửa thì trà đâu thể tự chín, vả lại lò hư lửa tắt thì sức lạnh càng thêm. Việc nhỏ chẳng tốn bao nhiêu công, mà e việc lớn không nhất định thành, trái lại đến phí thời giờ, không kết quả. Người sáng tự hiểu đó.
Hỏi: Tu có kết quả là được rồi, dùng Lộc Lô bảo dưỡng thân thể thì có lợi gì? Đáp: Công phu bảo dưỡng này không tốn bao nhiêu công mà giúp thân khỏe mạnh, có lợi ích cho sự tu. Mượn giả để được chân, chẳng phải là chuyện vô ích.
Hạ thủ công phu tu thiền, ban ngày tinh tấn không biếng trễ, chẳng cần phải nói, phàm mỗi tối dụng công chỉ hơn một canh, không cần quá lâu. Nếu người quá nửa đêm không ngủ thì máu không trở về gan, hôm khác sanh bệnh là do tại đó. Lại có một hạng người hay mài luyện không nằm, đâu không biết công phu tu hành Phật pháp chẳng phải tại ngủ cùng không ngủ.
Ban ngày tu tinh tấn thì không cần nói. Buổi tối dụng công không cần quá lâu, khoảng hai tiếng là đủ, còn cư sĩ tu một tiếng rồi nghỉ, khuya tu nữa, không nên dụng công nhiều. Nếu tu tới quá nửa đêm không ngủ thì máu không về gan, sau sanh bệnh là tại mình tu không điều độ.
Có người tu khổ hạnh ngồi mãi không ngủ, đó là gốc sanh bệnh. Phật dạy tu phải điều độ, cần ngồi thì ngồi, cần nằm thì nằm, giờ giấc điều hòa. Nếu tu quá đáng, mất chừng mực, dễ sanh bệnh hoạn.
Hạ thủ công phu tu thiền, đi đứng nằm ngồi đều có thể dụng công. Hoặc ngồi lâu rồi cần phải đi đứng, hoặc đi lâu rồi cần phải ngồi lại, chẳng chuyên ngồi. Có người học ngồi luôn không nằm, Lục Tổ dạy: “Sống đây ngồi chẳng nằm, chết đi nằm chẳng ngồi, chỉ một bộ xương thúi, sao lấy làm công khóa?” Đây thật rõ ràng về lẽ ngồi nằm vậy.
Có người lập công phu ngồi hoài không nằm, hoặc nằm hoài không ngồi, Phật không chấp nhận như vậy, tu là phải điều hòa. Lục Tổ nói: Sống đây ngồi không nằm, chết đi nằm không ngồi, chỉ một bộ xương thúi, sao lấy làm công khóa? Tu là trí tuệ, là giác ngộ mà không lo, lại lấy hình thức, lấy thân thịt thúi này bắt nó đứng, nó đi, nó ngồi, nó nằm cho là hay, là kỳ đặc. Phật không dạy như vậy, tất cả hình thức là phụ thuộc không đáng kể, chỉ cần điều hòa cho thân khỏe mạnh, trí tuệ sáng suốt là cần yếu.
Hạ thủ công phu tu thiền tối yếu phải phá tâm sanh tử cứng chắc, xem xét thế giới thân tâm đều là giả duyên không thật. Nếu không phát minh được đại sự sẵn đủ của mình, thì tâm sanh tử không thể phá. Tâm sanh tử đã không phá được, thì con quỷ vô thường niệm niệm chẳng dừng làm sao đuổi được. Phải lấy một niệm này làm hòn gạch gõ cửa. Ví như đang ngồi trong đống lửa lớn cố tìm lối thoát ra, chạy quanh một bước cũng không được, dừng lại một bước cũng không được, sanh một niệm khác cũng không được, trông người khác cứu cũng không được. Chính khi ấy, cần phải chẳng ngại lửa mạnh, chẳng kể thân mạng, chẳng trông người cứu, chẳng sanh niệm khác, chẳng chịu tạm dừng, nhắm trước chạy thẳng, chạy ra rồi mới là người giỏi.
Tu không thể trông cậy vào người, phải tự phát minh việc lớn của chính mình. Như người đang ở giữa đống lửa cháy đỏ rần rần, phải làm sao? Đứng chờ người cứu không được, chỉ nhắm một lối chạy thẳng ra hoặc sống hoặc chết. Người tu cũng vậy, phải có một hướng đi, đi thẳng mãi, không trông không cầu không chờ đợi ai, quyết tâm đi thẳng tới mới tiến đến nơi đến chốn, mới thoát ly vòng sanh tử.
Hạ thủ công phu tu thiền cần lấy một chữ “tử” dán ở trên trán, xem thân thể máu thịt này như đã chết đi, chỉ cốt thấu rõ một niệm. Một niệm hiện tiền, như được cây Ỷ Thiên trường kiếm, nếu chạm mũi nhọn của nó không thể được, nếu cà nhám cọ lụt thì kiếm ấy bỏ đi vậy.
Người quyết tâm tu thiền cần dán chữ “tử” trên trán, nhớ mình sẽ chết một ngày nào đó để cố gắng tu hành không bê trễ. Giữ “một niệm hiện tiền”, đi đứng nằm ngồi không bao giờ quên mình, giống như có thanh trường kiếm Ỷ Thiên rất bén nhạy, nếu chạm mũi nhọn của nó không thể được, nếu cà nhám cọ lụt nó là hết xài. Người tu thiền phải luôn luôn tỉnh sáng, bén nhạy, không được bê trễ.
Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ say mê cảnh tịnh, nó khiến người chìm chỗ khô lặng mà không biết. Cốt hiểu rằng cảnh động nhiều người chán, cảnh tịnh đa số không sanh chán. Bởi vì người đời một bề ở chỗ ồn náo nên thích hợp với cảnh tịnh, như ăn kẹo ăn đường, như người mệt lâu thích ngủ, tự nhiên tham trước mà không tự biết, cần phải mau mau phá dẹp.
Người tu thiền khi tâm an tịnh chút ít cứ mến cảnh tịnh, muốn giữ cảnh ấy hoài. Vậy tịnh là tốt hay động là tốt? Đừng mắc kẹt hai bên, thích tịnh là bệnh, thích động cũng là bệnh. Trong cảnh tịnh hay cảnh động chúng ta vẫn luôn luôn tỉnh giác, đó là đúng, còn thích một bên là không tốt. Tu thiền đừng tham trước cảnh này cảnh kia, cho chỗ tịnh tu mới được, chỗ động tu không được. Vậy tìm chỗ tịnh ở đâu? Tận chân trời góc biển cũng không có chỗ tịnh.
Phật dạy trong kinh A-hàm, tu thiền mà có những tiếng động như những mũi nhọn châm chĩa vào tim vào phổi mình, nên tôi nghĩ kiếm chỗ nào thật thanh tịnh ở tu mới yên. Tôi bèn lên Bảo Lộc ở gần mé rừng. Mỗi khi chiều tối khỉ vượn kêu om sòm, rồi xe chở hàng chạy về Sài Gòn lên dốc cũng ồn, muốn tịnh mà động, chịu không nổi.
Ở Thành phố thì động đành rồi, ở rừng núi cũng động. Chỉ tâm tịnh thì cảnh nào cũng tịnh, tâm động thì cảnh nào cũng động. Tìm cho được cảnh tịnh thật là khó. Ở cảnh tịnh hay cảnh động đều có cái rắc rối của nó. Cho nên chúng ta ở đâu mà tâm thanh tịnh thì ở đó là tốt.
Ngồi thiền tâm dấy động mà thường tỉnh thường biết cũng tốt, còn kìm tâm cho thật yên tịnh lặng lẽ mà không biết gì, chưa phải là đúng.
Ngoại đạo dạy người khiến thân tâm đoạn diệt hóa thành cây khô tro lạnh, cũng từ nơi tịnh cảnh mà vào. Nếu lâu năm chầy tháng, khô lại càng khô, lặng lại càng lặng, sa vào chỗ không biết, thì cùng cây khô tro lạnh khác gì? Người hạ thủ công phu ở chỗ cảnh tịnh, cốt để phát minh một đoạn đại sự ở trong y áo của mình mà lâu rồi không biết, nay nhờ ở cảnh tịnh mới được. Cái đại sự đó tìm nơi tướng tịnh trọn không thể được, thế mới là được vậy.
Ngoại đạo dạy tu khiến thân tâm như cây khô tro lạnh cho là đúng, nếu còn hiểu biết thấy nghe là chưa đúng.
Trong nhà thiền có câu chuyện “Bà lão đốt am”. Khi xưa có một bà lão học thiền thấm nhuần sâu đậm. Một hôm có một vị tăng thích tu thiền đến nhờ bà cất cho cái thất ở chỗ vắng sau vườn để tu. Bà chấp thuận và mỗi ngày đem cơm cháo cúng dường. Sau một thời gian, bà dùng thuật để thử thầy, sai cháu gái đem cơm cúng dường. Khi thầy dùng xong, cô ôm thầy hỏi: “Ngay bây giờ thì thế nào?” Thầy đáp: “Khô mộc ỷ hàn nham, tam đông vô noãn khí.” (Cây khô tựa núi lạnh, ba đông không hơi ấm). Cô gái buông ra đi về.
Trường hợp này đáng khen hay đáng chê? Khi xúc chạm thân người nữ, thầy không dấy động như cây khô tựa núi lạnh, thì thầy hay quá rồi. Thế mà khi cô gái về thuật lại, hôm sau bà lên đốt am đuổi thầy đi, có tàn nhẫn không?
Thời gian sau thầy trở lại xin bà cất am ủng hộ như lần trước, bà nghĩ chắc thầy tu có gì khác, nên đồng ý. Ít lâu sau, bà bảo cháu gái lên thử thầy lần nữa. Khi cô ôm thầy hỏi: “Ngay bây giờ thì thế nào?” Thầy trả lời: “Chỉ cô biết, tôi biết, đừng cho bà già ấy biết.” Trả lời như vậy tưởng là dở rồi, nhưng không phải. Sau khi cô gái thuật lại, bà già nói tu như vậy mới được. Rồi bà tiếp tục cúng dường ủng hộ thầy.
Bà già thấy thế nào lại khen câu “Chỉ tôi biết, cô biết, đừng cho bà già ấy biết”, tức là giấu bà lại được khen.
Đó là chỗ phàm tình không biết nổi, vì thiền là cái biết ngay hiện tại, không lui về quá khứ hay hướng tới tương lai. Ngay bây giờ “tôi biết, cô biết” là biết ngay hiện tại, “đừng cho bà già biết” vì bà là người vị lai sẽ biết sau. Giữ cái biết ngay hiện tại là đúng nên bà khen.
Ngày trước tâm thầy như cây khô tro lạnh, bà già biết thầy bị kẹt trong chỗ chìm lặng, không tỉnh sáng. Còn bây giờ thầy biết ngay hiện tại, không có quá khứ vị lai xen vào, đó là đúng. Bà già này hay quá, thật là hiếm có! Bà thấy tường tận gốc tu, chứ không cạn cợt như chúng ta.
Cho nên chúng ta đừng tìm cảnh tịnh, mà phải ở trong tịnh để phát minh đại sự. Đại sự là cái biết hiện tiền sẵn trong y áo mà mình không biết, không chịu sống với nó, lại đuổi theo cái biết quá khứ vị lai. Ngồi nghe giảng chỉ biết đang nghe giảng, đó là cái biết hiện tiền. Còn ngồi đây mà nhớ chuyện ở nhà, tính toán chuyện làm ăn..., đó là biết quá khứ vị lai, không nhớ hiện tại đang nghe giảng. Thiền là sống ngay phút giây hiện tại, đừng tìm kiếm ở đâu. Chăm chỉ nghe giảng, không suy nghĩ gì, đó là cái biết ngay hiện tại, còn suy nghĩ từng chữ từng câu là cái biết thiếu hiện tại rồi.
Ai cũng có sẵn cái biết hiện tiền, nên nói nó ở trong y áo của mình, đừng kiếm ở đâu xa. Cái biết hiện tiền không suy nghĩ là tịnh trong tỉnh giác, là cái biết thật của mình, còn biết theo suy nghĩ là duyên theo cảnh quá khứ vị lai, là chạy theo bóng chứ không biết ngay cái chân thật.
Người biết tu làm cái gì chỉ biết cái đó, làm mà vẫn tu, tỉnh sáng ngay trong hiện tại, trong cảnh đang sống, không đợi giờ ngồi thiền mới tu. Ngồi thiền mà vọng tưởng nhiều, nhớ chuyện trước chuyện sau, quên ngay hiện tại là sai. Chỉ nhớ đang ngồi thiền, bỏ qua mọi suy nghĩ hay dở, là đúng.
Hạ thủ công phu tu thiền, thiết yếu tại định tuệ. Cần biết, định với tuệ như đồng một vật bên trong và bên ngoài, là hai mà không phải hai, chia rời không được. Khi định sanh thì hôn trầm cũng theo đó mà sanh, nếu hôn trầm sanh thì định mất. Khi tuệ sanh thì tán loạn cũng theo đó mà sanh, nếu tán loạn sanh thì tuệ mất. Ta có diệu pháp điều trị, cần phải định lóng sáng thì định với tuệ mới thành công; cần phải tuệ an tường thì tuệ với định mới thành công. Hai cái này lìa nó không được, hợp cũng không được, lẫn nhau thành một mới thật là diệu pháp. Khéo biết pháp này thì thành đạo không khó.
Khi chăm chú nghe giảng không một niệm suy nghĩ là định, nghe giảng mà tỉnh sáng, biết rõ từng lời từng câu là tuệ, như vậy định không rời tuệ, tuệ không rời định. Có người ngồi thiền muốn làm sao chim kêu không nghe, gió thổi không biết, quên hết tất cả, tưởng đó là định hay. Nhưng với tinh thần thiền này không cho như vậy, tiếng gì chung quanh chúng ta đều nghe. Tỉnh mới nghe, nghe mà không chạy theo, đó là định tuệ đồng thời. Không đầy đủ định tuệ thì không đúng với tinh thần Thiền tông.
Người tu thiền phải khéo nhận định chín chắn chỗ này, đừng sợ nghe tiếng động ở ngoài, chỉ sợ chúng ta chạy theo những tiếng đó. Nghe không có lỗi lầm, chạy theo tiếng mới lỗi lầm.
Ngày xưa, ở Trung Hoa hay Nhật Bản, khi toàn chúng ngồi thiền, sau tiếng kẻng xả thiền năm mười phút, có vị nào còn ngồi mà không biết gì hết, thì vị giám thiền đến nắm cổ đánh hai ba bạt tai, vì sợ chìm trong si định không có tuệ, nên đánh cho giật mình thức tỉnh. Chúng ta ngồi thiền đều biết đều nghe, nhưng không chạy theo không dính mắc.
Người cầu minh tâm kiến tánh, thành Phật thành tổ, chỉ ở trên định tuệ dụng công. Biết được cái diệu của định tuệ thì dễ như trở bàn tay, bằng không biết cái diệu của định tuệ thì khó như lên trời. Khó hay dễ đều tại chính mình đảm đang lấy.
Khi biết rõ đường lối tu hành này thì dễ như trở bàn tay, có cảnh biết cảnh mà không chạy theo là được rồi, đó là cái diệu của định tuệ, cần phải sống đúng như vậy thì thành Phật thành tổ không khó. Nếu chỉ say mê trong tuệ bằng suy ngẫm, ngồi thiền nhớ câu kinh này, bài kệ kia, ngẫm tới ngẫm lui rồi thích thú, như vậy cũng là sai lầm. Hoặc ngồi thiền được yên, rồi say trong định, ai làm gì cũng không hay không biết, cũng là sai. Thế nên phải cẩn thận, đúng nhất là định tuệ không rời nhau, trong tuệ có định, trong định có tuệ, không thể tách biệt được.
Định là thể của tuệ, tuệ là dụng của định. Ví như ngọn đèn với ánh sáng, ngọn đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của ngọn đèn. Hai cái đều lẫn nhau hiển bày, không nên thiên trọng một cái.
Định tuệ ví như ngọn đèn với ánh sáng, tuy hai mà một, rời ngọn đèn không có ánh sáng, rời ánh sáng không có ngọn đèn, hai cái không thể tách rời, không thể ly khai được.
Chính khi tuệ thì định ở trong tuệ, chính khi định thì tuệ ở trong định. Tên tuy có hai, thể vốn không khác. Chỉ có định mà không tuệ liền theo đó bị hôn trầm, chỉ có tuệ mà không định liền theo đó bị tán loạn. Cần phải gồm hai, không thể chia rời.
Chúng ta tu nghiêng về định nhiều thì đi tới hôn trầm, nghiêng về tuệ, suy nghĩ phán đoán nhiều thì bị tán loạn, cho nên phải quân bình giữa định và tuệ.
Biết tất cả mà không tán loạn, yên tĩnh mà không hôn trầm, đó là điều đặc biệt của người tu thiền. Giữ quân bình không phải dễ. Ngồi thiền nếu không tán loạn thì qua hôn trầm, không hôn trầm lại tán loạn, cứ đổi phiên nhau hoài. Làm sao giữ quân bình được định và tuệ, vậy mới đúng.
Ở đoạn trên, tôi nói phương pháp điều trị định tuệ đã xong, vẫn còn ngại có người chưa rõ. Giờ đây, tôi giải lại cho rõ. Tôi gọi hôn trầm tức người đời gọi là vô ký. Tôi gọi tán loạn tức người đời gọi là vọng tưởng. Cần biết định thì phần nhiều hay sanh vô ký, tuệ thì phần nhiều hay sanh vọng tưởng. Định tuy hay trị vọng tưởng mà trở lại sanh vô ký. Tuệ tuy hay trị vô ký mà trở lại sanh vọng tưởng. Ngày nay thực tập công phu, chỉ cần định có tuệ, cốt đừng nhập cái định hôn trầm vô ký; chỉ cần tuệ có định, cốt đừng nhập cái tuệ tán loạn vọng tưởng. Là hai mà chẳng hai, định tuệ dung hòa, thì công phu mới tăng trưởng.
Đoạn trên nói hôn trầm và tán loạn, đây đổi là vô ký và vọng tưởng, hai tên tuy khác, sự thật cũng đồng một thể.
Đại sư Trí Giả ở núi Thiên Thai truyền diệu pháp Chỉ Quán. Nghĩa là chỉ mà quán đó, tịnh mà minh đó, khiến động mà được tịnh, tịnh mà được sáng. Sáng thì chiếu, chiếu thì một vậy. Đây thật là chỉ đường giác cho quần sanh. Cốt nên biết, tôi nói pháp Định Tuệ là Đại sư nói pháp Chỉ Quán, đâu cần cầu Phật pháp khác.
Ngài Thiên Thai nói Chỉ Quán, sự thật chỉ là định, quán là tuệ, chỉ quán không rời nhau, tức là định tuệ không rời nhau, hai pháp tuy hai mà một. Chúng ta hiểu kỹ, thấy rõ thì sự tu không lầm lẫn.
Người khi rời bỏ cuộc đời, nếu có công phu định tuệ, ắt được lên thế giới Cực lạc. Diệu pháp này lúc bình nhật cần phải tập cho thuần thục. Bậc minh triết nói: “Người đời trọn ngày hôn tán, khi sắp chết làm sao được định tuệ. Người học đạo trọn ngày định tuệ, khi sắp chết đâu thể hôn tán.” Nếu đợi khát nước mới đào giếng thì đâu cứu được!
Đây là lời khuyên rất thiết tha. Người tu Tịnh độ, nếu niệm Phật được nhất tâm, tức được định tuệ, thì chết cũng về Cực lạc. Cho nên tu pháp nào của Phật cũng lấy định tuệ làm trên.
Người đời trọn ngày hôn trầm tán loạn, mở mắt ra thì suy tính, nhắm mắt lại thì ngủ khò. Ngủ là hôn, tính là tán, hai cái đắp đổi nhau suốt cả cuộc đời thì khi sắp chết làm sao được định tuệ, không định tuệ không thể nào tự cứu được mình. Người học đạo trọn ngày định tuệ, khi sắp chết đâu thể hôn tán, lúc đó mới tự cứu mình được. Nếu nay không chịu tu, chờ sắp tắt thở mới đòi tu, chẳng khác nào khát nước mới đào giếng, làm sao cứu kịp.
Hạ thủ công phu tu thiền rất khẩn yếu ở một chữ Thiết. Chữ Thiết rất có sức mạnh. Nếu chẳng Thiết thì lười biếng sanh. Lười biếng sanh thì buông lung phóng ý không chỗ nào chẳng đến. Nếu thật dụng tâm chân thiết thì buông lung lười biếng do đâu được sanh. Nên biết, một chữ Thiết nếu hay dán dính trên thân thì khỏi lo tâm sanh tử chẳng phá, khỏi lo chẳng đến địa vị Phật tổ. Bỏ chữ Thiết này riêng cầu Phật pháp, đều là si cuồng ngoại đạo.
Thiết là thiết tha. Những giờ phút dụng công tu rất quan trọng, như ngồi thiền phải tha thiết, chí thành chí khẩn để tu, không phải ngồi cho khỏe mà nghĩ chuyện năm trên năm dưới, chuyện gần chuyện xa, phải tha thiết tu mới tiến được, mới thành công, không tha thiết không làm sao tiến nổi.
Một chữ Thiết là lời rất thân thiết, như dụng tâm thân thiết thì không kẽ hở, do đó các thứ tà ma không thể xâm nhập. Như dụng tâm thân thiết tự nhiên không sanh suy tính, có niệm không gián cách thì chẳng rơi vào ngoại đạo.
Dụng tâm thân thiết thì không có kẽ hở, không có cái gì xen vào được. Nếu không thân thiết thì dễ bị tạp nhiễm làm cho sự tu không đi tới kết quả.
Một chữ Thiết đâu những lìa lỗi, liền đó vượt khỏi ba tánh thiện, ác, vô ký. Một câu thoại đầu dụng tâm thậm thiết thì không nghĩ thiện, dụng tâm thậm thiết thì không nghĩ ác, dụng tâm thậm thiết thì không rơi vào vô ký. Thoại đầu thiết thì không trạo cử, thoại đầu thiết thì không hôn trầm. Chỉ cốt chánh giác hiện tiền thì các ma tự lui, chánh giác phi thiết chẳng sanh.
Ngài Thiên Cơ chuyên tu thoại đầu, chúng ta mượn ý ngài dạy để sử dụng cho lối tu hiện tại của mình. Chúng ta nhìn niệm rất là chân thiết, niệm khởi liền biết, biết niệm không theo, không tâm nghĩ thiện nghĩ ác, cũng không vô ký, giống như những người tu thoại đầu không khác.
Hạ thủ công phu tu thiền chẳng sợ chết không được sống, chỉ sợ sống không được chết. Nếu thật nghi tình kết tụ ở một chỗ, cảnh động chẳng đợi đuổi mà tự đi, vọng tâm chẳng đợi tịnh mà tự tịnh, sáu căn ở ngoài cửa tự nhiên rỗng suốt hết, ra dấu liền đến, gọi lên liền đáp, lo gì chẳng sống?
Chúng ta nghĩ rằng ngồi tu mà tỉnh sáng rõ biết, nhưng không suy nghĩ coi như mình khờ. Thí dụ ai nói câu gì mình nghe mình biết nhưng không nghĩ suy thì bị đánh giá là ngu, vì không lanh lẹ nhạy bén. Sự thật không phải vậy. Những điều thế gian cần biết như hơn thua phải quấy, chúng ta lại không cần thì giản trạch làm gì cho mất thời giờ vô ích.
Hạ thủ công phu tu thiền cốt phải ngay thẳng cao vót, chẳng gần nhân tình. Nếu đáp ứng theo tình cảm thì thực hành công phu chẳng tiến. Không những chẳng tiến mà lâu ngày chầy tháng sẽ trôi theo thế tục, rất là đáng tiếc! Ví như chính mình bận việc thì đâu thể có công coi sóc việc người. Ngay thẳng cao vót chính là Chánh đẳng Chánh giác.
Việc của chúng ta là thấy niệm thì buông, đừng chạy theo. Hơn thua phải quấy là chuyện của người đời, bớt chuyện đời thì tâm đạo dễ sáng, đa mang chuyện đời thì tâm đạo tối mò. Nghe chuyện hay chuyện dở mà hờ hững không bàn thì bị trách là khờ. Còn đáp ứng với nhân tình phải luận bàn cho sâu sắc thì trở thành phàm tục.
Các thiền sư khi xưa bình thường như ngây như ngơ, không lanh lẹ, tưởng các ngài khờ lắm. Nhưng khi cần biết điều gì các ngài biết tới nơi tới chốn. Chúng ta bây giờ thấy lanh lẹ quá, vì chạy theo cái vặt vạnh bên ngoài, nhưng khi cần biết điều gì sâu sắc thì không biết được. Vì vậy, chúng ta phải can đảm bớt chạy theo tình cảm, giữ tâm ngay thẳng cao vót. Chính tâm này là tâm Phật.
Hạ thủ công phu tu thiền điều cần nhất là Chánh giác. Chánh giác là phút giây nào cũng chiếu soi lại cái linh minh của chính mình, không thể buông nó chạy đi. Nếu cái linh minh đi rồi, thì thân này chỉ là cái thây chết có hơi thở. Lại là hôn trầm không niệm, rơi vào ngoan không khô lặng. Tuy là vận dụng công phu khổ nhọc mà không có mảy may lợi ích.
Trọng tâm tu thiền là tỉnh giác. Giác không phải là bừng sáng có thần thông, mà là cái chân thật của chính mình rõ ràng thường biết, gọi là liễu liễu thường tri. Xe chạy biết tiếng xe, người nói biết tiếng người, tiếng chuông trống biết tiếng chuông trống, cái nào ra cái nấy, biết rõ ràng mà không chạy theo. Đó là rõ ràng thường biết.
Nếu nói giác là chứng được Tam minh Lục thông thì giác đó xa lắm, chừng nào định bốn mươi chín ngày đêm như Phật thì mới được. Còn giác là cái hiện tiền sẵn có, không đợi ở đâu đến. Nếu yên một cách mê muội là rơi vào ngoan không.
Hạ thủ công phu tu thiền tu tập được tiến lên, như người gánh nặng ngàn cân, buông cũng chẳng rớt, giống như người tìm một vật quan trọng bị rơi mất, nếu tìm không được thề chẳng thôi nghỉ. Trong đó chỉ không nên sanh chấp trước tính toán. Nếu chấp thì thành bệnh, trước thì thành ma, tính toán thì thành ngoại đạo. Thật được nhất tâm nhất ý, giống hệt người tìm vật đã mất thì ba thứ này vỡ tan không còn dính dáng. Nên nói, sanh tâm động niệm đều trái với pháp thể.
Pháp thể sẵn có nơi mình, bởi sanh tâm động niệm chấp trước tính toán nên mất pháp thể. Nếu không động niệm thì tâm thể hiện tiền.
Hạ thủ công phu tu thiền khi đề khởi thoại đầu cốt phải rõ ràng sáng sủa, giống in như con mèo rình chụp chuột. Người xưa nói: “Chẳng chém được đứa mọi thề không thôi.” Nếu chẳng vậy, là ngồi trong nhà quỷ, mờ mờ mịt mịt, qua rồi một đời, có chỗ nào lợi ích?
Đường lối tu của chúng ta là niệm nào dấy lên đều thấy rõ, đều biết mà không theo. Thấy rõ ràng từng phần, không rời không quên, giống như mèo rình chuột.
Mèo rình chuột mở tròn đôi mắt, bốn chân chực sẵn, chỉ cốt chụp chuột đến miệng mới được, dù có gà chó ở bên cạnh đều không để mắt ngó. Người tham thiền cũng như thế, chỉ là chăm chú cốt suốt lý này, dù có tám cảnh xen lẫn ở trước cũng không để mắt nhìn, vừa có niệm khác, chẳng những không bắt được chuột, mà mèo cũng chạy mất.
Chúng ta tu là phải chăm chỉ nhìn từng niệm khởi, thấy từng niệm dấy lên, không đợi nó dẫn mình đi, như mèo rình chuột, thấy là chụp liền không để qua mất. Như vậy hạ thủ công phu mới có kết quả.
Hạ thủ công phu tu thiền không nên ở trên công án của tiền nhân mà suy nghĩ, thêm sự giải thích. Dù mỗi mỗi hiểu qua cùng với chính mình cũng không dính dáng gì. Cần yếu biết mỗi câu mỗi lời của tiền nhân như đống lửa lớn, gần nó không được, xúc chạm cũng không được, huống là ngồi nằm trong ấy, lại ở trong đó phân lớn phân nhỏ, nói trên nói dưới, thì có chỗ nào lợi ích?
Khi ngồi thiền, thấy niệm khởi liền buông, đừng nhớ lời Phật tổ nói rồi suy ngẫm thấy hay hiểu sâu, tưởng ngồi thiền phát sáng rồi khoe, đó cũng là bệnh. Vì quen suy ngẫm nên không bao giờ sống được với cái chân thật của chính mình.
Tu là sống trở về cái chân thật. Cái thấy cái nghe ai mà không sẵn có, chỉ khổ là vừa thấy liền phân biệt đẹp xấu, vừa nghe liền phân biệt phải quấy v.v... nên quên mất cái thật. Thấy nghe tất cả mà không khởi niệm phân biệt thì cái thấy cái nghe hiện tiền, đâu cần kiếm đâu xa. Rất tiếc là chúng ta có mà lo chạy theo bên ngoài nên quên nó.
Vì quên cái thấy của mình chỉ nhớ vật bên ngoài, quên cái nghe của mình chỉ nhớ tiếng bên ngoài, nên Phật quở “Quên mình theo vật”. Biết mình đang thấy đang nghe, còn vật bị thấy, tiếng bị nghe là ngoại trần, không quan hệ, biết như vậy là hằng sống với mình.
Việc ấy không cùng giáo lý hợp, do đó những vị tu tập Đại thừa đã lâu, vẫn không hiểu không biết, huống là các hàng Tiểu thừa Thanh văn Duyên giác? Bậc Tam hiền Thập thánh đâu không thông giáo lý, mà nghe nói một việc này, Tam thừa còn tan mật, Thập thánh phải kinh hồn. Bậc Bồ-tát Đẳng giác thuyết pháp như mây như mưa, độ chúng sanh không thể nghĩ bàn vào vô sanh pháp nhẫn, vẫn gọi là sở tri ngu, cùng đạo còn trái, huống là những bậc khác? Bởi vì việc này từ chỗ phàm phu chóng đồng Phật thể, người thật khó tin. Người tin được là hàng pháp khí, người không tin chẳng phải pháp khí. Những người tu hành muốn vào Tông thừa này ắt từ tin mà vào.
Tin mình có cái đang thấy nghe ngửi nếm xúc chạm. Ai tin được cái hiện tiền này thì Tam hiền Thập thánh còn ngán chứ không phải thường. Tin được điều này là người xuất cách, là hàng pháp khí trong Đại thừa.
Một chữ Tin có cạn có sâu, có tà có chánh, không thể không biện biệt. Phàm vào pháp môn có ai mà nói chẳng tin. Nhưng, chỉ tin pháp môn mà không tin tâm mình là tin cạn. Các hạng Bồ-tát Đại thừa còn chẳng đủ lòng tin, như Hoa Nghiêm Sớ nói: “Thấy có người hay nói pháp, có chúng nghe pháp, còn chưa vào cửa tin.” Như nói tức tâm tức Phật thì ai bảo là chẳng tin. Song, nếu có người hỏi: “Ông là Phật chăng?” liền bị phá dẹp không thể thừa đương. Kinh Pháp Hoa nói: “Tột nghĩ chung suy xét, không thể lường trí Phật.” Sở dĩ có tâm tột nghĩ xét, là do lòng tin chẳng đủ vậy. Có đủ lòng tin này là tin sâu.
Tin giáo pháp của Phật dạy là chân lý, là tin cạn. Tin ngay tâm không nghĩ suy phân biệt mà hằng tri hằng giác là tâm chân thật bất sanh bất diệt, khẳng định như vậy là tin sâu.
Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, rõ ràng thường biết mà không tin, vậy tin cái gì? Tin chuyện trên trời trên mây, còn chuyện thực tế hiện tiền nơi mình thì không dám tin. Vì chúng ta lúc nào cũng quên mình, như mắt thấy hoa chỉ biết hoa quên cái hay thấy, tai nghe tiếng chỉ biết tiếng quên cái hay nghe. Quên cái hiện tiền đang sử dụng, chỉ nhớ cái bên ngoài, nên bị Phật quở là quên mình. Những điều này rất thiết yếu mà không dám tin, là chuyện rất kỳ lạ, rất vô lý!
Tin tâm mình tức là Phật, gọi là tin chánh. Ngoài tâm chấp pháp, gọi là tin tà. Tin tức tâm là Phật, cốt phải thấu rõ tâm mình, bước đi trên đất thật ấy đến chỗ chẳng nghi, mới gọi là tin chánh. Mù mờ ngờ vực bướng nói tâm tức là Phật mà thật không biết tự tâm, tức là tin tà.
Tin tâm mình là Phật là tin chánh, tin Phật ngoài tâm là tin tà. Vì Phật là giác, giác là chính cái mình sẵn có, đó là tâm Phật. Bắt chước người nói tức tâm là Phật mà không biết tâm nào, tâm đó ra sao, dường như tin mà thật ra cũng là tin tà.
Người xưa hái rau gánh củi vẫn định, cuốc đất cày ruộng vẫn định, khi làm công kia việc nọ vẫn định, đâu phải ngồi lâu kìm vững khiến tâm chẳng khởi, nhiên hậu mới là định. Nếu như thế, gọi là định tà, không phải chánh ý của Phật pháp.
Phật dạy trong mọi hành động đi đứng nằm ngồi đều thấy rõ cái thật của mình. Không nghĩ suy, không tính toán, không chạy theo cảnh mà hiện tiền thường biết, đó là tin chánh. Nếu không thấy được cái đó thì nói gì cũng là tà thôi.
Lục Tổ bảo: “Na-già thường tại định, không lúc nào chẳng định.”
Đức Phật đi đứng nằm ngồi thường tại định. Trong bốn oai nghi đều tỉnh sáng, mà không dấy niệm nghĩ suy tính toán là ở trong đại định. Đừng nghĩ đại định là khi ngồi thiền mà tất cả việc gì đến đều không hay biết, cho tới sét đánh cũng không hay.
Lục Tổ khi còn tại tiền không thích ngồi nhiều. Có một thiền sinh ngồi thiền bên hông chùa, ngài đi ngang qua thổi vào tai vị ấy. Vì ngài dạy đi đứng nằm ngồi đều phải định, không phải chỉ ngồi mới định. Nhưng bây giờ tôi khuyên quý vị ngồi vì ra ngoài thấy nghe thì dính mắc, ngồi yên lặng cho đỡ dính. Khi nào tu hay, bốn oai nghi đều định thì khỏi ngồi, nếu còn dở mà làm theo Tổ thì chưa nổi.
Phải thấy tột bản thể mới tương ưng với định này. Đức Thích-ca từ Đâu-suất hạ sanh, giáng thần trong hoàng cung, vào núi Tuyết, thấy sao mai mọc, mở đường dạy chúng, chưa từng ra khỏi định này.
Đức Phật làm tất cả Phật sự mà không ra khỏi đại định, gọi là Na-già thường tại định.
Nếu chẳng vậy, đã bị cảnh động lôi cuốn, đâu gọi là định. Trong cảnh động tìm chỗ khởi không có, trong cảnh tịnh tìm chỗ khởi cũng chẳng có. Cảnh động đã không chỗ khởi thì lấy cái gì làm cảnh? Hội được ý này thảy đều là một thể định, đầy dẫy tràn trề, không dư không che đậy.
Hiểu được ý đó thì đi đứng nằm ngồi, chỗ nào cũng đang an định. Thật là nhàn. Ngó hoa ngó kiểng mà không nghĩ gì, giữa đám người nói chuyện lăng xăng mà không dính kẹt câu nào thì cũng đang định. Tất cả cảnh bên ngoài xôn xao náo nhiệt mà chúng ta vẫn an nhiên với tâm thanh tịnh, đó là đại định. Còn ngồi thiền được hơi yên, nhưng khi xả thiền, ai chọc tức mình một câu thì nổi giận liền là còn dính mắc, làm sao mà định. Tổ dạy rất triệt để, thấu suốt được chỗ chân thật này thì mọi oai nghi đều ở trong định.
Hạ thủ công phu tu thiền không nên dính mắc thế pháp. Trong Phật pháp còn không dính một điểm, huống là thế pháp. Nếu thoại đầu hiện tiền chân chánh thì giẫm xuống nước chẳng thấy lạnh, chạm vào lửa chẳng biết nóng, trong rừng gai chông nằm ngang đi thẳng chẳng thấy chướng ngại. Được vậy, mới có thể ở trong thế pháp đi ngang chạy dọc. Bằng không, hoàn toàn bị cảnh duyên lôi cuốn, dù muốn được công phu thành một khối, trải nhiều năm cũng không thể được.
Người hạ thủ công phu tu thiền đừng dính mắc pháp bên ngoài, đi nơi nào cũng tự tại, sáng suốt. Nếu bị cảnh duyên lôi cuốn thì công phu không thành.
Hạ thủ công phu tu thiền không nên tầm văn trục cú ghi lời nhớ câu, không những vô ích mà còn làm chướng ngại công phu. Nắm công phu chân thật mà trở thành duyên lự.
Hạ thủ công phu tu cần buông hết để tâm thanh tịnh vắng lặng, nếu ghi lời nhớ câu là chướng ngại công phu.
Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ so sánh, đem tâm tính toán, cùng đạo trái xa, dù thực hành đến Phật Di-lặc ra đời vẫn không dính dáng. Nếu là người nguyện phát nghi tình, dù sự vật đầy bít hư không vẫn không biết có danh tự hư không, như ngồi trong núi bạc vách sắt, chỉ cầu được con đường sống. Nếu không được con đường sống, thì làm sao được an ổn. Chỉ thực hành công phu như thế, thời tiết đến tự nhiên có thành.
Chúng ta tu biết vọng là khi niệm khởi liền thấy, biết là vọng không theo, không để nó dẫn mình đi xa, nhìn nó nó tan, đó là tỉnh sáng.
Gần đây, có một số tà sư dạy người, không do cố gắng dụng công. Lại nói: “Cổ nhân chưa từng dụng công phu.” Lời nói này rất độc, làm mê lầm kẻ hậu học, sẽ vào địa ngục vậy.
Thiền sư Đại Nghĩa làm bài minh tọa thiền nói:
Chớ tin rằng đạo chẳng cần tham,
Thánh trước chăm chăm làm chỉ nam.
Dù rằng gác cũ nhàn điền địa,
Một phen gầy dựng thật gian nan.
Nếu nói tu không cần dụng công, cứ để tự nhiên tự tại, nghe như hay nhưng làm sao tự nhiên tự tại được! Buổi đầu chúng ta không chăm chỉ nhìn thấy để ngừa đón thì làm sao không dấy động. Niệm vừa dấy liền thấy là có chăm. Công phu của mình là tinh thần sáng suốt nhìn thấy từng niệm khởi, chứ chẳng phải không công phu.
Thiền sư Đại Nghĩa nói:
Chớ tin rằng đạo chẳng cần tham, chớ tin tu đạo không cần tham thiền.
Thánh trước chăm chăm làm chỉ nam, các bậc thánh trước chăm chăm tu hành, như kim chỉ nam chỉ mình đi đúng hướng.
Dù rằng gác cũ nhàn điền địa, dù mình có một gian nhà, một gác cũ sẵn rồi.
Một phen gầy dựng thật gian nan, muốn gầy dựng, trèo lên cũng rất gian nan, phải công phu khó nhọc lắm mới được.
Nếu chẳng cần tham cứu mà bảo được lý, đây là Di-lặc trời sanh, Thích-ca tự nhiên. Bọn này thật là đáng thương xót vậy. Bởi vì tự họ chẳng hiểu tham cứu, hoặc thấy người xưa một hỏi một đáp liền lãnh ngộ, bèn đem cái hiểu biết của tình thức để giải thích, là dối gạt người. Hoặc bị cơn bệnh ngặt, liền kêu la om sòm, những cái hiểu lúc đương thời đem dùng không được. Hoặc đến lúc sắp chết, như con cua bỏ vào chảo nước sôi, tay chân rối loạn, bấy giờ hối hận chẳng kịp.
Người tu tự nhiên được lý, không cần tham cứu tham thiền, vậy chắc Phật Di-lặc là trời sanh, Phật Thích-ca là tự nhiên. Sự thật đâu phải vậy. Đức Phật Thích-ca công phu rất cẩn mật, tầm sư học đạo, tu khổ hạnh, ngồi tọa thiền dưới cội bồ-đề bốn mươi chín ngày đêm, trải qua bao nhiêu năm đâu phải là chuyện bỗng nhiên. Chúng ta lại nói không cần tham cứu, đó là sai lầm lớn. Nếu chỉ học lõm bõm một hai câu của thiền sư rồi bắt chước nói theo, cho rằng mình đã hiểu, đã biết, đến ngày nhắm mắt làm chủ không được, giống như con cua bỏ vào chảo nước sôi run rẩy giãy chết. Chúng ta không khéo tu thì cũng như thế.
Thiền sư Hoàng Bá nói:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường, Đầu dây nắm chặt giữ lập trường. Chẳng phải một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Người tu muốn vượt khỏi cõi trần khổ nhọc này là việc chẳng phải thường. Phải nắm chặt phương pháp tu cho vững để khỏi thay đổi lập trường. Nếu không qua một mùa đông lạnh thấu xương thì làm gì thấy hoa mai nở, ngửi được hương thơm! Cũng vậy, phải công phu khổ sở tột cùng mới đạt đạo, chứ không phải việc bỗng dưng.
Lời này thật rất thân thiết. Nếu đem bài kệ này luôn luôn cảnh sách công phu thì tự nhiên thực hành được tiến bộ. Như người đi con đường trăm dặm, đi một bước là gần một bước, không đi thì đứng nguyên chỗ cũ. Dù người ấy nói được sự nghiệp ở quê hương rõ ràng rành rẽ, trọn không đến nhà, làm sao được việc lớn ấy.
Dù nói được việc quê hương rành rẽ mà không đi thì có về tới quê hương không? Biết quê hương của mình ở đâu, chỗ đó có gì đặc biệt là do nghe người xưa kể lại mình kể theo, nhưng chưa về tới thì cũng chưa nếm được cái đẹp, cái hay của quê hương mình. Phải là người đi tới nơi mới được.
Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ suy nghĩ làm thơ, làm kệ, làm văn phú v.v... Nếu làm thành thi kệ thì gọi thi nhân, làm văn phú giỏi thì gọi văn nhân, cùng với tham thiền toàn không dính líu.
Có nhiều vị tu được chút ít thấy mình hay rồi phấn khởi làm kệ làm thơ. Làm riết thành thi nhân chứ không phải thiền nhân, ngồi thiền để làm thơ chứ không phải để tu.
Hạ thủ công phu tu thiền, gặp phải cảnh duyên thuận nghịch, chỗ làm người động niệm, liền phải biết để phá. Chỉ đề khởi thoại đầu không cho cảnh duyên xoay chuyển. Có người mới vừa được thành, liền nói: “Chẳng cần chống.” Ba chữ này làm lầm người, học giả không thể không xét.
Khi hạ thủ công phu cảnh thuận cảnh nghịch hiện lên phải biết để phá. Thí dụ ngồi thiền nhớ lại những câu trái tai, rồi suy nghĩ tìm cách đáp lại, tức bị cảnh thuận nghịch chi phối. Chúng ta tu có khi được tán thán, có khi bị chê bai, nhưng dù cảnh thuận hay nghịch đều không bận tâm.
Hạ thủ công phu tu thiền, nghi tình chưa phá như đến hố sâu, như đi trên băng, mảy may mất niệm là tan thân mất mạng. Vì nghi tình chưa phá thì đại lý không sáng, một hơi thở không trở lại thì đời này còn bị thân trung ấm lôi kéo, chưa khỏi theo nghiệp thức mà đi, thay đầu đổi mặt chẳng hiểu chẳng biết. Bởi thế, nên trên nghi lại thêm nghi, đề khởi thoại đầu, chưa sáng quyết định phải sáng, chưa phá quyết định phải phá. Ví như bắt kẻ trộm, cần phải thấy nó.
Dùng phương pháp tu thiền biết vọng thì tất cả niệm dấy lên dù tốt hay xấu, chúng ta nhất định phải buông, không để niệm lôi đi, như vậy là thành công.
Hạ thủ công phu tu thiền cần phải khẩn, cần phải chánh, cần phải miên mật, cần phải dung hoát. Thế nào là khẩn? Mạng người tại hơi thở, đại sự chưa sáng, một hơi thở không trở lại, đường trước mờ mờ chưa biết về đâu, thì không thể chẳng khẩn. Cổ đức nói: “Như dây gai thấm nước, một bước gấp một bước.”
Tu thiền cần phải khẩn vì cái chết chực sẵn một bên. Nếu nó đến mà công phu chưa ra gì thì làm sao cứu được? Vì nhớ vô thường, mạng sống trong hơi thở, mà chúng ta phải khẩn thiết tu hành. Như sợi dây gai thấm nước thì nặng, chúng ta phải lôi kéo gấp đừng chậm trễ lôi không nổi.
Các bài mới
- Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ ( Phần 01) - 10/02/2025
- Đạt Ma Tổ sư luận giảng lục- Phần 1: Huyết mạch luận - 06/11/2024
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 9: Chương IX: Thư Khuyên Bạn Hữu; Chương X: Văn Phát Nguyện - 18/03/2024
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 8: Chương VIII: Sự Lý Không Hai - 15/03/2024
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 7: Chương VII: Cấp Bậc Lần Lượt Của Ba Thừa - 14/02/2024
Các bài đã đăng
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 6: Chương VI: Bài Tụng Về Ưu-tất-xoa (Thiền) - 09/12/2023
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 5: Chương V: Bài Tụng Về Tỳ-Bà-Xá_Na ( Quán) - 14/11/2023
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 4: Chương IV: Bài Tụng Về Xa-ma-tha (Chỉ) - 06/11/2023
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 3: Chương II: Răn Ý Kiêu Sa; Chương III: Tịnh Tu Ba Nghiệp - 23/10/2023
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 2: Chương I: Nghi Thức Lập Chí Mộ Đạo - 28/09/2023
Kinh - Luật - Luận
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 52254
- Online: 18