Ý nghĩa xuất gia
04/03/2025 | Lượt xem: 7786
Hằng năm đến ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch, Phật tử khắp nơi thành khẩn làm lễ kỷ niệm ngày xuất gia của thái tử Sĩ Đạt Đa. Dù cách nay đã 25 thế kỷ, mà ý nghĩa ngày xuất gia vẫn còn in đậm trong tâm tư mọi người con Phật. Một lần ra đi, Ngài đã thành công rực rỡ, vang động bốn phương, âm hưởng vẫn còn đến ngày nay, cũng như vô tận thời gian về sau.
Nhân kỷ niệm ngày Phật xuất gia 8 tháng 2, chúng ta cùng ôn lại Ý nghĩa xuất gia qua những lời pháp thoại của Hòa thượng Ân sư.
Tăng Ni là những người đã xuất gia,  vậy ý nghĩa “xuất gia” là gì, quí vị có nhớ không? Người xuất gia nếu  không biết được ý nghĩa của xuất gia thì thật là một thiếu sót quá lớn.  Khi xuất gia, chúng ta luôn luôn được dạy, xuất gia có ba nghĩa: 
 
 1.  Xuất thế tục gia.
 2.  Xuất phiền não gia.
 3.  Xuất tam giới gia.
 
 Trước hết là xuất thế tục gia. Chúng ta khi phát nguyện cạo tóc xuất gia  làm Sa-di, thì kể từ ngày đó phải ra khỏi nhà thế tục. Nhà thế tục là  nhà cha mẹ, anh chị. Nếu người già, thì nhà của con cháu. Tại sao chúng  ta phải ra khỏi nhà đó? Bởi vì còn trong nhà thế tục thì phiền não còn  vây khốn chung quanh, không thể nào gỡ được. 
 
 Thí dụ như cha mẹ, anh em làm ăn được mất, trong nhà có chuyện vui buồn,  mình đều phải lãnh hết. Người này phân bua, người kia kể lể, nghe toàn  những chuyện thế gian khiến tâm mình tán loạn, nên tu rất khó. Vì vậy  khi xuất gia phải ra khỏi nhà thế tục, vào chùa hoặc tu viện, Thiền  viện. Người phát tâm xuất gia thì phải có ý chí mạnh mẽ, ra khỏi nhà để  quên hết mọi vướng mắc trói buộc trong gia đình. Như vậy mới có thể tu  hạnh giải thoát được. Đó là nói người trẻ. 
 
 Người già cũng vậy. Nếu ở một bên con cháu, cứ thương mến lo lắng cho nó  mãi, không còn thì giờ tu hành. Đến khi nhắm mắt ra đi, lại quyến luyến  chúng nó không đi được. Thành ra khi tắt thở, tái sanh trở lại giữ con,  giữ cháu nữa. Như vậy đi tu có nghĩa lý gì? 
 
 Nhiều người không biết, cứ mơ ước được xuất gia, vì nghĩ rằng cạo đầu  đắp y Phật là được giải thoát. Nhưng tâm trần tục chưa cắt đứt thì làm  sao giải thoát được. Cho nên nói tới xuất gia là nói tới tinh thần can  đảm, cương quyết ra khỏi nhà thế tục, không còn vướng bận gì nữa. Như  thế mới đúng nghĩa ý nghĩa xuất gia. 
 
 Song gần đây một số vị trách tôi: Thầy biết xuất gia là ra khỏi nhà thế  tục, sao có nhiều cụ già xin xuất gia, rồi về ở với con mà thầy vẫn cho  xuất gia? Thế là quí vị đâm ra nghi ngờ chắc tôi chưa thâm nhập được lý  này. Thật ra tôi làm việc gì đều có mục đích, có căn cứ. Ngày xưa, thời  đức Phật còn tại thế, có bà Tỳ-kheo ni Liên Hoa Sắc chứng quả A-la-hán  rồi, gặp các cô thiếu nữ mười bảy, mười tám tuổi, bà khuyên: “Các con  nên đi tu, xuất gia làm Tỳ-kheo ni đi.” Các cô ấy thưa: “Thưa bà, chúng  con còn tham ăn tham ngủ quá, đi tu sao được? Nếu đi tu, lỡ phạm giới  chúng con đọa địa ngục chết.” Bà đáp: “Không sao, lỡ có phạm giới đọa  địa ngục, hết tội lên tu nữa.” Như vậy là sao? Nghĩa là một khi gieo  được hạt giống xuất gia rồi, thì dù có phạm tội phải trả, nhưng trả đền  hết rồi hạt giống cũ vẫn còn, cho nên có thể gặp Phật pháp tiếp tục tu  hành. Vì vậy mà bà khuyến khích gieo hạt giống xuất gia. 
 
 Ở đây cũng vậy, có những cụ già lớn tuổi, không làm gì nổi, nhưng muốn  gieo hạt giống xuất gia để mai kia ra đời sớm được thức tỉnh. Tôi cũng  nghĩ đến thiện căn đó mà cho xuất gia làm Sa-di. Đó là tôi vì quí vị mà  gieo hạt giống lành, chớ đúng nghĩa xuất gia thì không có quyền ở nhà.  Cho nên, trong một số trường hợp các cụ già tu là để gieo duyên thôi.  Hiểu như vậy, quí vị mới không nghi ngờ thiện chí và việc làm của chúng  tôi.
 
 Còn người trẻ xuất gia để làm gì? Xuất gia là tu hạnh giải thoát. Tự  mình tu để được giải thoát, đồng thời hướng dẫn chỉ dạy cho người khác  tu cùng giải thoát nữa. Tất cả tuổi thanh xuân, bầu nhiệt huyết thời son  trẻ của mình, đều dồn hết cho đạo, cho Phật pháp. Để mai kia lớn lên  mình đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn Phật tử tu hành. Vì vậy hàng xuất  gia trẻ tuổi không được phép ở nhà nương tựa cha mẹ. Đã xuất gia rồi mà  trở về nhà là một sự thối tâm, một lui sụt rất lớn. Quí vị tu trẻ không  nên nghĩ đến điều đó. Đã xuất gia rồi thì phải cương quyết dù chết dù  sống cũng phải đi tới cùng, chớ không thể đi một đoạn rồi lui sụt.  Như  vậy mình là một con người không có lý tưởng, không có lập trường, không  có ý chí. Kẻ đó làm việc gì cũng không thành tựu.
 
 Đó là ý nghĩa thứ nhất, xuất gia là ra khỏi nhà thế tục.
 
 Đến ý nghĩa thứ hai là xuất phiền não gia, tức ra khỏi nhà phiền não.  Tăng Ni hiện giờ xuất gia có ra khỏi nhà phiền não chưa? Người xuất gia  là ra khỏi nhà phiền não. Còn phiền não thì chưa gọi là xuất gia. Bởi vì  mai kia chúng ta làm thầy dạy người, hướng dẫn hậu lai, nếu mình còn  đầy phiền não thì dạy ai? Cho nên người xuất gia phải gột sạch phiền  não, mới chỉ dạy cho người khác gột sạch phiền não được. Ta lấm lem mà  bảo người ăn ở cho sạch thì không bao giờ người nghe ta. Ngược lại,  người ta còn đặt câu hỏi: Thầy hay cô có sạch chưa mà bảo tụi con phải  sạch? Chừng đó mình nói sao đây? 
 
 Ở đây tôi chỉ nói phiền não của tam độc tham sân si, quí vị đã sạch  chưa? Tham sân si thôi mà cũng chưa sạch, thì nói gì những thứ vi tế  hơn. Trong kinh A-hàm kể lại, một hôm đức Phật gọi các thầy Tỳ-kheo đến  bảo: 
 
 - Này các Tỳ-kheo, nếu trong thất của các ông có ba con rắn độc chui vào thì các ông có ngủ yên không? 
 
 Các thầy Tỳ-kheo thưa: 
 
 - Bạch Thế Tôn, chúng con ngủ không yên. 
 
 Phật hỏi: 
 
 - Làm sao các ông mới ngủ yên? 
 
 - Bạch Thế Tôn, chừng nào đuổi được ba con rắn độc ấy ra khỏi thất, chúng con ngủ mới yên. 
 
 Phật nói: 
 
 - Cũng vậy, ba con rắn ấy tuy độc, nhưng nó cắn chỉ chết một thân này  thôi. Còn ba thứ độc tham, sân, si giết hại con người không biết bao  nhiêu đời. 
 
 Tham sân si còn độc hơn cả con rắn độc. Biết thế rồi, chúng ta có dám  chứa nó trong nhà nữa không. Hiện giờ quí vị đang chứa hay đuổi hết rồi?  Rắn độc ở trong nhà, nhiều khi không muốn đuổi mà còn nuôi nữa chứ.  Thật là trái đạo lý vô cùng. Dù chỉ một con thôi ngủ còn không yên,  huống nữa là đủ ba con. Tại nó lì hay tại mình thương nó? 
 
 Có nhiều người nổi sân la lối om sòm, người khác khuyên tại sao thầy  (cô) nóng quá vậy, thì liền nói: “Nó làm cái đó đáng tức quá mà, không  nổi nóng sao được?” “Đáng tức” hay “đáng giận” là cho cái giận cái tức  của mình là đúng. Như vậy mình dung dưỡng sân hận trong lòng, không nỡ  đuổi đi. Đó không phải là nuôi rắn độc sao? Nếu không thương nó, khi  được nhắc mình liền tỉnh: “À, tôi quên. Thôi, tôi không dám tái phạm  điều đó nữa đâu.” Như vậy mới gan dạ, mới gọi là đuổi ba con rắn độc ra  khỏi nhà. 
 
 Bao giờ còn tham, sân, si là chúng ta còn trằn trọc, khó chịu trong  lòng. Vậy tại sao không chịu đuổi nó đi. Đem hết tâm tư, đem hết sức lực  cố gắng đuổi, chớ không bao giờ cười chơi khi thấy ba con rắn độc đang  nằm ngủ trong nhà. Biết có rắn độc trong nhà mà vẫn yên vui tươi cười,  đó là người thông minh hay ngu muội? - Ngu muội. Bởi si mê nên chúng ta  mới chứa chấp ba thứ độc. Ngày nào còn một đứa, một con trong nhà là  ngày đó còn bất an, còn lo sợ. 
 
 Người tu chúng ta ngày nay thấy ai buồn ai khổ thì khuyên, miệng nói hay  lắm nhưng tới phiên mình thì cũng buồn khổ như ai. Đó là điều đáng xấu  hổ. Chúng ta là bậc thầy mà không có đủ tư cách, đủ khả năng để dạy dỗ  cho người, đó không phải là điều tủi nhục sao? Cho nên tất cả Tăng Ni  phải thấy, phải biết trách nhiệm của mình, không thể nào lơ là nuôi  dưỡng phiền não dẫy đầy trong tâm. 
 
 Đôi khi chúng ta còn tìm biện hộ cho cái dở của mình nữa. Khi có điều gì  khiến mình nổi sân lớn tiếng, chúng ta đổ thừa: “Tại nói nhỏ họ không  chịu nghe, buộc lòng phải la lớn. La lớn cho họ sợ!” Thật ra không biết  đó là “buộc lòng” hay nổi nóng. Chúng ta nổi nóng, kềm không được nên la  lớn tiếng, chớ có buộc lòng gì đâu. Lại còn mượn lý lẽ Bồ-tát quở nạt  người là vì đại từ đại bi, nên ta cũng như vậy. Thật đáng tội. 
 
 Đức Phật dạy chúng ta bỏ tham sân si khi bản thân Ngài đã dứt sạch nó.  Do đó chúng ta mới theo, mới đảnh lễ Ngài. Nếu Phật còn tham sân si thì  chắc chúng ta đã không theo, không đảnh lễ Ngài. Trong kinh A-hàm kể  lại, một hôm đức Phật đi giáo hóa vùng theo đạo Bà-la-môn, Ngài độ được  dân chúng tu Phật rất đông. Thầy Bà-la-môn vùng đó mất hết bổn đạo liền  nổi sân. Một hôm, ông chờ đức Phật ôm bát đi khất thực, liền theo sau  chửi rủa. Ông chửi từ đầu đường tới cuối đường, mà đức Phật vẫn cứ ung  dung đi, không trả lời gì hết. Tức quá, ông chặn Phật hỏi: 
 
 - Cù-đàm, Ngài có điếc không? 
 
 Phật trả lời: 
 
 - Không. Ta không điếc. 
 
 - Không điếc, tại sao tôi chửi Ngài, Ngài không trả lời? 
 
 Phật nói: 
 
 - Nếu ông có quà đem tặng người ta, người ta không nhận thì quà đó về ai? 
 
 - Nếu tôi tặng quà mà người ta không nhận thì quà đó về tôi chớ về ai. 
 
 Phật nói: 
 
 - Cũng vậy, ông chửi ta mà ta không nhận thì có dính dáng gì đâu. 
 
 Nghe vậy, ông Bà-la-môn im lặng bỏ đi. Nhờ thế bây giờ chúng ta mới lạy  Phật. Nếu khi đó Phật cự lại với ông Bà-la-môn thì ngày nay mình đâu có  lạy Ngài. Chúng ta bây giờ đừng nói là chửi, chỉ nghe huynh đệ xù xì  thôi là đã khó chịu, đã nghi ngờ rồi. Cho nên phải đứng lại nghe lóm xem  có dính tên mình không? Nếu lỡ có dính thì biết. Như vậy có phải kiếm  việc để phiền não không? Người ta không kêu tên mình, không nói thẳng  mặt mình mà mình lén nghe rồi sanh sự. Thật là quá cách xa với những gì  Phật dạy, quá xa với tư cách của một người xuất gia.
 
 Người tu là người gác ra ngoài những lời nói vô nghĩa, không bận tâm  những chuyện thị phi, để dồn hết tâm lực vào việc tu hành. Như vậy mới  mong có ngày hết phiền não, có ngày giải thoát. Còn chúng ta dính mắc  quá chừng thì làm sao hết phiền não? Phiền não không hết thì làm sao  được tự tại, giải thoát? Bao nhiêu đó đủ thấy tâm nguyện của mình như  thế nào rồi. 
 
 Ai xuất gia cũng đều nguyện đi trên con đường giải thoát để cứu độ chúng  sanh, nhưng rốt cuộc bản thân mình chẳng giải thoát được chút nào hết.  Thật đáng buồn tủi cho chúng ta, chưa xứng đáng mặc áo Như Lai. 
 
 Tôi muốn nhắc cho tất cả Tăng Ni nhớ lại bản nguyện của mình khi xuất  gia, đừng để mình trở thành những kẻ tự dối và dối người. Đó là điều  không tốt. Chúng ta còn đang cục cựa, lăn lộn trong nhà phiền não, chưa  ra khỏi được thì phải ăn năn sám hối, cố gắng tinh tấn vượt ra, chớ đâu  thể ngồi yên trong đó mà hỉ hả qua ngày. Đã là Tăng Ni thì phải nguyện  ra khỏi nhà phiền não. Được như vậy chúng ta mới thật sự xứng đáng là  người xuất gia. 
 
 Không tu thì thôi, chớ đã từ bỏ cha mẹ, xa rời thân quyến, không làm các  bổn phận của một người bình thường, cầu đạo xuất gia, mà không làm tròn  bổn phận của người xuất gia thì có lỗi rất lớn. Lỗi với Tôn sư, với cha  mẹ thân quyến, với đàn-na tín thí, với quốc gia xã tắc, quí vị không  thấy sợ sao? Nên nói tới người xuất gia, Tăng Ni phải cố gắng làm tròn  bản nguyện của mình. 
 
 Đó là ý nghĩa thứ hai, xuất gia là ra khỏi nhà phiền não.
 
 Đến thứ ba là xuất tam giới gia. Nghĩa là ra khỏi nhà tam giới. Đức Phật  dạy có ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Người tu chẳng những  ra khỏi nhà phiền não của Dục giới, mà ra luôn cả nhà phiền não của Sắc  giới và Vô sắc giới, hoàn toàn thoát ly sanh tử, không còn đi trong tam  giới nữa. Đó là xuất tam giới gia. 
 
 Nên biết ý chí của người xuất gia cao vót tột cùng, chớ không phải tầm  thường. Mình tu là phải ra khỏi cả nhà tam giới, chúng ta nguyện ra khỏi  tam giới để đi đến giác ngộ viên mãn. Đó là mục đích cứu kính của người  tu. Như vậy con đường mình đi còn rất xa. Chúng ta phải cố gắng nỗ lực,  không nên chểnh mảng xem thường. Tu là để giải thoát sanh tử, chớ không  phải để đời sau được sung sướng, an nhàn. Chư Bồ-tát còn phải trải qua  Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng lên tới Thập địa mới được  giải thoát, huống nữa là chúng ta chưa bước được bước nào. 
 
 Các bậc Tôn túc đã ca tụng hạnh xuất gia: “Xuất gia giả, phi tướng tướng  chi sở năng vi”, tức là chuyện của người xuất gia không phải tướng võ,  tướng văn có thể làm được, mà đó là chuyện phi thường. Bởi chí nguyện  quá lớn, con đường quá dài người ý chí tầm thường không thể đảm đương  nổi. Vì vậy Tăng Ni phải lập chí thật vững mạnh, thật cương quyết. Dù  khó khăn trở ngại đến đâu, cũng vững bước không dừng, không lui sụt. Đó  là ý chí siêu phàm của người xuất gia.
 
 Kế đến, tôi sẽ giải thích xuất tam giới gia, xuất phiền não gia rất phù hợp với Tam tuệ học và Tam vô lậu học. 
 
 Tam tuệ học là Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ. Văn tuệ là gì? Sau khi xuất  gia rồi Tăng Ni phải học kinh điển. Nhờ học kinh điển chúng ta mới mở  sáng trí tuệ. Nếu không học kinh điển thì không mở sáng trí tuệ được, vì  đức Phật đã dạy: “Các ngươi phải tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với  chánh pháp.” Chúng ta có sẵn ngọn đuốc, nhưng chưa cháy, nếu không thể  tự đốt được thì phải mồi với ngọn đuốc chánh pháp của Phật. 
 
 Học tức là đem cây đuốc chưa cháy của mình mồi với cây đuốc đã cháy của  Phật, để cây đuốc của mình được cháy sáng. Nên muốn mở sáng trí tuệ  trước phải học Phật. Nhờ học Phật chúng ta mới hiểu được lẽ thật, thấy  được cái gì là hư dối, cái gì là chân thật. Đó là bước đầu của người mới  vào đạo. Học trực tiếp là học với thầy, học gián tiếp là nghe những  băng giảng của các vị thầy mình tin kính, đúng chánh pháp. Đó gọi là Văn  tuệ.
 
 Tư tuệ là sau khi học, chúng ta phải nghiền ngẫm nghĩa lý những gì mình  đã học, không phải học như con vẹt, nghe câu nào học thuộc lòng câu đó  rồi nói lại, chớ không hiểu gì hết. Chúng ta học Phật là khi nghe lời  Phật dạy, phải đem hết tâm trí của mình suy nghiệm về câu đó, xem đúng  thế nào, hay chỗ nào, để mình được thấm nhuần sâu hơn. Ví dụ nghe trong  kinh dạy các pháp là vô thường, mình liền suy gẫm: Các pháp là gì? Là  tất cả những thứ có hình tướng, có danh tự ở thế gian. Thân này cũng là  một pháp, cái bàn cũng là một pháp, cái nhà cho đến tất cả các sự vật có  hình tướng ở thế gian đều là pháp. Tất cả những thứ đó đều vô thường. 
 
 Chúng ta đặt tiếp câu hỏi: Thân mình có vô thường không? Thân này mới  sanh ra chỉ vài ký là cùng, dần dần nó nặng tới sáu bảy chục ký, như vậy  nó có thay đổi. Tới chừng sáu bảy mươi tuổi, thì từ sáu bảy chục ký nó  tụt xuống lần lần tới khô kiệt rồi chết. Thân này sanh, già, bệnh, chết  nên vô thường, đổi thay liên tục từng sát-na. Mới ngày nào mình trẻ, giờ  đầu đã bạc, rồi không biết hôm nào mình sẽ lụm cụm đi không nổi, cuối  cùng tắt thở. Như vậy thân chúng ta luôn luôn bị luật vô thường chi  phối. Thân ta bị vô thường chi phối, mọi vật trên thế gian này cũng thế,  đó là một lẽ thật. Suy gẫm đáo để như vậy thì lý vô thường thâm nhập  vào tâm trí của mình. Nhờ thế thấy biết đúng như thật, đó là đã có trí  tuệ, đã sáng suốt rồi. 
 
 Phật nói thân này là bất tịnh, nhơ nhớp. Chúng ta phân tích rõ ràng từng  phần, cuối cùng thấy quả là đúng, thân này chỉ là đãy da hôi thối,  không có giá trị gì cả. Nhờ thế không quí, không chấp, không ngạo mạn về  thân nữa. Mình đẹp cũng không dám chê người xấu. Vì tất cả đều là đãy  da hôi thối thì có ai hơn ai. 
 
 Nếu chúng ta thấy đúng như vậy thì rất dễ tu. Nhờ Tư tuệ, càng ngày trí  tuệ chúng ta càng tăng trưởng. Trí tuệ tăng trưởng thì mê lầm giảm, cho  tới không còn nữa là chúng ta được giác ngộ viên mãn. Tu là để phá mê  lầm, vì nó là gốc của luân hồi. 
 
 Từ Tư tuệ chúng ta bước qua Tu tuệ rất dễ. Như khi biết thân này không  ra gì, thì người ta có chê cười, mình không giận. Đó là bớt sân, bớt  chấp. Bớt chấp tức là bớt si. Nhờ biết thân này vô thường, nên khi bệnh  hoạn hoặc ai làm thương tổn thì mình vẫn bình thản, vì biết thân này còn  mất như trò chơi, lo sợ buồn giận làm gì. Đó là tiến tu. Cho nên muốn  được Tu tuệ, chúng ta phải Tư tuệ cho chín chắn. 
 
 Người không thấm nhuần lời Phật dạy làm sao tu được. Khi đã thấm nhuần  rồi thì gặp những chuyện trái tai gai mắt, tự nhiên mình bỏ qua một cách  nhẹ nhàng, không có gì khó hết. Vì chúng ta thấy rõ bản chất của các sự  vật, bản chất thật của con người vốn không thật, mình không còn mê lầm  nữa. Đó là đi tới Tu tuệ. Như vậy, Tam tuệ học giúp chúng ta tiến tu  trên con đường giải thoát.
 
 Kế đến là nói sự liên hệ đến Tam vô lậu học. Nhờ tam tuệ mà chúng ta phá  được phiền não. Phá được phiền não rồi thì tiến lên tu Ba môn giải  thoát. Ba môn giải thoát là Giới, Định, Tuệ. Ba môn giải thoát này sẽ  giúp chúng ta ra khỏi nhà tam giới. 
 
 Tại sao phải Giới? Bởi vì Phật dạy giới luật là hàng rào ngăn chặn,  không cho mình rơi vào tội lỗi. Giới thường được giải nghĩa theo là chữ  Hán là Phòng phi chỉ ác. Phòng là ngừa, chỉ chặn đứng. Ngừa những lầm  lỗi, chặn đứng những điều tội ác, đó là giới. Nếu muốn tâm an định, thì  chặn đứng những tội lỗi. Khi ta phạm sai lầm thì ngồi thiền, hoặc niệm  Phật đều cảm thấy ray rứt, không an. Người tu phải giữ giới thì tâm mới  yên định. Nên Giới là phương tiện đầu để tiến lên giải thoát.
 
 Giữ giới tâm mới được định, nên nói từ Giới sanh Định. Tâm vọng tưởng là  nhân luân hồi sanh tử, nếu tâm này dừng lặng thì nhân luân hồi sanh tử  cũng chấm dứt. Tâm vọng tưởng là ý nghiệp, nó chính là gốc tạo nghiệp.  Dừng được nó thì nghiệp cũng dừng. Vì vậy muốn thoát ly tam giới thì  phải dừng ý nghiệp. Ý nghiệp dừng thì khẩu nghiệp thân nghiệp cũng dừng.  Khi ngồi thiền, lặng hết tâm tư, vọng tưởng thì được định. Được định  tức là dứt được mầm sanh tử. Vì vậy, ngồi thiền hay niệm Phật là phương  tiện đưa chúng ta tới giải thoát sanh tử, chớ không phải việc tầm  thường. 
 
 Chúng ta tu theo Phật cốt làm sao đi tới chỗ cuối cùng là giác ngộ. Giác  ngộ ngay nơi mình có sẵn tánh Phật. Cho nên chặng thứ nhất của người tu  là ra khỏi nhà thế tục. Chặng thứ hai là suy gẫm cho thấm sâu đạo lý.  Chặng thứ ba là phải tu cho sạch phiền não. Sạch phiền não mà chưa thấy  được Tánh giác cũng chưa được. Muốn thấy được Tánh giác phải qua ba  chặng khác là Giới, Định và Tuệ. 
 
 Văn, Tư, Tu là học Trí hữu sư. Nhờ thầy dạy là Văn, suy gẫm lời thầy lời  Phật dạy là Tư, ứng dụng tu là Tu. Ba tuệ học còn trong phạm vi của Trí  tuệ hữu sư. Tiến lên chúng ta học Giới để bảo vệ tâm mình không tạo tội  lỗi. Từ Giới bước qua Định, tâm lặng xuống, chỗ này không còn cái học  hữu sư nữa. Nhờ Định mà phát Tuệ. Trí tuệ này là Trí vô sư. Trí vô sư  chính là Căn bản trí, tức trí sẵn ở nơi mình, mà lâu nay chúng ta không  biết. Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh, trí này mới hiện ra, chớ không phải  tìm kiếm ở đâu xa, cũng không phải nhờ ai đem đến. 
 
 Như vậy Bảo sở của chúng ta rất xa mà cũng rất gần. Rất xa vì phiền não  còn đầy dẫy, rất gần vì nó ở ngay nơi mình, chớ không ở nơi nào khác.  Nếu ngay nơi mình, chúng ta tu được Giới, Định, Tuệ thì Phật hiện ra  liền. Cho nên đức Phật từng nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật  sẽ thành.” Tất cả chúng ta đều có khả năng thành Phật, chỉ tại mình  không chịu làm thôi. 
 
 Chúng ta cứ lo chạy theo vô minh phiền não, nên mất quyền làm chủ. Bây  giờ gạt vô minh phiền não qua một bên, thì quyền thành Phật nằm sẵn  trong tay chúng ta, chớ có đâu xa. Đạo Phật dạy chúng ta tu là một việc  làm hết sức thực tế, chớ không phải chuyện viển vông. Tu hết phiền não  thì tự nhiên hết khổ. Hết khổ thì được an lạc. Như vậy đạo Phật là ban  vui, cứu khổ cho mình cho người. Đạo Phật đưa một con người từ mê lầm  trở thành một con người giác ngộ, từ bờ mê lên bến giác. Đó là trọng tâm  của đạo Phật.
 
 Tăng Ni là những người đang chèo thuyền, để cứu vớt người dưới biển mê  lên bờ giác. Trách nhiệm nặng hay nhẹ? Chúng ta phải là những người tỉnh  trước, lên bờ trước mới có thể đưa chúng sanh mê lên bờ giác được. Do  đó việc cất chùa, lập Thiền viện là sắm thuyền để độ người, chớ không  phải cất chùa, lập Thiền viện để thu tiền, để được vinh dự thế này thế  nọ. Phải nhớ mục đích chính của chúng ta là tu để giải thoát sanh tử và  giúp chúng sanh cùng được giải thoát như mình. Cho nên mọi việc khác đều  là việc phụ, là phương tiện, là thuyền bè để cứu vớt người mê lên bến  giác. Đó mới là chỗ chân thật, chỗ cuối cùng chúng ta nhắm đến. 
 
 Tôi nhắc nhở bao nhiêu đó cũng đủ để Tăng Ni suy gẫm và biết mình phải  làm gì rồi. Mong tất cả cố gắng thực hiện hoài bão lớn lao nhất của đời  mình, cố gắng tinh tấn tu hành, đừng để chí nguyện thì cao tột mây xanh,  mà hành trì thì là đà dưới đất. Như vậy chẳng những thiên hạ chê cười  mà bản thân chúng ta sẽ chuốc lấy đau khổ nhiều hơn nữa. Ý thức rõ được  bổn phận của mình, nỗ lực không thối chuyển, tôi tin chắc Tăng Ni sẽ đạt  được mục đích cứu kính của mình là giác ngộ viên mãn.
Các bài mới
- Niềm Vui Chân Thật - 01/02/2025
- Phật Thành Đạo - 02/01/2025
- Tinh Thần Giáo Ngoại Biệt Truyền - 24/12/2024
- Hai ông vua xem Ngai vàng như dép rách - 30/11/2024
- Đặc Điểm Của Thiền Tông Việt Nam - 19/11/2024
Các bài đã đăng
- Thiền Tông Là Gì - 12/10/2024
- Thiền Của Đạo Phật - 30/09/2024
- Lời Dạy Trong Ngày Tự Tứ - 26/08/2024
- Lời Dạy Mùa An Cư - 09/08/2024
- Nhắc Nhở Tăng Ni Trong Ngày Tự Tứ - 09/08/2024
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 36681
- Online: 32
 
                
 
                              
                              
                              
                              
                             .jpg) 
                              
                              
                              
                              
                              
             
             
             
             
            